Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


2 Trang12>
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline A2066  
#1 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:10:46(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
<div class="summary"> <font style="color: rgb(0, 153, 51); font-weight: bold;" size="3"><span style="font-family: arial,helvetica,sans-serif;"></span></font><font style="color: rgb(0, 153, 51); font-weight: bold;" size="3"><span style="font-family: arial,helvetica,sans-serif;"><br /><br /></span></font><font size="4" face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="5" color="#0000ff"><font size="2"><table width="100%" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td valign="top" width="33%"><p align="center"><font size="4" face="arial,helvetica,sans-serif"><strong><font size="5" color="#0000ff">InWEnt – Tổ chức bồi dưỡng và phát triển<br />năng lực quốc tế - CHLB Đức</font> </strong></font></p> <h1 align="center"><font size="3" face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="4">Ban Y tế</font> </font></h1> <p align="center"><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2"><font size="3"><strong>và</strong></font></font></font></p> <p align="center"><font size="5" color="#3300ff" face="arial,helvetica,sans-serif"><strong>Trường Đại học Y - Dược Huế</strong></font></p> <p align="center"><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2"><font size="3"><strong>tổ chức khóa</strong></font> </font></font></p> <p align="center"><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2"><font color="#ff0000"><font size="5"><strong>Đào tạo trực tuyến về HIV/AIDS</strong></font> </font></font></font></p> <p align="center"><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="5" color="#ff0000"><strong>cho Bác sỹ và nhân viên Y tế</strong></font> </font></p> <p align="center"><font face="arial,helvetica,sans-serif"><strong>Hội thảo đầu khóa: 27-28, tháng 9, 2007, Huế </strong></font></p> <p align="center"><font face="arial,helvetica,sans-serif"><strong>Học trực tuyến: Tháng 10, 2007 – Tháng 12, 2007 </strong></font></p> <p align="center"><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="3"><strong>Hội thảo kết thúc: Tháng 1- 2008, Huế</strong></font></font></p> </td> <td valign="top" width="33%"> <p align="left"><img title="InWent" alt="InWent" src="http://elearning.lrc-hueuni.edu.vn/HIV/file.php/2/Images/Inwent_logo.png" width="151" border="0" height="80" hspace="0" /></p> </td> </tr></tbody> </table></font></font></font> <p align="left"><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><strong></strong></font>&nbsp;</p> <p align="left"><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><strong><font size="3" color="#ff0000">Giới thiệu khóa học</font></strong> </font></p> <p><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2"><strong><font color="#0000ff">Tổ chức bồi dưỡng và phát triển năng lực quốc tế (InWEnt):</font></strong> </font></font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">InWEnt là tổ chức phát triển năng lực, đào tạo và đối thoại. Được sự bảo trợ của chính phủ CHLB Đức, InWEnt chuyên tổ chức và tiến hành các chương trình hội thảo, tập huấn cũng như các khóa đào tạo chuyên ngành cho các chuyên gia và lãnh đạo ở các nước đang phát triển phía Nam bán cầu và ở các nước Đông Âu. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">InWEnt được hình thành từ sự sát nhập giữa Quỹ Phát triển quốc tế Đức (German Foundation for International Development: DSE) và Tổ chức Carl Duisberg Gesellschaft e.V. (CDG). InWEnt hoạt động tích cực trong các lĩnh vực “Đào tạo”, “Phát triển kinh tế và Xã hội”, “Hành chính quốc gia”, “Phát triển công nghiệp, Nông nghiệp và thực phẩm” và “Y tế”, cũng như trong việc chuẩn bị cho những chuyên gia hỗ trợ phát triển Đức trước khi họ sang công tác và làm việc tại nước ngoài. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Chúng tôi có rất nhiều chương trình giúp đỡ các bạn để có thể tự xây dựng tương lai và tham gia tích cực vào quá trình hội nhập và phát triển. nhằm hướng tới một sự toàn cầu hóa công bằng, một sự phát triển kinh tế và xã hội tăng dần, cũng như tạo ra một xã hội phát triển và tôn trọng môi trường sống. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Hàng năm có khoảng 53.000 học viên tham gia các khóa học của InWEnt, trong đó có trên 15 000 học viên tham dự các khóa học trực tuyến trong năm 2004. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Để có thêm thông tin, các bạn hãy đến thăm trang Web chúng tôi trên www.inwent.org </font></p> <h4><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font color="#0000ff">Vì sao lại có khóa học HIV/AIDS trực tuyến?</font> </font></h4> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Từ năm 1999 tổ chức InWEnt đã mở ra một diễn đàn ảo cho các khoá học trực tuyến. Việc thành lập Global Campus đã tạo ra nhiều cơ hội mới cho việc học tập và đào tạo. Nghiên cứu và trao đổi thông tin không biên giới chính là ý tưởng tiếp theo sau của Global Campus và các chương trình học tập trực tuyến. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Global Campus gồm hai khu vực: khu vực “Công cộng” và khu vực “Chuyên biệt”. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">“Public Campus” - khu vực Công cộng dành cho tất cả những ai có thể truy cập Internet. Tại đây, chúng tôi cung cấp các thông tin về các dịch vụ nối mạng; dữ liệu nghiên cứu; các thông tin quốc gia và các thông tin về sự phát triển hợp tác quốc tế cũng như hàng loạt các địa chỉ liên hệ giá trị. Public Campus cũng cung cấp các khoá tự học và diễn đàn thảo luận. Khác với khu vực công cộng, “My Campus” - khu vực Chuyên biệt chỉ cung cấp dịch vụ mạng cho một nhóm đặc biệt. Tại đây, thông qua việc đăng ký, sự truy cập của những người sử dụng đã được công nhận. Dịch vụ này cung cấp cho các học viên cũ, mới và cả những học viên trong tương lai nhiều chương trình đào tạo, cơ hội tiếp tục làm việc, nghiên cứu, trao đổi thông tin và kinh nghiệm, và cùng nhau hợp tác làm việc trong nhiều dự án. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Các khoá học trực tuyến đề cập đến nhiều chủ đề như Bảo vệ môi trường, Quản lý tốt, Phương tiện và cung ứng dịch vụ và Các vấn đề về sức khoẻ. Diễn đàn ảo được trang bị với nhiều công cụ liên lạc cho các khoá học trực tuyến, với hệ thống quản lý dữ liệu, phòng thảo luận cũng như các dịch vụ trực tuyến có hỗ trợ của người điều phối . </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Tất cả chúng ta đều biết HIV/AIDS là một căn bệnh rất nguy hiểm. Kể từ lần phát hiện đầu tiên cách đây hơn 20 năm, đại dịch HIV/AIDS không ngừng phát triển cả về mức độ và quy mô lan rộng. So với những nạn dịch khác mà loài người đã chứng kiến như dịch cúm, dịch tả hay là dịch hạch, đại dịch HIV nguy hiểm và gây ra những hậu quả nặng nề hơn nhiều. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Theo số liệu của Bộ Y tế, tính đến ngày 31/07/2005 tổng số tích lũy những người nhiễm HIV tại Việt Nam được báo cáo từ 64 tỉnh thành trong cả nước là là 97 800 trường hợp, trong đó có 15 957 người chuyển thành AIDS và đã có 9126 người tử vong. Chỉ tính riêng trong năm 2005, trên toàn quốc đã phát hiện trên 15.000 trường hợp nhiễm HIV mới. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Do vậy, vấn đề HIV/AIDS hiện nay là vấn đề nổi bật, quan trọng không chỉ trong Y tế, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. </font></p> <h4><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font color="#0000ff">Mục đích học tập</font> </font></h4> <ul><li><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Trình bày được thực trạng và xu hướng hiện tại của đại dịch HIV/AIDS tại Việt Nam và trên thế giới </font></i></li><li><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Nêu ra được những hậu quả nhiều mặt của đại dịch đến cá nhân, gia đình và toàn xã hội </font></i></li><li><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Trình bày và sử dụng được vi rút học của HIV, các tiêu chí chẩn đoán, chăm sóc và điều trị đối với bệnh nhân HIV/AIDS </font></i></li><li><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Nêu ra được những chính sách, đường lối phòng chống HIV của Việt Nam hiện nay, cũng như những biện pháp của chính phủ Việt Nam </font></i></li><li><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Thực hành và nêu ra được những biện pháp phòng chống và giảm thiểu tác hại trong xã hội cũng như tại nơi làm việc. </font></i></li><li><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Góp phần tham gia tích cực vào việc phòng chống kỳ thị và phân biệt đối xử </font></i></li></ul> <h4><font size="2" color="#0000ff" face="arial,helvetica,sans-serif">Cấu trúc khoá học </font></h4> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Khoá học đề cập tới&nbsp;<strong>4 chủ đề</strong> chính trong lĩnh vực toàn cầu hoá và y tế cộng đồng: </font></p> <ul><li><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Chủ đề <strong>thứ nhất</strong>: <font color="#000000">Dịch tễ học HIV/AIDS trên thế giới và Việt Nam. Nguyên nhân và hậu quả trong kinh tế và y tế</font>. </font></li><li><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Chủ đề <strong>thứ hai</strong>: Cơ sở y học của HIV/AIDS </font></li><li><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Chủ đề <strong>thứ ba</strong>: <font size="3"><font size="2" color="#000000">Điều trị người nhiễm HIV</font></font>. </font></li><li><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2">Chủ đề <strong>thứ tư</strong>: <font color="#000000">Dự phòng nhiễm HIV và kiểm soát phân biệt đối xử.</font></font></font> </li></ul> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Ngoài ra, thông qua các trang Web khác và các thảo luận nhóm về HIV/AIDS, các bạn còn được cung cấp rất nhiều thông tin về dược lý học và sức khoẻ cộng đồng. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam hiện chưa có một khóa học trực tuyến có </font><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">hướng dẫn đầy đủ về chủ đề HIV/AIDS. Nếu là một người sử dụng Internet thông thường, bạn sẽ gặp phải khó khăn gấp bội khi cần tìm những thông tin tương quan, độc lập về HIV/AIDS được đánh giá chính xác và cập nhật liên tục của bất kỳ một nhóm lợi ích đặc biệt nào. Khoá học của chúng tôi sẽ giúp các bạn sử dụng Internet một cách hiệu quả nhất cũng như giúp các bạn cập nhật được thông tin thường kỳ. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Sự hướng dẫn ban đầu của khoá học sẽ giúp các học viên dễ quen với phương pháp và công cụ nối mạng, với việc học ngoại tuyến dưới sự hướng dẫn của trợ giảng, với việc thảo luận nhóm khác thời, việc sử dụng bảng kết quả, phòng chat, tài liệu, từ vựng và nguồn kết nối vào các trang Web khác. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Ngoài ra, học viên khóa học sẽ có cơ hội làm quen với các nghiên cứu trường hợp của nhân viên ngành y tế không trực tiếp chăm sóc bệnh nhân ở Lạng sơn và một bác sỹ Huế. Họ sẽ đồng hành cùng với các bạn trong suốt khoá học để đưa ra được các ví dụ và bài tập tình huống thực tế về HIV/AIDS. </font></p> <h4><font size="2" color="#0000ff" face="arial,helvetica,sans-serif">Phương pháp học tập </font></h4> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Khóa học trực tuyến sẽ được tổ chức phối hợp giữa các hội thảo gặp mặt (face-to-face seminars) và học trực tuyến (e-learning). Phương pháp này được gọi là <i>h ọc lồng ghép (Blended Learning</i>). </font></p> <p><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2"><i>Nhóm trực tuyến </i>là nhóm những cá thể cùng chung một khoá học, một chủ đề. Các học viên của nhóm học ảo thường gặp nhau trong một không gian ảo trong Internet mà không gặp mặt nhau trực tiếp. Họ liên lạc với nhau chủ yếu thông qua mạng máy tính. Ở đó họ có thể thảo luận quan điểm, chia xẻ những hiểu biết và kinh nghiệm cũng như làm quen với nhau. </font></font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Nhóm làm việc ảo thông tin liên lạc với nhau bằng nhiều công cụ đa diện như danh sách e-mail, nhóm làm việc, kênh chat và các diễn đàn ảo. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Những lớp học bán mở trên nền ảo tạo điều kiện cho những ai có nhu cầu đào tạo đều có thể vào và tham gia khoá học một cách chủ động. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Ngoài ra còn có một số khóa học khác giới hạn số người tham gia (ví dụ như khóa học của chúng ta). Tại đây, những người có nhu cầu học được chọn lựa theo một số tiêu chí nhất định và được cung cấp một mật mã truy cập nhất định. Chỉ có họ mới có quyền tham gia khóa học </font></p> <h5><font face="arial,helvetica,sans-serif"><i>Hội thảo bắt đầu</i> </font></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Hội thảo bắt đầu được tổ chức từ 27 đến 28 tháng 9 năm 2007. Tại đây, học viên sẽ được giới thiệu về nội dung và phương pháp học trực tuyến, bao gồm cả các phương pháp sử dụng công cụ trực tuyến. Học viên sẽ được thực hành trên máy tính cho đến khi sử dụng thành thạo các công cụ này. </font></p> <h5><font face="arial,helvetica,sans-serif"><i>Thời gian học trực tuyến</i> </font></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Khóa học trực tuyến chiếm một tỉ trọng lớn nhất trong toàn bộ khóa học, cả về thời gian lẫn về nội dung. Tham gia khóa học trực tuyến, các học viên có khả năng tiếp cận với 4 mô đun lớn của khóa học HIV/AIDS. Ngoài ra, chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn tham khảo thêm các nguồn tài liệu tham khảo khác trong Internet và thư viện trực tuyến. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Để giảm thiểu thời gian học viên tham gia học trực tuyến, chúng tôi sẽ gửi đến các bạn đĩa CD-ROM của toàn bộ nội dung khoá học để các bạn có được thông tin đầy đủ. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Theo kinh nghiệm của chúng tôi, các bạn sẽ cần khoảng 12 – 14 giờ để làm việc với từng mô đun. Tuy nhiên, chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm rằng, thời gian làm việc thực tế tùy thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và khả năng của từng học viên, cũng như phụ thuộc vào thời gian các bạn đọc các tài liệu tham khảo (không bắt buộc). </font></p> <h5><font face="arial,helvetica,sans-serif"><i>Hội thảo cuối khóa</i> </font></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Các học viên có kết quả tốt sẽ được mời tham dự hội thảo cuối khóa, tổ chức tại Huế vào tháng 1 năm 2008. Chương trình cụ thể của hội thảo này sẽ phụ thuộc vào nhu cầu của các bạn và sẽ kết thúc bằng các dự án do chính các bạn sẽ tự tay lập ra. Các chuyên gia của chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách lập và đánh giá các dự án về HIV/AIDS. </font></p> <h4><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font color="#0000ff">Nhóm mục tiêu</font> </font></h4> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Khóa học trực tuyến HIV /AIDS được dành cho các bác sỹ, các cán bộ ngành y tế và y tá điều dưỡng cũng như những người có liên quan nhiều tới vấn đề HIV/AIDS và có điều kiện và khả năng sử dụng mạng Internet. Khóa học này rất bổ ích và lý thú. Các chủ đề được nêu ra trong khóa học không chỉ đề cập tới những vấn đề nhức nhối của xã hội mà còn đặt ra một thử thách lớn cho ngành y tế của đất nước ta. Trong khi vấn đề này chưa được quan tâm đầy đủ tại Việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới thì khoá học này sẽ góp một phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của cán bộ y tế Việt nam đối với căn bệnh thế kỷ. Hơn thế nữa, chúng tôi muốn góp một phần nhỏ trong công cuộc chống lại sự kỳ thị đối với các nạn nhân AIDS tại Việt Nam, thông qua việc đưa ra một số giải pháp nhằm giúp đỡ họ vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Vì vậy, các học viên tham gia cần nhận thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc và đối xử với các nạn nhân HIV/AIDS. Họ nên coi đây là một phần rất quan trọng trong công tác y tế nhằm cung cấp dịch vụ y tế với chất lượng tốt. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Do vậy chúng tôi ưu tiên các cán bộ, nhân viên của các cơ quan/tổ chức sau : </font></p> <ul><li><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Trường Đại học Y Dược Huế </font></li><li><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Bệnh viện Trung ương Huế </font></li><li><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Các bệnh viện và các cơ sở y tế cấp Tỉnh thuộc Sở Y tế Thừa Thiên Huế </font></li></ul> <h4><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font color="#0000ff">Điều kiện cần có</font> </font></h4> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Học viên sử dụng thông thạo Internet và có khả năng tải xuống các tài liệu của khoá học để tự học tập nghiên cứu. </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Thời gian học trực tuyến của các bạn có thể giảm đi bằng cách các bạn tăng giờ làm việc ngoại tuyến. </font></p> <h4><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font color="#0000ff">Giảng viên</font> </font></h4> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Trong tất cả các học phần của khóa học, học viên sẽ nhận được sự giúp đỡ hết mình từ các trợ giảng và giảng viên có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, để có được điều kiện học tập thuận lợi nhất. </font></p> <p><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2">Tiến sỹ - Bác sỹ Phạm Trần Anh sẽ là người đại diện cho Inwent tại Việt Nam, điều phối viên của khóa học. Ông Phạm Trần Anh đã bắt đầu hoạt động trong lĩnh vực HIV/AIDS của CHLB Đức từ năm 1994 với trách nhiệm là Bác sỹ tư vấn về HIV/AIDS và giới tính học, trực thuộc Sở Y tế thành phố Leipzig, CHLB Đức. Ông bắt đầu tham gia vào việc đào tạo trực tuyến (E – Learning) từ năm 2002. Với kinh nghiệm sau nhiều khóa đào tạo của InWEnt tại Đức về trợ giảng trực tuyến (Teletutoring) cùng với quá trình thực tế trợ giảng khóa học trực tuyến HIV/AIDS cho học viên Việt Nam (Khóa học đầu tiên về HIV/AIDS bằng tiếng Việt), ông sẽ giúp các bạn rất nhiều trong khóa học trực tuyến này. Bác sỹ Phạm Trần Anh sẽ gặp các bạn trong hội thảo đầu khóa ở Hà Nội và sẽ là người kết nối các quan hệ của các bạn với các giảng viên và chuyên gia khác trong toàn bộ khóa học. </font></font></p> <p><font face="arial,helvetica,sans-serif"><font size="2">Tiến sỹ - Bác sỹ Klemens Ochel, Đại Học Tổng hợp Wuerzburg, là người có hàng chục năm kinh nghiệm trong lĩnh vực HIV/AIDS ở các nước đang phát triển. Ông đã làm việc nhiều năm tại châu Phi và châu Mỹ La Tinh. Ông là nhà tư vấn chính thức của nhiều tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam, cũng như người đánh gía nhiều dự án HIV/AIDS trên thế giới. Tiến sỹ Klemens Ochel sẽ tham gia vào hội thảo đầu khóa và sẽ là chuyên gia quốc tế chính thức của các bạn. </font></font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Ngoài ra, chúng tôi cũng rất vui mừng có được sự tham gia và đóng góp của các giảng viên của Trường Đại học Y Dược Huế như: </font></p> <p><font size="2" face="Arial">TS. Nguyễn Vũ Quốc Huy, Phó Trưởng phòng Khoa học Công nghệ - Quan hệ Quốc tế, Giảng viên Bộ môn Phụ sản, Điều phối viên.</font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">TS. Nguyễn Lô, Phó Trưởng Bộ môn Truyền Nhiễm. Trưởng nhóm trợ giảng </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">ThS. Lê Thanh Bình, Giảng viên Bộ môn Nhi, Trợ giảng </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">TS. Bùi Bỉnh Bảo Sơn, Giảng viên Bộ môn Nhi, Trợ giảng </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">ThS. Trần Xuân Chương, Giảng viên Bộ môn Truyền Nhiễm, Trợ giảng </font></p> <h4><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif"><font color="#0000ff">Hội thảo bắt đầu</font> </font></h4> <h5><font face="arial,helvetica,sans-serif"><i>Thời gian</i> : <i>27-28 tháng 9 năm 2007 </i></font></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Địa điểm : Trường Đại học Y Dược Huế </font></p> <h5><font face="arial,helvetica,sans-serif"><i>Thời hạn đăng ký: 10/09/07</i> </font></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Phiếu đăng ký sẽ được dùng cho cả Hội thảo đầu khóa và toàn bộ khóa học. </font></p> <h5><font face="arial,helvetica,sans-serif"><i>Ngôn ngữ: tiếng Việt</i> </font></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Giấy mời chính thức sẽ được InWEnt và Phòng Khoa học Công nghệ - Quan hệ Quốc tế Trường Đại học Y Dược Huế gửi đến các thành viên trước khi bắt đầu khóa học. </font></p> <h5><i><font color="#0000ff" face="arial,helvetica,sans-serif">Tin tức </font></i></h5> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Tất cả các vấn đề về tổ chức và đi lại, các bạn có thể liên lạc trực tiếp với Cô Hồ thị Hồng Phương theo địa chỉ </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Phòng Khoa học Công nghệ - Quan hệ Đối ngoại </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Trường Đại học Y Dược Huế </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">16. Ngô Quyền Huế </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Tel.: 054.822.873 </font></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Fax: 054.826.269 </font></p> <p><i><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Email: <a href="mailto:[email protected]">[email protected]</a> </font></i></p> <p><font size="2" face="arial,helvetica,sans-serif">Website: <a href="http://www.huemed-univ.edu.vn/">www.huemed-univ.edu.vn</a> </font></p><font style="color: rgb(0, 153, 51); font-weight: bold;" size="3"><span style="font-family: arial,helvetica,sans-serif;"><br />http://elearning.lrc-hueuni.edu.vn/HIV/mod/resource/view.php?id=179<br /><br /><br />Chủ đề 1:</span></font><font style="color: rgb(0, 153, 51);" size="3" color="#006600" face="arial,helvetica,sans-serif"><strong>Dịch tễ học HIV/AIDS trên thế giới và Việt Nam. Nguyên nhân và hậu quả trong kinh tế và y tế.<br /><br /></strong></font><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"><table style="border-style: none; float: none; background-image: none; vertical-align: top; width: 977px; height: 26px; text-align: left;" rules="none" width="977" border="0" cellpadding="1" cellspacing="1" frame="void"><tbody><tr><td valign="top" width="50%"><p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify;" align="center"><b><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"><font size="4" color="#000099">Chào mừng các bạn đến với chủ đề 1 </font></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span></b><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"> Đại dịch HIV đang là mối lo ngại, gây ra nhiều khó khăn cho ngành y tế cộng đồng trong khu vực và trên toàn thế giới. Đã có nhiều nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu sự sao chép, nhân lên của HIV trong cơ thể người bị nhiễm. Chúng ta biết khá rõ về nguyên nhân, cơ chế lây truyền HIV cũng như các biện pháp phòng chống HIV được khuyến cáo rộng rãi nhưng khả năng hồi phục và vaccine phòng nhiễm HIV vẫn đang còn chưa được biết. Các phương pháp điều trị đang được sử dụng chỉ góp phần làm chậm quá trình chuyển từ mãn tính đến giai đoạn tử vong ở bệnh nhân AIDS. Kết quả này có thể nhận thấy ở những vùng mà vấn đề nhiễm HIV là một gánh nặng lớn, có sự gia tăng tỷ lệ hiện mắc cũng như tỷ lệ tử vong. </span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-indent: 36pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Trong chủ đề này, chúng tôi sẽ chia sẻ cùng các bạn một số thông tin về dịch tễ học cũng như thảo luận một số nguyên nhân cơ bản gây nhiễm HIV và các hậu quả do HIV mang lại. Một số vấn đề về sự kỳ thị, phân biệt đối với người nhiễm HIV cũng được đề cập đến. </span></p> </td> <td valign="top" width="50%"> <p align="center"> </p> <p align="center"><img title="AIDS_band.jpg" style="width: 142px; height: 228px;" alt="AIDS_band.jpg" src="http://elearning.lrc-hueuni.edu.vn/HIV/file.php/2/Images/AIDS_band.jpg" vspace="10" width="142" border="0" height="228" hspace="10" /></p> </td> </tr></tbody> </table></span> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"><font color="#000099">1. Chủ đề 1: Dịch tễ học HIV/AIDS trên thế giới và Việt <place w=""></place><!--/place--><!--/place--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><country-region w=""></country-region><!--/country-region--><!--/country-region--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/-->Nam<!--/country-region--><!--/place-->. Nguyên nhân và hậu quả trong kinh tế và y tế<font face="Trebuchet MS"> </font></font></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.1 Lịch sử và sơ lược về đại dịch HIV </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"><font size="3"><font size="2">1.2 Tình hình và xu hướng Dịch HIV trên thế giới và Việt <place w=""></place><!--/place--><!--/place--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><country-region w=""></country-region><!--/country-region--><!--/country-region--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/-->Nam<!--/country-region--><!--/place-->.</font> </font></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent: 0.5in; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.2.1 Châu Á </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent: 0.5in; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.2.2 Việt Nam </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.3 Hệ thống giám sát, lý thuyết và thực tiễn ở Việt <place w=""></place><!--/place--><!--/place--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/place--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><country-region w=""></country-region><!--/country-region--><!--/country-region--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/country-region--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/--><!--/-->Nam<!--/country-region--><!--/place--> </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.4 Nguyên nhân và hậu quả trong kinh tế và y tế </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent: 0.5in; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.4.1 Nguyên nhân </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent: 0.5in; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.4.2 Hậu quả </span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">1.5 Những điều cần nhớ<span> </span></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"><span></span></span></p><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"><span> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Mục tiêu học tập </span></b> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify;"><b><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span></b><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Đến cuối bài học, bạn sẽ… </span><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt 2cm; text-indent: -19.85pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: wingdings;"><span>Ø<span style="font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-style: normal; font-variant: normal;"> </span></span></span><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Biết được lịch sử của đại dịch HIV/AIDS. </span> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt 2cm; text-indent: -19.85pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: wingdings;"><span>Ø<span style="font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-style: normal; font-variant: normal;"> </span></span></span><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Biết được tình hình và xu hướng dịch HIV/AIDS tại Việt <country-region w=""></country-region><place w=""></place>Nam<!--/place--><!--/country-region-->, trong khu vực và trên thế giới. </span> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt 2cm; text-indent: -19.85pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: wingdings;"><span>Ø<span style="font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-style: normal; font-variant: normal;"> </span></span></span><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Nắm được hệ thống giám sát dịch HIV/AIDS </span> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt 2cm; text-indent: -19.85pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: wingdings;"><span>Ø<span style="font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-style: normal; font-variant: normal;"> </span></span></span><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Nắm được nguyên nhân và các hậu quả của đại dịch HIV/AIDS trong lĩnh vực kinh tế và y tế </span> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt 2cm; text-indent: -19.85pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: wingdings;"><span>Ø<span style="font-weight: normal; font-size: 7pt; line-height: normal; font-style: normal; font-variant: normal;"> </span></span></span><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;">Biết được một số vấn đề về sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV </span> </p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span> </p> <p class="MsoNormal" style="text-align: justify;"><span style="font-size: 10pt; font-family: arial;"></span></p> <div style="text-align: justify;"><font size="2"><br /></font></div></span></span><br /> </div>
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Quảng cáo
Offline A2066  
#2 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:12:44(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

Bài 1.1. Lịch sử và sơ lược đại dịch HIV

Bệnh AIDS (Acquired Immunodeficiency syndrome - hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải) lần đầu tiên được nhắc đến vào năm 1981 trong bài “Báo cáo hàng tuần về tình hình bệnh tật và tử vong” của tổ chức CDC (Centre for Disease Control) dưới một tiêu đề khá nhẹ nhàng là “Viêm phổi do Pneumocystis - Los Angeles”. Thậm chí đối với những độc giả bi quan nhất cũng không thể ngờ rằng 2 thập kỷ sau đó dịch bệnh lại lan truyền nhanh chóng, trầm trọng đến như vậy.

Đây là bài báo cáo đầu tiên miêu tả một căn bệnh rất hiếm đã xảy ra ở 5 người nam có quan hệ tình dục đồng giới, đó là bệnh viêm phổi do Pneumocystis carinii kèm theo những nhiễm khuẩn bất thường khác, và đều có tỷ lệ tế bào lympho dưới nhóm bất thường. Mặc dù bệnh đầu tiên phát hiện ở những người nam đồng tính và những người tiêm chích ma túy nhưng sau đó nhóm nguy cơ bao gồm người Haiti, người được truyền máu bao gồm người bị bệnh haemophilia, trẻ nhủ nhi, phụ nữ có quan hệ tình dục với đàn ông nhiễm HIV, tù nhân, người đến từ Châu Phi.

Ở các nước đang phát triển, chẩn đoán nhanh chóng bệnh AIDS không phải dễ, do đó theo các nhà dịch tễ học thì chúng ta nên dựa vào các triệu chứng lâm sàng kèm theo sự suy giảm miễn dịch để chẩn đoán sau khi đã loại trừ các nguyên nhân gây ức chế miễn dịch như ung thư hoặc suy dinh dưỡng. Để nhận thêm nhiều thông tin chi tiết hơn về việc chẩn đoán HIV/AIDS dựa trên lâm sàng bạn có thể truy cập trang Web của WHO (www.who.int/hiv/) 

 

Dr._Conant_and_Dr_Volverg.jpg

Dr.Conant và Dr Volverg thảo luận về sự gia tăng bệnh viêm phổi PCP ở người đồng tình luyến ái tại Los Angeles 1981. Source: WWW.avert.org

 

Tiến triển chậm vào cuối những năm 1980

Khi virus gây bệnh được biết là loại retrovirus thì các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện ra loại enzyme có vai trò trong quá trình sao chép mã ngược từ RNA thành DNA. Zidovudine (trước đó được biết đến là Azidothymidine hay AZT) là một trong những hợp chất được dùng thử nghiệm sớm nhất, năm 1987 Zidovudine là thuốc đầu tiên được sử dụng để điều trị AIDS, sau đó là các loại nucleoside. Thật sự cũng có tiến bộ trong điều trị dự phòng các trường hợp nhiễm trùng cơ hội đặc biệt là viêm phổi do Pneumocystis carinii, nhiễm khuẩn phức hợp MAC (Mycobacterium avium complex) trong khoảng thời gian này.

Do thời gian ủ bệnh trung bình từ 8-10 năm, nên HIV đã “yên lặng” lây nhiễm cho con người từ thập kỷ 70 về trước và hoàn toàn nằm ngoài sự quan tâm chú ý của y học. Đại dịch “yên lặng” bắt đầu từ những năm 1970, chúng ta không nhận biết được sự lan truyền của HIV ở 5 lục địa, và chúng ta không có được ý thức bảo vệ trong giai đoạn này. Hàng ngàn các trường hợp AIDS sau này là kết quả của nhiễm HIV lặng lẽ từ những năm 1970 trước khi AIDS và HIV được phát hiện ra. Nguồn gốc của HIV đến nay vẫn còn là một vấn đề đang bàn cãi nhiều. AIDS lần đầu tiên được mô tả ở Mỹ, trong khi đó HIV lần đầu tiên phân lập được ở Trung Phi. Có tác giả cho rằng AIDS đầu tiên xuất hiện ở Châu Phi, lan qua vùng biển Caribê, đặc biệt là Haiti đến Mỹ và từ đó lan sang các nước châu Âu.

            Nhiều hy vọng hơn vào giữa những năm 1990

Sự mô tả những trường hợp AIDS đầu tiên năm 1981 đã kết thúc thời kỳ “yên lặng”, mở đầu cho thời kỳ thứ hai của lịch sử bệnh AIDS. Thời kỳ phát hiện AIDS, với những tiến bộ về virus học, lâm sàng, các xét nghiệm chẩn đoán bệnh, xác định các đường lây truyền và cách phòng tránh, đồng thời với các tiến bộ trong điều trị bằng thuốc, mà đỉnh cao tượng trưng của nó là hội nghị quốc tế lần đầu tiên về AIDS năm 1985.

Vào những năm 1990, liệu pháp kháng retrovirus sao chép ngược có hoạt tính cao (HAART) bước đầu cho thấy có hiệu quả và cơ bản làm thay đổi bệnh dịch. Một nghiên cứu nghiêm túc trên 180 người nam có quan hệ đồng giới với kiểm tra định kỳ huyết thanh trong hơn 10 năm cho thấy số lượng virus trong huyết thanh được chứng minh là yếu tố góp phần tiên lượng sống sót cao hơn là số lượng TCD4+ (việc sử dụng số lượng TCD4+ để tiên lượng bệnh đã được áp dụng từ khi phát hiện bệnh).

Vì vậy số lượng virus trong huyết thanh được xem như là một thông tin mới cần thiết để quyết định và thay đổi cách điều trị .

            Với những hiểu biết này, những nhà nghiên cứu đã tự tin bắt đầu áp dụng một loạt các thử nghiệm lâm sàng. Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy có đáp ứng lâu dài cho ít nhất 2/3 bệnh nhân trước đó có sử dụng thuốc kháng retrovirus, đã tuân thủ liệu pháp điều trị gồm 3 loại thuốc. Nhìn chung ngày nay có khoảng 20 loại thuốc có tác dụng được xếp vào 4 nhóm: ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI), ức chế men sao chép ngược không phải nucleoside (NNRTI), ức chế protease (PI) và ức chế xâm nhập (EI) Với việc sử dụng các thuốc có hiệu lực đã giúp giảm tỷ lệ hiện mắc AIDS và tỷ lệ tử vong liên quan tới AIDS.

            Sự bùng phát bệnh vào cuối những năm 1990

Mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng tỷ lệ tử vong vẫn còn cao trước nạn dịch toàn cầu. Những con số tuy quen thuộc vẫn luôn được lặp lại: 40 triệu người trên thế giới nhiễm HIV, 26 triệu người đã chết và 15 triệu trẻ em trở thành trẻ mồ côi mất mẹ hoặc bố hoặc mất cả bố lẫn mẹ vì AIDS. Mỗi ngày hơn 12.000 trường hợp mới nhiễm, riêng năm 2004 có tới 3,5 triệu trường hợp mới nhiễm, trong đó có 800.000 trẻ em dưới 15 tuổi. Khoảng 70% trường hợp ở vùng cận Sahara Châu Phi, là nơi mà một số vùng có tỷ lệ huyết thanh dương tính ở người lớn vượt quá 25%. (số liệu cuối 2005 của WHO)

Tỷ lệ huyết thanh HIV dương tính cao ở một vài quốc gia gây nên mối lo ngại rằng bệnh AIDS có thể đe dọa đến sự ổn định xã hội của phần lớn các nước. Năm 2000, Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đã bắt đầu quan tâm đến sự gia tăng dân số trẻ ở các nước, bệnh AIDS sẽ là mối đe dọa đến an toàn thế giới. Đây là lần đầu tiên mà một bệnh y học lại nhận được nhiều sự quan tâm trong hội nghị thảo luận quan trọng này. Từ đó đã có rất nhiều tài liệu văn bản của Liên Hiệp Quốc liên quan đến vấn đề HIV được ra đời.

Từ năm 1985 đến nay, xuất phát từ tình hình quốc tế không ổn định về AIDS như: sự đánh giá khác nhau về tỷ lệ nhiễm HIV và số trường hợp bệnh nhân AIDS, các nước đang phát triển thiếu khả năng kỹ thuật để đánh giá phạm vi của nhiễm HIV, từ đó suy đoán lan tràn về phạm vi nhiễm HIV/AIDS…., Tổ chức Y tế thế giới thấy cần thiết phải chỉ huy và phối hợp các hoạt động y tế quốc tế trong phòng chống AIDS. Chương trình phòng chống AIDS toàn cầu đã được thiết lập vào ngày 1/2/1987 với 3 mục tiêu :

Ø Dự phòng nhiễm HIV

Ø Giảm ảnh hưởng cá nhân và xã hội của nhiễm HIV

Ø Hợp nhất các cố gắng quốc gia và quốc tế phòng chống AIDS.

Đứng trước tình hình phát triển ngày càng nghiêm trọng của đại dịch HIV/AIDS, tháng 12/1994 Liên hiệp quốc thấy cần thiết phải tập trung hơn nữa nỗ lực liên ngành toàn cầu trong phòng chống HIV/AIDS và đã quyết định thành lập chương trình Liên hiệp quốc phòng chống AIDS (UNAIDS) với sự tham gia của Tổ chức Y tế thế giới và 5 thành viên khác của Liên hiệp quốc là: Quỹ Nhi đồng thế giới (UNICEF), Tổ chức văn hoá-khoa học-giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO), Quỹ dân số thế giới (UNPPA), Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) và Ngân hàng thế giới (WB).

Kết thúc Bài 1.1

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#3 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:13:56(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

Bài 1.2. Tình hình và xu hướng dịch bệnh HIV trên thế giới và Việt Nam

Cuối năm 2006 trên thế giới có khoảng 40 triệu người nhiễm HIV. Từ khi trường hợp HIV đầu tiên được phát hiện cách đây hơn 25 năm, đến nay virus đã lây nhiễm cho hơn 66 triệu người. Người ta ước tính mỗi ngày có khoảng 12.000 trường hợp nhiễm HIV mới. Tất cả những trường hợp mới mắc chủ yếu là người trẻ, và hầu hết họ đều không biết mình đang mang virus.

Khi quan sát 53 quốc gia có tình trạng nhiễm HIV xấu nhất, các chuyên gia cho rằng chỉ riêng trong 1 thập kỷ này sẽ có khoảng 46 triệu người chết vì HIV/AIDS. Với 3 triệu người chết hàng năm, HIV/AIDS trở thành nguyên nhân gây chết phổ biến đứng hàng thứ tư ở mọi lứa tuổi trên thế giới. Nếu tính ra thì mỗi ngày có đến 9.000 người chết, nhiều gấp 3 lần số người chết trong vụ tấn công 11/9 tại trung tâm thương mại thế giới năm 2001. Các thống kê về nguyên nhân gây tử vong đã chỉ ra rằng HIV/AIDS là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối với người trẻ trong độ tuổi từ 25 đến 35. Tử vong ở độ tuổi này đặc biệt nghiêm trọng, gây hủy hoại xã hội vì những người trong độ tuổi này chính là rường cột của sự phát triển xã hội. Xã hội phải gánh chịu những hậu quả xấu do bệnh AIDS gây ra như: năng suất kinh tế thấp, trẻ em thiếu sự chăm sóc và giáo dục, nền tảng gia đình bị suy thoái , người già không có nơi nương tựa.

Theo báo cáo của tổ chức UNICEF, vào cuối năm 2005 có hơn 15,2 triệu trẻ em mồ côi hoặc bố hoặc mẹ vì bệnh AIDS. Nhiều trẻ phải chăm sóc bố mẹ ốm nặng và phải chứng kiến cái chết đến từ từ đối với bố mẹ chúng. Bệnh tật đã khiến các gia đình nghèo phải bán hết tài sản ít ỏi của mình. Chính điều đó đã làm cho trẻ em không có đủ thời gian và tiền bạc để đi học. Sau nỗi đau mất bố mẹ, những đứa trẻ này thường không được che chở. Chúng phải đối mặt với sự mất an toàn. Chúng ở trong tình trạng rất nguy hiểm vì mất đi sự bao bọc của xã hội và lang thang kiếm sống trên đường phố. Phần lớn trẻ mồ côi thường được giúp đỡ nuôi dưỡng bởi họ hàng gần gũi, nhưng khi những gia đình đó tan vỡ thì sự cưu mang này còn có thể có trong bao lâu?

 

UN house

Tòa nhà nơi Liên Hiệp Quốc nhóm họp. Ảnh: www.un.org

Các nước có thu nhập thấp gặp rất nhiều khó khăn bởi đại dịch HIV/AIDS. Họ không chỉ thiếu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, thuốc, mà họ còn không thể tham gia các cuộc vận động giáo dục cộng đồng nhằm thay đổi thái độ, khuyến khích sử dụng bao cao su nhằm ngăn chặn dịch AIDS. Riêng ở vùng cận Sahara Châu Phi đã có đến 30 triệu người sống cùng với HIV.

Thậm chí đối với các quốc gia có tỷ lệ bệnh thấp, chúng ta cũng không đánh giá hết được mối nguy hiểm của dịch bệnh HIV/AIDS. Tổ chức UNAIDS cho rằng các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Âu và các nước Trung Á đang phải đối mặt với mối đe doạ đáng sợ của sự gia tăng đột ngột và nhanh chóng tình trạng nhiễm HIV. Vào cuối những năm 1980 ở các nước công nghiệp phát triển, thảm hoạ HIV/AIDS đã trở thành mối lo sợ lan rộng khắp nơi. Mối lo sợ này đã thúc đẩy mạnh mẽ chính phủ có những chính sách và nguồn tài chính hợp lý. Nhờ vào các nỗ lực phòng chống bệnh, bao gồm giáo dục cộng đồng, các chiến dịch đặc biệt nhắm vào những đối tượng có nguy cơ cao, nên tỷ lệ mới mắc duy trì ở mức khá thấp. Nhưng AIDS đã trở thành vấn đề “bình thường” của cuộc sống hiện đại, bây giờ nó được xem là “ít đe doạ hơn”. Chính thái độ phóng khoáng trong lớp trẻ dẫn tới sự không hiểu biết và có xu hướng tăng nguy cơ mắc bệnh. Ngay đối với những chính khách đã nhận thức được mối đe doạ nhưng vẫn không tích cực tham gia vào các chương trình phòng chống AIDS.

Cách mà người ta tiếp cận với HIV/AIDS chưa bao giờ hoặc thật sự nghiêm túc khách quan và không định kiến. Trên toàn thế giới HIV/AIDS là nỗi sợ hãi lớn. Và không giống những bệnh khác, người ta thường có những hành động chống lại người sống chung với HIV hơn là chống lại tác nhân gây bệnh. Hiện tượng này phần nào giải thích rằng HIV ảnh hưởng đến một nhóm người nào đó bị cách ly trong xã hội. Những “nạn nhân” điển hình của những hành vi và tập tục không đúng là những người có khuynh hướng tình dục lệch lạc, người di dân, người nghiện ma túy và những người có nền tảng văn hóa, thế giới quan hoặc chuẩn mực đạo đức khác thường.

Và cần thấy rằng để thuyết phục con người thay đổi hành vi có nguy cơ cao thì không chỉ là cung cấp các thông tin chung về bệnh và sự nguy hiểm của bệnh mà quan trọng hơn là người ta phải hiểu được nguy cơ của cá nhân mình và trách nhiệm về hành vi của mình. Vì phần lớn những người nhiễm HIV ở trong độ tuổi lao động, nên HIV/AIDS ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và xã hội hơn những bệnh khác. Hậu quả của đại dịch HIV/AIDS đối với từng cá nhân, gia đình, từng công ty, tập đoàn kinh tế, chính phủ và cộng đồng rất là lớn, đó là gia tăng sự nghèo đói và chậm phát triển .

Thêm vào đó, dịch bệnh không chỉ đe doạ làm suy yếu sự phát triển kinh tế mà còn phá huỷ kết cấu xã hội và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Đó là lý do tại sao cộng đồng thế giới lại quan tâm thảo luận đến vấn đề HIV/AIDS ở mức độ cao nhất. Tháng 1 năm 2000, Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc chú ý đến tình trạng bệnh AIDS tại Châu Phi; tháng 6 năm 2001, Liên hiệp quốc tổ chức họp về vấn đề HIV/AIDS; Hội nghị G8 cũng đặt vấn đề HIV lên hàng đầu trong buổi họp tại Genoa vào tháng 7 năm 2001 và tại Heiligendamm-Đức vào tháng 6 năm 2007.

Mặc dù số người chết vì HIV/AIDS lớn hơn nhiều so với chiến tranh, và HIV/AIDS là mối đe doạ nguy hiểm hơn so với nạn khủng bố nhưng những quốc gia giàu có vẫn không tự nguyện ủng hộ và thống nhất trong quan điểm kiểm soát dịch bệnh trên toàn cầu bao gồm cả những nỗ lực để giảm sự nghèo đói.

Số liệu tình trạng bệnh HIV/AIDS một số vùng năm 2006

Vùng

Người lớn và trẻ em sống cùng HIV

Người lớn và trẻ em mới nhiễm HIV

Tỷ lệ hiện mắc % (15-49 tuổi)

Người lớn và trẻ em chết vì AIDS

Cận Sahara và Châu Phi

24,7 triệu

2,8 triệu

5,9%

2,1 triệu

Bắc Phi và Trung đông

460.000

68.000

0,2%

36.000

Nam và Đông Nam Á

7,8 triệu

860.000

0,6%

590.000

Mỹ Latin

1,7 triệu

140.000

0,5%

65.000

Vùng Caribê

250.000

27.000

1,2%

19.000

Đông âu và Trung Á

1,7 triệu

270.000

0,9%

84.000

Nguồn: www.unaids.org.vn

1.2.1 Châu Á

Theo Liên hiệp quốc, ở Châu Á có khoảng 6,4 triệu người nhiễm HIV/AIDS, chiếm 1/4 người nhiễm HIV trên toàn thế giới. Không giống ở Châu Phi, dịch AIDS ở các nước Châu Á không lan tràn rộng rãi mà chỉ chiếm khoảng 1% dân số Châu Á. Số người nhiễm HIV và có triệu chứng ngày càng tăng ở cấp độ báo động, HIV lan tràn rộng rãi nhất là ở Thái Lan, Myanmar (Burma), Campuchia. Nguyên nhân là do nghiện ma tuý theo đường tiêm chích, mại dâm, di dân và tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em bất hợp pháp. Thái Lan đã có nhiều biện pháp kiểm soát được dịch bệnh, như là chương trình 100% dùng bao cao su để giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong công nghiệp sex, hoặc là giáo dục cộng đồng, và các chiến dịch phòng ngừa cho các đối tượng có nguy cơ cao, gồm cả lính mới. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc, HIV đã được tìm thấy ở Campuchia trong những năm có xung đột dưới sự cai trị của chế độ độc tài. Tuy nhiên lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc khi làm nhiệm vụ ở Campuchia vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 cũng góp phần lan truyền HIV trong cộng đồng. Hoàn cảnh chính trị, thái độ của địa phương đã không tiếp cận thẳng thắn vấn đề này trong một thời gian dài. Kinh nghiệm cay đắng này đã chỉ ra rằng lực lượng gìn giữ hoà bình từ các quốc gia khác đã làm lây nhiễm HIV cho các cộng đồng bản địa.

Ba phần tư người dân Châu Á vẫn còn sống ở vùng ít bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, những vùng này bao gồm một số vùng ở Ấn Độ, Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Hàn Quốc, Sri Lanka, Bangladesh, Buhtan. Mặc khác Ấn Độ có nhiều người HIV (+) hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Vào những năm 1980 HIV/AIDS chỉ liên quan đến truyền máu và đàn ông có quan hệ đồng tính. Sự phân biệt địa vị các tầng lớp xã hội làm cho bệnh HIV/AIDS chỉ lan truyền nhanh chóng trong những người nghèo chủ yếu qua quan hệ tình dục. Các vùng nhiễm HIV tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn như Mumbai, Delhi, Bangalore và vùng biên giới với Burma, nơi mà heroin được buôn lậu vào Ấn Độ. Virus được lây truyền vào đất nước thông qua các lái xe có quan hệ tình dục bừa bãi. Sự bất bình đẳng đối với phụ nữ trong xã hội Ấn Độ làm cho người phụ nữ khó có được sự phòng ngừa cần thiết khỏi nhiễm HIV.

Năm 2003 chính phủ Trung Quốc ước tính số người nhiễm HIV tại Trung Quốc là 1 triệu nhưng theo các nguồn thông tin khác thì con số này cao hơn nhiều. Theo dự đoán gần đây nhất, vào cuối thập kỷ này Trung Quốc Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á sẽ vượt Châu Phi để trở thành trung tâm của đại dịch HIV. HIV lây truyền nhanh chóng ở Trung Quốc thông qua con đường dùng chung kim tiêm ở những người nghiện ma tuý. Ban đầu dịch chỉ tập trung trong nhóm người có hành vi nguy cơ cao, HIV đã lan truyền phổ biến trong dân số thông qua con đường quan hệ tình dục. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nghèo nàn đã góp phần làm cho gia tăng dịch bệnh HIV cùng với các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Khi mà dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở Trung Quốc đang được thương mại hoá thì thuật ngữ "barefoot doctor" không còn tồn tại. Mặt khác những nhân viên y tế còn thiếu kỹ năng và kiến thức cần thiết, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vượt ra khỏi khả năng chi trả của bệnh nhân nghèo, đặc biệt là những trường hợp bị bệnh mãn tính như HIV/AIDS.

