Phật Thích Ca , 2500 năm
xưa, đã nguyện ngồi thiền dưới cội Bồ Đề cho đến khi chứng đạt Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác hay thành Phật. Thiền định gồm có nhiều phương pháp nhằm phát
triển chánh niệm, tập trung, thanh tịnh, tỉnh giác và tột đỉnh đạt giác ngộ
giải thoát. Những kỹ thuật hành thiền cơ bản được ghi chép trong nhiều kinh
sách, cũng như được truyền thừa và đa dạng hóa qua hàng ngàn năm.
Trên phương diện sức
khỏe, thiền định được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố gắng giảm thiểu
sự căng thẳng bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình thân tâm và
trị liệu các chứng bệnh.
Chỉ riêng trong Phật
giáo cũng đã có hơn 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập và số lượng phương pháp hành
thiền cùng những chứng bệnh nan y cứ tiếp tục leo thang theo đà phát triển của
khoa học kỹ thuật.
Trong 5 thập niên qua
khoa học và y học càng ngày càng chú ý đến thiền, với nhiều nghiên cứu, để được
xem như là phương pháp trị liệu bổ sung-thay thế đối với nhiều bệnh trạng khác
nhau như trầm cảm, căng thẳng, lo sợ, mất trí nhớ, đau nhức, mệt mỏi, mất ngủ,
cảm cúm, ung thư, AIDS (Sida), tê khớp, tim mạch, viêm gan, tiểu đường, suyễn,
nghiện ngập, tăng tiến tuổi thọ, vân vân. Ngay chính những tư tưởng tiêu cực,
căng thẳng, xúc động và ưu phiền trong cuộc sống làm cho bệnh trạng càng thêm
trầm trọng và nguy hiểm.Thiền định chú trọng và có tác dụng làm cho thân tâm
được lắng dịu thanh tịnh, từ đó những trăn trở khổ đau do bệnh tật gây nên cũng
được thiên giảm hay tiêu trừ.
Đức Phật cũng là bậc y
sư khi thuyết về câu chuyện người trúng mũi tên độc, không lo nhổ mũi tên, hút
máu độc và dùng thuốc rịt vết thương cho lành, mà cứ bâng khuâng muốn tìm hiểu
ai đã bắn mình và vì sao bị bắn, v.v.. thì e đã quá trể, không còn cứu được
sinh mạng. Thật ra trong câu chuyện ẩn dụ này, Đức Phật muốn khuyên nhủ một tỳ
kheo nên chuyên chú tu hành hơn là mất thì giờ để tâm vào những tìm hiểu khoa
học viễn vông như thế giới này là hữu biên hay vô biên, nguồn gốc phát sinh
loài người, v.v.
Trong thời buổi văn minh
tiến bộ này, không phải tất cả mọi sự kiện đều được khoa học giải thích rõ
ràng, hoặc những gì được khoa học chứng minh đều là đúng.Tuy vậy “nói có sách
mách có chứng” hay căn cứ vào những gì đã được nghiên cứu và công nhận thì vẫn
được nhiều người nghe hơn.
CƠ CHẾ THIỀN ĐỊNH
Những tác dụng và ảnh
hưởng của thiền định có thể được thể hiện dưới 3 cơ chế sau đây.
Cơ Chế Tín Ngưỡng
Tư tưởng Phật giáo không
chủ trương thần thánh hóa, tôn thờ một thần linh hay đấng thượng đế nào. Do đó
nhiều khi Đao Phật được xem không phải là một tôn giáo để tín đồ cầu xin phép
lành, ân huệ, hay cứu rỗi như trong các đạo khác. Giáo lý nhà Phật rất thực
tiển và thấu triệt: mọi sự vật đều bị chi phối bởi vô thường biến đổi, nhân qủa
nghiệp duyên và trầm luân sinh tử. Thiền định được xem như trái tim của nhà
Phật và là trung tâm của đời sống đạo hạnh giúp đạt đến mức độ cao xa của tỉnh
giác. Từ trạng thái vô minh hay tiêu cực mê mờ của tâm tiến lên trạng thái tích
cực sáng suốt hay minh tâm kiến tánh. Mọi chúng sanh đều có Phật tánh (chơn
tâm, bản lai diện mục) hay cái tâm thuần khiết trong sáng, nhưng bị những phiền
não tham sân si che lấp như án mây đen phủ kín bầu trời. Thiền định có công
năng giúp tâm được thanh lọc dứt trừ mọi cấu nhiễm, đạt an lạc thanh tịnh và
giác ngộ giải thoát như trời quang mây tạnh, trăng sáng rỡ ràng. Cũng chính là
lúc ông Phật hiện ngay trong tâm mình không phải tìm kiếm đâu xa. Đó là ý niệm
“tức Tâm tức Phật” của Đạo Nhất Mã Tổ, hay hiện tượng đại ngộ “ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm” (Kinh Kim Cang) của Lục Tổ Huệ Năng, trụ tâm đến không chỗ trụ
mà sanh được tâm kia, cái tâm tĩnh tịch – tròn đầy – trong sáng.
Vạn pháp do tâm tạo,
những bệnh tật khổ đau là do tâm duyên theo trần cảnh, môi sinh ô nhiễm độc hại
và cuộc sống bon chen hỗn tạp đầy căng thẳng bức xúc, thì cũng chính tâm sẽ
chữa trị chúng qua thiền định.
Trong Đạo Thiên Chúa,
căn bản thần học trong thiền định được xem là nằm tận đáy lòng con chiên, là
tâm của Giêsu – người đang cầu nguyện trong con chiên, với con chiên và cho con
chiên. Đây là sự quán chiếu diễn tả tột đỉnh đời sống tâm linh và trí thức một
cách tích cực trong trạng thái tỉnh giác hoàn tòan.
Ấn Độ là xứ có truyền
thống lâu đời về thiền định, ngay cả trước thời Phật Thích Ca. Theo Ấn Giáo,
danh từ thiền định được hiểu như là một trạng thái tĩnh lặng, tỉnh táo và tập
trung một cách ráo riết, qua đó tri thức và tỉnh giác được đánh thức dậy từ bên
trong, khi chú tâm vào một sự vật hay một dòng tư tưởng cho đến lúc đạt đến và
hòa nhập vào sư bình yên thánh thiện, đồng nhất với vũ trụ và thượng đế.
Trong phép thiền quán
niệm hơi thở (Anapana Sati), Đức Phật đã chỉ dạy trong Đại Tạng Kinh Pali
(Mahasatipatthana Sutta): Tỳ kheo tìm đến khu rừng, dưới gốc cây hay nơi trống
vắng, ngồi tréo chân, giữ lưng thẳng, chú ý hơi thở ra vào nơi chóp mũi và khởi
lên chánh niệm trước mình.
Khi chánh niệm được duy
trì, hơi thở càng trở nên nhẹ nhàng lặng lẻ, thân thể được êm dịu thanh thản
như có cơn gió nhẹ thoáng qua. Với sự tĩnh lặng của tâm, hơi thở càng trở nên
vi diệu cho đến lúc có cảm giác như ngừng thở, kéo dài trong nhiều phút, nhưng
thật sự hơi thở vẫn tồn tại. Dần dà tâm được giải phóng khỏi 5 triền cái (ham
muốn, giận hờn, hôn trần, trào hối và nghi hoặc). Hành gỉa càng đạt thêm sự
bình thản và an lạc. Các thiền tướng bắt đầu xuất hiện báo hiệu thành qủa của
chánh định. Hành gỉa bắt dầu vào cận định (upacara samadhi) và khi chánh định
phát triển thêm nữa sẽ đạt đến toàn định (appana samadhi). Đến đây khai thông
cho sự chứng đạt nhất thiền, và tiếp tục miên mật sẽ vào các qủa thiền cao hơn:
nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Hành giả tiếp tục phát triển chánh niệm qua
tuệ quán (Vipassana). Ở mức độ cao hơn, tâm trạng như được thoát tục và bắt đầu
vào giai đoạn nhập lưu, rồi tiến lên các qủa vị thanh văn khác trong chánh
định. Khi mọi xiềng xích trói buộc không còn dính mắc, dứt sạch ngã chấp, chứng
quả vi thanh văn thứ tư - A La Hán, ra khỏi luân hồi sanh tử. Hầu hết những đệ
tử lớn của Phật đều chứng đạt qủa vị này, ngoại trừ Đề Bà Đạt Đa mưu toan giết
Phật để được làm Phật.
Cơ Chế Tâm Lý
Tâm lý chung là khi
những căng thẳng hay phiền não dấy lên báo hiệu sự giày vò tâm trí, người ta có
khuynh hướng làm cho chúng lắng dịu thay vì phải chịu đựng. Khi một chuỗi tư
tưởng loạn động gây ra biến cố bức rức tâm trí, hành giả an trú trong thiền
định qua sự tập trung hay quán chiếu vào một đề mục làm cho chúng tan biến đi.
Từ đó đem tâm trở về trạng thái bình yên, tạo dựng thái độ không còn sợ hãi
khiếp nhược, là hiệu quả và đặc tính căn bản của thiền định.
