  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC) Bài viết: 5.759 Đến từ: Heaven in hell
Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
|
BÀI 4.2 : DỰ PHÒNG BẰNG TƯ VẤN VÀ XÉT NGHIỆM TỰ NGUYỆN (VCT) Tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT) là quá trình cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp trước và sau xét nghiệm HIV. VCT là quá trình kín giúp cho người được tư vấn xem xét lại kiến thức và hành vi liên quan đến nguy cơ mắc hoặc lây truyền HIV. Việc tư vấn sẽ giúp quyết định có nên xét nghiệm hay không đồng thời sẽ hỗ trợ khi nhận được kết quả xét nghiệm. Quá trình tư vấn có nhiệm vụ giúp đỡ người được tư vấn hiểu và chuẩn bị trước kết quả xét nghiệm. Những người có kết quả xét nghiệm âm tính qua tư vấn sẽ biết cách tránh bị nhiễm, còn những người có kết quả dương tính có thể học cách sống lâu hơn, sống khỏe mạnh hơn và tránh lây truyền cho người khác. VCT là điểm khởi đầu của quá trình dự phòng sớm, chăm sóc và hỗ trợ. Tại sao VCT lại quan trọng? Các kiến thức về huyết thanh học có được qua VCT là điểm mấu chốt khởi đầu đối với các dịch vụ dự phòng cho các cộng đồng có nguy cơ cũng như đối với việc chăm sóc và hỗ trợ cho những người sống chung với HIV/AIDS. Điều cần thiết là phải biết được một người nào đó bị nhiễm HIV trước khi cho họ tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ HIV. Biết được tình trạng nhiễm HIV sẽ giúp tăng cường công tác dự phòng, khuyến khích người bị nhiễm HIV tránh lây truyền cho những người khác, và động viên những người chưa bị nhiễm tiếp tục áp dụng các chiến lược làm giảm nguy cơ lây nhiễm. VCT có thể làm giảm số lượng bạn tình, tăng cường sử dụng bao cao su, làm giảm các nhiễm trùng lây qua đường tình dục và thực hành tiêm chích an toàn. Cách tiến hành? Có thể tổ chức nhiều chương trình VCT khác nhau tùy theo mức độ tập trung dân cư cũng như kết quả mong muốn (ví dụ như tư vấn dự phòng nhiễm HIV ở những nhóm có nguy cơ, tư vấn dự phòng lây truyền HIV cho trẻ em, hoặc tư vấn tiếp cận với chăm sóc, điều trị và hỗ trợ). Đặc biệt cần quan tâm đến những người trẻ tuổi, là đối tượng chiếm đa số trong các trường hợp mới nhiễm HIV ở các nước đang phát triển, nhưng lại là đối tượng có nhiều mặt hạn chế khi tiếp cận với các chương trình tư vấn hợp với nhu cầu của họ. Các hình thức cung cấp dịch vụ thay đổi tùy theo nhu cầu, bao gồm dịch vụ lưu động (chẳng hạn như các trạm tư vấn dọc đường hoặc các trung tâm tư vấn và xét nghiệm ẩn danh), dịch vụ lồng ghép (chẳng hạn như trong các phòng tiền sản, trong khoa lao hoặc trong các bệnh viện) và các dịch vụ xa hơn cho các nhóm có nguy cơ (ví dụ như các đội tư vấn lưu động cho những người tiêm chích ma túy). Để tư vấn HIV, có thể áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong quá trình làm, người ta thường tiến hành tư vấn trước và sau khi xét nghiệm. Ngoài ra còn có một số cách tiếp cận thường gặp khác như cung cấp thông tin theo nhóm sau khi đã thảo luận với từng cá nhân hoặc từng cá nhân đồng ý xét nghiệm