Drug user

Tiêm chích ma túy là con đường chính lây truyền HIV ở Châu Á. Nguồn: IRIN news

1.2.2. Việt Nam

Đang có sự gia tăng nhanh chóng dịch HIV ở Việt Nam. Số người sống với HIV tăng đáng ngại và bệnh xuất hiện hầu hết 64 tỉnh, thành phố. Bệnh không chỉ giới hạn ở một số đối tượng như người mãi dâm, nghiện chích ma tuý mà đã thấy ở dân chúng. Từ năm 2000 đến 2005 số người nhiễm HIV tăng gấp đôi. Cho đến ngày 31 tháng 5 năm 2007, cả nước có khoảng 126.543 người nhiễm HIV, tổng số chuyển sang AIDS là 24.788, tổng số tử vong vì AIDS là 13.874. Hàng ngày có khoảng hơn 100 người mắc HIV. Tỷ lệ trẻ em nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng tăng lên. Tỷ lệ nhiễm HIV trong dân số ở độ tuổi 15-49 là 0,53% vào năm 2006 có nghĩa là 1/200 người, 1/60 gia đình có người nhiễm HIV. Ước tính số bệnh nhiễm HIV lên tới 350.000 vào năm 2010.

Người ta cho rằng phần lớn các trường hợp nhiễm HIV mới là do lây truyền qua đường tình dục. Số người nhiễm HIV do lây truyền qua đường tình dục cao hơn số người nhiễm HIV qua đường tiêm chích ma tuý. Vì lây truyền qua đường tình dục tăng nên số phụ nữ bị nhiễm so với nam hằng năm cũng tăng lên. Năm 2005 tỷ lệ nam/nữ nhiễm HIV là 2/1.

Bằng chứng cho thấy tỷ lệ hiện mắc ở những người nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) cao hơn ở những người nam làm nghề mại dâm. Tỷ lệ nhiễm HIV cao ở những người nghiện ma tuý và những người nữ làm nghề mại dâm. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc cao nhất là ở nhóm người nghiện ma tuý đường tiêm chích 34%, tỷ lệ này còn cao hơn ở Tp Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Hải Phòng. Tỷ lệ nhiễm HIV cao thứ hai là ở phụ nữ hành nghề mại dâm 6,5%, tỷ lệ này còn cao hơn ở Hải Phòng, TpHCM, Cần Thơ, Hà Nội. Một số nơi, nhiều phụ nữ làm nghề mại dâm dùng ma tuý nên làm gia tăng tỷ lệ nhiễm và lây truyền. Nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ người làm nghề mại dâm có sử dụng ma tuý đường tiêm chích ở Hải Phòng là 40%, Hà Nội là 17%, Tp HCM là 8%. Tỷ lệ nhiễm bệnh ở những khách hàng nam giới có quan hệ với gái mại dâm cũng tăng lên đều đặn. Trên 1% người ở độ tuổi trưởng thành nhiễm HIV tại Tp HCM, Hải Phòng, Quảng Ninh. TP HCM chiếm 10 % dân số quốc gia nhưng có đến 20% các trường hợp nhiễm HIV. Dịch HIV Thành phố HCM ở cấp độ dịch lan toả, với tỷ lệ 1,2% dân số trưởng thành bị nhiễm, dịch HIV cũng nghiêm trọng không kém tại các thành phố ven biển đông bắc Quảng Ninh, Hải Phòng (1,1%), Hà Nội (0,9%). Ngoài ra còn có dịch rải rác tại một số vùng trên đất nước. Một số vùng khác không có trong những năm vừa qua.

Thói quen nghiện ma tuý và hành vi quan hệ tình dục ở những người trẻ tuổi đã dẫn đến dịch HIV tại Việt Nam.

AIDS_cities

10 tỉnh thành phố có tỷ lệ nhiễm HIV cao ở Việt Nam năm 2005. Nguồn: www.unaids.org.vn

Kết thúc bài 1.2

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#4 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:14:32(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

Bài 1.3. Hệ thống giám sát những vấn đề về lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam

 

            Công việc giám sát là thu thập và phân tích dữ liệu, tuỳ thuộc vào vị trí địa lý, đặc điểm về bệnh tật, năng lực chẩn đoán bệnh chính xác và báo cáo thông tin có chất lượng cao. Nhìn chung, công việc giám sát giúp trả lời câu hỏi đặc trưng về dịch tễ học, dịch như thế nào? xu hướng, dự đoán ra sao? Vì mỗi vị trí giám sát không đại diện cho dân số chung hoặc tỷ lệ hiện mắc chung nên người giám sát gặp trở ngại trong việc phân tích số liệu toàn quốc, phân tích xu hướng và mô hình bệnh tật chung.

            UNAIDS và WHO chịu trách nhiệm giám sát sự lây lan dịch HIV trên từng vùng và toàn cầu. Họ cùng với những nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia thực hiện hệ thống giám sát trên toàn cầu. Cuối mỗi năm họ sẽ thông báo tình trạng xu hướng của dịch HIV, đồng thời nêu ra những chi tiết đặc trưng riêng của từng đất nước, dựa trên số liệu giám sát thu thập được 2 năm trước đó, phải mất đến 1 năm để biên soạn báo cáo tình hình dịch toàn cầu. Nếu bạn muốn nhận thêm thông tin gần đây nhất thì vào trang Web của WHO.

            Dịch được định nghĩa là sự lây truyền một bệnh trong khoảng thời gian, không gian nhất định, đối với những người không có miễn dịch hoặc không được bảo vệ trước đó. Ngược lại, Đại dịch là không có giới hạn, HIV là một đại dịch. Tuy nhiên chúng tôi muốn sử dụng từ dịch địa phương dành cho HIV bởi vì sự lan truyền trong từng vùng của bệnh sẽ được mô tả một cách chính xác hơn cũng như sự phát triển của bệnh, các nhóm người bị ảnh hưởng và các phương thức lây truyền.

            Thông tin dịch tễ học được thu thập trên toàn thế giới thông qua những nghiên cứu mẫu ngẫu nhiên. Những điều tra này được giới hạn lại và đặc trưng cho từng vùng và từng dân số. Cách tiếp cận có tính khoa học này được gọi là giám sát, có nghĩa là các mô hình xu hướng về dịch tễ học được đưa ra dựa trên mẫu ngẫu nhiên. Đối tượng chính của giám sát là phụ nữ mang thai bởi vì họ đại diện cho dân số nói chung. Câu hỏi đặt ra là các báo cáo này đúng hay gần đúng? Chất lượng của việc thu thập thông tin và đánh giá khác nhau dẫn đến các con số khác nhau, đây chính là lý do mà UNAIDS thừa nhận có sai sót từ năm 2003. Để tăng tính đại diện của dữ liệu, các nghiên cứu đã phân ra nhiều nhóm khác trong xã hội như bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh lao, tù nhân, di dân, nam đồng tính, gái mại dâm, quân đội...và các vùng miền khác nhau.

Các dữ liệu về HIV là những con số ước đoán các tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ mới mắc.

 

             - Tỷ lệ hiện mắc là tỷ lệ hoặc % số người trong một quần thể xác định bị mắc bệnh trong một thời điểm nhất định. Tỷ lệ hiện mắc cung cấp cho chúng ta tình hình chung của bệnh và thường dùng cho các bệnh mãn tính. Đối với HIV, tỷ lệ hiện mắc  thường nói lên được % dân số mắc bệnh trong độ tuổi hoạt động tình dục (15-59 tuổi).

Tỷ lệ hiện mắc = số người nhiễm HIV/ dân số (15-59 tuổi)

- Tỷ lệ mới mắc là tỷ lệ hoặc % số người mới mắc bệnh trong một quần thể xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Tỷ lệ mới mắc nói lên tính lan truyền nhanh chóng của bệnh, thường dùng cho các bệnh cấp tính.

Tỷ lệ mới mắc = số người mới nhiễm HIV trong 1 năm/ dân số.

Tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ mới mắc thỉnh thoảng bị nhầm lẫn. Nếu HIV là nguyên nhân gây tử vong cao ở những quốc gia có tình trạng nhiễm HIV nặng thì tỷ lệ hiện mắc vẫn giữ nguyên mặc dù có nhiều người mới mắc, có nghĩa là tỷ lệ mới mắc tăng. Hay nói cách khác số người tử vong vì nhiễm HIV đã được bù bởi số người mới nhiễm, do đó khi chỉ quan sát tỷ lệ hiện mắc chúng ta sẽ có nhận định tình trạng dịch bệnh ổn định. 

WHO và UNAIDS đã phân loại dịch địa phương HIV thành 3 cấp độ sau :

 

Ø  Dịch mức độ thấp: Tỷ lệ nhiễm HIV ≤ 5% ở bất kỳ quần thể khảo sát nào.

Ø  Dịch tập trung: Tỷ lệ nhiễm HIV > 5% ở ít nhất một quần thể khảo sát (quân đội, nam đồng tính), tỷ lệ nhiễm HIV phụ nữ mang thai ở thành phố < 1%

Ø  Dịch lan toả: Tỷ lệ nhiễm HIV >1% ở phụ nữ mang thai

Số lượng chính xác người nhiễm HIV là không thể biết được. Có quá nhiều dữ liệu phức tạp trở nên có giá trị, do đó những đánh giá trước đây cần phải được điều chỉnh. Đó là trường hợp dịch AIDS. Biểu đồ sau đây cho thấy sự khác biệt. Biểu đồ cột dùng các thông tin giám sát của từng quốc gia ước tính số người nhiễm HIV tại thời điểm báo cáo hàng năm. Biểu đồ chấm vẽ thành đường có độ lệch chuẩn, thu thập dữ liệu từ sự cải thiện chất lượng và sự bao phủ của hệ thống giám sát ở nhiều nước. Nhìn vào biểu đồ cột ta thấy dịch có vẻ ổn định. Tuy nhiên đường biểu diễn chấm đánh giá tốt hơn cho mỗi năm, nó được vẽ cập nhật năm 2006. Đường biểu diễn không những cho thấy kích cỡ của dịch đã vượt quá khả năng dự đoán, mà còn cho thấy dịch vẫn còn tiếp tục gia tăng. Độ lệch chuẩn ước đoán phản ảnh độ không chắc chắn về tính ước đoán dịch HIV toàn cầu. Biểu đồ này được báo cáo ở Hội nghị sức khoẻ của WHO tháng 5 năm 2007.

 

      Biểu đồ số liệu HIV

 

WHO: Giới thiệu số liệu dịch HIV toàn cầu. Qua đó các dự đoán trước đây cần được điều chỉnh, rõ ràng số người nhiễm HIV vẫn còn tiếp tục tăng.

Nguồn: WHO http://www.who.int/whosis/en/index.html

         Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam

Năm 1987 thành lập tiểu ban phòng chống SIDA thuộc uỷ ban phòng chống các bệnh truyền nhiễm do Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương đảm nhiệm.

Năm 1990 thành lập Uỷ ban phòng chống SIDA Việt Nam thuộc Bộ Y tế.

Năm 2000 chính phủ thành lập Uỷ ban quốc gia phòng chống AIDS độc lập và phòng chống tệ nạn ma tuý mại dâm.

Năm 2005 chính phủ thành lập Cục phòng chống HIV/ AIDS Việt nam.

Mục tiêu chung: Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2010 và không tăng sau 2010, giảm tác hại của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế xã hội.

Mục tiêu cụ thể:

Ø  100% các đơn vị, địa phương trên cả nước đưa hoạt động phòng chống HIV/AIDS trở thành mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Ø  Nâng cao hiểu biết của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.

Ø  Khống chế lây nhiễm HIV từ nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng thông qua việc triển khai đồng bộ các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại.

Ø  Đảm bảo người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị thích hợp.

Ø  Hoàn thiện hệ thống theo dõi, quản lý, giám sát, đánh giá chương trình phòng chống HIV/AIDS.

Ø  Ngăn chặn lây nhiễm HIV qua các dịch vụ y tế.

Việt Nam bắt đầu chương trình giám sát trọng điểm từ năm 1994. Mục đích của chương trình là xác định tỷ lệ hiện nhiễm và phân bố của nhiễm HIV trong quần thể được xác định, nhằm theo dõi xu hướng phát triển của dịch trong nhóm quần thể này. Tới năm 2000 giám sát trọng điểm được mở rộng ra 30 tỉnh, thành phố. Các nhóm trọng điểm bao gồm: bệnh nhân hoa liễu, người nghiện ma tuý tại các trung tâm cai nghiện, gái mại dâm tại các trung tâm phục hồi nhân phẩm, gái mát xa, gái bar được xác định có hoạt động mại dâm, phụ nữ trong phòng đẻ, các trường hợp nạo hút thai, khám theo dõi thai, các bệnh nhân lao trong các trung tâm, thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự.

Kết quả giám sát trọng điểm nhiễm HIV ở 30 tỉnh của Việt Nam cho thấy:

Ø  Dịch HIV ở Việt Nam đang ở cấp độ dịch tập trung (có nghĩa là tỷ lệ hiện nhiễm HIV trên 5% ở nhóm quần thể có nguy cơ cao và dưới 1% ở nhóm phụ nữ mang thai).Tuy nhiên nhiễm HIV có xu hướng tăng lên ở tất cả các nhóm quần thể giám sát.

Ø  Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ trước đẻ tăng từ 0,03% năm 1995 lên đến 0,4% năm 2005. Tuy nhiên ở một số tỉnh như Quảng Ninh, Hải phòng, An giang tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ có thai sẽ tăng trên 1%.

Ø  Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự cũng tăng từ 0% năm 1994 lên đến 1,3% năm 2001.

Chính sách nhà nước về phòng chống HIV/AIDS

Ø  Khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hợp tác, giúp đỡ dưới mọi hình thức trong công tác phòng chống HIV/AIDS.

Ø  Huy động sự tham gia của toàn xã hội, sự đóng góp về tài chính, kỹ thuật của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong công tác phòng chống HIV/AIDS.

Ø  Hỗ trợ việc nghiên cứu khoa học, trao đổi và đào tạo chuyên gia, chuyển giao kỹ thuật trong công tác phòng chống HIV/AIDS.

Ø  Bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ người trực tiếp quản lý, chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV/AIDS, người nhiễm HIV do tai nạn nghề nghiệp.

Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin tại http://www.unaids.org.vn/ 

 

Kết thúc Bài 1.3

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#5 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:14:57(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

Bài 1.4. Nguyên nhân nhiễm HIV và hậu quả của nhiễm HIV trong kinh tế và y tế.

            Chúng ta đã biết được nhóm người chịu ảnh hưởng của HIV lớn nhất đó là những người trẻ tuổi, họ có thể trở nên bị bệnh và tử vong. Nhóm người này ở độ tuổi lao động, chúng ta có thể tìm thấy nhiều thành viên trong cùng một gia đình bị nhiễm HIV/AIDS. Những gia đình này thường nghèo và thường không có khả năng điều trị. Tình trạng người bị bệnh HIV/AIDS càng nặng nề thêm do sự phân biệt đối xử, kỳ thị của các phong tục xã hội.

1.4.1. Nguyên nhân

            Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiễm HIV được biểu diễn dưới dạng cây dưới đây. Hình ảnh này còn cho thấy được hậu quả trực tiếp và gián tiếp của nhiễm HIV.

 

 

                          Biểu đồ hình cây-nguyên nhân-hậu quả

                                           Biểu đồ hình cây: Nguyên nhân và hậu quả của nhiễm HIV/AIDS.

                                           Nguồn: CAFOD, Koc

           Có nhiều yếu tố về sinh học và y học góp phần lây lan dịch HIV ví dụ đồng nhiễm các  virus đặc hiệu, bệnh lây truyền qua đường tình dục, tuy nhiên “vector” truyền bệnh vẫn là con người, hành vi của con người và điều kiện sống quyết định sự lây lan của dịch HIV/AIDS.

            Ngoài ra, sự khác nhau về mặt địa lý, sẽ cho chúng ta thấy sự khác biệt về mặt xã hội. Những nhóm khác nhau trong xã hội sẽ bị nhiễm bệnh theo những cách khác nhau như: Nam/nữ, trình độ học vấn, kinh tế  xã hội, sự định hướng tình dục, văn hoá cộng đồng, chủng tộc, tôn giáo. Có những yếu tố làm nền tảng cho sự phân hoá thành nhiều nhóm khác nhau trong xã hội và làm cho các nhóm này dễ bị rơi vào nhiễm bệnh.

            Tại sao người nghèo lại dễ bị nhiễm HIV/AIDS? Các nước đang phát triển và các nước công nghiệp có sự phân hoá giàu nghèo rõ rệt. Vì thu nhập ở nông thôn thấp không đáp ứng đủ nhu cầu, nên để tồn tại mỗi gia đình đều có người đi làm ăn xa kiếm sống. Cơ sở hạ tầng yếu kém không được đầu tư đúng mức như trường học, bệnh viện, làm cho mọi người thiếu cơ hội được hổ trợ giáo dục và tiếp cận được các thông tin cần thiết. Chất lượng và mạng lưới chăm sóc sức khoẻ yếu kém nên nhiều người không được điều trị đúng khi bị bệnh lây truyền qua đường tình dục, không được truyền máu an toàn thậm chí không được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản như chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ trẻ em...

Các nguyên nhân phổ biến làm lây truyền nhanh HIV/AIDS là: phong tục xã hội, sự kỳ thị, sự phân biệt đối xử ảnh hưởng trực tiếp lên người nhiễm HIV. Các quyền cơ bản của con người bị xâm phạm khi họ bị nhiễm HIV. Những nghiên cứu đã công bố của UNAIDS và cao uỷ Liên hiệp quốc về quyền con người đã đưa ra những nhận định và thực tế sau:

Ø   Xâm phạm quyền được lao động, quyền được điều trị, quyền được giữ bí mật giữa bác sĩ và bệnh nhân.

Ø   Thiếu tôn trọng chuẩn mực đạo đức trong các công trình nghiên cứu về HIV.

Ø   Xâm phạm quyền trong gia đình, đó là quyền thừa kế hoặc được giúp đỡ.

Ø   Bị ngăn chặn bởi các cộng đồng tôn giáo.

Ø   Từ chối không được vay ngân hàng và các chính sách bảo hiểm.

Ø   Không cho tự do đi lại hoặc du lịch.

Mỗi người trong xã hội đang được khuyến khích, kêu gọi có thái độ đúng đắn với sự kiêng kỵ, cấm đoán, vượt qua các thành kiến, tránh kỳ thị, phân biệt đối xử. Cần thiết xây dựng một môi trường lành mạnh để người nhiễm HIV được bảo vệ khỏi sự kỳ thị, phân biệt đối xử, cách ly. Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt kỳ thị bắt đầu trở thành vấn đề chung của toàn xã hội và của từng cá nhân.

            Bạn sẽ được biết nhiều hơn về các phản ứng thích hợp đối với kỳ thị  phân biệt ở Chủ đề 4

                              Hậu quả của kỳ thị

1.4.2. Hậu quả

            Trong khi HIV/AIDS đang là vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng thì về mặt xã hội và kinh tế cũng là một vấn đề phức tạp nan giải, HIV chủ yếu ảnh hưởng đến các đối tượng trẻ là thành phần lao động chính của xã hội, nó không chỉ làm cho trẻ em bị mất bố mẹ mà còn bị cách ly khỏi xã hội và không được sự chăm sóc của gia đình. Ảnh hưởng lớn nhất của HIV/AIDS là tác động lên một bộ phận những người được đào tạo và có kỷ năng trong xã hội, vì HIV chủ yếu nhiễm ở đối tượng lao động hơn là người già và trẻ em. Bên cạnh sự phân biệt đối xử mà người nhiễm HIV đã phải đối mặt, thì sự kỳ thị trong xã hội gắn liền với căn bệnh này vẫn còn là một thách thức lớn. HIV cũng gia tăng ở nền kinh tế và xã hội chậm phát triển đặc biệt là phụ nữ.

            Hậu quả lớn nhất do HIV/AIDS là gây tử vong ở lớp người trong độ tuổi lao động. Nhiều gia đình phải gánh chịu nghèo khổ và bất hạnh bởi AIDS. Khi trong gia đình có người nhiễm HIV thì không những người đó bị bệnh, không có khả năng lao động mà còn buộc gia đình phải chăm sóc. Nghiên cứu cho thấy ở vùng nông thôn Thái Lan và thành phố Côte d'Ivoire, tổng sản lượng nông sản và thu nhập giảm khoảng 52-67% ở những gia  đình có người nhiễm HIV/AIDS.

HIV/AIDS cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế ở các nước đang phát triển:

Ø   Sự thiếu hụt nhân công thường xuyên

Ø   Thời gian làm việc bị rút ngắn lại

Ø   Biến động nhân lực nhiều

Ø   Mất đi lực lượng lao động có kinh nghiệm

Ø   Tăng chi phí đào tạo

Ø   Tăng chi phí cho các phúc lợi xã hội

Ø   Giảm tính cạnh tranh khi tham gia thị trường thương mại thế giới.

Ø   Giảm khả năng đầu tư.

Tình trạng dịch lan tràn mạnh mẽ có yếu tố giới tính, giới nữ là có nguy cơ cao vì khả năng đảm bảo an toàn tình dục ở phụ nữ, và do tình trạng kinh tế xã hội của họ nhìn chung còn thấp. Phụ nữ thường là trụ cột để chăm sóc khi trong gia đình có người bị AIDS, điều đó có nghĩa là họ phải gánh vác cùng một lúc 3 trách nhiệm đó là chăm sóc con cái, người già và người mắc bệnh AIDS, thậm chí phải nuôi cả gia đình. Phụ nữ và trẻ em gái đôi khi lại chịu trách nhiệm làm chủ gia đình, chính vì vậy mà đã có nhiều trường hợp khi các em cố gắng kiếm sống để nuôi gia đình, đối mặt với sự nghèo đói thì bị xâm phạm tình dục.

AIDS cũng ảnh hưởng rất lớn đến trẻ em, đặc biệt nghiêm trọng đối với những trẻ mồ côi do gia đình bị nhiễm HIV. Ngày nay người ta thấy có khoảng 13,2 triệu trẻ mồ côi < 15 tuổi bị mất bố hoặc mẹ hoặc mồ côi cả bố lẫn mẹ do bệnh AIDS. Nhiều nghiên cứu cho thấy  những trẻ mồ côi do bệnh AIDS thì có nguy cơ cao bị bệnh, bị suy dinh dưỡng, bị lạm dụng, bị hành hạ và bị xâm phạm tình dục hơn là những trẻ mồ côi vì nguyên nhân khác. Sự kỳ thị và phân biệt mà các trẻ này phải đối mặt đã tước đoạt quyền được chăm sóc và giáo dục cơ bản của chúng.

HIV cũng là gánh nặng lớn đối với ngành y tế. Kể từ khi có dịch xảy ra, đã có 28 triệu người nhiễm và tử vong vì AIDS, đòi hỏi cần có các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cao hơn. Ở các nước có cấp độ dịch lan tỏa thì hơn một nửa số giường ở các bệnh viện là dành cho các bệnh nhân AIDS. Nhu cầu này càng tăng và đang trở thành một gánh nặng lớn cho hệ thống y tế công cộng. Ở các nước có thu nhập thấp, chi phí dành cho bệnh nhân AIDS (bao gồm cả liệu trình thuốc chống virus) được tính khoảng 30 đô la/người/năm, trong khi đó ở hầu hết các nước Châu Phi thì chỉ khoảng < 10 đô la/người/năm.

Gánh nặng bệnh AIDS tác động lên chính sức khoẻ các nhân viên y tế đòi hỏi nhu cầu về tài chính tăng cao hơn nữa. Nghiên cứu ở một bệnh viện Zambia cho thấy số nhân viên y tế tử vong tăng lên gấp 13 lần trong vòng 1 thập kỷ, là do nhiễm HIV. Hầu hết ở các nước Châu Phi rất khan hiếm về nhân viên y tế. Ngoài ra công việc quá tải, lương thấp, sự cám dỗ di cư ra nước giàu cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng khan hiếm này.

Tình trạng quá tải của hệ thống y tế công cộng cũng ảnh hưởng mạnh đến thành phần thiểu số, người khuyết tật, người già. Những người có HIV (+) thường thiếu được chăm sóc y tế, thiếu thuốc điều trị và thường bị phân biệt đối xử ở bệnh viện cũng như của hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Hậu quả trong y tế

 

 

 

Về phía chính phủ, AIDS làm giảm tổng thu nhập của chính phủ và các ngân sách cần thiết dành cho y tế và xã hội. Sự đầu tư cho các lĩnh vực công cộng khác cũng suy yếu. Hậu quả HIV/AIDS đã ảnh hưởng thảm hại đến năng lực của chính phủ, đặc biệt trong việc phân bố các dịch vụ xã hội cơ bản. Như vậy hậu quả của dịch HIV là làm giảm nguồn lực con người, giảm các lợi tức và ngân sách xã hội.