Một cơ chế khác về tâm
lý là sự thiếu lưu thông giữa các cơ năng tâm thần, gây nên sự bức bách ứ đọng
bên trong. Rất thường xuyên, các hiện tượng như lời nói, tưởng tượng, xúc cảm
là những ngăn kín chật hẹp mà thiền định là nhịp cầu giúp chúng được thông
thoáng hòa hợp với nhau. Chẳng hạn thường xuyên đặt sự chú ý của tâm vào những
tác động lên thân-khẩu- ý là một phương cách thông thoáng hữu hiệu nhất.
Trái lại, nếu lạm dụng
thiền định như một hành vi đè nén - ức chế tâm thì có khi phải gánh chịu những
hậu quả khốc hại, như trong trường hợp qúa cuồng tín theo một phép thiền sai
lêch. Chẳng hạn khi hành giả niệm tên các vị thần linh hay các thần chú vô
nghĩa cả hàng ngàn lần, cho đến khi trở thành nhàm chán, tâm trí mờ mịt, lạc
vào thế giới mộng du ảo tưởng, không còn lý luận hay phán đoán được gì. Từ đó
phát sinh những cảm thọ hỉ lạc giả tưởng, không thể phân biệt qúa khứ-hiện
tại-vị lai hoặc ngay cả sự chết. Đây là trường hợp bị “tẩu hỏa nhập ma” mà
chính đương sự không hề hay biết, chỉ có người ngoại cuộc mới nhận thấy những
hành vi bất thường - điên dại của mình qua sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, trong
lúc ngồi thiền, phải luôn cảnh giác, tỉnh thức, và giữ chánh niệm. Nếu cảm thấy
quá si mê hôn trầm thì nên đứng lên hay rời khỏi bồ đoàn.
Có một hiện tượng tâm
bệnh xảy ra cho một tu sĩ trẻ tuổi tại ngoại ô Lhasa - Tây Tạng. Tu sĩ này sinh
tâm không thích ngôi chùa mình đang tu tập, nằm ngay dưới chân một ngọn đồi, mà
lại phóng tâm ưa thích một ngôi trường kế cận. Từ đó tu sĩ khởi sinh một ý
tưởng là mong cho ngọn đồi trượt xuống và đè bẹp lên ngôi chùa trong khi ngôi
trường thì vẫn còn nguyên vẹn. Thế rồi cái tâm bất thiện này cứ bủa vây trong
đầu óc người tu sĩ, đến nổi biến thành chứng nhức đầu bức rức và thần kinh
khủng hoảng. Cuối cùng tu sĩ thú thật và xin vị trụ trì ngôi chùa cứu giúp.
Thầy trụ trì khuyên từ đây luôn luôn quán niệm cho ngọn đồi thật sự đè nát ngôi
chùa, đè bẹp mọi thứ trong chùa kể cả thân mạng của chính mình. Người tu sĩ trẻ
làm y lời thầy và chỉ trong một thời gian ngắn thì hết chứng đau đầu và không
còn ảo tưởng này nữa.
Chung qui, điểm căn bản
trong tiến trình hành thiền là sư chú tâm, và quan trọng hơn hết, chú tâm là
một sự thực hành trong kiên nhẩn chứ không phải lý thuyết gì xa xôi. Có một
thiền sinh cảm thấy rất khổ sở vì không đạt được thành qủa trong công phu hành
thiền nên đến yết kiến thiền sư của mình và nhờ chỉ cho cách vượt qua chướng
ngại. Vị thiền sư đang trong thời kỳ tịnh khẩu nên chỉ viết ra trên giấy chữ
“chú tâm”. Thiền sinh không hiểu nên nhờ thầy giảng thêm. Thiền sư lại viết
thêm “chú tâm, chú tâm”và trao cho đệ tử. Người đệ tử vẫn không đạt được ý thầy
mình muốn nói gì nên đòi giải thích thêm nữa. Cuối cùng thiền sinh nhận đươc
toàn bài học trên giấy: “chú tâm, chú tâm, chú tâm…có nghĩa là chú tâm”.
Cơ Chế Sinh Lý
Thật hết sức khó khăn
khi phải sử dụng các kỹ thuật và dụng cụ khoa học đề đo lường và kiểm nghiệm
những biến chuyển của cơ thể trong lúc hành thiền, nhưng người ta vẫn có thể
thực hiện và chứng minh được những tác dụng hữu ích của thiền.
Cơ thể con người có
những phản ứng tự động không qua ý thức để thích ứng với môi trường sống như
các phản ứng run rẩy khi rét lạnh, tim đập nhanh khi chạy nhảy, toát mồ hôi khi
trời nóng nực, v.v. Tuy nhiên với những cố gắng có ý thức như qua thiền định
người ta cũng có thể điều khiển được những phản ứng tự nhiên này.
Hành giả lần đầu tiên
khi thâm nhập sâu vào thiền định, hơi thở trở nên chậm rãi, nhẹ nhàng, và có
khi ngưng trệ hoàn toàn, chính lúc này có thể trải nghiệm đối diện qua cơn sợ
hãi bị ngừng thở và sự chết. Nhưng mối nghi được xóa tan ngay qua sự chú tâm
vào hơi thở và giữ vững chánh niệm.
Sự hô hấp giảm thiểu
hoặc ngừng trệ gây nên tình trạng “hypoxia” - lượng oxy trong máu giảm hạ, có
tác dụng làm phóng thích các hormone (endorphins) gây mê và tạo cảm giác êm ái
dễ chịu. Những chứng nghiệm cho thấy các đạo sĩ yogi Ấn Độ có thể điều chỉnh
lượng oxy trong máu theo ý muốn của mình và tự chôn sống trong một thời dài mà
không hề hấn gì. Các thiền sư Nhật Bản cũng có thể làm giảm nồng độ oxy 20%
trong lúc hành thiền. Với thiền tiên nghiệm TM, lượng oxy có thể giảm đến 40%
và tỷ lệ hô hấp chỉ còn 50%, nhiều hơn gấp bội so với lúc ngủ mê. Điều này
chứng tỏ tác dụng hiệu qủa của thiền định trong tiến trình biến hoá của
thân-tâm.
Những khóa thiền kéo dài
30-40 phút cho thấy lượng lactate giảm hạ và lượng phenylalanine tăng lên 20%
trong các cơ mô. Hành thiền cũng làm cho lượng máu đến thận và gan giảm đi
trong khi lượng máu đến não gia tăng, huyết áp gia giảm tạo ảnh hưởng tốt cho
các bệnh tim mạch. Tính đối kháng của da cũng gia tăng làm giảm hoạt động giao
cảm và nhờ đó đem lại trạng thái thư giãn.
Những kết qủa thực
nghiệm cũng cho thấy việc hành thiền làm giảm những kích thích tố gây căng
thẳng như cortisol và ATCH, hormone kích thích tuyến giáp TSH và hormone tăng
trưởng; trong khi gia tăng hormone thư giãn serotonin và hợp chất arginine
vasopressin giúp cho trí nhớ và sự học tập.
Kỹ thuật điện não đồ EEG
(ElectroEncephaloGraphy) khám phá một điều mới lạ qua hành thiền là làm giảm
thiểu các sóng não kích động như beta và delta trong khi gia tăng các sóng có
tác dụng êm dịu như alpha, gamma và theta.
Khoa học gia thần kinh
Richard Davidson công bố kết quả nghiên cứu vào đầu năm 2005, khi sử dụng EEG
để đo sóng não các vị sư Tây Tạng trong lúc hành thiền từ bi quán. Kết qủa cho
thấy các nhà sư luôn luôn có sự hoạt động rất cao của sóng gamma so với người
bình thường. Trong thiền định, sự hoạt động của não bộ tập trung ở vùng não
phía trước (prefrontal cortex), nơi đây các sóng liên hệ có tác dụng tạo nên sự
an lạc và tỉnh giác rất sâu và lâu bền.
Vài kỹ thuật tinh vi hơn
như fMRI (functional magnetic resonance imaging), cho biết kết quả ngay trong
một thời gian ngắn, được sử dụng đo dòng máu trong não và sự hoạt động của não,
cho thấy thiền định không có tác dụng như khi ngủ nghỉ mà là một trạng thái thư
giãn trong tỉnh thức.
NHỮNG PHÉP THIỀN TRỊ LIỆU
Hiện tại có rất nhiều
phương pháp hành thiền khác nhau của các tôn giáo và trong dân gian, nhưng được
nghiên cứu và áp dụng trị liệu nhiều nhất là thiền Tập Trung CM (Concentrative
Meditation) và thiền Chánh Niệm MM (Mindfulness Meditation).
Thiền Tập Trung
Thiền tập trung thường
được sử dụng như là phương pháp căn bản cho hành giả mới bắt đầu và cũng dành
cho bệnh nhân. Người tập thiền chỉ cần chú tâm vào một sự vật như hơi thở, âm
thanh, lời niệm, vân vân. Một kỹ thuật đơn giản là có thể ngồi hay nằm (bệnh
nhân) thoải mái ở một nơi yên tĩnh, không khí trong lành, mắt nhắm hay mở và
chú ý theo dõi hay đếm hơi thở ra vào, tiếng tí tách của đồng hồ, hoặc niệm một
vài chữ hay lời kinh mình ưa thích. Khi chú mục như vậy, vọng tưởng lắng dịu,
nhịp điệu hơi thở dần dà trở nên chậm rãi nhẹ nhàng, giúp thân tâm được thanh
tịnh và an ổn.