HIV rồi sau đó tư vấn sau xét nghiệm. Nhiều cơ sở lại thích tư vấn và xét nghiệm cho từng cặp bạn tình. Các quá trình VCT: Nội dung các buổi tư vấn trước xét nghiệm thay đổi tùy theo mục tiêu của VCT. Nội dung của VCT bao gồm: đưa ra đề nghị không tham gia xét nghiệm để thảo luận về HIV và đường lây truyền, đánh giá nguy cơ, phương pháp xét nghiệm và giải thích kết quả xét nghiệm, kế hoạch làm giảm nguy cơ và xác định các hỗ trợ hiện có. Việc trì hoãn xét nghiệm HIV cho phép người được tư vấn bàn bạc vấn đề này kỹ hơn với gia đình hoặc bạn tình (qua đó tạo cho họ cơ hội tham gia vào quá trình tư vấn). Sau khi làm xét nghiệm, người tư vấn sẽ cung cấp và thảo luận với khách hàng về kết quả xét nghiệm. Mục đích của việc tư vấn sau xét nghiệm là xác định các hỗ trợ cần thiết cho khách hàng, dự phòng lây truyền HIV, tìm thêm các thông tin đánh giá kiến thức của người được tư vấn, giải thích kết quả xét nghiệm, lập kế hoạch hành vi an toàn, hỗ trợ tình cảm, theo dõi và chuyển viện nếu cần. Có thể cho làm lại xét nghiệm sau 14 ngày nếu kết quả xét nghiệm ban đầu nghi ngờ, hoặc sau 6 tuần nếu kết quả ban đầu âm tính (vì kết quả xét nghiệm có thể âm tính trong “giai đoạn cửa sổ” mặc dù đã nhiễm HIV). |  Các tình nguyện viên đang tư vấn trẻ em đường phố tại một thành phố lớn ở Việt Nam. Nguồn: Medmissio | Nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và nguồn cung cấp: để triển khai VCT, điều quan trọng là phải có nguồn nhân lực thích hợp (nhân viên tư vấn và nhân viên phòng thí nghiệm). Điều cần thiết là nguồn nhân lực phải được đào tạo thích hợp với các chủ đề: nhận thức tầm quan trọng về HIV/AIDS, tư vấn trước và sau xét nghiệm, tiếp cận với những vấn đề khó khăn (chẳng hạn như tình dục hay là chết), dự phòng HIV và các qui trình chuyển viện. Để bảo đảm cung cấp được dịch vụ chất lượng cao, cần có quá trình tổ chức và xử trí tốt. Việc liên tục giám sát và xác định nhu cầu đào tạo là những yếu tố quan trọng của VCT. Ngoài ra, kế hoạch hỗ trợ thường xuyên và cơ bản cũng sẽ hạn chế căng thẳng và làm giảm “mệt mỏi” cho nhân viên. Nhu cầu vật chất tối thiểu để tiến hành VCT là có một nơi để tư vấn và có khả năng làm xét nghiệm (test nhanh hoặc xét nghiệm chuẩn). Để thực hiện điều này, cần đào tạo đầy đủ và giám sát chất lượng nhân viên tư vấn và nhân viên phòng xét nghiệm. Điều quan trọng là phải có sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền để phát triển các chính sách y tế cộng đồng nhằm thúc đẩy VCT cũng như bảo mật và bảo vệ quyền lợi cho những người bị nhiễm HIV. Phân biệt đối xử và kỳ thị thường gặp dưới nhiều hình thức khác nhau, khiến cho những người được biết hoặc là người bị cho là nhiễm HIV không thể tiếp cận với các dịch vụ thiết yếu như y tế, nghề nghiệp và nhà ở. Vì vậy cần thực thi đúng luật chống kỳ thị đối với những người nhiễm HIV. Cần có các cơ chế đảm bảo chất lượng để duy trì các tiêu chuẩn đạo đức và kỹ thuật. Để phát triển và mở rộng chất lượng của VCT ra ngoài ngành y tế và tăng cường liên kết với các tổ chức cung cấp các dịch vụ dự phòng và hỗ trợ, cần có những đối tác có hiệu quả. Ngoài ra cũng cần tổ chức các dịch vụ chuyển viện và chăm sóc người bị nhiễm HIV. |  Một điểm VCT ở Huế. Ảnh: BBBS | Chi phí để triển khai VCT khác nhau tùy theo từng nước và từng khu vực. VCT có thể cần nhiều nhân lực. Nhu cầu tuyển nhân viên, đào tạo và hỗ trợ thường là những khoản tốn kém nhất, trong khi chi phí xét nghiệm HIV (bao gồm kit và dụng cụ) và chi phí giám sát chất lượng thay đổi tùy theo loại xét nghiệm được sử dụng. Ngoài ra cũng cần tính đến chi phí cho các dịch vụ khác như truyền thông, giáo dục và cung cấp bao cao su. Nếu tính thiếu chi phí, có thể làm cho dịch vụ trở nên kém chất lượng hoặc đôi khi không thể thực hiện được ở một số khu vực. Nghiên cứu của Sweat và cộng sự (2000) về chi phí và tỷ lệ hiệu quả-chi phí của dịch vụ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện ở Kenya và Tanzania cho thấy chi phí VCT cho mỗi khách hàng thay đổi từ 27-28 đô-la Mỹ và chi phí cho mỗi trường hợp dự phòng nhiễm HIV được ước tính khoảng 249 đô-la Mỹ đối với Kenya và 346 đô-la Mỹ đối với Tanzania, trong khi chi phí cho “một năm sống trong bệnh tật” tiết kiệm được lần lượt đối với Kenya và Tanzania là 13 và 18 đô-la Mỹ. Tỷ lệ hiệu quả-chi phí của VCT rất có giá trị nếu so với các dịch vụ can thiệp y tế cộng đồng khác như chủng ngừa sởi (Sweat và cộng sự, 1999, 2000). Nhu cầu đối với các dịch vụ VCT trên toàn cầu phát triển rất nhanh trong thời gian qua do các nỗ lực mở rộng việc tiếp cận đối với liệu pháp kháng virus. Các tổ chức nhân đạo và tổ chức y tế cộng đồng quốc tế đều xem VCT như là thành phần then chốt của các chương trình HIV/AIDS toàn diện. Trong hai năm qua, nhờ có cuộc vận động không mệt mỏi về xét nghiệm và tư vấn HIV theo hướng dẫn của UNAIDS và TCYTTG năm 2004, việc xét nghiệm HIV đã trở nên thường qui đối với các dịch vụ y tế ở các nước công nghiệp hóa và các nước có tỷ lệ nhiễm HIV cao. Mặc dù còn một số bất đồng giữa hai tổ chức này nhưng việc xét nghiệm HIV là bước quan trọng ban đầu trước khi tiến hành điều trị và là thành phần cần thiết cho các chương trình dự phòng. Để biết thêm chi tiết, xin xem thêm hướng dẫn tư vấn và xét nghiệm dưới đây của TCYTTG (http://www.who.int/hiv/topics/vct/PITCguidelines.pdf ).  Hướng dẫn của TCYTTG về xét nghiệm và tư vấn HIV | Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC) Bài viết: 5.759 Đến từ: Heaven in hell
Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
|
BÀI 4.3 : ĐIỀU TRỊ NGƯỜI TIÊM CHÍCH MA TÚY VÀ LIỆU PHÁP THAY THẾ BẰNG METHADONE Số lượng người tiêm chích ma túy ở Nam Á và Đông Nam Á được ước tính vào khoảng 3,3 triệu. Ở hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, dịch HIV chủ yếu là do tiêm chích ma túy, tuy vậy sự lây truyền HIV trong số những người hành nghề mại dâm và khách hàng của họ cũng cao. Ở Indonesia, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HIV trong số những người tiêm chích ma túy được ước tính là trên 20%, một số vùng có thể cao đến 