Đối với tư nhân, các công ty phải đối mặt với tăng chi phí đào tạo, bảo hiểm, thiếu vắng công nhân, giá thuốc, các phí cho thăm ốm, ma chay, nghỉ hưu, nhưng đồng thời cũng kèm theo sự thiếu hụt về nhân lực có trình độ tay nghề và kinh nghiệm. Những doanh nghiệp có công nhân được chuyên môn hóa cao trong lĩnh vực vận tải bị ảnh hưởng nhiều nhất. AIDS cũng đe dọa đến đời sống sinh nhai của người dân các nước đang phát triển, đặc biệt là người nghèo. Nhiều nước có đến 80% dân số sinh sống nhờ nông nghiệp, khi những người trong độ tuổi lao động bị bệnh thì lượng sản phẩm thu nhập giảm xuống nhanh chóng. Sự thay đổi từ được mùa sang mất mùa đã tác động lên đời sống của người nông dân: giảm thu nhập của hộ gia đình, khiến họ phải bán đi tài sản (nông trại, công cụ) để đổi lấy cái ăn.

Phân tích các nguyên nhân của đại dịch giúp đưa ra các biện pháp đối phó thích hợp  và phát triển hiệu quả. Phân tích hậu quả của HIV/AIDS cũng giúp chúng ta xác định các hành động ưu tiên, vạch ra chiến lược hợp lý, kỹ lưỡng và đánh giá đúng kết quả đạt được.

Năm 2000, Liên hiệp quốc đưa ra 8 Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ nhằm để xóa bỏ nạn đói, tiến đến phổ cập giáo dục trên toàn thế giới, giải phóng phụ nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, cải thiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ, giảm và tiến tới xoá bỏ một số bệnh,  đảm bảo môi trường sống và phát triển hợp tác toàn cầu.

Đại dịch HIV/AIDS đang làm giảm cơ hội đạt được các thành tựu trong chương trình “Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ” của Liên hiệp quốc và là gánh nặng lớn cho các quốc gia, đặc biệt là các nước cận Saharan Châu Phi. Dịch làm suy yếu các nỗ lực giảm đói nghèo vì làm thụt lùi sự phát triển kinh tế, vì vậy làm cản trở nỗ lực đạt được mục tiêu 1 ( xóa bỏ nạn nghèo đói). Dịch đã làm giảm tốc độ phát triển ở Châu Phi 2-4% /năm. Ở các nước phải gánh chịu nặng nề dịch HIV/AIDS, hậu quả tác động lâu dài lên nền kinh tế vĩ mô là rất lớn. HIV/AIDS làm mất nguồn thu nhập ổn định của từng gia đình, khiến người ta phải chi phí tiền bạc cho chăm sóc, thuốc men, ma chay nên không còn cơ hội để được học tập, do đó mà mục tiêu thứ 2 không thể đạt được (phổ cập giáo dục trên toàn thế giới). Ví dụ, ở Uganda 80% trẻ em ở các gia đình có người nhiễm HIV trong 1 làng phải nghỉ học vì không đủ chi trả lệ phí đến trường. Ở Zambia, năm 1998 số giáo viên tử vong vì AIDS chiếm 2/3 số giáo viên được đào tạo trong năm. Tóm lại, HIV/AIDS làm cho hàng triệu trẻ em mồ côi không có cơ hội được học tập.

Ngoài việc giết chết hàng triệu phụ nữ, HIV/AIDS mang đến gánh nặng cho phụ nữ và trẻ em gái, do đó họ không có cơ hội được học tập và trả lương đúng mức, điều đó đồng nghĩa với mục tiêu 3 không thực hiện được (đảm bảo quyền và vị trí của người phụ nữ). Trẻ em gái thường phải nghỉ học để chăm sóc anh hoặc chị bị bệnh. Những phụ nữ HIV (+) thường phải chịu sự phân biệt, hành hạ về thể xác và tinh thần.

Ở 7 nước Châu Phi có tỷ lệ mắc HIV cao ở người trưởng thành thì tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh tăng đến 19%, ở trẻ < 5 tuổi tăng đến 36%, vì vậy mà mục tiêu 4 không thực hiện được (giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em). Năm 2005 ở Botswana, có đến 104 trẻ < 5 tuổi tử vong/ 1000 trẻ sinh sống.

Không có dịch HIV/AIDS thì tỷ lệ tử vong chung là 45/1.000 người tại Châu Phi, khi có dịch HIV tỷ lệ này cao hơn. Căn bệnh này đã khiến mục tiêu 5 không thực hiện được (giảm tử vong mẹ), ở Raikai, Uganda, tỷ lệ tử vong mẹ ở trường hợp mẹ HIV(+) là 1.687/100.000 lần sinh và ở mẹ HIV(-) là 310/100.000 lần sinh.

Nhiễm HIV cũng làm tăng nguy cơ nhiễm lao, ở những quốc gia có dịch HIV/AIDS tỷ lệ bị bệnh lao tăng cao. Ví dụ ở Malawi tỷ lệ bị bệnh lao tăng gấp đôi từ 1986 đến 1994, vì ở những người nhiễm HIV khả năng mắc bệnh lao cao gấp 7 lần người không nhiễm HIV. Ở Uganda, phụ nữ nhiễm HIV dễ mắc bệnh sốt rét trong thời kỳ mang thai hơn là phụ nữ HIV(-). Nghiên cứu tương tự cũng cho thấy tỷ lệ HIV từ mẹ truyền sang con là 40% đối với những phụ nữ trong nhau thai có ký sinh trùng sốt rét cao hơn so với 15.4% ở phụ nữ không có ký sinh trùng sốt rét. Vì vậy, đại dịch HIV gây ra những ảnh hưởng bất lợi trong việc xóa bỏ bệnh sốt rét hay các bệnh khác, đây là một phần của mục tiêu 6 (chống lại HIV/AIDS, sốt rét và một số bệnh khác).

Một trong những trọng điểm của mục tiêu 7 (bảo vệ tính ổn định của môi trường) là đến năm 2020 cải thiện rõ đời sống của người dân ở những khu nhà ổ chuột. Tuy nhiên HIV/AIDS lại đang đe dọa nghiêm trọng đến hàng triệu người dân này.

Tất cả các mục tiêu trên đều nhằm thực hiện một mục tiêu duy nhất đó là mục tiêu 8 ( vì sự phát triển hợp tác trên toàn thế giới). Mục tiêu này nhằm kết nối các nhà từ thiện, các chính phủ, các tổ chức cá nhân và xã hội lại với nhau. HIV/AIDS đang làm tiêu hao rất lớn nguồn nhân lực có trình độ của nhiều quốc gia, do đó gây hủy hoại tiến trình thực hiện mục tiêu này.

Cung cấp thuốc cần thiết, kịp thời và mở rộng điều trị HIV/AIDS là chìa khoá chính yếu cho sự sống còn của chương trình này.

Kết thúc Bài 1.4

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#6 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:15:41(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

1.5 Những điều cần nhớ

  • Bệnh AIDS lần đầu tiên được đề cập vào năm 1981 tại Mỹ, hai năm sau đó HIV được biết là nguyên nhân gây bệnh.
  • HIV lan nhanh trên khắp thế giới với hơn 40 triệu người nhiễm HIV, hơn 26 triệu người tử vong. Hàng ngày có đến 12.000 trường hợp mới nhiễm, 10% trong số đó là trẻ em và có 9.000 trường hợp tử vong hầu hết là ở những nước mà sự chăm sóc y tế còn nghèo nàn, thiếu khả năng tiếp cận với các liệu pháp chống virus.
  • Hệ thống giám sát toàn cầu cho phép xác định được xu hướng của đại dịch bằng cách nghiên cứu mẫu ngẫu nhiên
  • Phân tích mô hình dạng cây cho thấy đường lây lan HIV/AIDS, các nguyên nhân trung gian, gián tiếp, các yếu tố nguy cơ cao được lồng ghép với nhau. Mô hình này cũng cho thấy những hậu quả của nhiễm HIV và mối quan hệ giữa các nguyên nhân và hậu quả.
  • Sự kỳ thị xuất phát từ nhiều hướng: từ bên ngoài xã hội, hoặc nảy sinh từ thái độ không thích hợp và từ sự tự cảm nhận của người bệnh, dẫn đến những hành vi tiêu cực. Sự kỳ thị này có thể điều chỉnh bằng các công cụ truyền thông liên quan đến người nhiễm HIV, sự động viên và sự bảo vệ hợp pháp cũng như các biện pháp chữa trị và hỗ trợ cho người sống cùng HIV.
  • HIV/AIDS đe dọa nghiêm trọng đến những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc.

Kết thúc Bài học Chủ đề 1

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#7 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:16:03(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Các bạn học viên thân mến !
Chủ đề này giới thiệu một số kiến thức về những đặc điểm cấu trúc và miễn dịch, nguy cơ lây truyền của virus HIV. Tiếp theo là các kỹ thuật và tiêu chuẩn chẩn đoán một trường hợp nhiễm HIV. Sau đó là phần đánh giá những trường hợp nhiễm HIV. Các bạn hãy dành ra khoảng 4-6 giờ để làm quen (hoặc nhớ lại) các vấn đề này. Sau đó thử trả lời các câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra lại kiến thức. Các bạn cũng đừng quên tham gia thảo luận và chat với các học viện khác về một số chủ đề liên quan.

BỐ CỤC CHỦ ĐỀ 2:

BÀI 2.1: ĐẶC ĐIỂM VIRUS HỌC; MIỄN DỊCH; NGUY CƠ LÂY TRUYỀN CỦA HIV

2.1.1 Đặc điểm cấu trúc của virus HIV

2.1.2 Quá trình nhân đôi của virus HIV

2.1.3 Cơ chế gây suy giảm miễn dịch của virus HIV

2.1.4 Các đường lây truyền

BÀI 2.2: CHẨN ĐOÁN NHIỄM HIV

2.2.1 Định nghĩa một trường hợp nhiễm HIV

2.2.2 Định nghĩa một trường hợp mắc bệnh AIDS

2.2.3 Các trường hợp xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV

2.2.4 Các kỹ thuật phát hiện HIV

BÀI 2.3: CÁC XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG VÀ TỔ CHỨC XÉT NGHIỆM

2.3.1 Khái niệm về độ đặc hiệu và độ nhạy của các test xét nghiệm

2.3.2 Tổ chức việc xét nghiệm

2.3.3 Các loại test xét nghiệm

2.3.4 Các xét nghiệm khác

BÀI 2.4: ĐÁNH GIÁ MỘT TRƯỜNG HỢP NHIỄM HIV

2.4.1 Diễn tiến tự nhiên của một trường hợp nhiễm HIV

2.4.2 Các bệnh nhiễm trùng cơ hội

2.4.3 Đánh giá một trường hợp nhiễm HIV

MỤC TIÊU

Học xong chủ đề này, các bạn có thể có khả năng :

  • Biết được cách phân loại virus HIV, đặc điểm cấu trúc và cơ chế gây suy giảm miễn dịch của virus HIV.
  • Biết được các đường lây truyền và các yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV.
  • Nắm được định nghĩa thế nào là một trường hợp nhiễm HIV hoặc AIDS ở các nhóm tuổi khác nhau.
  • Nắm được các chiến lược xét nghiệm tìm HIV của Tổ chức Y tế thế giới.
  • Mô tả được các xét nghiệm để phát hiện virus HIV, bao gồm các test phát hiện virus trực tiếp và gián tiếp.
  • Nắm được tiêu chuẩn chẩn đóan một trường hợp nhiễm HIV.
  • Biết được diễn tiến tự nhiên của một trường hợp nhiễm HIV. Nêu được các giai đoạn tiến triển của bệnh.
  • Nêu được các bệnh nhiễm trùng cơ hội thường gặp ở người nhiễm HIV.
  • Đánh giá được một trường hợp nhiễm HIV.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#8 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:16:28(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

Bài 2.1: Đặc điểm Virus học, Miễn dịch, Nguy cơ lây truyền của HIV

2.1.1. Đặc điểm cấu trúc của HIV

HIV là một loại virus gây suy giảm miễn dịch ở người. Tên gọi đầy đủ là Human Immunodeficiency Virus.

Những trường hợp nhiễm trùng cơ hội hay u Kaposi do suy giảm miễn dịch đầu tiên được ghi nhận chính thức tại Hoa Kỳ năm 1981. Năm 1983, Luc Montagnier (Pháp) phân lập được HIV 1, năm sau 1984, tìm được HIV2. Trong khi HIV-1 phân bố trên khắp thế giới thì HIV-2 chỉ khu trú ở một số nước Tây Phi.

Cả hai lọai đều là những Retrovirus, với acid nhân là ARN. Chúng có khả năng tổng hợp thành ADN từ những mã di truyền của ARN nhờ vào một men đặc biệt gọi là men sao chép ngược (Reverse Transcriptase). Sự sao mã ngược này thường không hòan chỉnh, hay có sai sót so với nguyên bản ban đầu. Điều này đưa đến sự thay đổi kháng nguyên của virus, tạo nên nhiều biến chủng khác nhau, giúp cho virus thóat khỏi sự tìm diệt của hệ miễn dịch cơ thể .

HIV bị phá hủy khi đun sôi ở 56 độ C sau 20 phút. Ở dạng khô nó bị mất hoạt tính ở 68 độ C sau 2 giờ. HIV nhanh chóng bị bất hoạt dưới tác dụng của các hóa chất như glutaraldehyd, ethanol, phenol, paraformaldehyd...

ouih

Hình 2.1.1: Cấu trúc của HIV (Nguồn: CDC)

2.1.2. Quá trình nhân đôi của HIV
Sau khi genome của HIV chui vào trong tế bào, dưới tác dụng của men sao chép ngược (Reverse transcriptase), RNA của virus được chuyển thành DNA.
Sau đó nhờ enzym RNA-ase, RNA tách ra khỏi DNA và sợi DNA mới được tổng hợp, tạo thành DNA chuỗi kép.. DNA chui vào nhân tế bào chủ. Sau đó tích hợp vào DNA tế bào nhờ HIV integrase. Nhờ sự tích hợp này, HIV tránh được sự bảo vệ của cơ thể, tác dụng của một số thuốc kháng virus và gây bệnh chậm hơn.
Sau khi đã ích hợp, DNA của HIV có thể tồn tại ở hai trạng thái:

  • Không hoạt động như một tiền virus (provirus).
  • DNA bổ sung của HIV được sao chép thành các hạt virion mới.

Đối với một provirus, để sản xuất các virus mới, DNA bổ sung được sao mã (transcription) thành mRNA. Nhờ mRNA này, các protein cần thiết của HIV được tổng hợp trong bào tương (cytoplasm). Đây là quá trình dịch mã (Translation). Từ các thành phần đã được tổng hợp, các hạt HIV mới được lắp ráp ở bào tương.

Từ các vị trí lắp ráp các hạt virus gần màng sinh chất, đẩy màng này nảy chồi (budding) và các hạt HIV được giải phóng. Chúng tiếp tục gây nhiễm cho các tế bào mới. Còn tế bào đã giúp chúng nhân lên thì bị diệt.

Chuỗi dài của các protein và enzym giúp cho virus trưởng thành được cắt thành nhiều mảnh nhỏ bởi một enzym gọi là protease. Chính giai đoạn này giúp virus trở nên có khả năng lây bệnh. Các thuốc ức chế proteasse được sản xuất ra để can thiệp vào giai đoạn này.

Cấu trúc HIV
Sơ đồ 2.1.1 : Chu trình nhân đôi của HIV (Nguồn: NIAID)

2.1.3. Cơ chế gây suy giảm miễn dịch của HIV

Trong giai đoạn đầu, HIV ẩn trong các hạch bạch huyết, khả năng thay đổi kháng nguyên thường xuyên giúp chúng tránh được các kháng thể và các tế bào giết đang tìm cách diệt chúng.

Sau đó, virus sẽ gắn vào màng của tế bào đích, đó là các tế bào có chứa các phân tử bề mặt đặc biệt, gọi là cluster determinant (CD4). Sau khi gắn kết với màng tế bào, HIV sẽ thâm nhập vào trong tế bào.

Chúng tấn công các tế bào có mang phân tử CD4 cùng với các phân tử có ái tính với chemokin như các tế bào lympho T giúp đỡ (được gọi là các tế bào T CD4+), tế bào Langerhans dưới da, các tế bào đệm (glian cell) ở hệ thần kinh, các đại thực bào, các tế bào đơn nhân và các tế bào lympho ở vùng mầm của hạch bạch huyết.

Tế bào lympho T và các đại thực bào đơn nhân là những tế bào đích bị HIV tấn công và bị phá huỷ dần dần. Ở người khoẻ mạnh, có khoảng 800-1200 tế bào lỵmpho T/ml. Khi số lượng tế bào T giảm xuống dưới 500/ml, các bệnh nhiễm trùng cơ hội sẽ xuất hiện.

Tế bào T CD4+ là tế bào quan trọng trong điều hòa miễn dịch của cả hai hệ miễn dịch thể dịch và miễn dịch trung gian tế bào. Sự giảm dần số lượng T CD4+ làm cơ thể mất khả năng miễn dịch với ngọai cảnh, dẫn đến nhiễm trùng dễ dàng và tử vong.

Bản thân virus HIV cũng có thể tấn công một số cơ quan có nhiều tế bào mang thụ thể CD4 như tế bào đệm thần kinh, gây nên các biến chứng thần kinh quan trọng.

Sự giảm số lượng của các tế bào lỵmpho T, các đại thực bào và sự phá huỷ các tế bào khác là nguyên nhân đưa đến sự suy giảm miễn dịch của người nhiễm và đưa đến bệnh AIDS.

2.1.4. Các đường lây truyền của HIV

Hiện nay, HIV lây qua ba đường :

  • Đường máu: Do truyền máu không được sàng lọc HIV, do dùng chung các dụng cụ xuyên chích qua da không được vô trùng hoặc không được tiệt trùng đúng cách như dùng chung bơm kim tiêm trong tiêm chích ma tuý, dùng chung kim xăm, kim xâu tai... hoặc bị phơi nhiễm do tai nạn nghề nghiệp trong khi chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV/bệnh nhân AIDS.
 

ee

Hình 2.1.2: Các đường lây truyền của virus HIV

 

(Nguồn: http://www.adb.org )


Mức độ lây tùy thuộc vào nồng độ virus. Nồng độ này thay đổi tùy theo giai đọan của bệnh nhân, tùy theo lọai dịch. Các dịch ngọai tiết như mồ hôi, nước bọt, đàm, nước tiểu, phân...có mật độ virus thấp. Chỉ lây khi có cơ hội tiếp xúc rất lâu hoặc rất nhiều lần và nơi tiếp xúc là da hay niêm mạc đã bị xây xát. Dịch sinh dục và các dịch kín trong cơ thể (dịch não tủy, dịch khớp, máu, huyết tương...) có mật độ virus cao. Nhưng trừ quan hệ tình dục, đa số lây qua các dịch này là tai nạn nghề nghiệp của ngành y tế.
Trong thực tế, lây truyền qua đường máu chủ yếu xảy ra ở những người nghiện chích ma túy dùng chung bơm và kim tiêm. Lây nhiễm từ truyền máu hay các chế phẩm của máu ngày càng ít, nhưng không triệt tiêu hẳn vì không thể phát hiện được nhiễm HIV trong thời kỳ cửa sổ. Các xây xát qua da và niêm mạc do dùng chung những dụng cụ như dao cạo râu, dụng cụ cắt móng tay, dụng cụ y tế không thanh trùng kỹ là những đường lây cần lưu ý.
  • Đường tình dục: Quan hệ tình dục không được bảo vệ (unprotected sexual intercourse) với một người bị nhiễm HIV. Đây là đường lây truyền khá phổ biến và khó ngăn cản do thiếu hiểu biết. Nguy cơ lây lan tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Nguy cơ lớn hơn khi giao hợp qua đường trực tràng, sang chấn khi giao hợp, có bệnh hoa liễu khác ở bộ phận sinh dục. Nam thường gây nhiễm cho nữ nhiều hơn.
  • Lây từ mẹ qua con: Mẹ bị nhiễm HIV có khả năng truyền cho con trong quá trình mang thai, khi sinh và khi cho con bú.
Tần suất lây truyền còn tuỳ thuộc vào tải lượng virus (viral load) của nguồn lây. Ngoài ra, nếu càng có nhiều lần có hành vi nguy cơ cao thì tần suất lây
nhiễm sẽ càng lớn. Hành vi nguy cơ cao là hành vi dễ làm lây nhiễm HIV như quan hệ tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm và những hành vi khác dễ làm lây nhiễm HIV.

Tóm lại: HIV có thể lây truyền:

  • Qua quan hệ tình dục không được bảo vệ (giao hợp qua âm hộ, hậu môn và miệng)
  • Qua truyền máu và các sản phẩm của máu
  • Qua ghép các cơ quan bị nhiễm virus
  • Từ mẹ bị nhiễm HIV truyền cho con trong khi có thai, khi sinh hoặc trong thời gian cho bú (được gọi là lây theo chiều dọc)
  • Do dùng chung bơm, kim tiêm có nhiễm virus
  • Do bị thương bởi kim đâm hoặc do các dụng cụ sắc nhọn khác
  • Qua tiếp xúc các mô bị nhiễm virus với vết thương da hở, hoặc tiếp xúc rộng với niêm mạc.

HIV không lây qua:

  • Chạm vào hoặc chăm sóc người nhiễm HIV
  • Hôn
  • Khăn trải bàn, trải giường hoặc những vật dụng khác đã được sử dụng bởi người nhiễm HIV
  • Thức ăn do người nhiễm HIV nấu hoặc ăn chung với họ
  • Bệ toilet, bể bơi, phòng tắm
  • Muỗi đốt
  • Nhiễm khuẩn do hắt hơi
  • Lấy dịch làm phiến đồ (ví dụ: phết dịch âm đạo)

Bảng tóm tắt nguy cơ lây truyền của HIV:

1


cc
Hình 2.1.3: Phòng l ây nhi ễm HIV qua đ ường tình dục (Ngu n: http://www.iisg.nl)
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#9 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:16:55(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

BÀI 2.2: CHẨN ĐOÁN NHIỄM HIV

2.2.1. Định nghĩa một trường hợp nhiễm HIV

Định nghĩa ca nhiễm HIV đầu tiên được đưa ra năm 1986 và được gọi là Định nghĩa Bangui (Bangui definition). Định nghĩa này được sửa đổi năm 1989 và 1994.

Năm 2006, WHO đưa ra định nghĩa mới để theo dõi HIV và Bảng phân loại lâm sàng và miễn dịch cho những bệnh có liên quan đến HIV.

Sau đây là hộp định nghĩa mới của WHO:

1

Từ năm 1990, cách phân loại lâm sàng theo 4 giai đoạn được đưa ra. Cách phân loại này được sử dụng khi nhiễm HIV đã được xác định bằng xét nghiệm huyết thanh hoặc virus học.

Bảng 2.2.1: Phân chia các giai đoạn lâm sàng của WHO trong trường hợp nhiễm HIV đã được xác định
1

Đối với việc điều trị bằng thuốc ARV, kết hợp phân loại các giai đoạn lâm sàng và miễn dịch rất có ích.

Bảng 2.2.2: Bảng phân loại miễn dịch của WHO trong trường hợp nhiễm HIV đã được xác định (2004)

1

2.2.2. Định nghĩa một trường hợp mắc bệnh AIDS

2.2.2.1. Người lớn và trẻ lớn hơn 13 tuổi:


Ít nhất có 2 dấu hiệu chính (mayor sign) và ít nhất 1 dấu hiệu phụ (minor sign).


Hoặc: ít nhất có 1 bệnh lý chỉ điểm và test sàng lọc HIV dương tính nhiều lần bằng kỹ thuật ELISA trong trường hợp không có nguyên nhân gây suy giảm miễn dịch khác.
  • Dấu hiệu chính: Giảm trọng lượng ngoài ý muốn >10% trọng lượng cơ thể ban đầu; hoặc tiêu chảy kéo dài 30 ngày; hoặc sốt gián đoạn hoặc liên tục ≥ 30 ngày.
  • Dấu hiệu phụ: Ho thường xuyên > 30 ngày; viêm da lan tỏa; herpes zoster; nấm da, nấm miệng-họng; sưng hạch toàn thể.
  • Bệnh chỉ điểm: Những bệnh chỉ điểm thường gặp bao gồm viêm phổi do vi khuẩn nhiều lần (>2 lần trong 1 năm); nấm candida lan tỏa; loét do virus herpes hơn 30 ngày; histopasmosis, lymphoma; viêm phổi do Pneucystic Carinii; nhiễm trùng huyết do Salmonella; lao; bệnh toxoplasmose não và hội chứng suy mòn.

cc

Hình 2.2.1: Chăm sóc bệnh nhân HIV (Nguồn: forum.hiv.com.vn)

2.2.2.2 . Trẻ dưới 13 tuổi:

Test sàng lọc HIV dương tính nhiều lần mà không có nguyên nhân gây suy giảm miễn dịch nào khác. Đồng thời có 2 dấu hiệu chính và 2 dấu hiệu phụ hoặc 1 bệnh chỉ điểm.