Những phép tụng niệm như
tụng kinh - niệm chú, thì hầu như các tôn giáo đều áp dụng tương tự như nhau.
Pháp môn niệm Phật cho đến “nhất tâm bất loạn” cũng chẳng khác gì một phương
pháp hành thiền đạt đến sự định tâm. Nhiều Phật tử theo phép Thiền-Tịnh song tu
hay vừa tham thiền vừa tụng kinh niệm Phật. Bên Thiền Tông cũng thường tụng Bát
Nhã Tâm Kinh trong các khóa thiền. Một thiền sư Việt Nam cho biết có lần mình
ngồi thiền niệm “Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” thì tự nhiên cứ thấy phải
niệm liên tục như vậy trong suốt cả buổi sáng, không dừng lại được. Từ đó thiền
sư này bắt đầu chú trọng về phép niệm Phật. Các thiền đường Lâm Tế ở Nhật cũng
thường cho thiền sinh một thoại đầu hay công án để quán tưởng. Như trong công
án “vô”, thiền sinh trong lúc ngồi thiền niệm thành tiếng kéo dài “mu…” Một
công án khác là “tiếng vỗ của một bàn tay”. Có một thiền sinh nhận công án này
rồi cứ phải suy tưởng là tiếng gì, sau đó đem trình thầy những đáp án như tiếng
chuông ngân, trẻ khóc, chó sủa, chim hót, ngựa hí, còi hụ, v.v. nhưng đều bị từ
khước và bắt phải cố gắng nhiều hơn nữa. Thiền sinh tiếp tục quán chiếu đến lúc
tâm tư mệt mỏi chán chường, không còn sức phấn đấu muốn bỏ cuộc, thì đột nhiên
khởi lên một ý niệm và vội vã tìm đến trình thầy… đó là tiếng vọng của sự im
lặng, tương hợp với ý thầy.
Trong thiền tông Trung
Quốc cũng có những thiền sư thích niệm một cái gì trong lúc ngồi thiền như
“Tĩnh tĩnh lặng lặng, Liễu liễu thường tri” (Tĩnh tĩnh lặng lặng, Rõ ràng
thường biết) để nhắc nhở tâm luôn được tỉnh giác. Phật tử trong môn phái Nhật
Liên chỉ chú trọng vào Kinh Pháp Hoa và niệm một câu duy nhất “Namu Myo Ho Len
Ge Kei” (Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Trong phép niệm Phật thì “Namu Amita
Buddha” (Nam Mô A Di Đà Phật) hay niệm danh hiệu các vị Bồ Tát như Quan Âm, Địa
Tạng, v.v. Trong Mật Tông Tây Tạng và Mông Cổ, người tu niệm sâu trong cổ họng
âm thanh nghe rất trầm hùng câu chú “Om Mani Pad Me Hong” (Án Ma Ni Bát Di
Hồng).
Trong Thiên Chúa Giáo,
các con chiên cũng hành thiền khi tụng kinh cầu nguyện vào mỗi tối trước khi
ngủ.
Có một số Phật tử Việt
Nam tu theo phép thiền xuất hồn (thiền Ông Tám), hiện tại được gọi là “Pháp Lý
Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp”. Theo nguyên văn ghi trong website chỉ dẫn
về phép thiền này “tập trung trí ý lên đỉnh đầu, với ý thầm nguyện xuất hồn lên
đảnh lễ Phật. Chỉ chú tâm lên xoáy óc một chút thôi, rồi sau đó nhìn thẳng
trung tâm giữa 2 chân mày lâu chừng nào tốt chừng nấy, ý chí thả lỏng, tâm
phẳng lặng và ý dỗ cho ngủ. Ngồi càng lâu càng tốt. Khi thiền định, ngứa mình,
tê chân hay có ý động loạn thì chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật ngay trung tim bộ
đầu”.
Trong Tịnh Độ Tông cũng
có rất nhiều phương pháp giúp tâm không bị vọng động như niệm Phật theo hơi
thở, niệm liên tục không gián đoạn, tai lắng nghe âm thanh tiếng niệm, lần theo
chuỗi hột, tụng kinh theo tiếng mõ, quán tưởng hình ảnh chư Phật-Bồ Tát,
v.v..nhưng mục đích tối hậu là để đến phút giây lâm chung được Tây Phương Tam
Thánh (A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí) đến rước về Cửu Phẩm Liên Hoa miền cực lạc.
Đặc biệt trong 50 năm
qua, các nước phương tây đã áp dụng thiền tiên nghiệm TM (Transcendental
Meditation) cho nghiên cứu y học và ứng dụng trị liệu tại nhiều trung tâm
thiền, bệnh viện, công tư sở và học đường.
Thiền tiên nghiệm TM do
đạo sĩ Ấn Độ Maharishi Mahesh Yogi (1917-2008), theo truyền thống Vệ Đà, mang
đến Âu Mỹ từ năm 1958. Chủ trương của Maharashi là tạo ra một trung tâm thiền
TM cho mỗi một triệu người. Ông đã đào tạo gần 10,000 giảng viên ở khắp nơi.
Nhờ kỹ thuật đơn giản trong ứng dụng nên loại thiền này rất được phổ biến. Cho
đến nay đã có chừng 600 nghiên cứu khoa học và y học về thiền TM liên quan đến
trị liệu đối với nhiều loại bệnh trạng khác nhau. Ngay trên đất Mỹ có một đại
học mang tên Mahashiri.
Phương pháp chung là mỗi
ngày hành thiền 2 lần, mỗi lần 15-20 phút, truớc bửa ăn (bụng trống dễ hành
thiền hơn) với mắt nhắm lại. Phải do một người thầy hay giảng viên trực tiếp
chỉ dạy và đặc biệt truyền cho câu mật chú mantra, để hành giả có thể niệm thầm
hay niệm thành tiếng trong lúc hành thiền. Chương trình gồm có 7 thứ mục với 2
bài học giới thiệu, một cuộc phỏng vấn, và 4 buổi học (2 giờ) cho 4 ngày kế
tiếp. Phương pháp thiền TM được cho là khá giản dị, thiên nhiên và không gượng
ép. Qua tiến trình hành thiền, hành giả sẽ đạt đến một ý thức tiên nghiệm được
gọi là trạng thái chính yếu thứ 4 của ý thức, một trạng thái tỉnh thức hoàn
toàn, khác biệt với 3 trạng thái: thức tỉnh, nằm mơ và ngủ say.
Thiền tiên nghiệm đã
được đăng ký và bảo vệ với thương hiệu (trademark) TM, nên đã trở thành một
loại sản phẩm thương mại. Vào thời điểm năm 2007, có nơi học viên phải đăng ký
và đóng học phí đến 2.500 đô la cho một khóa học, kèm theo điều kiện không được
tiết lộ câu mật chú mà người thầy đã truyền cho, với lý do là mật chú sẽ mất
linh nghiệm nếu bật mí cho người khác biết. Tuy trung thành với chủ trương của
hệ thống huấn luyện thiền TM, nhưng một số giảng viên khi viết tài liệu hay
nghị luận cũng hé mở một số chi tiết về phép thiền này. Ví dụ chọn một nơi yên
tịnh, ngồi nhắm mắt, giữ hơi thở tự nhiên, và tự chọn lựa cho mình một vài chữ
mantra, có tính cách nhẹ nhàng và trung tính, ví dụ như “tỉnh thức”, “thư
giãn”, v.v.. hay bất kỳ lời kinh câu kệ ưa thích nào của mình. Có thể niệm thầm
hay tụng lớn tiếng mantra này bằng cách lập đi lập lại trong suốt thời gian
hành thiền 15-20 phút. Khi tâm xao động cần nhớ trở về với mantra và tiếp tục
niệm như trước. Chỉ giản dị vậy thôi, nhưng cũng có tác dụng thư thái dễ chịu
như một giấc nghỉ trưa 1-2 giờ.
Người tây phương hành
thiền TM tự do rất thích các danh từ, một hình thức mantra, như “peace” (hòa
bình) và “love” (yêu thương). Nhưng cũng có khi đang niệm “love, love, love..”
giữa chừng bất chợt thành ra “I love candy” (tôi thích ăn kẹo) thì phải làm
sao? Đến lúc này chỉ cần nhớ lại mantra “love” và bắt đầu niệm trờ lại cho tâm
khỏi nhảy lăng xăng như con khỉ, “tâm viên ý mã” là như vậy.
Một loại thiền tân thời
được gọi là thiền giải tỏa Avrassana của nhóm Theohumanity do Daniel Stacy
Barron - người Đức- sáng lập, đang còn trong thời kỳ thử thách. Nhóm này chủ
trương sự giải thoát cảm thể (Emotional Body Enlightnment): những gì khởi lên
trong lúc hành thiền được làm cho tan biến đi trước khi rơi chạm vào người,
tương tự như những vẩn thạch hay sao rơi bị tan loãng trong bầu trời trước khi
va chạm vào trái đất.
Thiền Chánh Niệm
Danh từ chánh niệm
(sati) cũng được biết là phát xuất từ chi thứ 7 trong Bát Chánh Đạo (bao gồm
đầy đủ Giới Định Huệ) thuộc phần Đạo Đế của Tứ Diệu Đế (Khỗ Tập Diệt Đạo) mà
Phật Thích Ca sau khi chứng đạt dưới cội bồ đề đã tìm đến vườn Lộc Uyển khai
thị và hóa độ cho năm anh em Kiều Trần Như. Thiền chánh niệm đặt căn bản trên ý
niệm về sự hiện diện đầy đủ của tâm trong tỉnh giác khi nương theo hơi thở ra
vào. Tâm luôn nhận thức dòng cảm thọ, tư tưởng, âm thanh, mùi vị, v.v.. mà
không gắn bó và liên lụy với chúng. Hành gỉa ngồi thiền trong yên lặng và tỉnh
táo, quan sát một cách vô tư những gì đang xảy ra xuyên qua tâm; không phản ứng
và dính mắc với những kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ hay những suy tư, toan tính
đến tương lai. Hậu qủa là tâm đạt được trạng thái tĩnh lặng, trong sáng và an
ổn. Tuy lúc mới khởi đầu hành giả cũng cần trải qua một thời gian thực hành
phép thiền tập trung để luyện tâm cho thuần thuật, rồi dần dà không còn chú mục
vào một đề mục duy nhất nào. Trên thực tế việc ứng dụng trị liệu của thiền
chánh niệm được giản dị hóa đi nhiều, không bó buộc phải tuân thủ triệt để các
phép thiền chỉ (Samatha) và thiền quán (Vipassana) của giới tu sĩ.
Kỹ thuật thông thường là
tự tìm một nơi yên tịnh, thoáng sạch, vào sáng sớm hay chiều tối, ngồi xếp bằng
thẳng lưng trên sàn nhà có kê gối đệm (bồ đoàn), hoặc cũng có thể ngồi trên ghế
và đặt 2 chân thoải mái trên sàn nhà. Hai bàn tay chồng ngửa lên nhau trên đùi
với 2 ngón cái chạm nhau, mắt có thể nhắm lại hay hé mở tùy nghi. Nếu ngồi được
theo thế kiết gìa hay bán gìa thì càng tốt, nhưng rất dễ bị đau chân cho người
mới tập. Bắt đầu hít thở một cách tự nhiên và đều hòa. Nếu tâm bị chi phối do
vọng tưởng khởi lên thì nên tập trung vào hơi thở bằng cách đếm hay theo dõi
hơi thở, hoặc niệm một vài chữ như “chánh niệm”, “tỉnh giác”, v.v..Trong những
ngày đầu chỉ cần tập 5-10 phút, sau đó tăng lên từ từ 15-20-30 phút hay nhiều
hơn tùy theo khả năng. Khi tâm trở nên ổn định hơn, chỉ cần quan sát ghi nhận
một cách khách quan những gì đang xảy ra. Hãy để cho những vọng tưởng, hình
ảnh, âm thanh, v.v.. khơi dậy, lưu lại và biến đi một cách tự nhiên, không kích
động, không đè nén hay xua đuổi chúng, không thêm không bớt và không quan tâm
gì đến chúng. Sau khi xả thiền nên làm những vận động cơ thể nhẹ nhàng như các
thế tập hatha-yoga, khí công, taichi hoặc đi kinh hành, để giúp thân trở lại
trạng thái bình thường và máu huyết lưu thông.
Kiên nhẩn thực tập sau
vài ba tháng thì có thể hội nhập được với thiền tùy căn cơ của mỗi người. Hành
giả có thể chia làm 2 thời hành thiền khác nhau: (1) chính thức nên dành một
thời biểu nhất định cho việc ngồi thiền hàng ngày, (2) bán chính thức là thực
tập theo tuệ quán tứ niệm xứ (Vipassana) vào bất cứ lúc nào thuận tiện. Ví dụ
như khi ăn chỉ chú ý vào việc ăn, biết mình đang gắp thức ăn, nhai, nuốt, mỗi
động tác đều biết rõ ràng như vậy. Khi đi để ý theo những bước chân, khi nằm
chú tâm vào hơi thở ra vào theo sư phồng xệp lên xuống của bụng, vân vân. Nên
bỏ dần những thói quen làm nhiều việc cùng một lúc như vừa ăn cơm, vừa xem
tivi, vừa nghe điện thoại. Thêm vào đó lúc thuận tiện cũng có thể tập xen kẻ
thêm phép quán từ bi hay trải lòng thương của mình đến người khác, bắt đầu từ
bản thân mình rồi vươn dần ra đến những người thân, bạn bè, bà con họ hàng, kẻ
thù, muôn loại chúng sanh.
Đối với những nghiên cứu
khoa học và y học, người ta thường thực hành thiền chánh niệm theo phương pháp
8 tuần lễ thư giãn của tiến sĩ Jon Kabat-Zinn trong chương trình MBSR
(Mindfulness Based Stress Reduction), được phát họa từ năm 1979 tại đại học
Massachusetts - nước Mỹ. Học viên tham gia khóa thiền 2 gìờ mỗi tuần, nhưng về
nhà tự thực tập 45 phút mỗi ngày theo hướng dẫn trong đĩa ghi âm, và sau cùng
tham dự một ngày dài thảo luận về kết quả. Có trên 250 cơ sở như bệnh viện,
trường học, trung tâm cộng đồng, v.v.. ở khắp nơi, hoặc làm công tác nghiên
cứu, hoặc ứng dụng trị liệu, hoặc cho cả hai theo phương pháp này.
TRỊ LIỆU
Những triệu chứng và
bệnh trạng sau đây đã được nghiên cứu và trị liệu qua ứng dụng thiền định như
một phương pháp bổ sung – thay thế.
AIDS (Sida)
Bệnh AIDS là do vi khuẩn
HIV (human immunodeficiency virus) tấn công và giết hại những tế bào hồng huyết
cầu lymphocytes (CD4T) - giữ nhiệm vụ bảo vệ hệ miễn nhiễm (immune system).
Loại vi khuẩn này dần dà làm cho cơ thể mất khả năng kháng lại sự nhiễm trùng
và vài loại ung thư. Nhiều biến chứng do HIV gây ra gồm cả tử vong là do hậu
quả của nhiễm trùng chứ không phải trực tiếp từ HIV. Khi số lượng tế bào CD4T
giảm sút dưới mức 200 hay với những triệu chứng phát khởi rõ ràng là bệnh nhân
đã thực thụ nhiễm bệnh.Vi khuẩn có thể được truyền nhiễm qua máu hay dịch thể
giao cấu, rồi phát triển, lây lan, phá hoại các tế bào, mà nhiều khi bệnh nhân
không hề hay biết trong vòng vài tháng cho đến nhiều năm. Có chừng 40 triệu
bệnh nhân niễm bệnh AIDS trên toàn cầu.
Kết qủa nghiên cứu mới
đây (7/2008) tại đại học California – Los Angeles cho biết một kẻ thù khác của
AIDS là sự căng thẳng bức xúc (stress) càng làm tăng tốc sự giảm sút các tế bào
hữu ích CD4T. Ứng dụng thiền chánh niệm có tác dụng gia tăng số lượng tế bào
này, do đó làm chậm lại hay chận đúng tiến trình bệnh AIDS.
Những bệnh nhân AIDS
được chia thành 2 nhóm: nhóm tập thiền theo chương trình 8 tuần lễ MBSR của
Kabat-Zinn và một nhóm khác không tập thiền để so sánh. Kết quả đạt được là
bệnh nhân nhóm tập thiền trung bình tăng thêm 20 CD4T trong khi bệnh nhân nhóm
kia mất đến 185 CD4T. Những chương trình huấn luyện thiền chánh niệm cho tập
thể được xem là ít tốn kém và có triển vọng trở thành một phương pháp trị liệu
bổ sung – thay thế cho những bệnh nhân AIDS.
Ung Thư
Nguyên nhân của ung thư
là do một nhóm tế bào bộc phát bất bình thường vươt qúa giới hạn, xâm nhập phá
hủy các mô kế cận và lan truyền đến những nơi khác của cơ thể tạo thành các
bướu ung thư. Bệnh ung thư ảnh hưởng mọi lứa tuổi ngay cả bào thai, nhưng
thường gia tăng với tuổi tác. Chứng ung thư gây tử vong 13% trên tổng số các
loại bệnh trạng khác.
Những nghiên cứu y học
đã xác minh thiền định giúp giảm thiểu lo lắng, bức xúc, đau nhức, huyết áp,
mất ngủ và từ đó có thể được áp dụng giúp bệnh nhân ung thư vượt qua những cơn
đau, căn thẳng, hoảng sợ, v.v..cũng như tăng cường sức phòng thủ và đề kháng
của hệ miễn nhiễm hầu bảo vệ cơ thể người bệnh.