  • Dấu hiệu nhỏ: Các bệnh nhiễm trùng thông thường (viêm tai, viêm họng) lặp lại nhiều lần, viêm da lan tỏa, viêm hạch toàn thân, ho kéo dài > 1 tháng và mẹ có HIV dương tính.
  • Dấu hiệu lớn và bệnh chỉ điểm: Tương tự như ở người lớn.

2.2.3. Các trường hợp xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có 4 trường hợp sau đây cần xét nghiệm tìm HIV:

1. Xét nghiệm và tư vấn tự nguyện:

Việc tư vấn trước xét nghiệm được thực hiện cho từng cá nhân hoặc một nhóm người rồi sau đó tư vấn tiếp tục cho từng cá nhân. UNAIDS va WHO khuyến khích sử dụng test nhanh để nhanh chóng có kết qủa. Sau đó có thể tư vấn ngay cho cả những người có HIV dương tính và âm tính.

2. Xét nghiệm chẩn đoán HIV:

Được chỉ định khó có những dấu hiệu hoặc triệu chứng của những bệnh có liên quan HIV hoặc AIDS. Cần xét nghiệm tìm HIV ở tất cả bệnh nhân lao như một phần trong kế hoạch điều trị hàng ngày.

3. Xét nghiệm tìm HIV ở các cơ sở y tế đối với những bệnh nhân sau:

    • Những người mắc các bệnh nhiễm trùng lây qua đường tình dục
    • Phụ nữ có thai (nhằm mục đích ngăn ngừa lây từ mẹ sang con bằng thuốc ARV)
    • Những người không có triệu chứng nhưng ở những nơi nhiễm HIV phổ biến và sẵn có thuốc ARV.

    4. Xét nghiệm sàng lọc HIV:

    UNAIDS/WHO ủng hộ việc thực hiện xét nghiệm HIV đối với máu và các sản phẩm của máu, các dịch của cơ thể; ví dụ khi thụ tinh nhân tạo, ghép giác mạc, ghép cơ quan.

    * Tổ chức tư vấn sau xét nghiệm HIV:

    Tư vấn sau xét nghiệm HIV cho những người có HIV dương tính rất cần thiết và cần có sự hổ trợ về mặt y tế và tâm lý đối với những người có kết qủa dương tính.

    Những thông tin mà người được tư vấn cần được biết bao gồm:

           
      • Những ích lợi của việc điều trị và dự phòng của việc xét nghiệm
      • Quyền được từ chối xét nghiệm
      • Những dịch vụ được cung cấp sau xét nghiệm
      • Trong trường hợp kết qủa xét nghiệm dương tính, tầm quan trọng của việc thông báo cho người khác về nguy cơ bị lây nhiễm HIV của họ.

      2.2.4 Các kỹ thuật phát hiện HIV

      Có hai cách phát hiện HIV, phát hiện trực tiếp kháng nguyên và phát hiện gián tiếp qua kháng thể của virus.

      Phát hiện trực tiếp:

    • phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào. Kỹ thuật này chỉ được thực hiện trong những phòng xét nghiệm đặc biệt.
    • phát hiện kháng nguyên HIV-1 p24. Xét nghiệm này giúp làm ngắn lại giai đoạn “cửa sổ miễn dịch”
    • phát hiện trực tiếp sự hiện diện của virus trong máu hay dịch cơ thể bằng phản ứng khuyếch đại chuỗi gen (PCR). Dùng kỹ thuật PCR chúng ta có thể phát hiện được HIV ngay ở giai đoạn cửa sổ MD.
    • Xét nghiệm định lượng HIV RNA trong huyết thanh. Xét nghiệm này có giá trị rất cao trong chẩn đoán, theo dői kết quả điều trị vŕ tięn lượng bệnh.

Phát hiện gián tiếp:

  • Phương pháp được dùng thường quy và sử dụng rộng rãi trên thế giới nhất là phát hiện gián tiếp qua kháng thể. Xét nghiệm phát hiện kháng thể: Là các xét nghiệm đang được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Các xét nghiệm này không phát hiện được HIV ở giai đọan sơ nhiễm. Vì vậy khi âm tính, phải khuyên bệnh nhân xét nghiệm lần 2, sau 3 tháng. Nếu vẫn âm tính mới có quyền kết luận là không nhiễm.
  • Có ba lọai xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV đang dùng ở nước ta:
    • Test Serodia : độ nhạy cao, nhưng độ đặc hiệu thấp. Chỉ có giá trị sàng lọc ban đầu. Những người Serodia (+) là những người có thể nhiễm, cần xác định thêm bằng các xét nghiệm khác trước khi khẳng định. Ngược lại, người Serodia (-) thì rất ít có nguy cơ nhiễm HIV.
    • Test ELISA : phát hiện một lọai kháng thể tùy theo kit chọn trước. Phản ứng này có độ đặc hiệu cao, > 90%. Độ nhạy và độ đặc hiệu càng cao với các thế hệ xét nghiệm sau. Tuy nhiên vẫn không chắc chắn 100%. Kỹ thuật ELISA dựa vào nguyên tắc là tất cả những huyết thanh cần thử có kháng thể (KT) chống virus HIV dương tính sẽ cạnh tranh với các KT có sẵn đã được đánh dấu để kết nối với kháng nguyên (KN). Phản ứng này người ta có thể đọc qua chỉ thị màu.
    • Kỹ thuật WESTERN BLOT: Để đưa ra kết luận cho những kết quả chưa rõ ràng thì người ta dùng kỹ thuật WESTERN BLOT . Phương pháp này dựa trên nguyên tắc tách KT bằng điện di. Một băng màu đặc trưng sẽ khẳng định nhiễm HIV.Phương pháp này giúp phát hiện một loạt nhiều kháng thể đặc hiệu chống nhiều lọai kháng nguyên khác nhau của virus HIV. Do đó lọai trừ được phản ứng dương tính giả.

  • Tiêu chuẩn chẩn đoán chắc chắn một trường hợp nhiễm HIV

Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, một trường hợp được chẩn đoán nhiễm HIV chắc chắn khi có đủ các xét nghiệm sau:

    • Test nhanh (rapid HIV diagnostic test) (+)
    • Test ELISA (+)
    • Test Western Blot (+)
    • Trường hợp cơ sở y tế không thực hiện được kỹ thuật Western Blot thì thay bằng một xét nghiệm ELISA với loại kit khác.

      1

Hình 2.4: Test nhanh chẩn đoán HIV (Nguồn: Trinity Biotech)
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#10 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:17:20(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
ÀI 2.3: CÁC XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG VÀ TỔ CHỨC XÉT NGHIỆM

2.3.1 Khái niệm về độ đặc hiệu và độ nhạy của các test xét nghiệm:

· Độ nhạy (sensitivity) của một test được định nghĩa là tỷ số của tất cả trường hợp dương tính đúng trên tất cả bệnh nhân.

· Độ đặc hiệu (specifity) là tỷ số của tất cả những trường hợp xét nghiệm âm tính trên tất cả trường hợp không mắc bệnh.

Chúng ta hãy làm một thí nghiệm sau. Giả sử chúng ta đang thư c hiện một nghiên cưú trên 1000 người mà tình trạng nhiễm HIV đã được xác định bằng kính hiển vi điện tử hoặc bằng PCR (tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán). Trong nghiên cưú của chúng ta một test xét nghiệm mơí được sử dụng có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 90%. (Lưu ý rằng trong điều kiện của một bệnh viện huyện, các xét nghiệm có độ nhạy 98% và độ đặc hiệu 95%).

Chúng ta thực hiện hai nghiên cưú ở hai nhóm dân cư có tỷ lệ nhiễm HIV lần lượt là 2% và 20%. Các bảng sau cho thấy một kết quả ngạc nhiên.

GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM TÌM KHÁNG THỂ HIV

Thành phố A     Dân số              Độ nhạy 100%

Tỷ lệ nhiễm: 2%    1000 ngư ời    Độ đặc hiệu 90%

d

Hình 2.3.1: Thực nghiệm tìm giá trị của xét nghiệm. Tỷ lệ nhiễm thấp (Nguồn: Koc)

Lưu ý gía trị dự báo của xét nghiệm. Khả năng dương tính thực sự của một test dương tính chỉ có 17%. (20 người thực sự dương tính trong tổng số 118 kết quả xét nghiệm dương tính).

Ở làng B giá trị tiên lượng lên đến 70%. Vì vậy sự chính xác của kết quả xét nghiệm phụ thuộc vào tỷ lệ nhiễm HIV.

GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM TÌM KHÁNG THỂ HIV

Thành phố B           Dân số          Độ nhạy 100%

Tỷ lệ nhiễm: 20%     1000 ngư ời       Độ đặc hiệu 90%

d

Hình 2.3.2: Thực nghiệm tìm giá trị của xét nghiệm. Tỷ lệ nhiễm cao (Nguồn: Koc)

Kết quả sinh toán học này cảnh báo chúng ta cần thận trọng đối vơí các chiến lư ợc xét nghiệm.

2.3.2 Tổ chức xét nghiệm:

Một người có thể được xét nghiệm tìm HIV vì những lý do sau:

- Để theo dõi về mặt dịch tễ,

- Để bảo đảm truyền máu an toàn, và

- Để chẩn đoán.

Dựa vào những hạn chế về sinh-toán học của các xét nghiệm, chúng ta có thể xác định 3 hướng xét nghiệm sau đây:

· Để theo dõi về mặt dịch tễ: chỉ cần làm một xét nghiệm, không phụ thuộc vào tỷ lệ mắc bệnh (nhiễm HIV) tại địa phương đó là bao nhiêu.

· Để bảo đảm truyền máu an toàn, cần làm một test có độ nhạy cao. Tuy nhiên người cho máu không được thông báo kết quả xét nghiệm vì có thể có nhiều trường hợp dương tính giả.

· Để chẩn đoán một trường hợp nhiễm HIV, kết quả dương tính cần phải được khẳng định, bất kể tỷ lệ hiện mắc là bao nhiêu. Nếu tỷ lệ mắc >30% và có triệu chứng lâm sàng rõ ràng thì chỉ cần một test là đủ. Nếu tỷ lệ mắc trong khoảng 10% và 30% thì cần làm thêm một test nữa để khẳng định kết quả. Nếu tỷ lệ mắc <10% thì cần làm thêm hai xét nghiệm nữa.

Bệnh nhân phải được tư vấn kỹ trước và sau khi thực hiện các test xét nghiệm HIV, bất chấp kết quả xét nghiệm dương tính hay âm tính. Mục tiêu của việc tư vấn là làm giảm đến mức thấp nhất những tình huống nguy hiểm có thể xảy ra.

2.3.3 Các loại test xét nghiệm:

Chẩn đoán nhiễm HIV thường thông qua phát hiện các kháng thể. Những tiến bộ về kỹ thuật đã giúp phát triển những test nhanh, đơn giản nhưng có chất lượng cao. Test chẩn đoán nhanh rất thích hợp cho những nơi chỉ có vài xét nghiệm trong ngày, những nơi thiếu nhân viên xét nghiệm có kỹ năng và những nơi mà bệnh nhân thường ít quay lại để lấy kết quả xét nghiệm. Test nhanh phải là những test có độ đặc hiệu cao.

Thời gian xét nghiệm nhanh (thường chỉ mất 10-30 phút) và không đòi hỏi những trang bị đặc biệt hay kỹ năng xét nghiệm cao. Kết quả dương tính có thể được xác nhận khi sử dụng kết hợp 2 hoặc 3 test nhanh. Để tránh những lỗi về kỹ thuật, kết quả dương tính phải được xác nhận một lần nữa bằng một mẫu máu khác.

Kỹ thuật ELISA được sử dụng rộng rãi nhất khi có một số lượng lớn mẫu máu cần xét nghiệm hằng ngày. ELISA đòi hỏi số lượng mẫu lớn (40-90 mẫu cùng một lúc) và thời gian xét nghiệm khoảng 2g.

Trong một số ít trường hợp có kết quả chưa rõ ràng, kỹ thuật Western blot có thể được dùng để xác định tình trạng nhiễm HIV thực sự. Test này có độ nhạy rất cao, kết quả rất đáng tin cậy.

ab

Bảng 2.3.1: Sơ đồ quyết định về tư vấn và xét nghiệm HIV (WHO, 2005)


2.3.4 Các xét nghiệm khác

Các xét nghiệm huyết thanh

  • Các xét nghiệm huyết thanh đã được trình bày ở phần 2.2.3 của Bài 2
  • Cần làm thêm xét nghiệm tìm HBsAg và Anti-HCV để phát hiện những trường hợp đồng nhiễm HBV và HCV.

Các xét nghiệm hỗ trợ khác

  • Công thức máu toàn phần: Hemoglobin, hematocrit, số lượng bạch cầu, tiểu cầu, tổng số tế bào lympho.
Cách tính số tế bào lympho: Tổng số tế bào lympho = Tổng số bạch cầu x tỷ lệ % lymphocyte.
  • Xét nghiệm số tế bào CD4 (nếu có thể thực hiện được)
  • Soi đờm tìm vi khuẩn lao
  • Chụp X quang phổi
  • Xét nghiệm thai nếu có nghi ngờ
  • Làm phiến đồ cổ tử cung cho phụ nữ
  • Các thăm dò phát hiện nhiễm trùng cơ hội nếu có chỉ định
5

Hình 2.5: Xét nghiệm máu cho người nhiễm HIV (Nguồn www.viewimages.com)

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#11 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:17:48(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

BÀI 2.4: ĐÁNH GIÁ MỘT TRƯỜNG HỢP NHIỄM HIV


2.4.1 Diễn tiến tự nhiên

1.Giai đọan sơ nhiễm

Tính từ lúc virus HIV xâm nhập vào đến lúc cơ thể có kháng thể chống lại virus HIV (chuyển đổi huyết thanh). Thường kéo dài 4-6 tuần. Trong giai đọan này, mật độ virus rất cao, nên rất dễ lây nhiễm. Số lượng tế bào T CD4+ giảm thấp.

Giai đọan này, bệnh nhân có một số biểu hiện lâm sàng của nhiễm virus chung chung như sốt, đau cơ, nhức đầu, đau khớp, nổi hạch.

Trong giai đọan này, các xét nghiệm tìm kháng thể đều âm tính. Chỉ phát hiện virus (kỹ thuật PCR) hay các sản phẩm của HIV (gp 120, gp40...).

2.Giai đọan tiềm ẩn

Sau thời kỳ sơ nhiễm, cơ thể bắt đầu tạo kháng thể tìm diệt HIV. Trong giai đọan này, virus thường khu trú trong phần mầm của các hạch bạch huyết. Chúng thay đổi kháng nguyên và ở trong các đại thực bào nên tránh được sự tìm diệt của các tế bào gây độc và tế bào giết. Mật độ virus lúc này trong máu thấp, nhưng nguy hiểm vì người nhiễm không có biểu hiện gì, vẫn tham gia sinh họat bình thường trong xã hội, tiếp tục họat động tình dục nên làm tăng khả năng truyền bệnh.

Bên trong virus tiếp tục sinh sản và hủy họai dần tế bào T4. Giai đoạn này thay đổi tùy từng cá nhân (kéo dài từ 3-16 năm, trung bình 10 năm), lượng tế bào T4 không còn khả năng bù trừ sự hủy diệt của virus sẽ có biểu hiện suy giảm miễn dịch. Nồng độ virus trong máu tăng dần theo thời gian (do đó khả năng lây càng mạnh hơn).

6

Hình 2.6: Biến đổi CD4 ở người nhiễm HIV (Nguồn www.answers.com)

3. Giai đọan tiền AIDS (Trước đây gọi là giai đọan có biểu hiện các phức hợp liên quan đến AIDS) :

Giai đọan này, bệnh nhân thường có các biểu hiện lâm sàng với những hội chứng gợi ý đến nhiễm HIV: sốt kéo dài, tiêu chảy trên 1 tháng, sụt cân 10% trọng lượng cơ thể mà không tìm được lý do nào khác (lao, cường giáp, ung thư, đái đường không điều trị...).

Bệnh nhân thường bị nấm candida xoang miệng, ở âm đạo, đáp ứng kém với điều trị. Phụ nữ có thể lọan sản hay K cổ tử cung tại chỗ, viêm vòi trứng đưa đến áp xe buồng trứng-vòi trứng.

Zona nhiều vùng trên cơ thể, tái phát nhiều lần là một bệnh hay gặp. Giai đọan này T CD4+ đã giảm nhưng còn cao hơn 200/mm3.

4.Giai đọan AIDS

Theo quy định của CDC, mọi trường hợp có T4 < 200/mm3 đều xếp vào giai đọan AIDS. Hệ miễn dịch lúc này không còn có khả năng bảo vệ cơ thể. Trên lâm sàng bệnh nhân thường mắc các nhiễm trùng cơ hội, một số bệnh ác tính có thể có nguồn gốc virus (K cổ tử cung xâm lấn, u Kaposi). Một số có các biến chứng do chính virus HIV gây ra (viêm não do HIV.). Các bệnh này được xếp vào nhóm C trong phân lọai của CDC 1993.

Các bệnh cơ hội thường khó chữa, và dễ kháng thuốc. Nếu chữa khỏi thường hay tái phát, đòi hỏi phải uống thuốc phòng đều đặn và suốt đời. Bệnh nhân lại thường mắc nhiều bệnh nhiễm trùng cùng lúc cho nên rất khó điều trị và bệnh nhân thường tử vong .

Giai đọan này mật độ virus trong máu rất cao. Nhưng do không còn họat động được nên nguy cơ lây lan cho xã hội giảm nhiều. Chủ yếu lây cho bạn cùng tiêm chích hay do tai nạn nghề nghiệp y tế.

1

Hình 2.7: Diễn tiến của một trường hợp nhiễm HIV

Trong giai đoạn ngay sau khi nhiễm, HIV phân bố khắp cơ thể; tế bào CD4+ giảm mạnh. Đáp ứng miễn dịch giúp làm giảm nồng độ virus. Sau đó là giai đoạn im lặng, trong đó CD4+ tiếp tục giảm cho đến khi dưới mức có nguy cơ bị nhiễm trùng cơ hội. Nguồn: NIAD, cải tiến bởi Pantaleo và cộng sự, 1993.

2.4.2. Các bệnh nhiễm trùng cơ hội:

Trong cơ thể chúng ta có rất nhiều vi khuẩn, protozoa, virus, nấm. Khi hệ miễn dịch còn hoạt động, nó sẽ khống chế các tác nhân gây bệnh trên. Nhưng khi hệ miễn dịch bị suy yếu do HIV hoặc do dùng một số thuốc, các tác nhân trên trở nên không kiểm soát được và chúng sẽ gây bệnh cho con người.

Những bệnh lý nhiễm trùng xảy ra trong những trường hợp trên được gọi là các nhiễm trùng cơ hội (opportunistic infections).

* Một số bệnh nhiễm trùng cơ hội phổ biến:

1. Các bệnh do vi khuẩn:

  • Tiêu chảy (do Salmonella, Campylobacter, Shigella)
  • Viêm phổi do vi khuẩn
  • Bệnh do Mycobacterium avium
  • Giang mai
  • Lao: gây lao phổi, lao màng não

2. Các bệnh do virus:

  • Cytomegalovirus: gây bệnh ở mắt, có thể gây mù mắt
  • Herpes Simplex virus: gây nấm ở miệng hoặc ở cơ quan sinh dục nữ
  • Herpes Zoster virus
  • Virus viêm gan C
  • Human Papilloma virus

3. Bệnh nấm:

  • Aspergilosis
  • Nấm candida: thường gặp ở miệng, họng, âm hộ
  • Coccidioidomycosis
  • Viêm màng não do nấm cryptoccocus…

4. Bệnh ác tính:

  • Loạn sản/Ung thư trực tràng
  • Loạn sản/Ung thư cổ tử cung
  • Karposi’s Sarcoma
  • Lymphoma

5. Nhiễm trùng do Protozoa:

  • Cryptosporidiosis
  • Isosporiasis
  • Pneumocystis pneumonia
  • Toxoplasmosis: gây bệnh ở não
6. Các bệnh thần kinh:
  • AIDS Dementia Complex (ADC)
  • Bệnh lý thần kinh ngoại biên

7. Các bệnh khác:

  • Loét aph-to
  • Giảm tiểu cầu
  • Hội chứng suy mòn

2.4.3. Đánh giá một trường hợp nhiễm HIV:

  • Tìm hiểu về tiền sử :
    • Có các hành vi nguy cơ
    • Tiền sử mắc các bệnh nhiễm trùng qua đường tình dục
    • Tiền sử mắc các bệnh nhiễm trùng cơ họi và các bệnh lý liên quan đến HIV, bao gồm cả lao.
  • Tình trạng sức khoẻ hiện tại:
    • Tình trạng miễn dịch
    • Có dùng các thuốc ức chế miễn dịch không (Corticoide...) + Tình trạng dinh dưỡng
    • Có các bệnh lý tim mạch, hô hấp, huyết học...kèm theo không
Lâm sàng:
  • Khám toàn trạng, cân nặng
  • Khám hạch ngoại vi, các biểu hiện bệnh lý ở các cơ quan và hệ cơ quan
  • Xác định giai đoạn lâm sàng nhiễm HIV
Phát hiện các bệnh lý nhiễm trùng cơ hội
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#12 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:18:47(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ 3 : NGƯỜI NHIỄM HIV


Chào các bạn

Trong chủ đề nầy bạn sẽ tiếp xúc với các kiến thức về chăm sóc người nhiễm HIV trong tất cả các giai đoạn, từ khi sơ nhiễm cho đến giai đoạn AIDS. Các bài sẽ đề cập đến cả chăm sóc ban đầu lẫn các điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên chúng tôi cũng chỉ cung cấp những nguyên lý cơ bản chung nhất, còn trên một bệnh nhân cụ thể chúng ta cần vận dụng phù hợp vì tiến triển và biểu hiện lâm sàng của HIV/AIDS rất đa dạng và phong phú.


Chủ đề 3 gồm có :

3.1. Bài 1 : Điều trị theo triệu chứng

3.2. Bài 2 : Điều trị kháng virut HIV

3.3. Bài 3 : Điều trị ở các nhóm đặc biệt (thai phụ, trẻ em, người nghiện chích ma túy..)

3.4. Bài 4 : Bảo vệ sức khoẻ cho người nhiễm HIV – dinh dưỡng, vắc xanh và phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội

3.5. Những điều cần nhớ


MỤC TIÊU :


Đọc xong chủ đề nầy, các bạn có thể có khả năng :

- Hiểu được rằng chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người nhiễm HIV là một quá trình liên tục, có hệ thống


- Trình bày được các triệu chứng và hội chứng quan trọng của người nhiễm HIV ở các giai đoạn có triệu chứng, các bệnh nhiễm trùng cơ hội thường gặp ở Việt Nam như lao, nhiễm nấm Penicillum marneffei, viêm phổi kẽ do P.jeroveci..

- Điều trị bước đầu một số rối loạn ở da, hệ tiệu hóa, thần kinh, tâm lý…v.v.. ở người nhiễm HIV.

- Nắm được cơ chế tác dụng, chỉ định, phối hợp thuốc, theo dõi và xử lý tác dụng phụ của các thuốc kháng HIV, đặc biệt các thuốc đang được xử dụng tại Việt Nam.

- Nắm được các nguyên tắc điều trị giảm đau với những trường hợp không thể điều trị được nguyên nhân.

- Nắm được khái niệm về tư vấn và xét nghiệm tự nguyện.

- Nắm được những nguyên tắc chính về dinh dưỡng cho người nhiễm HIV


Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#13 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:19:25(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

BÀI 3.1. ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG


Điều trị người nhiễm HIV chủ yếu là điều trị triệu chứng hay các hội chứng nhất là ở mức chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Tuy không chuyên sâu như những trung tâm chuyên về điều trị HIV/AIDS, nhưng điều trị ttheo triệu chứng đóng vai trò rất quan trọng. Những vấn đề cơ bản sau đây thường được công nhận rộng rãi bởi nhiều chuyên gia về HIV

- Tư vấn về dinh dưỡng,

- Phòng một số bệnh nhiễm trùng cơ hội, đặc biệt nhiễm Toxoplasma, PCP và nấm P. marneiffei. Lao làm một vấn đề quan trọng, nhưng trong hoàn cảnh ở Việt Nam, việc phòng lao thường khó áp dụng triệt để.

- Điều trị triệu chứng.

- Điều trị một số bệnh nhiễm trùng cơ hội.

- Điều trị một số bệnh ác tính,

- Điều trị đặc hiệu HIV.

- Điều trị giảm đau khi không thể điều trị được nguyên nhân

- Chăm sóc về tinh thần.

Tư vấn về dinh dưỡng : ngoài các thức ăn đủ chất dinh dưỡng và năng lượng, bệnh nhân còn được tư vấn về một số bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng lây qua đường ăn uống, có thể trở thành những bệnh ác tính ở người nhiễm HIV. Ví dụ : Cần luôn luôn ăn chín, uống sôi. Thức ăn sống (rau sống có thể nguồn của nhiều loại giun sán và vi trùng), rửa sạch trái cây và tay trước khi ăn (Phòng nhiễm Toxoplasma)

Phòng nhiễm Toxoplasma rất quan trọng vì đây là bệnh cơ hội phổ biến, mầm bệnh hiện diện trong môi trường quanh chúng ta, trong đất, dính vào trái cây, rau quả. Đặc biệt mèo và phân mèo là nguồn bệnh chính của loại ký sinh trùng nầy.

Phòng nhiễm P. jeroveci (trước đây gọi là P. carinii, viết tắt là PCP) và lao thì khó hơn. Với PCP, chủ yếu là phòng bằng thuốc uống khi tình trạng miễn dịch suy giảm. Cụ thể khi bênh nhân có số lượng tế bào lympho T CD4 + < 200/m3

Nói chung, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thường xuyên cập nhật các khuyến cáo phòng bệnh cơ hội cho người nhiễm HIV. Các bạn có thể tìm thấy các khuyến cáo của WHO ( recommendations of the WHO) dưới đây hay trên các trang web của WHO.

361


70

.Bảng 3.3.: Khuyến cáo điều trị theo giai đoạn nhiễm HIV của WHO 2006

259


Cần lưu ý là nhiễm trùng cơ hội ở người nhiễm HIV, khi hệ miễn dịch càng giảm, biểu hiện bệnh càng không điển hình. Các bệnh nhiễm trùng cơ hội lại rất ít gặp trước khi có đại dịch HIV, đa số chưa được giảng dạy theo chương trình ở các trường Đại học Y khoa ở Việt Nam. Ngoại trừ lao, zona, các bệnh khác đều có vẻ lạ lẫm, ngay cả tên tác nhân gây bệnh. Vì thế, ở đây chúng tôi nhắc lại một số khái niệm cơ bản và các bệnh nhiễm trùng cơ hội hay gặp ở Việt Nam. Bạn nào muốn tìm hiểu sâu hơn xin xem lại chủ đề 2

3.1.1 NHIỄM TRÙNG CƠ HỘI : (NTCH)

Định nghĩa :

NTCH là những bệnh chỉ xẩy ra trên những cơ địa suy giảm miễn dịch (leucemie, dùng thuốc ức chế miễn dịch, hay nhiễm HIV giai đọan AIDS). Trên cơ thể bình thường các tác nhân gây bệnh thường bị hệ miễn dịch cơ thể tiêu diệt.

Tuy nhiên, khái niệm nầy hiện nay được mở rộng gồm cả những bệnh nhiễm trùng ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch do AIDS mặc dù chúng cũng có thể gây bệnh ở ngừơi bình thường như lao, viêm phổi vi khuẫn thông thường. Điều khác biệt là trên bệnh nhân AIDS, các bệnh nầy thường tiến triển nhanh chóng, đáp ứng chậm với kháng sinh đặc hiệu, tái phát nhiều lần..

Danh sách bệnh cơ hội trong AIDS rất nhiều, và ngày càng được bổ sung thêm. Nó tùy thuộc vào môi trường, tập quán, cơ địa của bệnh nhân và vùng bệnh nhân sống. Chúng tôi chỉ kể đến một số bệnh hay gặp ở nước ta.

Lao : là bệnh cơ hội hàng đầu ở người nhiễm HIV nước ta. Lao làm tiến triển HIV nhanh hơn đến giai đọan cuối. Ngược lại, nhiễm HIV làm lao dễ lan tỏa tòan thân, khó điều trị và làm xuất hiện các chủng kháng thuốc nhiều hơn. Phòng nhiễm lao cho người nhiễm HIV ở nước ta, căn cứ theo phản ứng tuberculine (đang được áp dụng ở các nước phát triển) là không thực tế, vì lao rât phổ biến, đa số mọi người đều có tiếp xúc với vi khuẩn lao. Những người từ 25 tuổi trở xuống, được hưởng chương trình tiêm chủng mở rộng, chủng BCG từ nhỏ, nên phản ứng tuberculine (+) không có giá trị là mới nhiễm lao. Người có phản ứng tuberculine (-) cũng chưa hẳn là chưa nhiễm lao vì trong nhiễm HIV, miễn dịch trung gian tế bào (miễn dịch kháng lao chính) bị suy giảm.

Nấm Candidase : Hay xuất hiện ở xoang miệng và âm đạo. Tuy nhiên khi tình trạng miễn dịch giảm, nấm lan đến thực quản, gây nuốt đau, khó nuốt hay lan vào nhu mô phổi ...thậm chí gây nhiễm nấm huyết, lan đến các nội tạng khác. Điều trị rất khó

Nhiễm nấm Penicillum marnerffei : Lọai nấm nầy chỉ phổ biến ở Đông nam Á, có nguồn gốc từ chuột đồng (Bambou Rat). Ở Thái Lan được báo cáo là NTCH thứ ba. Ở Việt Nam, tuy chưa có công bố chính thức, nhưng đã phát hiện nhiều trường hợp ở cả ba miền. Thường có biểu hiện nhiễm nấm huyết, phổi và da. Ở da, biểu hiện dễ lầm với u nhầy lây (Molluscum contagium). Điều trị khó khăn với thuốc kháng nấm. Tử vong cao.

Viêm phổi do Pneumocystis Jeroveci ( trước đây gọi là P.carinii) : Là bệnh cơ hội phổ biến ở các nước Châu Âu và Mỹ. Ở nước ta báo cáo chính thức chỉ có 5 trường hợp ở thành phố HCM. Trong thực tế chúng ta có thể gặp nhiều trường hợp viêm phổi kẽ, không đáp ứng với các kháng sinh, dù phổ rộng và các thuốc kháng nấm. Nhưng đáp ứng với Bactrime liều cao. Đây là một bệnh phòng được. Khi bệnh nhân có T CD+ < 200 mm3 cần dùng thuốc nầy để dự phòng.

.
123
Ảnh 3.1.1. Biểu hiện nhiễm nấm P. marneffii ở da.
Ảnh : Dr. Nguyễn Lô


Tiêu chảy : do rất nhiều nguyên nhân. Với các vi khuẩn thông thường, dù có đáp ứng với Fluoroquinolone phối hợp với Metronidazole, bệnh thường tái phát với các khoảng cách rất gần. Có trường hợp chỉ đáp ứng với Bactrim

Viêm màng não do nấm Crytococcus neoformant : Cần cảnh giác khi bệnh nhân HIV(+) có hội chứng màng não. Cần cho xét nghiệm dịch não tủy (nhuộm bằng mực tàu để phát hiện).

Nhiễm Toxoplasma : là một bệnh có thể phòng được bằng cách khuyên bệnh nhân không tiếp xúc với mèo và phân mèo. Có thể phòng bệnh thứ phát sau khi chữa khỏi bằng Bactrim hay Pyrimethamine


Xếp loại giai đoạn nhiễm HIV của CDC năm 1993

bang xep loai CDC

Những bệnh nhân thuộc vào nhóm C và/hay có chỉ số 3 được xếp vào giai đoạn AIDS.


Các nhóm được quy định như sau :


Nhóm A : Không có các biểu hiện thuộc nhóm B và C và :- Không có triệu chứng

- Có hạch toàn thân (ít nhất hai vị trí ngoài vùng bẹn)

Nhóm B : Có biểu hiện lâm sàng, nhưng không có các bệnh thuộc nhóm C. Gồm các biểu hiện sau :

- Có các triệu chứng của thời kỳ sơ nhiễm HIV

- Viêm mạch nhiễm trùng

- Nhiễm nấm Candida miệng và hầu

- Nhiễm Candida âm dạo kéo dài, hay tái phát và khó điều trị

- Loạn sản vừa cổ tử cung, ung thư cổ tử cung tại chỗ

- Sốt (>38,50) hay tiêu chảy kéo dài > 1 tháng.

- Zona nhiều vùng, tái phát nhiều lần.

- Bạch sản lông ở lưỡi

- Tử ban giảm tiểu cầu vô căn

- Viêm vòi trứng, nhất là khi có biểu hiện áp xe buồng trứng - vòi trứng

- Bệnh thần kinh ngoại biên

Nhóm C
: gồm các biểu hiện sau :

- Candida phế quản, khí quản hay phổi

- Ung thư cổ tử cung xâm lấn

- Candida thực quản

- Nhiễm nấm coccidioidomycose lan toả hay ngoài phổi.

- Cryptoccose ngoài phổi.

- Cryptosporidiose ruột kéo dài trên một tháng.

- Nhiễm virut CMV (ngoài gan, lách hay hạch)

- Bệnh võng mạc do CMV

- Bệnh não do HIV

- Nhiễm virut herpes với loét kéo dài trên một tháng hay nhiễm ở phế quản, phổi , thực quản.

- Nhiễm nấm Histoplasma lan toả hay ngoài phổi.

- Nhiễm Isospora ruột mạn (> 1 tháng)

- U Kaposi

- U lymphoma Burkitt

- U lymphoma nguyên bào miễn dịch

- Lymphoma não tiên phát

- Nhiễm Mycobacterium avium hay kansasii, lan toả hay ngoài phổi.

- Nhiễm lao

- Viêm phổi do Pnemocystic jeroveci (carinii cũ)

- Viêm phổi thông thường tái phát nhiều lần

- Viêm não chất trắng lan tỏa

- Nhiễm Samonella non typhi nhiều lần

- Nhiễm Toxoplasma não.

- Hội chứng suy mòn do HIV

Những bệnh nhân đã xếp vào nhóm thấp hơn, dù sau đó có cải thiện lâm sàng, vẫn không chuyển nhóm.

Bảng xếp lọai giai đọan theo WHO 1993 (cho người lớn)

Giai đoạn 1 :

- Không có triệu chứng

- Hạch ngoại biên nhiều vùng

Mức độ hoạt động 1 : Sinh họat bình thường trong đời sống cũng như nghề nghiệp

Giai đoạn 2:

Sụt cân ngoài ý muốn > 10 %.

Biểu hiện ngoài da nhẹ : viêm da nhầy, chốc ngứa, loét miệng tái phát, viêm miệng dạng góc (angular chelitis), nấm móng.

Zona trong 5 năm gần đây

Nhiễm trùng hô hấp trên tái phát nhiều lần.

Kèm/ hay mức độ hoạt động 2 : Hoạt động bình thường, có triệu chứng.

Giai đoạn 3 :

Sụt cân > 10 %.

Tiêu chảy kéo dài không rõ nguyên nhân > 1 tháng

Sốt không rõ nguyên nhân > 1 month

Nhiễm candida miệng

Bạch sản lông ở miệng

Lao phổi (kể từ năm trước)

Nhiễm khuẫn nặng (viêm phổi, viêm cơ mủ ..)

Và/ hay có mức độ hoạt động 3 : cần phải nghỉ trên giường < 6 giờ kể từ tháng trước.

Giai đoạn 4 :

Hội chứng suy mòn (theo tiêu chuẩn CDC)

Bệnh phổi do Pnemocystis carinii (jeroveci)

Bệnh Toxoplasma não.

Tiêu chảy do Cryptosporidia > 1 tháng

Nhiễm Crytococcus ngoài phổi.

Nhiễm virut CMV các cơ quan ngoài ga, lách, mắt và hạch lympho

Nhiễm virut Herpes simplex với loét da > 1 tháng hay ở phế quản, phổi hay thực quản.

Viêm não chất trắng tiến triển.

Nhiễm nấm toàn thân ( Histoplamosis, coccidioidomycosis..)

Nhiễm Candida thực quản, khí quản, phế quản hay phổi.

Nhiễm lan toả các Mycobacteriosis không điển hình

Nhiễm trùng huyết do Samonella (non-typhoid) tái phát nhiều lần

Lao ngoài phổi.

Lymphoma

U Kaposi.

Bệnh não do virut HIV ( theo tiêu chuẩn của CDC)

Và/hay có mức độ hoạt động 4 : Phải nằm nghỉ trên giường > nửa ngày kể từ tháng vừa rồi.

3.1.2. Điều trị giảm đau (Palliative treatment)

Vào giai đoạn AIDS, bệnh nhân thường mắc nhiều bệnh không điều trị được tận gốc. Trong trường hợp nầy chúng ta cần điều trị là giảm bớt đau đớn, giúp bệnh nhân thoải mái hơn trong những ngày còn lại.

Một số biện pháp làm bệnh nhân dễ chịu hơn như giảm nôn, hạ sốt, giảm tăng áp sọ não cũng nằm trong phạm vi nầy, nên Bộ Y tế dùng chữ điều trị giảm nhẹ. Tuy nhiên hầu hết là điều trị giảm đau, nên chúng tôi dùng chữ nầy có vẻ quen thuộc và thực dụng hơn.

Mục tiêu của điều trị giảm đau là giảm chịu đựng cho bệnh nhân. Thận trọng khi dùng các thuốc giảm đau gây ngủ và gây nghiện, phải theo đúng quy định của Bộ Y tế về loại thuốc nầy

243
465
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#14 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:19:50(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

BÀI 3.2. ĐIỀU TRỊ KHÁNG HIV (ART)


Hiện nay có 4 nhóm thuốc kháng HIV được công nhận trong điều trị chuẩn HIV. Mỗi nhóm có một cơ chế tác động khác nhau lên quá trình nhân lên của HIV.


1. Thuốc ức chế men sao chép ngược có cấu trúc Nucleoside hay Nucleotide (NRTIs).

Nhóm nầy ức chế men sao chép ngược RT theo cơ chế tương tranh do có cấu trúc tương tự. Các thường được gọi là nhóm khung trong điều trị HIV vì nhiều phác đồ có chứa đến 2 thuốc thuộc nhóm nầy


2.Thuốc ức chế men sao chép ngược không có cấu trúc nucleoside (Non-Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitors : NNRTIs):

Nhóm nầy cũng có tác dụng ức chế men RT nhưng không có cấu trúc nucleoside. Ức chế mạnh nhưng nhanh chóng bị kháng thuốc. Vì thế không bao giờ được dùng một mình thuốc nầy trong điều trị HIV..


3.Các thuốc kháng protease (PI):
Cơ chế tác dụng : thuốc ức chế mạnh quá trình trưởng thành của các virion, tạo thành các virut con không có khả năng lây nhiễm. Phối hợp 2 loại thuốc trên với một loại của nhóm nầy có hiệu quả cao trong ức chế HIV nên còn được gọi là phác đồ có hiệu quả cao (HAART). Ở Việt Nam, do giá thành còn đắt nên nhóm ức chế protease không phổ biến và không được chọn lựa cho các chương trình có tính chất rộng rãi.

4. Ức chế sự xâm nhập của virut vào tế bào đích (EI):
Nhóm nầy có một loạiThuốc ký hiệu T 20 được công nhận ở Hoa kỳ và Châu Âu từ năm 2003, dưới dạng thuốc tiêm. Chỉ dùng cho những bệnh nhân đã thử dùng các thuốc ARV khác.

5. Một nhóm thuốc mới đang thử nghiệm giai đoạn 3 có cơ chế ức chế khả năng tích hợp tiền virut vào DNA tế bào, bằng cách ức chế men integrase của virut.


123

Ảnh 3.2.1 : Ảnh một số thuốc kháng HIV thông dụng


98

Ảnh 3.2.2 : Các thuốc kháng HIV được khuyến cáo dùng năm 2006

Từ những kết quả nghiên cứu cho thấy các thuốc ARV làm giảm nồng độ virut đáng kể, dù không tiệt căn được virut có khả năng biến quá trình nhiễm HIV trở thành bệnh mạn tính phụ thuộc vào thuốc, nhất là với phác đồ phối hợp 3 thuốc có hiệu quả cao (HAART), ban đầu liệu pháp nầy được những người giàu có xem như là một cứu cánh, thậm chí không còn cảnh giác với căn bệnh nầy. Tuy nhiên trong thực tế, xử dụng lâu dài đem đến nhiều tác dụng không mong muốn quan trọng và hiện tượng kháng thuốc, nên chỉ định hiện nay có phần hạn chế hơn so với chỉ định ở những năm đầu tiên khi liệu pháp này mới ra đời.


Chỉ định chung cho tất cả mọi người nhiễm HIV dù ở giai đọan nào đang có nhiều bàn cãi, và vẫn chưa ngã ngũ. Tùy thầy thuốc vào trường hợp cụ thể.


Ở các nước nghèo như Việt Nam, chỉ định dùng thuốc kháng HIV ở người trưởng thành tùy thuộc vào giai đoạn lâm sàng và chiến lược của từng quốc gia. Đếm và theo dõi số lượng tế bào lympho T CD4+ góp phần vào chỉ định dùng ARV.


Ở Việt Nam, Bộ Y Tế đã ban hành Quy trình điều trị HIV/AIDS bằng thuốc kháng virut HIV ngày 09 tháng 6 năm 2007, với nhiều bước chặt chẽ.


Trước tiên, cần đánh giá bệnh nhân có sẵn sàng hợp tác, giải thích rõ về ART, bên cạnh ích lợi ngăn cản tiến triển của virut HIV, còn có nhiều điểm cần cân nhắc ( Phải dùng thuốc đều đặn, đúng giờ và suốt đời, phải tuân thủ nghiêm ngặt, có nhiều tác dụng phụ, thậm chí độc tính, giá cả ) Bệnh nhân cần có cam kết và bảo đảm của người hổ trợ và phải qua một hội đồng xét duyệt, trong đó cân nhắc cả khả năng cung cấp thuốc định kỳ và thường xuyên đến tay bệnh nhân có thể thực hiện được hay không trong thực tế. Tư vấn về dinh dưỡng, động viên tinh thần và tạo công việc ổn định cho bệnh nhân, sự chấp nhận của gia đình và cộng đồng (không kỳ thị cũng có tác dụng rất quan trọng vào khả năng hợp tác của bệnh nhân)


Thầy thuốc và cơ quan y tế đặc trách về ARV cho bệnh nhân phải có kế hoạch cấp phát thuốc, theo dõi sự tuân thủ của bệnh nhân, khám và phát hiện các tác dụng phụ (có khi nguy hiểm) để có thể xử lý kịp thời cho bệnh nhân tùy theo tình huống., nếu cần phải đổi phác đồ điều trị.


Thời điểm xử dụng ARV còn nhiều bàn cãi. Tuy nhiên một số điểm sau được thống nhất :


- Nên xử dụng ARV vào thời điểm có bệnh cơ hội đầu tiên. Tuy nhiên ở Việt Nam, do có tương tác giảm tác dụng giữa các thuốc ARV nhóm 1 và 2 với các thuốc kháng lao, khi đang mắc lao, người ta không dùng đồng thời kháng lao với ARV mà chờ đến khi điều trị lao ổn định.


- Số lượng T CD4 không hẳn là tiêu chuẩn chỉ định dùng ARV. Tuy nhiên, theo dõi hiệu quả của ARV thì số tế bào T CD4 là một thông số quan trọng khi không có được nồng độ virut.


Cụ thể hơn, chỉ định của ARV có thể như sau :

1. Những bệnh nhân có triệu chứng bệnh cơ hội, trừ lao ( giai đọan B và C theo CDC 1993 hay giai đoạn 3 và 4 theo WHO). Vì lao có thể mắc ngay khi tình trạng miễn dịch đang còn bình thường. Hơn nữa, các thuốc kháng lao như Rifampicine và INH có tương tác ức chế tác dụng một số thuốc kháng HIV thuộc nhóm kháng RT đang được dùng phổ biến ở nước ta, nhất là với Nevirapine. Tuy nhiên, trên bệnh nhân đang xử dụng ARV mà phát hiện nhiễm lao thì không ngừng thuốc, chỉ đổi một số thuốc có tương tác âm tính với thuốc kháng lao, hoặc tăng tác dụng độc lên gan quá nhiều

.

2. Bệnh nhân không có triệu chứng nhưng số lượng T CD4+ < 350/mm3.


3. Bệnh nhân không triệu chứng, 350 < T4 < 500/mm3 nhưng nồng độ RNA HIV > 30.000 copies/mm3. Nếu RNA < 30.000 thì tùy quyết định thầy thuốc.


4. Bệnh nhân không triệu chứng, T4 > 500 : Hiện nay có khuyến cáo không nên dùng. Hội nghị toàn cầu về HIV/AIDS tại Sydney năm nay (2007)đang đặt vấn đề xử dụng thuốc kháng HIV sớm hơn.


5. Ngay sau phơi nhiễm HIV


Các bạn có thể tham khảo hàng cuối trong bảng khuyến cáo của WHO về điều trị nhiễm HIV theo các giai đoạn có sẵn trong thư viện trực tuyến


Một số yếu tố cần xem xét khi chọn phác đồ điều trị HIV :

  • Công thức thuốc phù hợp, nhất là trong các chế phẩm có liều cố định ;
  • Được phép lưu hành của Bộ Y tế
  • Độc tính
  • Khả năng theo dõi bằng cận lâm sàng ;
  • Khả năng có thể đổi phác đồ diều trị sau nầy khi phác đồ đang dùng không thể tiếp tục được
  • Khả năng và các biện pháp khuyến khích, theo dõi sự tuân thủ của bệnh nhân (ARV phải uống đều đặn hàng ngày 1 hay 2 lần);
  • Các bệnh đồng nhiễm (Lao, viêm gan siêu vi B, C)
  • Lưu ý đến phụ nữ có thai và ở trong giai đoạn sinh nở ;
  • Nguồn thuốc có tại địa phương ;
  • Giá cả và hiệu quả kinh tế - tác dụng
  • Lưu ý HIV-2 đề kháng tự nhiên với thuốc ức chế RT không có cấu trúc nucleoside NNRTIs.


568

Ảnh 3.2.3 : Sơ đồ thuốc kháng HIV nên xử dụng đầu tiên theo khuyến cáo của WHO 2006

Chú ý :

1 Phác đồ kết hợp hai thuốc NRTIs/NNRTI dựa trên kết hợp 3 loại thuốc: hai NRTIs với hoặc là NVP hay EFV thuộc nhóm NNRTI.


2 Kết hợp NRTI với 3TC hay FTC trong các phác đồ chuẩn ban đầu. Hiện nay người ta không dùng phác đồ chỉ có 2 loại thuốc vì khả năng xuất hiện virut kháng thuốc rất cao

.

3 Trong một số trường hợp đặc biệt, nhóm NNRTI có thể gây nhiều biến chứng trầm trọng (Ví dụ : Phụ nữ có CD4 từ 250 đến 350 cells/mm3, viêm gan siêu vi , lao, tác dụng phụ nặng của NVP hay EFV, và nhiễm HIV-2 ), có thể tạm dùng cả 3 loại thuốc thuộc nhóm NRTI.


4. Phác đồ có hiệu quả cao thường được kết hợp hai loại NRTI với anti-protease chưa phổ biến ở Việt Nam vì rất đắt.


Các bạn có thể tham khảo thêm Hướng dẫn điều trị ARV trên trang Web về HIV của Bộ Y tế.


Sáu tháng điều trị đầu tiên ARV rất quan trọng. Tuân thủ nghiêm ngặt điều trị là then chốt để thành công. Các thuốc ARV có nhiều độc tính, từ những triệu chứng nhẹ có thể thích ứng được cho đến các tai biến chết người.


143

67


Nguyên tắc chung khi thay thế một loại thuốc nào trong phác đồ ARV được xác định gây phản ứng phụ là :


- Thay thế thuốc cùng nhóm


- Thay bằng các thuốc không có tác dụng phụ tương tự như thuốc đang dùng.


87



HỘI CHỨNG VIÊM DO PHỤC HỒI MIỄN DỊCH (Immune Reconstitution Inflammatory Syndrome : IRIS)


Trong khoảng từ tuần thứ hai đến tuần thứ mười hai kể từ khi bắt đầu dùng thuốc ARV, bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng lâm sàng của một nhiễm trùng cơ hội mới hay tái phát một bệnh cũ, có khi chỉ là một phản ứng viêm toàn thân, do hệ miễn dịch hồi phục. Hiện tượng nầy được gọi là hội chứng viêm do phục hồi miễn dịch, viết tắt theo tiếng Anh là IRIS hay gọn hơn IRS. IRS thường kết hợp với một số lớn các nhiễm trùng có liên quan đến HIV và tình trạng viêm. Hay gặp nhất là IRS với nhiễm trùng Mycobacteria ( lao hay các mycobacteria không điển hình) hay nhiễm cryptococcus, chiếm đến 60% theo báo cáo của các nước tiên tiến. Có thể xuất hiện các bệnh tự miễn trong giai đoạn IRS như vảy nến, rụng tóc, viêm tuyến giáp. Điều trị trong giai đoạn IRS gồm điều trị tác nhân gây bệnh để giảm lượng kháng nguyên, tiếp tục ARV và corticoide.