Có những phương pháp trị
liệu hiện đại như sử dụng các kỹ thuật đốt bằng tia phóng xạ hay qua phẫu thuật
cắt bỏ phần mô ung thư, nhưng đây là loại bệnh trạng chí mạng cần được phát
hiện sớm sủa và chữa trị kịp thời.
Bác sĩ tâm thần người
Úc, Ainslie Meares, với những nghiên cứu riêng của mình được tường trình từ năm
1976, đã đề nghị sử dụng thiền định hoặc riêng rẽ hoặc cùng chung với các phép
trị liệu khác cho các chứng ung thư. Qua đó thiền định không những làm tăng
cường sức đề kháng của hệ miễn nhiễm mà quan trọng hơn cả là giảm hạ những căn
thẳng từ những cơn đau cũng như những ưu phiền, lo toan, sợ hãi, số phận hẩm
hiu của bệnh nhân. Phép hành thiền gồm 3 yếu tố: thân an tịnh, niệm mantra và
vận động nhẹ, ít nhất tập một giờ mỗi ngày. Đăc biệt tránh cho bệnh nhân sự
giao tiếp qua chữ viết, âm thanh hay lời nói có tính cách lý luận hay học hỏi,
hầu tránh làm nhiễu loạn tâm trí người bệnh. Ông ta tiến hành trị liệu cho 17
bệnh nhân ung thư trong giai đoạn bệnh đã phát triển khá cao hay ở giai đoạn
cuối. Các bệnh nhân hoặc không hề có sự trị liệu chính thống hoặc đã nhận sự
trị liệu từ thuốc hay phóng xạ vài tháng trước đó. Kết qủa cho thấy họ đã có
thể sống thêm trung bình một năm, trong khi các phép trị liệu khác phải chịu bó
tay và cho biết là chỉ chờ ngày chết.
Vào tháng 11 năm 1979,
trên tạp chí Medicine Journal Australia, bác sĩ Mearses báo cáo về một trường
hợp ung thư ruột kết (colon) của một người đàn ông 64 tuổi, một nhà tâm ly học.
Ông ta không chịu giải phẫu mà thích hành thiền trung bình 3 giờ mỗi ngày. Chỉ
sau 2 tuần lễ đã thấy có sự cải thiện. Sau 6 tuần thì chấm dứt sự trợ lực bôm
thụt vào hậu môn – giúp lưu thông ruột kết. Sau 2 tháng không còn chứng thức
giấc giữa đêm. Sau 6 tháng phân trở lại kích thước bình thường và sau 1 năm thì
dứt hẳn chứng ung thư.
Phương pháp ứng dụng
thiền chánh niệm trong chương trình thư giãn MBSR của Jon Kabat-Zinn đã được sử
dụng khá nhiều trong nghiên cứu ung thư, trong số đó một thí nghiệm trên 90
bệnh nhân cho thấy giảm được 31% các triệu chứng căng thẳng bức xúc và 67% tính
khí bất thường khi so sánh với các bệnh nhân không hành thiền.
Nhiều nghiên cứu y học
về thiền định cho đến nay thường chỉ giới hạn thời gian hành thiền rất ngắn,
nên không có cường độ tác dụng lớn như thời gian 3 giờ hay nhiều hơn. Một điều
dễ hiểu là những bệnh nhân ung thư, tuy có nhiều thì giờ, nhưng lại không còn
đủ ý chí vững mạnh, kiên nhẩn và sức chịu đựng với thời gian hành thiền quá dài
nếu không nhận được sự khuyến khích và chỉ bày thích đáng.
Tim Mạch
Bệnh tim bao gồm nhiều
hình thức khác nhau, là bệnh gây tử vong nhiều nhất ở các nước phát triển, như
ở Mỹ cứ 34 giây là có một ngươì chết về bệnh này. Nguyên nhân thông thường là
những mạch máu bị thu hẹp hay tắc nghẽn do chất mỡ tích tụ bên trong thành mạch,
gây khó khăn cho máu lưu thông và cung cấp oxy đến tim. Các cơ thịt của tim bị
thiệt hại do một nguyên nhân nào đó làm giảm sút khả năng bôm máu của tim đến
các nơi khác trong hệ tuần hoàn. Khi tín hiệu nội điện (internal electrical
signal) của tim bị xáo trộn làm tim không thể bôm máu một cách bình thường,
nhịp tim trở nên rối loạn lúc nhanh lúc chậm gây vấn đề cho tim.
Sự bất thường của van
tim là một nguyên nhân khác, 4 van tim thay nhau điều khiển lưu lượng máu vào
hay rời khỏi tim. Van tim bị hẹp làm tim khó đẩy máu đi và nếu van tim bi hở
làm máu bị rò rỉ trở lại, không bôm hết lượng máu.
Các triệu chứng thông
thường của bệnh tim là thở gấp, hồi hộp đánh trống ngực, yếu đuối, chóng mặt,
mệt mỏi, buồn nôn, ra mồ hôi, cảm giác muốn ngất xỉu, vùng tim ngực bị đè ép,
nặng nề, đau nhói và có khi lan ra kế cận đến lưng, quai hàm và tay.
Có 2 cuộc thử nghiệm ở
Mỹ ứng dụng thiền tiên nghiệm TM vào những thập niên 1980 và 1990 cho thấy
những người bị bệnh tim có thể giảm tỉ lệ tử vong xuống 30%. Bác sĩ Robert
Schneider thuộc đại học Maharishi đã lên tiếng rằng đây là sự kiện phát hiện có
ý nghĩa đáng kể, chứng tỏ thiền định có thể được sử dụng như một phương pháp
trị liệu hữu hiệu cho bệnh tim.
Một thử nghiệm khác
(3/2007) tại đại học Pennsylvania qua tập thiền TM trong 3 tháng và 6 tháng đối
với bệnh nhân sung huyết tim (congestive heart failure) cũng cho thấy rõ những
cải thiện về phẩm chất đời sống, chứng trầm cảm, và sự giảm bớt số lần trở lại
bệnh viện. Thiền định giúp giảm hạ tác động của hệ giao cảm (gây căng thẳng bức
xúc) trong khi tăng cường khả năng của hệ phản giao cảm với tác dụng ngược lại.
Tương tự, tại trung tâm
y khoa Cidars-Sinai, Los Angeles, Paul-Labrador hướng dẫn một thử nghiệm khác
với 103 bệnh nhân vành mạch tim (coronary heart disease). Trong số này, 52 bệnh
nhân tập thiền TP trong 16 tuần lễ và 51 bệnh nhân khác không tập thiền để so
sánh. Trước và sau cuộc thử nghiệm, bệnh nhân được thử máu, xét lý lịch y khoa,
thử chức năng mạch máu, và sự biến đổi nhịp tim. Kết qủa là những bệnh nhân tập
thiền giảm hạ huyết áp rất đáng kể, cải thiện lượng đường và insulin trong máu,
cũng như ổn định chức năng của hệ thần kinh tự động. Ngoài ra còn có những
nguyên nhân phụ thuộc ảnh hưởng bệnh tim như thiếu vận động, thức ăn không lành
mạnh, sự béo phì, sư căng thẳng búc xúc trong xã hôi đa tạp, tạo ra những kích
thích tố có hại như cortisol và những chất tác động truyền dẫn thần kinh, rất
tai hại cho hệ tim mạch. Việc hành thiền có tác dụng điều hợp hữu hiệu những
căng thẳng, giảm hạ sự tiết ra các kích thích tố này. Thêm vào đó, phương pháp
từ bi quán (compassion mediattion), hay trải tình thương đến những chúng sanh
khác, được xem là có công năng tác động lên hệ phản giao cảm (parasympathetic)
giúp tim chậm lại và gia tăng hệ số biến đổi của nhịp tim, nhờ đó tim được khỏe
mạnh hơn và giảm nguy hiểm bị bệnh.
Bác sĩ Vermon Barnes
cũng hướng dẫn một thử nghiệm trên 111 trẻ vị thành niên và tìm thấy những em
tập theo những khóa thiền TM -15 phút có khả năng làm tăng sự mở rộng huyết
quản thêm 21% trong khi những em không tâp thiền lại bị giảm đi 4%. Do đó đi
đến kết luận rằng hành thiền có thể thay thế cho các liều thuốc làm giảm hạ
lượng mỡ trong cơ thể.
Liên hệ đến bệnh tim có
các chứng cao huyết áp và đột qụy (tai biến mạch máu não).
Trung bình cứ trong 8
người là có một người bị cao huyết áp, loại bệnh âm thầm thường không có triệu
chứng rõ ràng nhưng lại rất nguy hiểm, có thể dẫn đến suy tim hay đột qụi bất
ngờ. Huyết áp do sức ép của máu lưu thông lên thành mạch khi tim co thắt đẩy
máu đi. Số đo huyết áp bình thường là 120/80. Huyết áp trên giới hạn
135-140/85-90 được xem như bắt đầu có triệu chứng cao huyết áp. Bệnh này thường
do các chất kết tụ bên trong mạch máu như cholesterol làm nghẽn sự lưu thông và
do đó làm tăng huyết áp. Cũng cần kể thêm các yếu tố di truyền hay môi trường
và hoàn cảnh sống dễ gây căng thẳng làm cơ thể tiết ra những kích thích tố bất
lơị làm tăng huyết áp. Một trong những nghiên cứu cho thấy tập thiền TM có thể
làm giảm huyết áp đến 10.7/6.4 (ví dụ 140/90 – 10.7/6.4 = 129.3/83.4).
Chứng đột qụy là do một
hay nhiều mạch máu trong não bị tắc nghẽn vì các chất như cholesterol tích tụ,
gây bán thân bất toại hoặc, tàn tật suốt đời hay tử vong.
Những nghiên cứu và ứng
dụng thiền định trong y học, nhất là cho chứng cao huyết áp, trực tiếp ảnh
hưởng đến bệnh tim và đột qụi, mang lại kết quả rất hữu ích và khích lệ.
Tê Khớp (Thấp Khớp)
Có hàng trăm thứ bệnh tê
khớp, nhưng tổng quát có 3 loại chính yếu là do khớp xương có mô sụn bị vỡ,
viêm khớp do mô sụn bị xóa mòn gây sưng nhức và chấn thương khớp xương do tai
nạn gây nên. Những triêu chứng đau nhức có thể thường xuyên hay cách quảng. Cơn
đau thường xảy ra trong lúc di động nhưng cũng có thể vào lúc nghỉ ngơi. Người
bệnh cảm thấy đau nhức chỉ một nơi hay lan tỏa khắp cơ thể, các khớp xương có
vẻ như cứng lại và mất sự uyển chuyển. Vùng da trên khớp xương đau có thể sưng
đỏ lên. Bệnh tình thường gây mệt mỏi chán nản và đi đứng vận động khó khăn.
Y học hiện đại không có
phương cách điều trị dứt căn bệnh mà chỉ có thể làm giảm hạ các triệu chứng đau
nhức như dùng các loại thuốc chống đau, chống viêm và thuốc an thần, tập luyện
các môn vận động nhẹ giúp cơ thể linh hoạt, giảm đau và sau cùng là dùng phẫu
thuật.
Một thí nghiệm nghiên
cứu ứng dụng thiền chánh niệm trên chứng tê khớp kinh niên (rheumatoic
anthritis) tại đại học Maryland tháng 10/2007 cho thấy rằng mức độ căng thẳng
và trầm cảm của bệnh nhân giảm hạ 35% sau 6 tháng tập thiền.
Ứng dụng thiền chánh
niệm bằng cách ngồi thoải mái ở một nơi yên tĩnh, mắt nhắm, chú ý vào sự phập phồng
của bụng theo hơi thở ra vào (bụng phồng khi hít vào và bụng xệp khi thở ra)
với cảm giác như đang trôi theo dòng hơi thở, nếu tâm giao động, chỉ đơn thuần
trở về chú ý vào hơi thở. Ví dụ như bất chợt nghe một âm thanh, tiếng nhạc,
chuông điện thoại, v.v. chỉ cần biết như vậy, nghe như vậy mà không suy nghĩ
phán đoán gì thêm. Cần chú tâm vào sự im lặng giữa các âm thanh xảy ra. Cách
hành thiền chánh niệm như vậy có thể giúp làm mất tác dụng của sự căng thẳng và
cơn đau nhức.
Một thí nghiệm khác được
thực hiện ở trung tâm y khoa đại học Massachusetts trên 90 người mang chứng đau
nhức kinh niên. Sau 10 tuần lễ tập thiền, các cơn đau, việc sử dụng thuốc và
các triệu chứng lo buồn giảm hạ trong khi sự tự tin, hoạt bát và lạc quan gia
tăng. Những phản ứng thuận lợi này còn được duy trì cho đến 15 tháng sau, trong
khi nhóm những người không tập thiền không cho thấy dấu hiệu cải tiến nào.
Tiểu Đường
Hầu hết thức ăn được hấp
thu vào máu dưới dạng thức glucose, chất đường hữu dụng trong máu, như là nguồn
năng lượng cho sự phát triển tế bào. Nhưng để glucose có thể thấm nhập vào các
tế bào cần có sự tác động của kích thích tố insulin.
Tiểu đường loại I xảy ra
khi những tế bào beta trong tụy tạng bị phá hủy và không thể sản xuất được
insulin. Loại này chỉ chiếm 5-10 %.
Tiểu đường loại II chiếm
đến 90-95%. Tụy tạng sản xuất đủ lượng insulin, nhưng vì một lý do nào đó cơ
thể không thể dùng được insulin một cách hiệu qủa. Sau nhiều năm, tình trạng
cũng giống như loại I, luợng đường tích tụ trong máu gia tăng và gây triệu
chứng. Loại II thường có liên hệ với tuổi cao, béo phì, di truyền, sử dụng
thuốc, v.v.
Bệnh nhân hay khát nước,
tiểu tiện thường xuyên, mệt mỏi, mắt mờ; có thể làm suy tim, suy thận và mù
mắt, bất lực và tàn tật ở chân.
Trong bệnh tiểu đường,
sự căng thẳng bức xúc làm gia tăng lượng đường trong máu và ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe. Thêm vào đó, người ta có khuynh hướng thích ngồi ỳ một chỗ, không
chịu vận động và ăn những thực phẩm chứa nhiều chất carbohydrate – nguồn cung
cấp lượng đường cao cho cơ thể. Khi lo âu buồn bực, người ta thường bê tha,
buông xuôi không còn lưu ý đến bản thân mình và do đó càng làm cơn bệnh thêm
trầm trọng.
Hành thiền đều đặn và tự
săn sóc chứng tiểu đường đòi hỏi phải có sự cam kết và kỷ luật với chính mình,
không những giúp điều khiển được cơn bệnh mà còn được hưởng thêm những lợi ích
thiết thực khác cho sức khỏe như hạ huyết áp, giảm luợng đường trong máu, tỉnh
táo hơn, giao tế xã hôi tốt hơn, chú tâm tốt hơn vào công việc và ít lo âu
phiền muộn hơn, từ đó phát sinh thái độ lạc quan, tự tin và tự kiểm soát được
chính mình.
Suyễn và Dị Ứng
Chứng suyễn (asthma) có
thể xảy ra ở mọi lứa tuổi do đường hô hấp bị viêm, gây những trở ngại như khí
quản thu hẹp và đờm nhớt tiết ra làm nghẽn sự hô hấp. Suyễn thường tạo ra các
triệu chứng như ho hen, hơi thở khò khè, ngộp thở, cảm giác bức rức chật chội
trong ngực. Cơn suyễn thường thay đổi bất chợt và hay xảy ra về đêm.
Tập san Respiration
(32/1975) công bố một thí nghiệm nghiên cứu trong 6 tháng , ứng dụng thiền TM
trên 21 bệnh nhân suyễn (cuống phổi) đã đi đến kết luận rằng thiền TM có khả
năng giúp giảm hạ chứng suyễn.
Cũng giống như trường
hợp các bệnh trạng khác, bệnh suyễn thường trở nên trầm trọng do căng thẳng bức
xúc, chính yếu là sự hoảng hốt của chính bệnh nhân. Người giữ được tâm trí bình
thản thì dễ dàng điều khiển được cảm xúc của mình và hiệu qủa dương tính này
gia tăng giúp máu và dưỡng khí lưu thông dễ dàng.
Một nghiên cứu được thực
hiện trên một số bệnh nhân với những triệu chứng suyễn từ trung bình đến trầm
trọng mà không có tác dụng hữu hiệu với các loại thuốc. Nhóm đầu tiên được trị
liệu với thuốc đặc biệt của bệnh suyễn. Nhóm thứ 2 vừa dùng thuốc này vừa hành
thiền. Kết qủa thí nghiệm cho thấy nhóm thứ 2 có tập thiền đáp ứng thích hợp
với thuốc và không cần một liều lượng cao, cũng như có tâm được ổn định hơn.
Nhưng sau 2 tháng không tập thiền, nhóm này được khảo sát lại và người ta tìm
thấy rằng kết qủa của họ cũng giống như nhóm không tập thiền. Điều này nêu rõ
việc tập thiền liên tục rất quan trọng cho bệnh suyễn.
Phương thức điều hòa hơi
thở được xem như là một phần hữu ích của tiến trình hành thiền, có tác dụng trợ
lực cho phổi và đường hô hấp, nhờ đó có thể ngăn chận được cơn suyễn bộc phát.
Yếu tố thư giãn trong tiến trình hành thiền giúp bệnh nhân cảm thấy dễ chịu thư
thái hơn khi cơn suyễn nổi lên. Sự chú tâm vào hơi thở giúp giảm nhẹ mức độ hốt
hoảng vì phải chống trả với sự khó thở khi đợt suyễn hoành hành, nhờ đó thoát
ra được cái vòng lẩn quẩn của suyễn. Với việc hành thiền 15-30 phút đều đặn mỗi
ngày, những đợt tấn công của suyễn sẽ bớt trầm trọng hơn, số lần xảy ra ít hơn,
cũng như dễ dàng dung hợp các phương thuốc trị suyễn.