Theo dõi cận lâm sàng


Kết hợp theo dõi lâm sàng và cận lâm sàng người nhiễm HIV có 2 mục đích : theo dõi đồng thời động viên, tư vấn khi cần thiết để bảo đảm sự tuân thủ điều trị ARV và phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Mục đích thứ hai là đánh giá hiệu quả, tác dụng phụ và xác định sự thất bại của điều trị.




54


39
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#15 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:20:09(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
BÀI 3.3. CHĂM SÓC NGƯỜI NHIỄM HIV Ở CÁC NHÓM ĐẶC BIỆT (THAI NGHÉN, TRẺ EM, TIÊM CHÍCH MA TUÝ )

3.3.1. Phụ nữ

Tác hại của HIV lên sinh sản ở phụ nữ chưa được đánh giá đầy đủ. Một số nghiên cứu ở châu Phi cho thấy HIV có ảnh hưởng xấu lên quá trình sinh sản ở người phụ nữ dù có triệu chứng hay không. Người phụ nữ nhiễm HIV có tỷ lệ thụ tinh thấp và dễ hư thai hơn người không nhiễm. Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại không thấy khác biệt gì giữa người nhiễm HIV với không nhiễm về phương diện thai nghén. Một số khác lại có kết luận rằng, HIV chỉ ảnh hưởng đến thai nghén khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Biến đổi và tỷ lệ phần trăm tế bào T CD4+ ở người có thai và không có thai (đều nhiễm HIV) không khác nhau.

Cho đến nay, người ta nhận thấy, bản thân HIV không gây dị tật bẩm sinh hay sẩy thai. Ngược lại thai nghén không làm quá trình nhiễm HIV tiến triển nhanh hơn nếu đang ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên nếu mang thai vào giai đoạn muộn của nhiễm HIV, có thể làm chậm phát triển phôi, đẻ non, trẻ thiếu cân và có thể tử vong trước hay ngay sau sinh.

Các vấn đề khác về HIV đối với phụ nữ có thai đều giống như chưa có thai, và chiến lược săn sóc cho bản thân người phụ nữ không có gì thay đổi.

Vấn đề lây nhiễm HIV cho trẻ từ mẹ

HIV có thể truyền từ mẹ qua thai nhi trong thời gian mang thai, giai đoạn chu sinh hay do cho con bú, nhưng đa số xẩy ra trong thời gian chu sinh. Với người mẹ đã nhiễm HIV trong thời gian mang thai, nếu sau đó cho con bú, nguy cơ truyền HIV cho con tăng thêm 14%. Với người nhiễm HIV sau sinh (như thế khi sinh ra cháu chưa nhiễm HIV), nếu cho con bú, nguy cơ lây là 29%. Một số nghiên cứu cho thấy, nguy cơ cao nhất khi bú mẹ nhũng tháng đầu tiên sau sinh, sau đó nguy cơ giảm dần, nhưng không triệt tiêu hẳn một khi còn tiếp tục bú mẹ, Nếu người mẹ bị viêm nhiễm ở tuyến vú, nguy cơ còn cao hơn.


Các yếu tố tăng nguy cơ nhiễm HIV cho con từ mẹ HIV (+) :

o Nồng độ virut ở mẹ > 5 – 10.000 copies/ml (vào thời điểm chuyển đổi huyết thanh), và khi mẹ ở giai đoạn cuối, CD4 < 100 /mm3,

o Mẹ nhiễm thêm các bệnh lây qua đường tình dục, tái phát nhiều lần,

o Sốt rét làm tổn thương chức năng của nhau thai và làm HIV dễ xuyên qua hơn ,

o Thiếu Vitamin A,

o Sinh non,

o Trong sinh đôi, cháu ra trước có nguy cơ nhiễm cao hơn,

o Nhiễm trùng ối (chorioamnionitis),

o Sinh tự nhiên qua đường âm đạo,


o Vỡ, rách các màng của thai (màng rụng, màng ối…) kéo dài hơn 4 giờ,


o Vỡ bánh nhau,


o Các thủ thuật xâm nhập, can thiệp khi sinh (hút, cắt tầng sinh môn, forcep…)


o Hút mũi và đàm dãi bằng phương pháp cơ học,

o Nuôi con bằng sữa mẹ, nhât là phối hợp với cho ăn thêm các thức ăn khác.

Một nghiên cứu gợi ý rằng, nuôi phối hợp sữa mẹ với các thức ăn khác (ăn sam), dễ gây nhiễm trùng (virut hay vi khuẩn) đường tiêu hóa của trẻ, làm tổn thương tính nguyên vẹn niêm mạc thành ruột, tạo điều kiện cho HIV dễ xâm nhập hơn.


Các biện pháp làm giảm nguy cơ truyền HIV từ mẹ sang con :

o Trong thời kỳ mang thai

§ Làm tốt dịch vụ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT), nâng đỡ tinh thần.

§ Phát hiện và điều trị các bệnh dễ tăng nguy cơ truyền HIV cho con như sốt rét, các bệnh lây qua đường tình dục và các bệnh nhiễm trùng khác, CÀNG SỚM CÀNG TỐT.

§ Chăm sóc thai nghén tốt: Phòng sốt rét ở dùng có mật độ sốt rét cao, cung cấp sắt. Tư vấn xử dụng thuốc phòng lây nhiễm HIV từ mẹ qua con và phương pháp nuôi con sau sinh.

§ Bắt đầu dùng ARV phòng bệnh cho thai nhi,

§ Tư vấn về tình dục an toàn.

o Trong thời gian chu sinh

§ Làm chậm thời gian vỡ các màng của thai

§ Hạn chế thăm âm đạo bằng tay khi các màng đã vỡ,

§ Nếu có phương tiện, sát trùng âm đạo bằng các thuốc diệt khuẩn và các virut (có cộng dụng làm giảm nhiễm trùng chu sinh và hậu sản hơn là giảm lây HIV),

§ Hạn chế cắt tầng sinh môn và các thủ thuật sản khoa hổ trợ khi không quá cần thiết.

§ Mổ lấy thai chủ động và có chọn lọc, làm giảm nguy cơ nhiễm HIV cho con hơn là đẻ tự nhiên. Tuy nhiên chỉ định nầy thường bị hạn chế ở những nước nghèo vì nguy hiểm cho mẹ sau mổ cao hơn và dễ gây phơi nhiễm do tai nạn nghề nghiệp cho kíp mỗ.


§ Nếu không có đủ thuốc, có thể dùng một mình NVP.

o Sau sinh

§ Tránh hút mũi và đàm dãi cho trẻ bằng phương tiện cơ học,

Phối hợp với các biện pháp khác, chống kỳ thị, cách ly hay sỉ nhục phụ nữ có thai nhiễm HIV.

Tạo điều kiện để những người nầy hưởng các dịch vụ săn sóc bà mẹ và trẻ em trong thời gian thai nghén và nuôi con như những người khác



Hàng ngày trên toàn thế giới,có hơn 1.500 trẻ sơ sinh nhiễm HIV-1 từ mẹ , chủ yếu ở các nước đang phát triển, nhất là ở các nước cận sa mạc Sahara ở châu Phi. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, cho ARV ngắn ngày làm giảm tỷ lệ nhiễm cho trẻ rất rõ rệt, nên người ta khuyến khích dùng một hay hai thuốc ARV để phòng cho trẻ. Nếu có đủ điều kiện, các chuyên gia khuyên nên dùng phác đồ 3 loại thuốc có hiệu quả cao (HAART). Dùng đơn độc một thuốc ARV vẫn có thể dùng khi đã ở những tháng cuối của thai kỳ.

kham me

Nevirapine (Viramune®) có thể dùng một mình. Có thể dùng một liều cho mẹ khi bắt đầu chuyển dạ và cho con trong vòng 72 giờ sau sinh. Biện pháp nầy đơn giản, tương đổi rẽ và dễ áp dụng.

Ảnh 3.4 : Nhân viên y tế tại Bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Nguồn : Dr. Koch

- Kết hợp với các cơ sở y tế của nhà nước
- Phối hợp với các biện pháp khác, chống kỳ thị, cách ly hay sỉ nhục phụ nữ có thai nhiễm HIV. Tạo điều kiện để những người nầy hưởng các dịch vụ săn sóc bà mẹ và trẻ em trong thời gian thai nghén và nuôi con như những người khác- Thực hiện các chiến dịch phòng lây nhiễm từ mẹ qua con thường xuyên và hiệu quả.

- Tuyên truyền các chiến dịch có hiệu quả và các kết quả đáng tín cậy về cải thiện đáng kể tình hình lây nhiễm từ mẹ qua con, cũng như các thành quả khác cho những người HIV (+), nhất là với phụ nữ,

- Phát triển và thực hiện chiến dịch nuôi con an toàn khi mẹ nhiễm HIV (có thể tham khảo các tài liệu hướng dẫn của UNAIDS, UNICEF ),

- Cố gắng áp dụng các tiến bộ mới của khoa học phù hợp với hoàn cảnh địa phương .

Chăm sóc phụ nữ nhiễm HIV về phụ khoa

Phụ nữ nhiễm HIV thường có nhiều vấn đề về phụ khoa, biểu hiện tình trạng suy giảm miễn dịch của người nhiễm HIV làm tăng tần số và trầm trọng của nhiều bệnh nhiễm trùng phụ khoa như nhiễm Candida âm đạo, herpes simplex, các viêm nhiễm phần phụ và tử cung, mụn cơm, mào gà ở cơ quan sinh dục. Điều trị đa số các bệnh nầy tương đổi rẻ, nhưng người nhiễm HIV/AIDS cần liều thuốc cao, thời gian điều trị dài hơn và bệnh cũng dễ tái phát hơn

3.4.2. Trẻ em Các chỉ số dịch tễ về trẻ em nhiễm HIV bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố : Tỷ lệ mới mắc của phụ nữ nhiễm HIV trong lứa tuổi sinh đẻ ngày càng tăng, kết quả cao của biện pháp phòng nhiễm từ mẹ qua con bằng thuốc, thay đổi tiến triển của bệnh và tỷ lệ sống ngày càng tăng khi có thuốc phòng bệnh cơ hội và thuốc ARV. Trên toàn thế giới, theo ước tính của Chương trình liên kết Liên hiệp Quốc, có khoảng 800.000 trẻ mới nhiễm HIV trong năm 2006.

Rất khó chẩn đoán trẻ mới sinh ra có nhiễm HIV hay không. Các phương pháp phát hiện kháng thể chống HIV đều không có hiệu quả, vì mẹ có thể truyền IgG cho con qua nhau thai và kháng thể nầy có thể tồn tại đến 15- 18 tháng. Vì thế, phải dùng các kỹ thuật phát hiện virut. Kỹ thuật khuyếch đai gen (PCR) có thể chẩn đoán ở trẻ chỉ 14 -30 ngày tuổi.

Ngay sau khi sinh ra, số lượng HIV RNA ở trẻ tương đối thấp (<10,000 copies/ml), sau đó tăng lên cao vào tháng thứ hai và giảm dần sau khi đầy năm Lưu ý số lượng và tỷ phần trăm tế bào T CD4 ở trẻ không nhiễm HIV thường cao hơn người lớn (không nhiễm HIV) và giảm dần cho đến 6 tuổi mới bằng như người lớn

1
Chăm sóc trẻ phơi nhiễm HIV

Nên dùng Zidovudine cho tất cả các trẻ sinh ra từ mẹ HIV (+). Liều theo hướng dẫn của Nhóm nghiên cứu Lâm sàng về AIDS (AIDS Clinical Trial Group ò US : ACTG) số 076 là 2mg/kg mỗi 6 giờ, bắt đầu từ những giờ đầu tiên sau sinh và tiếp tục trong vòng 4 – 6 tuầnỞ những thai phụ có dùng NVP (do không được dùng thuốc trong thời kỳ thai nghén hay có dùng, nhưng thất bại, nồng độ virut vẫn cao), tiếp tục dùng cho trẻ sơ sinh 1 liều NVP trong vòng 48 giờ đầu, giúp trẻ duy trì được nồng độ thuốc > 90% liều hiệu quả với HIV nguyên thủy trong hơn 7 ngày. Trong thử nghiệm của HIVNET, dùng một mình nevirapine dẫn đến tình trạng kháng thuốc 17 (18%) trường hợp trong số 95 bà mẹ và 9 (45%) trong số 20 bị nhiễm. Khi có điều kiện, để giảm nguy cơ xuất hiện chủng kháng nevirapine, người ta khuyên nên phối hợp với một ARV khác. Tuy nhiên phối hợp như thế nào, cần phải có các nghiên cứu rõ ràng mới kết luận đượ

Người ta chưa thống nhất biện pháp cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV với chủng kháng Zidovudine.Tỷ lệ truyền bệnh cho con cao hơn ở người mẹ nhiễm các chủng nầy và hiển nhiên là phải dùng các thuốc ARV còn hiệu quả với HIV.

Phòng bệnh viêm phổi kẽ do Pneumocystis nên dùng cho tất cả các trẻ nhiễm HIV và những trẻ có khả năng nhiễm dù chưa xác định được khi trẻ được 4 - tuần tuổi. Khi chứng minh được trẻ không nhiễm và số lượng T CD4 bình thường, có thể ngưng thuốc khi trẻ được 4 – 6 tháng tuổi.

Tiến triển nhiễm HIV tự nhiên ở trẻ

Tiến triển tự nhiên khi nhiễm HIV ở trẻ khác với người lớn và thường có hai giai đoạn cao điểm và có thời gian sống từ khi nhiễm ngắn hơn người lớn. Khoảng 20% trẻ có tiến triển nhanh, xuất hiện triệu chứng sớm và tiến đến suy giảm miễn dịch ngay trong năm đầu tiên. Số còn lại, giảm miễn dịch dần dần với tỷ lệ 5 – 10% hàng năm. Chỉ có 5 -10% có tiến triển chậm và sống lâu hơn.

Các biểu hiện lâm sàng ở trẻ nghi ngờ (hay có nhiễm) HIV

Do hệ thống miễn dịch của trẻ chưa trưởng thành và không hiệu quả như người lớn, nồng độ virut ở trong huyết thanh và ở trong mô của trẻ thường cao hơn và các cơ quan thường dễ bị tổn thương trực tiếp do chính virut nhiều hơn.Các biểu hiện quan trọng thường là ở hệ thần kinh và tim mạch.

Các biểu hiện sau cho phép nghi ngờ trẻ có nhiễm HIV :

Các triệu chứng rất ít gặp ở trẻ không nhiễm HIV

Nhiễm trùng tái phát : từ ba lần trở lên các nhiễm trùng thông thường (như viêm phổi, viêm màng não, nhiễm trùng toàn thân) trong vòng 12 tháng.

Nấm miệng : Đỏ từng chấm hay lan toả, mảng giả mạc trắng ở niêm mạc miệng.

Sau thời kỳ sơ sinh, nếu nấm miệng (không dùng kháng sinh) kéo dài > 1 tháng mặc dù có điều trị, tái phát nhiều lần - gợi ý nhiều trẻ có nhiễm HIV .

Viêm tuyến nước bọt mang tai mạn : một hay hai bên > 14 ngày, có thể không có đau hay sốt kèm theo.

Nổi hạch toàn thân : Hạch lympho lớn ít nhất ở 2 vùng trở lên ngoài vùng bẹn và không tìm thấy nguyên nhân rõ rệt..

Gan lách lớn mà không có bằng chứng nhiễm virut như CMV.

Sốt kéo dài hay tái phát (>38oC) hơn 7 ngày hay xuất hiện lại trong vòng 7 ngày.

Rối loạn chức năng hệ thần kinh : tổn thương hệ thần kinh tiến triển, não nhỏ, chậm phát triển trí tuệ, tăng trương lực cơ hay lú lẫn .

Zona (dời bò).

Viêm da do HIV : Ban đỏ dạng sẩn.

Triệu chứng thực thể gặp ở trẻ dù có nhiễm HIV hay không

Viêm tai giữa mạn : > 14 ngày

Tiêu chảy kéo dài > 14 ngày

Không phát triển : Không lên cân hay giảm cân dần so với tiêu chuẩn bình thường. Nghi ngờ nhiễm HIV khi trẻ được nuôi bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu mà không phát triển.

Các triệu chứng và tình trạng đặc hiệu cho trẻ nhiễm HIV

Viêm phổi kẻ do PCP

Nấm Candida thực quản

Viêm phổi kẻ dạng lympho LIP

Zona ở nhiều vùng

U Kaposi

Chẩn đoán thường khó khăn khi không có các triệu chứng hay bối cảnh lâm sàng đặc hiệu . WHO khuyến cáo các biện pháp sau khi săn sóc trẻ nghi ngờ có nhiễm HIV:

Bảo đảm dinh dưỡng tốt, nhất là ở trẻ có tiêu chảy.

Điều trị kịp thời và toàn diện các bệnh thuộc về Nhi khoa.

Kiểm soát, phòng và điều trị lao khi trẻ có nguy cơ nhiễm,

Tiêm các vắc xanh được phép.

Duy trì chất lượng sống cho trẻ.

Xếp loại giai đoạn, các bạn có thể tham khảo hai bảng xếp loại của WHO và CDC 1993..

Điều trị

Kết hợp 3 thuốc thường có hiệu quả tốt, kéo dài đời sống cho trẻ như ở người lớn. Hiện tượng phục hồi miễn dịch ở trẻ cũng khác với người lớn. Ở trẻ tế bào T CD4 tăng nhanh và sớm hơn, nhất là số tế bào CD4 mới tạo ra. Cho uống thuốc càng sớm càng tốt. Tuy nhiên rất khó đảm bào điều trị suốt đời sẽ ức chế được virut. Các bạn chuyên khoa có thể tham khảo thêm các hướng dẫn của WHO.

bia sach

3.4.3.Người tiêm chích ma túy

Tiêm chích ma túy không chỉ góp phần làm lan truyền đại dịch HIV, mà bản thân vấn đề nầy là một tệ nạn xã hội nhức nhối có tính chất toàn cầu.Tiên chích ma túy có thể đem lại nhiều bệnh khác như ngộ độc thuốc do quá liều, huyết khối tĩnh mạch, nhiễm trùng nặng. Dùng chung bơm và kim tiêm không chỉ lây nhiễm HIV mà còn lây một số bệnh truyền qua đường máu khác như viêm gan siêu vi B, C, D và nhiều chủng HIV khác nhau, làm phức tạp và khó khăn thêm cho quá trình điều trị và ngăn chận virut HBV

Các chuyên gia và Tổ chức Y tế thế giới đã có những khuyến cáo về vấn đề nầy như sau :

1. Cần phải tôn trọng nhân quyền của những người nghiện chích ma túy nhiễm HIV, bảo đảm cho họ có thể được điều trị đúng và hổ trợ tinh thần đầy đủ. Khong được kỳ thị và sỉ nhục họvì họ đang hay đã nghiện chích ma túycũng như không kỳ thị vì các vấn đề khác như chủng tộc, máu da, giứoi tính, ngôn ngữ, tôn giáo, tàn tật, xu hướng tình dục, hay thái độ chính trị, xã hội…Nguyên tắc nầy là nền tảng cho các chiến lược đạo đức và có hiệu quả chống lại sự nghiện hút và lan truyền của HIV.

2. Chăm sóc người nghiện chích ma túy nhiễm HIV nên dựa trên các bằng chứng rõ rệt. Những người nầy nên được chăm sóc với các dịch vụ có chất lượng và đúng mức, toàn diện về sinh học, tinh thần và xã hội, kể cả các biện pháp cai ma túy, bao gồm cả các chương trình chống tái nghiện, điều trị thay thế, hổ trợ tinh thần, tư vấn xét nghiệm HIV, thuốc kháng HIV, hổ trợ tuân thủ điều trị, thuốc phòng sau phơi nhiễm. điều trị các bệnh cơ hội và đồng nhiễm, giảm thiểu các can thiệp có hại cho người bệnh

san soc tu nhan nhiem HIV

3. Không nên xem tiền sử hay tình trạng đang nghiện chích ma túy là rào cản, ngăn không cho nhóm người nầy tiếp cận với các điều trị và chăm sóc HIV. Những người nghiện chích cũng được điều trị, chăm sóc hổ trợ tương tự như những người nhiễm HIV không nghiện chích khác.

Những người nghiện chích do lối sống và hành vi phóng túng, thường ít khi chịu tuân thủ lâu dài khi dùng thuốc ARV. Cần giải thích cho họ biết ích lợi của thuốc ARV và có các biện pháp kiểm soát, động viên họ tuân thủ chặt chẽ một khi đã quyết định dùng ARV. Đồng thời cũng khuyến cáo những tai hại cho bản thân và cộng đồng khi họ không tuân thủ đúng liệu trình ARV. Các nghiên cứu cho thấy, một khi vuợt qua được giới hạn của bản thân và tuân thủ đúng quá trình điều trị, các kết quả về giảm lượng virut, kéo dài thời gian tiềm ẩn và khả năng làm việc của người nghiện chích cũng giống như những nhóm người HIV (+) không nghiện chích
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#16 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:20:31(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Bài 3.4. DUY TRÌ SỨC KHỎE, DINH DƯỠNG - TIÊM PHÒNG VÀ PHÒNG BỆNH CƠ HỘI

Suy dinh dưỡng là một vấn đề nghiêm trọng ở người nhiễm HIV.Ngay trong giai đoạn đầu, khi chưa có triệu chứng, HIV đã làm tăng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Nguy cơ suy dinh dưỡng tăng rõ theo quá trình tiến triển của bệnh. Dinh dưỡng tốt không ngăn được quá trình tiến đến AIDS của người đã nhiễm HIV, cũng như không phòng được HIV cho người chưa nhiễm, nhưng có thể duy trì và cải thiện chất lựợng đời sống và làm chậm quá tình tiến đến giai đoạn cuối của HIV.

Điều quan trọng là hổ trợ và giải quyết sớm vấn đề dinh dưỡng từ khi mới nhiễm để phòng tình trạng suy dưỡng về sau nầy. Một thực đơn cân bằng và đầy đủ, thích hợp với khẩu vị sẽ giúp cơ thể khỏi sụt cân và giữ cơ thể ở mức phù hợp với nhu cầu đời sống của bệnh nhân. Ăn ngon miệng và đầy đủ, giúp cơ thể tăng cường và duy trì miễn dịch, giúp bệnh nhân giữ được sức khoẻ .

HIV có thể gây nên nhiều vấn đề về ăn uống, tiêu hóa và hấp thụ cũng như gây rối loạn chức năng nhiều cơ quan của cơ thể.. Nhiều triệu chứng như tiêu chảy, sụt cân, đau rát miệng và họng, buồn nôn, mửa.. làm bệnh nhân khó duy trì dinh dưỡng, do đó phải có thực đơn thích hợp cho mối tình huống. Ăn uống đầy đủ sẽ bổ sung và tăng cường tác dụng của bất kỳ thuốc nào đang dùng cho bệnh nhân.

Có hai dạng suy dinh dưỡng :

Thiếu protein-calo (Protein-energy malnutrition tongueEM) : ảnh hưởng đến kích thước của cơ thể. Một số chỉ số thường dùng là : Chiều cao quá thấp so với tuổi, quá nhẹ cân so với tuổi, và quá nhẹ cân so với chiều cao (suy dinh dưỡng cấp hay hội chứng suy mòn). Ở người lớn, thường dùng chỉ số khối (BMI) thấp.

Suy dưỡng các yếu tố vi lượng : Khó nhận thấy ở thể nhẹ và vừa, thường biểu hiện bởi các cơn đói kín đáo. Các yếu tố vi lượng hay bị thiếu cả ở người lớn và trẻ lớn là sắt, vitamin A, và iode. Thiếu các vitamin và các yếu tố vi lượng quan trọng cho chức năng bình thường của cơ thể cũng như hệ miễn dịch, ít khi được đánh giá qua xét nghiệm định lượng cụ thể và thường gặp ở những người nhiễm trùng tái đi tái lại nhiều lân, những người có thực đơn đơn điệu, ít thay đổi.