Các bệnh dị ứng là do
phản ứng của hệ miễn nhiễm qua tác động thái quá của bạch huyết cầu trong khi
chống trả lại các tác nhân xâm nhập như phấn hoa, buị, khói thuốc, thức ăn, mùi
vị, v.v..làm tiết ra histamine gây viêm tính và những dị ứng như ngứa mắt, chảy
mũi, hắt hơi, mệt nhọc, cảm giác khó chịu, v.v.. Tùy theo bản chất mỗi cá nhân,
có người không hề hấn gì khi tiếp xúc với những tác nhân gây dị ứng này; nhưng
cũng có những trường hợp trầm trọng do thức ăn, thuốc uống hay nọc độc của côn
trùng chích có thể gây mạng vong.
Sự giảm thiểu cortisol -
kích thích tố gây căng thẳng, qua hành thiền, sẽ giúp tuyến thượng thận
(adrenal gland) được mau bình phục và nhờ đó chống lại các chứng viêm do suyễn
gây nên.
Viêm Gan
Ba loại vi khuẩn phổ
thông gây viêm gan là Hepatitis A, B và C. Loại A chỉ gây nhiễm trong một thời
gian và được miễn nhiễm (không tái phát), trong khi 2 loaị kia có thể gây ảnh
hưởng lâu dài và tác hại khốc liệt. Những triệu chứng thông thường là ăn mất
ngon, buồn nôn, ói mửa, sốt, mỏi mệt, suy yếu và đau bụng. Các loại vi khuẩn
thường được lây lan từ người khác hay từ các điều kiện môi sinh ô nhiễm, v.v.
Sự bùng phát các triệu
chứng viêm gan xảy ra sau một cơn căng thẳng và nhiều nghiên cứu đã xác minh sự
căng thẳng bức xúc có liên quan mật thiết với viêm gan.
Một số kết luận và những
biện minh cho việc ứng dụng thiền định đối với trị liệu viêm gan như sau.
- Bệnh nhân viêm gan C
thuộc dạng người có cá tính bồng bột nóng giận, khác biệt với người có cá tính
thư thái trầm tỉnh do hiệu quả tập thiền.
- Trong lúc căng thẳng,
những tế bào sát thủ thiên nhiên sinh sôi nảy nỡ trong gan. Chúng có thể hủy
diệt tế bào gan và làm cho chứng bệnh trở nên trầm trọng.
- Bằng cách theo dõi bộ
phận não điều khiển gan, người ta quan sát được rằng sự căng thẳng gây thiệt
hại cho máu và do đó dẫn đến ảnh hưởng tai hại cho gan.
- Thực hành thiền định
kích thích thần kinh phản giao cảm, giúp làm dịu những cơn bực dọc nóng giận.
- Với công năng tăng
cường hệ miễn nhiễm, thiền định làm giảm hoạt động của vi khuẩn tấn công các tế
bào gan.
Hiệu Ứng Thơì Mãn Kinh
(Hot Flashes)
Hot flashes thường xảy
ra trong thời kỳ mãn kinh của phụ nữ. Nguyên nhân chưa được xác minh rõ ràng
nhưng có lẽ do sự giảm sút kích thích tố estrogen khi lớn tuổi. Tuy không thuộc
dạng nguy hiểm đến tính mạng nhưng cũng gây những triệu chứng trăn trở khó chiụ
như mất ngủ, mệt mỏi chán chường, toát mồ hôi, nhức đầu, buồn nôn, khó tập
trung làm việc, đỏ rân trên mặt - cổ - ngực, và cảm giác nóng ran loan khắp hay
máu chạy rân trong người. Bệnh trạng có thể kéo dài trong 5-10 năm và tạo thêm
rắc rối nếu có những bệnh khác.
Chỉ trong gần đây, người
ta đã sử dụng phương pháp thay thế hormone HRT (hormone replacement therapy)
cho người bệnh hot flashes. Tuy nhiên phương pháp này cũng có thể gây ung thư
vú và bệnh tim.
Theo một kết qủa nghiên
cứu được thực hiện tại Đại Học Massachsetts năm 2006, thiền định xoa dịu những
căng thẳng và giúp hạ nhiệt những cơn hot flashes, giúp cuộc sống được thư thái
dễ chịu hơn. Trong nghiên cứu này các phụ nữ theo dõi và ghi lại nhật ký trong
suốt qúa trình tập thiền chánh niệm. Chương trình gồm có 8 tuần lễ hành thiền,
2.5 giờ mỗi tuần, và nhận 2 đĩa ghi âm thực tập tại nhà mỗi ngày 45 phút, với
các đề mục:
- Quán thân: di chuyển
sự chú ý trên thân từ chân lên đầu để nhận thức những cảm giác của thân trong
tư thế nằm ngửa thoải mái.
- Ngồi thiền: Lưng
thẳng, chú tâm vào dòng hơi thở ra vào, những cảm giác của thân, ý nghĩ và xúc
cảm.
- Vận động nhẹ nhàng:
giúp phát triển tỉnh giác trong lúc chuyển động cơ thể.
Kết qủa thí nghiệm cho
thấy số lần bị hot flashes hoành hành giảm xuống 39% và cường độ trầm trọng giảm
đi 40%. Triển vọng của nghiên cứu này khuyến khích ứng dụng thiền chánh niệm để
chế ngự các triệu chứng thời mãn kinh, cũng như đặt kỳ vọng vào những nghiên
cứu kế tiếp.
Phương pháp thở sâu theo
dõi hơi thở ra vào với nhịp điệu phồng xệp nơi bụng rất hiệu nghiệm giúp trị
liệu các chứng nhức đầu (thay vì tập trung tư tưởng trong đầu thì đem tâm về
đan điền hay vùng dưới rốn) và chứng mất ngủ (sử dụng thiền nằm trước khi ngủ).
Tâm Bệnh
Các bệnh về tâm là những
hiện tượng hay triệu chứng tâm lý thường gây nên những hệ lụy buồn khổ và tàn
tật. Trạng thái này làm nhiễu loạn ý nghĩ, cảm giác, khả năng giao tiếp và
những hoạt động hàng ngày. Những hình thức thông thường gồm có trầm cảm, mất
trí, phát cuồng, bị ám ảnh, hốt hoảng, căng thẳng do chấn thương và điên khùng.
Điều quan trọng là các trạng thái này có thể được hồi phục. Nhiều người rất sợ
và hiểu lầm về các chứng tâm thần nên hay có thành kiến và kỳ thị, vì không
hiểu rõ vấn đề. Nhưng thật sự các chứng bệnh này rất phổ thông, ví dụ ở Anh
quốc cứ trong 4 người thì có một người bất thường như vậy. Nếu được chữa chạy
thích đáng, bệnh nhân vẫn có thể tiếp tục cuộc sống bình thường, tuy rằng y học
hiện đại chỉ có thể trị liệu cho một số bệnh nhân, và không hiệu qủa cho những
người khác. Cũng do những khó khăn này mà một số trung tâm thiền không muốn thu
nhận các bệnh nhân tâm thần.
Thiền tứ niệm xứ
Vipassana được sử dụng trong các trại tù ở Ấn Độ đã chứng tỏ rất hữu ích đối
với các tù nhân nghiện ngập, bệnh tâm thần và lãnh cảm; với mục đích giúp họ
tâm trí được sáng suốt, định hướng hoàn cảnh của mình và giao tế tốt với người
khác.
Sự thành công cũng tương
tự tại các trại tù cải tạo ở Canada và Mỹ.
Gần đây vào cuối mùa hè
2008, tại Trung Tâm Tâm Thần và Phòng Chống Nghiện Ngập Toronto-Canada, giáo sư
tâm lý học Zindel Segal đã hướng dẫn thực hiện thí nghiệm 8 tuần lễ hành thiền
chánh niệm cho 177 bệnh nhân vừa hồi phục qua các loại thuốc an thần đối với
những chứng trầm cảm và lo sợ. Mục đích thí nghiệm là ứng dụng thiền định để
kiểm soát và trị liệu những ý nghĩ và cảm xúc phiền toái, so sánh với phương
pháp chữa trị bằng thuốc, và nhấn mạnh ở điểm có ngăn ngừa được sự tái phát các
triệu chứng hay không.
Thí nghiệm này nằm trong
dự án nghiên cứu trị liệu 2,5 triệu đô la do chính phủ tài trợ. Thiền sinh được
hướng dẫn ngồi tĩnh lặng, nhắm mắt, theo dõi hơi thở qua sự phồng xệp của bụng
và những cảm giác của thân tâm. Khi thấy sự chú tâm bị sao lãng liền quay về
với sự tập trung hơi thở của mình. Chỉ làm được như vậy hành giả đã có thể chú
tâm vào một ý tưởng rắc rối nào đó – ví dụ về sự đổ vỡ tỉnh cảm. Cần kiên nhẫn
và chấp nhận những cảm xúc như vậy mà không cố tình làm chúng thay đổi hay biến
dạng, chỉ đơn thuần quan sát một cách khách quan mà thôi. Các bệnh nhân được
phân chia thành 3 nhóm: (1) tiếp tục dung thuốc an thần, (2) dùng thuốc giả
tưởng (placebo) và (3) hành thiền trong 8 tuần lễ. Kết qủa đang được kiểm
chứng.