Để hiều được liên hệ giữa dinh dưỡng và HIV, cần phải xét đến hiệu quả của bệnh lên kích cỡ và các thành phần của cơ thể (trọng lượng, chỉ số không tính mỡ của cơ thể, khối lượng tế bào của cơ thể) cũng như chức năng của hệ miễn dịch. Dinh dưỡng đều có vai trò trong mỗi lãnh vực. Nhớ rằng, suy dinh dưỡng có thể làm cho tiến triển HIV nhanh hơn và cũng có thể là do hậu quả của bệnh (tạo vòng xoắn bệnh lý)

Sụt cân và suy mòn ở người nhiễm HIV như là hậu quả của 3 quá trình chồng lên nhau : giảm, sức ăn, giảm hập thụ và biến đổi chuyển hóa. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng phải làm có hệ thống ở mọi người nhiễm dù ở giai đoạn nào. Mục tiêu cỉa chương trình hổ trợ dinh dưỡng là phòng suy dinh dưỡng, dinh dưỡng khi điều trị làm giảm triệu chứng từng bước và hổ trợ bệnh nhân và thân nhân của họ ở giai đoạn AIDS.

Các biện pháp phòng ngừa chung có tầm quan trọng rộng rãi :
  • Tránh dùng các thức ăn của sữa chưa tiệt trùng, và các thức ăn sống, chưa được nấu kỹ
  • Tránh thịt và rau sống chưa nấu kỹ vì có thể là nguồn của nhiễm Toxoplasma. Phải rửa thật sạch rau và vỏ các trái cây trước khi ăn.
  • Tránh xa mèo càng nhiều càng tốt .
  • Chỉ uống nước đã đun sôi để tránh tiêu chảy.
  • Chủng ngừa viêm gan B.
  • Tránh tiếp xúc với mía, tre bị mốc vì có thể là nguồn của nấm P. marneffei.


Người nhiễm HIV nên được chủng ngừa khi chưa có triệu chứng. Khi đã có triệu chứng, chỉ một số vắc xanh được chứng minh là an toàn mới được dùng.

2

 

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#17 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:20:56(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

HỮNG ĐIỀU CẦN NHỚ

  • Điều trị theo triệu chứng và hội chứng có bằng chứng khoa học là phương pháp có hiệu quả trong điều trị người nhiễm HIV ở các nước nghèo.
  • Duy trì sức khỏe tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng sống của người nhiễm HIV.
  • Trừ các vắc xanh sống giảm độc lực, tất cả các vắc xanh đều dùng được cho người nhiễm HIV, kể cả trẻ em .
  • Để đem lại ích lợi thật sự cho bệnh nhân, cần chỉ định đúng và có các biện pháp bảo đảm chất lượng khi dùng ARV.
  • Điều trị giảm đau là chăm sóc liên ngành để nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
  • Ngăn ngừa lây nhiễm HIV từ mẹ sang con là một vấn đề lớn, chủ yếu dựa vào các thuốc ARV, đặc biệt khi dùng liệu pháp chỉ một thuốc không đủ hiệu quả. Các nỗ lực hiện nay là chăm sóc liên tục cả bố lẫn mẹ, chứ không phải chỉ người mẹ mang thai mà thôi. Phác đồ ẢRV có hiệu quả cao đang thay thế dần biện pháp dùng một thuốc.
  • Tiến triển tự nhiên của quá trình nhiễm HIV ở trẻ em thường phức tạp và triệu chứng không đặc hiệu như người lớn. Đã đến lúc phát triển phác đồ điều trị ARV hiệu quả cao cho trẻ em.
  • Yếu tố cơ bản trong chăm sóc toàn diện là kiểm soát suy dinh dưỡng do thiếu protein calo và các yếu tố vi lượng, phòng bệnh cơ hội và các bệnh kết hợp khác, các điều trị đặc hiệu kèm với ARV và điều trị giảm đau.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#18 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:21:48(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

HÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI CHỦ ĐỀ 4

Chủ đề này giới thiệu một số biện pháp dự phòng nhiễm HIV liên quan đến lĩnh vực y tế như an toàn truyền máu, dự phòng sau phơi nhiễm cũng như tư vấn và xét nghiệm tự nguyện. Ngoài ra còn đề cập đến điều trị cho những bệnh nhân nghiện, đặc biệt là những người tiêm chích ma túy. Cuối cùng là khái niệm phân biệt đối xử và kỳ thị từ nhân viên y tế. Bạn cần khoảng 4-6 giờ để đi hết các vấn đề này.

BÀI 4.1: DỰ PHÒNG NHIỄM HIV TRONG LĨNH VỰC Y TẾ VÀ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG SAU PHƠI NHIỄM.

4.1.1 An toàn truyền máu.

4.1.2 Dự phòng nhiễm HIV do nghề nghiệp.

BÀI 4.2: DỰ PHÒNG BẰNG TƯ VẤN VÀ XÉT NGHIỆM TỰ NGUYỆN (VCT).

BÀI 4.3: ĐIỀU TRỊ NGƯỜI TIÊM CHÍCH MA TÚY VÀ LIỆU PHÁP THAY THẾ BẰNG METHADONE.

4.3.1 Liệu pháp thay thế thuốc giảm đau gây nghiện (OST).

4.3.2 Các chương trình giải độc có giám sát.

4.3.3 Xử trí phụ thuộc thuốc ngoài thuốc giảm đau gây nghiện (bao gồm cocaine và các thuốc kích thích thuộc nhóm amphetamine ATS).

4.3.4 Điều trị kháng virus (ART) ở những người tiêm chích ma túy.

4.3.5 Các nhiễm trùng kèm theo HIV ở những người tiêm chích ma túy.

BÀI 4.4: KIỂM SOÁT PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VÀ KỲ THỊ TRONG LĨNH VỰC Y TẾ.

4.5 NHỮNG ĐIỀU CẦN NHỚ.

Mục tiêu học tập

Đến cuối bài học, bạn sẽ …

  • Thực hiện được các biện pháp truyền máu an toàn.
  • Hiểu được cách dự phòng lây nhiễm HIV, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, và điều trị dự phòng đúng sau phơi nhiễm.
  • Hiểu được tầm quan trọng và hiệu quả của việc tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT) cũng như có được các thông tin mới nhất về hướng dẫn xét nghiệm.
  • Biết được dịch tễ của vấn đề nghiện ma túy trên thế giới và trong khu vực.
  • Đánh giá được các vấn đề sức khỏe thường gặp ở những người tiêm chích ma túy và đề xuất được các dịch vụ chăm sóc thích hợp.
  • Hiểu được tính cần thiết của liệu pháp thay thế thuốc giảm đau gây nghiện.
  • Biết được các biện pháp và kết quả của chương trình giải độc có giám sát.
  • Hiểu rõ nét đặc trưng của biện pháp dự phòng bằng thuốc kháng virus ở những người tiêm chích ma túy.
  • Biết được tầm quan trọng của các nhiễm trùng kèm theo với HIV và tỷ lệ mắc ở những người nghiện ma túy.
  • Biết rõ các hình thức phân biệt đối xử.
  • Mô tả được đặc điểm phân biệt đối xử trong lĩnh vực y tế và
  • Đề xuất được các biện pháp giải quyết phân biệt đối xử và kỳ thị.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#19 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:22:13(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

BÀI 4.1 : DỰ PHÒNG NHIỄM HIV TRONG LĨNH VỰC Y TẾ VÀ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG SAU PHƠI NHIỄM

4.1.1 An toàn truyền máu

Người ta ước tính khoảng 5-15% các trường hợp nhiễm HIV là do lây truyền qua máu hoặc các chế phẩm của máu bị nhiễm. Ngay cả khi được xét nghiệm cẩn thận, cũng không loại trừ được hoàn toàn lây nhiễm vì máu có thể nhận từ người hiến trong giai đoạn cửa sổ.

Ở các nước công nghiệp hóa, nguy cơ lây nhiễm HIV do truyền máu là 1:106, còn ở những nước có tỷ lệ hiện mắc HIV cao thì nguy cơ lây qua truyền máu được ước tính vào khoảng 1:60.000. Nguy cơ lây nhiễm ở người được truyền máu bị nhiễm HIV là trên 95%.

Tỷ lệ nhiễm HIV do truyền máu phụ thuộc vào các yếu tố sau:

  • Tỷ lệ HIV ở những người hiến máu.
  • Số lần truyền máu (tần suất).
  • Chất lượng dịch vụ truyền máu (ví dụ như sàng lọc người hiến máu hoặc các biện pháp vệ sinh).

Có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV ở những người hiến máu bằng cách loại trừ những người hiến có yếu tố nguy cơ như tiền sử bị bệnh lây qua đường tình dục hoặc bị viêm gan. Thật ra, người bệnh không muốn nhận máu từ những người thuộc nhóm có hành vi nguy cơ như các tài xế xe tải đường dài. Tất cả “người hiến máu không tình nguyện” bao gồm người bán máu, người xuất thân từ gia đình chuyên hiến máu đều được xem là người hiến có nguy cơ cao nhiễm HIV.

Có thể làm giảm tỷ lệ truyền máu nếu thầy thuốc tuân thủ các chỉ định dựa trên y học chứng cứ, tức là phải dựa trên các tiêu chuẩn truyền máu do Bộ Y Tế hoặc Tổ Chức Y Tế Thế Giới (TCYTTG) đề ra. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thầy thuốc hoặc là ít hiểu biết về điều này hoặc là không tuân thủ với lý do là các qui định này hạn chế quyền tự quyết định chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp của họ.

Các chỉ định truyền máu thường gặp nhất ở các nước đang phát triển (còn tùy thuộc vào tuổi và giới của bệnh nhân) là mang thai, sốt rét và đôi khi cả HIV/AIDS.

Các yếu tố bảo đảm cho dịch vụ truyền máu chất lượng cao là:

  • Có cơ sở, phương tiện thích hợp và sử dụng các xét nghiệm được TCYTTG khuyến cáo,
  • Có đội ngũ nhân viên được đào tạo tốt và được giám sát thường xuyên,
  • Được chứng nhận đáp ứng các tiêu chuẩn xét nghiệm tối thiểu trước khi truyền máu như phân loại nhóm máu hệ ABO hoặc Rh, phản ứng chéo, sàng lọc giang mai, sốt rét, viêm gan B.

BloodInfusion

Sàng lọc việc hiến máu (không đòi hỏi kỹ thuật cao) là biện pháp cần thiết để phòng nhiễm HIV. Ảnh: KOC

Các chiến lược bảo đảm an toàn truyền máu khỏi bị nhiễm HIV bao gồm:

  • Dự phòng thiếu máu (ví dụ như dự phòng sốt rét và dự phòng thiếu máu trước sinh),
  • Giảm thiểu tối đa số lần truyền máu,
  • Truyền máu tự thân,
  • Sử dụng các chế phẩm thay thế máu,
  • Vận động công tác hiến máu nhân đạo,
  • Tăng cường chất lượng các dịch vụ truyền máu (ví dụ như tăng cường giám sát).

Tóm lại, truyền máu là biện pháp điều trị phức tạp, tốn kém và không thể thực hiện được ở các cơ sở y tế tuyến dưới, ví dụ như các trạm y tế.

4.1.1 Dự phòng nhiễm HIV do nghề nghiệp

Tất cả nhân viên tại các cơ sở y tế đều phải nhận thức rằng bệnh nhân có thể lây cho họ qua các chất thải và máu. Các nhiễm trùng theo đường máu có thể lây nhiễm cho nhân viên y tế bao gồm:

  • Ký sinh trùng: sốt rét, trypanosoma, leishmania hoặc toxoplasma.
  • Nấm: Cryptococcus
  • Vi khuẩn: giang mai, borrelia, brucella, mycobacteria hoặc rickettsia
  • Virus: viêm gan B, C, D; cytomegalovirus, HHV 8, Ebola virus hoặc HIV

Ngoại trừ nguyên nhân virus, tất cả các tác nhân khác có thể điều trị được và nói chung không gây thương tổn lâu dài. Nhân viên y tế cần hiểu và chấp nhận các nguy cơ do nghề nghiệp chứ không nên phản ứng thái quá. Một số người đôi khi không áp dụng các biện pháp bảo vệ thêm cho họ như không chủng ngừa viêm gan.

Tuy nhiên, nhân viên y tế thường phản ứng quá mức khi đối diện với HIV. Đôi khi họ yêu cầu phải cách ly bệnh nhân hoặc phải áp dụng các biện pháp vệ sinh đặc biệt. Thật ra, cần dựa trên các bằng chứng liên quan đến nhiễm trùng trong quá trình làm việc để tiếp cận hợp lý. Một nghiên cứu phân tích nguy cơ lây nhiễm đã chứng minh rằng các yếu tố lây nhiễm chính là:

  • Loại và tần suất phơi nhiễm.
  • Luợng tác nhân bị nhiễm.
  • Độc lực của tác nhân lây nhiễm.

Đối với yếu tố độc lực của tác nhân lây nhiễm, các nghiên cứu hồi cứu đã ước tính nguy cơ lây truyền khi phơi nhiễm qua da đối với HIV là < 0,3%, với viêm gan C là 10% và với viêm gan B cao đến 30%. Khi phơi nhiễm trên da hoặc niêm mạc, nguy cơ lây truyền HIV < 0,1%.

Lượng tác nhân bị nhiễm phụ thuộc lượng virus HIV vào máu, thường được tính trên 1 microlit máu. Tuy nhiên, HIV không quá bền vững với môi trường bên ngoài và thường chết trong vài phút hoặc vài giờ.

Trong trường hợp phơi nhiễm liên tục trong một khoảng thời gian xác định thì nguy cơ lũy tích có thể được tính theo công thức Riskcum = [1–(1– f*p)n*t], trong đó f là xác suất lây nhiễm, p là tỷ lệ hiện mắc HIV, n là số lần phơi nhiễm và t là thời gian.

Huy_vat_sac_nhon_khong_an_toan_2s.jpg

Hủy không an toàn các dụng cụ sắc nhọn làm tăng nhiễm HIV do nghề nghiệp. Ảnh: BBBS

 

Trên toàn thế giới, không đến 1000 nhân viên y tế được báo cáo bị nhiễm HIV trong khi làm việc. Nhân viên phòng tiêm chích là đối tượng thường bị nhiễm nhất, sau đó là nhân viên phòng xét nghiệm rồi đến các nữ hộ sinh. Phẫu thuật viên cho đến nay vẫn là đối tượng ít bị lây nhiễm nhất trong quá trình làm việc nhưng lại là những người lo lắng nhất. Nhiều phẫu thuật viên còn yêu cầu bệnh nhân phải xét nghiệm trước khi phẫu thuật mà không cần tư vấn hay được bệnh nhân chấp thuận.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề thường gặp liên quan đến phơi nhiễm trong ngành y tế. Trước hết, mỗi thầy thuốc cần nắm vững và có trách nhiệm khi tiến hành các thủ thuật. Ngoài ra, để tránh nguy cơ lây nhiễm, cần cân nhắc xem có điều trị dự phòng sau phơi nhiễm bằng thuốc kháng virus hay không. Nếu cần thì nên bắt đầu điều trị dự phòng càng sớm càng tốt, trong vòng 12 giờ sau phơi nhiễm, và tiếp tục dùng thuốc trong 4 tuần.

Để làm giảm nguy cơ lây nhiễm, cần tuân thủ các nguyên tắc vệ sinh và áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm được khuyến cáo. Các “nguyên tắc chung về vệ sinh” cần được áp dụng cho toàn bộ nhân viên tại các cơ sở y tế địa phương, ví dụ như thành lập “hội đồng vệ sinh” cho từng cơ sở y tế và riêng cho từng khoa. Cần soạn thảo các hướng dẫn cho việc xử lý và hủy các dụng cụ sắc nhọn, cách sử dụng thuốc sát khuẩn, qui trình tiệt trùng và xử lý chất tiết bệnh nhân… Hội đồng vệ sinh cũng chịu trách nhiệm đào tạo nhân viên và giám sát công tác vệ sinh do mình phụ trách.

Kết thúc bài 4.1

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#20 Đã gửi : 11/06/2008 lúc 09:22:35(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết

BÀI 4.1 : DỰ PHÒNG NHIỄM HIV TRONG LĨNH VỰC Y TẾ VÀ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG SAU PHƠI NHIỄM

4.1.1 An toàn truyền máu

Người ta ước tính khoảng 5-15% các trường hợp nhiễm HIV là do lây truyền qua máu hoặc các chế phẩm của máu bị nhiễm. Ngay cả khi được xét nghiệm cẩn thận, cũng không loại trừ được hoàn toàn lây nhiễm vì máu có thể nhận từ người hiến trong giai đoạn cửa sổ.

Ở các nước công nghiệp hóa, nguy cơ lây nhiễm HIV do truyền máu là 1:106, còn ở những nước có tỷ lệ hiện mắc HIV cao thì nguy cơ lây qua truyền máu được ước tính vào khoảng 1:60.000. Nguy cơ lây nhiễm ở người được truyền máu bị nhiễm HIV là trên 95%.

Tỷ lệ nhiễm HIV do truyền máu phụ thuộc vào các yếu tố sau:

  • Tỷ lệ HIV ở những người hiến máu.
  • Số lần truyền máu (tần suất).
  • Chất lượng dịch vụ truyền máu (ví dụ như sàng lọc người hiến máu hoặc các biện pháp vệ sinh).

Có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV ở những người hiến máu bằng cách loại trừ những người hiến có yếu tố nguy cơ như tiền sử bị bệnh lây qua đường tình dục hoặc bị viêm gan. Thật ra, người bệnh không muốn nhận máu từ những người thuộc nhóm có hành vi nguy cơ như các tài xế xe tải đường dài. Tất cả “người hiến máu không tình nguyện” bao gồm người bán máu, người xuất thân từ gia đình chuyên hiến máu đều được xem là người hiến có nguy cơ cao nhiễm HIV.

Có thể làm giảm tỷ lệ truyền máu nếu thầy thuốc tuân thủ các chỉ định dựa trên y học chứng cứ, tức là phải dựa trên các tiêu chuẩn truyền máu do Bộ Y Tế hoặc Tổ Chức Y Tế Thế Giới (TCYTTG) đề ra. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thầy thuốc hoặc là ít hiểu biết về điều này hoặc là không tuân thủ với lý do là các qui định này hạn chế quyền tự quyết định chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp của họ.

Các chỉ định truyền máu thường gặp nhất ở các nước đang phát triển (còn tùy thuộc vào tuổi và giới của bệnh nhân) là mang thai, sốt rét và đôi khi cả HIV/AIDS.

Các yếu tố bảo đảm cho dịch vụ truyền máu chất lượng cao là:

  • Có cơ sở, phương tiện thích hợp và sử dụng các xét nghiệm được TCYTTG khuyến cáo,
  • Có đội ngũ nhân viên được đào tạo tốt và được giám sát thường xuyên,
  • Được chứng nhận đáp ứng các tiêu chuẩn xét nghiệm tối thiểu trước khi truyền máu như phân loại nhóm máu hệ ABO hoặc Rh, phản ứng chéo, sàng lọc giang mai, sốt rét, viêm gan B.

BloodInfusion

Sàng lọc việc hiến máu (không đòi hỏi kỹ thuật cao) là biện pháp cần thiết để phòng nhiễm HIV. Ảnh: KOC

Các chiến lược bảo đảm an toàn truyền máu khỏi bị nhiễm HIV bao gồm:

  • Dự phòng thiếu máu (ví dụ như dự phòng sốt rét và dự phòng thiếu máu trước sinh),
  • Giảm thiểu tối đa số lần truyền máu,
  • Truyền máu tự thân,
  • Sử dụng các chế phẩm thay thế máu,
  • Vận động công tác hiến máu nhân đạo,
  • Tăng cường chất lượng các dịch vụ truyền máu (ví dụ như tăng cường giám sát).

Tóm lại, truyền máu là biện pháp điều trị phức tạp, tốn kém và không thể thực hiện được ở các cơ sở y tế tuyến dưới, ví dụ như các trạm y tế.

4.1.1 Dự phòng nhiễm HIV do nghề nghiệp

Tất cả nhân viên tại các cơ sở y tế đều phải nhận thức rằng bệnh nhân có thể lây cho họ qua các chất thải và máu. Các nhiễm trùng theo đường máu có thể lây nhiễm cho nhân viên y tế bao gồm:

  • Ký sinh trùng: sốt rét, trypanosoma, leishmania hoặc toxoplasma.
  • Nấm: Cryptococcus
  • Vi khuẩn: giang mai, borrelia, brucella, mycobacteria hoặc rickettsia
  • Virus: viêm gan B, C, D; cytomegalovirus, HHV 8, Ebola virus hoặc HIV

Ngoại trừ nguyên nhân virus, tất cả các tác nhân khác có thể điều trị được và nói chung không gây thương tổn lâu dài. Nhân viên y tế cần hiểu và chấp nhận các nguy cơ do nghề nghiệp chứ không nên phản ứng thái quá. Một số người đôi khi không áp dụng các biện pháp bảo vệ thêm cho họ như không chủng ngừa viêm gan.

Tuy nhiên, nhân viên y tế thường phản ứng quá mức khi đối diện với HIV. Đôi khi họ yêu cầu phải cách ly bệnh nhân hoặc phải áp dụng các biện pháp vệ sinh đặc biệt. Thật ra, cần dựa trên các bằng chứng liên quan đến nhiễm trùng trong quá trình làm việc để tiếp cận hợp lý. Một nghiên cứu phân tích nguy cơ lây nhiễm đã chứng minh rằng các yếu tố lây nhiễm chính là:

  • Loại và tần suất phơi nhiễm.
  • Luợng tác nhân bị nhiễm.
  • Độc lực của tác nhân lây nhiễm.

Đối với yếu tố độc lực của tác nhân lây nhiễm, các nghiên cứu hồi cứu đã ước tính nguy cơ lây truyền khi phơi nhiễm qua da đối với HIV là < 0,3%, với viêm gan C là 10% và với viêm gan B cao đến 30%. Khi phơi nhiễm trên da hoặc niêm mạc, nguy cơ lây truyền HIV < 0,1%.

Lượng tác nhân bị nhiễm phụ thuộc lượng virus HIV vào máu, thường được tính trên 1 microlit máu. Tuy nhiên, HIV không quá bền vững với môi trường bên ngoài và thường chết trong vài phút hoặc vài giờ.

Trong trường hợp phơi nhiễm liên tục trong một khoảng thời gian xác định thì nguy cơ lũy tích có thể được tính theo công thức Riskcum = [1–(1– f*p)n*t], trong đó f là xác suất lây nhiễm, p là tỷ lệ hiện mắc HIV, n là số lần phơi nhiễm và t là thời gian.

Huy_vat_sac_nhon_khong_an_toan_2s.jpg

Hủy không an toàn các dụng cụ sắc nhọn làm tăng nhiễm HIV do nghề nghiệp. Ảnh: BBBS

 

Trên toàn thế giới, không đến 1000 nhân viên y tế được báo cáo bị nhiễm HIV trong khi làm việc. Nhân viên phòng tiêm chích là đối tượng thường bị nhiễm nhất, sau đó là nhân viên phòng xét nghiệm rồi đến các nữ hộ sinh. Phẫu thuật viên cho đến nay vẫn là đối tượng ít bị lây nhiễm nhất trong quá trình làm việc nhưng lại là những người lo lắng nhất. Nhiều phẫu thuật viên còn yêu cầu bệnh nhân phải xét nghiệm trước khi phẫu thuật mà không cần tư vấn hay được bệnh nhân chấp thuận.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề thường gặp liên quan đến phơi nhiễm trong ngành y tế. Trước hết, mỗi thầy thuốc cần nắm vững và có trách nhiệm khi tiến hành các thủ thuật. Ngoài ra, để tránh nguy cơ lây nhiễm, cần cân nhắc xem có điều trị dự phòng sau phơi nhiễm bằng thuốc kháng virus hay không. Nếu cần thì nên bắt đầu điều trị dự phòng càng sớm càng tốt, trong vòng 12 giờ sau phơi nhiễm, và tiếp tục dùng thuốc trong 4 tuần.

Để làm giảm nguy cơ lây nhiễm, cần tuân thủ các nguyên tắc vệ sinh và áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm được khuyến cáo. Các “nguyên tắc chung về vệ sinh” cần được áp dụng cho toàn bộ nhân viên tại các cơ sở y tế địa phương, ví dụ như thành lập “hội đồng vệ sinh” cho từng cơ sở y tế và riêng cho từng khoa. Cần soạn thảo các hướng dẫn cho việc xử lý và hủy các dụng cụ sắc nhọn, cách sử dụng thuốc sát khuẩn, qui trình tiệt trùng và xử lý chất tiết bệnh nhân… Hội đồng vệ sinh cũng chịu trách nhiệm đào tạo nhân viên và giám sát công tác vệ sinh do mình phụ trách.

Kết thúc bài 4.1

Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
2 Trang12>
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.