Cho đến nay do sự phức
tạp của bệnh trạng, chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng thiền định vào trị liệu
các bệnh trạng tâm thần, tuy nhiên vẫn có những quan tâm và cố gắng thực hiện
đang diễn tiến.
Những Loại Bệnh Trạng Có
Thể Ứng Dụng Thiền
Định
Tổng quát, qua những
nghiên cứu trị liệu, thiền định có thể đươc ứng dụng cho những thể loại bệnh
trạng như sau.
- Hệ thần kinh: nhức
đầu, phiền muộn, mất ngủ, xơ cứng, đột qụy, động kinh.
- Hệ tiêu hóa: bệnh viêm
ruột, đau bụng, ung nhọt, buồn nôn,
- Nghiện ngập: hút
thuốc, ma túy, uống rượu.
- Hô hấp: bệnh hen suyễn
- Cơ quan sinh dục: mãn
kinh, tiền kinh nguyệt, bất lực.
- Da: mụn, nhiễm trùng.
- Hệ miễn nhiễm: cảm
cúm, dị ứng, bệnh AIDS
- Hệ liên-thân
(inter-bodily): ung thư.
Hay là
- Tâm: phát triển trí thông minh, gia tăng sáng tạo, nhận thức rộng
rãi, cải thiện tri giác, và trật tự thứ lớp, giảm lo âu phiền muộn, an tâm.
- Thân: hạ huyết áp-nhịp tim, cải thiện sức khỏe, giảm nhu cầu về trị
liệu, thư giãn, hồi xuân, cải thiện hô hấp, an thân.
- Thái Độ: tăng hiệu suất làm việc, cư xử tốt, giảm thiểu lạm dụng
thuốc, cảm giác thư thái dễ chịu.
- Xã Hội: cải thiện phẩm chất đời sống, giảm tội phạm, giảm bạo hành
và xung đột.
TRIỂN VỌNG
Việc tập thiền đang đến
dần với nhiều người bởi vì bất cứ cá nhân nào cũng có thể thực hành một cách an
toàn và không tốn kém bao nhiêu. Mỗi người có thể hành thiền một mình hay cùng
với người khác ngay tại nhà. Trong thời buổi cạnh tranh bon chen với những hoạt
động dễ gây căng thẳng và bệnh tật, người ta tìm đến thiền để giải tỏa những
nổi bực dọc lo sợ hay cơn đau hành hạ, nâng cao trí tuệ, làm trẻ trung hóa cơ
thể và tăng tiến cuộc sống.
Tại Thái Lan người ta
dùng phương pháp trị bệnh thiên nghiệm (holistic), nhấn mạnh những yếu tố thiên
nhiên ảnh hưởng đến cơ thể con người, sự quan trọng của những tiến trình tâm
thức và hành thiền, sử dụng các thức ăn thiên nhiên như là những biện pháp an
toàn nhằm giảm nhẹ những phiền lụy trong cuộc sống. Đặc biệt qua thiền định,
tâm sẽ xuất sinh những tư tưởng tích cực lạc quan giúp cơ thể khỏe mạnh và sức
đề kháng bệnh tật cao hơn. Thay vì nếu để nảy sinh những tâm tư tiêu cực buồn
khổ thì chẳng khác gì những rỉ sắt xói mòn cơ thể và gây tử vong nhanh hơn.
Theo kết qủa nghiên cứu
mới nhất vào cuối năm 2008 của Linda Nguyễn và đồng sự tại Đại Học
Toronto-Canada, hầu hết mọi bệnh trạng đều có liên hệ đến phiền muộn, lo âu, sợ
sệt và đau đớn. Bệnh nhân chỉ cần tập thiền chánh niệm trung bình 17 phút mỗi
ngày cũng đủ cảm nhận được thân tâm an lạc và cuộc sống thăng tiến..
Trong cuộc sinh hoạt
thường ngày, hành giả không những chỉ thường xuyên tập thiền với phương pháp
thích hợp (ví dụ hiệu qủa của phép thiền giúp cảm thấy thư thái yên lành) mà
cần biết cách sống thiền. Ngoài sự thích nghi với hoàn cảnh công việc, nên gần
gũi thiên nhiên, tập nếp sống lành mạnh (ngủ giới), theo các phép ẩm thực và
vận động dưỡng sinh, gìn giữ thân tâm gắn bó với những tư tưởng và hành động
lạc quan, tránh những căng thẳng bực dọc hay suy tư yếm thế sầu thảm, không lo
sợ và biếng nhác.
Người viết với trải
nghiệm bản thân, đã từng cảm nhận những hiệu qủa hữu ích của thiền đối với vài
triệu chứng như cảm cúm, tim mạch, tê khớp, cũng như luôn được thân tâm an ổn
và cơ thể lành mạnh. Xin nêu ra đây một câu chuyên thật để kết thúc bài viết
dài dòng này. Trong một thử nghiệm máu, kết qủa cho thấy lượng kích thích tố
TSH (thyroid stimulating hormone) tăng cao và lượng T3, T4 giảm hạ so với mức
bình thường nên người viết đã được gửi đến chuyên khoa để trị chứng
hypothyroidism hay bướu cổ nhu tính. Y học giải thích bệnh trạng này là do
tuyến giáp (thyroid gland) ở cổ suy thoái nên không còn đủ khả năng sản xuất
các kích thích tố quan trọng như T3 và T4. Do đó tuyến yên (pituitary gland)
nằm dưới đáy não phải tiết ra kích thích tố TSH nhiều hơn nhằm kích thích tuyến
giáp. Tác động này gây sức ép và tạo ra bướu cổ nhu tính ở tuyến giáp. Riêng vị
bác sĩ chuyên khoa thì cứ 3 tháng bắt thử máu một lần và cứ tăng dần liều thuốc
trong toa lên từ màu trắng, rồi đến xanh, vàng và đỏ. Người viết thì nhất quyết
không bao giờ uống một viên thuốc nào, cũng như bao nhiêu năm nay không hề đụng
đến thuốc tây, nhưng không cho bác sĩ biết điều này. Tuy vậy luôn tuân thủ đúng
những lần thử nghiệm máu để biết kết quả. Trong lúc đó, tự trị liệu theo phương
cách bình dị là ăn gạo lức muối mè với rong biển và vài món dinh dưỡng khác,
tập thiền, khí công, tản bộ hay chạy bộ đều đặn mỗi ngày. Điều lý thú là sau
những lần kết qủa thử máu kế tiếp, lượng TSH, T3 và T4 đã trở lại mức bình
thường. Vị bác sĩ chuyên khoa hoan hỉ tuyên bố nhờ tác dụng của thuốc, chứng
bệnh đã được ổn định, nhưng phải liên tục mỗi ngày uống đều đặn một viên
Levothyroxine (hormone nhân tạo T4) theo toa cho đến trọn đời.
Đương nhiên cần phải tôn
trọng những người có lương tâm và ý thức trách nhiệm, nhưng thực tế phần lớn
nhà bào chế thuốc và giới y dược trước hết nghĩ về lợi nhuận thu nhập của mình.
Bác sĩ khám bệnh viết toa thuốc và dược sĩ bán thuốc theo toa cho thật tốt.
Những tệ nạn như mánh khóe gian lận, lạm dụng tình trạng trợ cấp an sinh xã hôi
và bảo hiểm y tế càng làm cho giới này thêm sung túc phát đạt. Người viết đã
từng bị các bác sĩ ép phải thường xuyên đến khám bệnh lấy toa thuốc, dù không
cần thiết, xong mua thuốc ngay ở tiệm dược trước văn phòng qúi ngài.
Các loại thuốc tây
thường chỉ có hiệu nghiệm nhất thời với bệnh trạng. Ngoài những phản ứng phụ
(side effects) khi dùng thuốc, mấy ai có thể lường trước được những hệ lụy về
lâu về dài của thuốc gây tác hại cho cơ thể như thế nào. Lại nữa một loại thuốc
có công năng cho bộ phận này có thể gây nguy hại cho bộ phận khác, nhất là ảnh
hưởng tiềm tàng của những loại thuốc tổng hợp biến chế (synthesized), không
thuộc dạng dược thảo thiên nhiên. Thuốc tây là những hóa chất, nếu bị lạm dụng
sẽ tồn đọng lâu dài gây ô nhiễm trong cơ thể. Những ảnh hưởng của thuốc có thể
làm suy yếu, phá hủy sự quân bình và phòng vệ tự nhiên của hệ miễn nhiễm, lót
đường cho các loại vi khuẩn đột nhập và gây bệnh. Uống thuốc nhiều khi chỉ có
tác dụng tâm lý, như các thí nghiệm trên những bệnh nhân uống thuốc giả tưởng
(placebo) cho thấy vẫn có thể lành bệnh.
Trái lại, sử dụng thiền
định và những phương pháp dưỡng dinh tự nhiên, vừa giản dị, an toàn, không mấy
tốn kém, giờ giấc uyển chuyển, tiện lợi, vừa đem lại những bổ ích sức khỏe
thiết thực và lâu bền cho thân tâm.
Minh Phúc Ph.D
Nguồn:
chuakimquang.com