70%. Ở hầu hết các địa phương, mại dâm và tiêm chích ma túy có liên quan mật thiết với nhau. Điều này tạo ra một môi trường đặc biệt có nguy cơ cao cho việc lây truyền HIV và có thể hình thành “cầu nối” đến cộng đồng dân cư. Ngoài HIV, người tiêm chích ma túy còn dễ mắc các bệnh lây truyền qua đường máu và các vấn đề khác liên quan đến tiêm chích (như nguy cơ quá liều và nhiễm khuẩn). Nếu dùng chung kim và bơm tiêm bị nhiễm, người tiêm chích ma túy có thể phơi nhiễm với viêm gan B và C cũng như HIV. Tình trạng phạm tội do tiêm chích ma túy sẽ gây ra nhiều hậu quả nặng nề về xã hội cũng như y tế như tù tội, chấn thương, mắc các bệnh lây qua đường tình dục và lao. Một số người tiêm chích ma túy có tiền sử bệnh tâm thần đã lâu nhưng chưa được chẩn đoán và điều trị đúng. Một số bệnh tâm thần có thể do hoặc khởi phát khi sử dụng rượu, cocaine và thuốc giảm đau gây nghiện. Đây là những chất thường được sử dụng như là thuốc tự chế để điều trị các triệu chứng của bệnh tâm thần thay thế cho biện pháp điều trị đặc hiệu. Chính điều này làm tăng tần suất bị trầm cảm và tự vẫn ở người tiêm chích ma túy có HIV dương tính. Các vấn đề sức khỏe thường gặp ở người tiêm chích ma túy là: - Nhiễm các loại virus lây qua đường máu, kể cả viêm gan B và viêm gan C, có thể đưa đến bệnh gan nặng như xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan.
- Nhiễm khuẩn do tiêm chích không đảm bảo vô trùng, bao gồm nhiễm trùng huyết, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và viêm xương tủy.
- Tổn thương mạch máu và mô mềm tại chỗ, bao gồm áp-xe mô mềm và viêm tĩnh mạch huyết khối.
- Lao phổi và ngoài phổi.
- Bệnh tâm thần , kể cả trầm cảm.
- Quá liều .
- Nghiện nhiều chất , kể cả rượu.
Các yếu tố quan trọng góp phần điều trị thành công những người tiêm chích ma túy là cách tổ chức các dịch vụ dự phòng, điều trị, chăm sóc người bị nhiễm HIV cũng như mối liên kết với các dịch vụ khác. Có 4 loại dịch vụ quyết định liên quan với nhau trong điều trị những người nghiện và HIV/AIDS là: - Chăm sóc y tế,
- Giảm tác hại của thuốc gây nghiện,
- Điều trị tình trạng nghiện thuốc, và
- Hỗ trợ tinh thần – xã hội.
Ngoài việc nhắm đến tình trạng nhiễm HIV, nên chăm sóc toàn diện cho những đối tượng này như: - Hỗ trợ điều trị,
- Điều trị thay thế thuốc giảm đau gây nghiện,
- Điều trị tình trạng nghiện các chất khác,
- Giảm các hành vi nguy cơ như hành vi sử dụng thuốc và hành vi tình dục,
- Hỗ trợ cho bạn tình,
- Hỗ trợ xã hội (thông qua sở lao động, thương binh và xã hội), và
- Giáo dục sức khỏe.
Các biện pháp làm giảm tác hại của thuốc gây nghiện sẽ hạn chế các hậu quả xấu về sức khỏe, xã hội và kinh tế đối với người nghiện, gia đình và cộng đồng mà chưa cần phải giảm hoặc cai thuốc. Hơn nữa, các chương trình làm giảm tác hại của thuốc gây nghiện toàn diện có thể làm giảm tỷ lệ mới nhiễm HIV trong số những người tiêm chích ma túy. Tổ Chức Y Tế Thế Giới gần đây vẫn cam kết cho phép mọi người tiếp cận các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, trong đó giảm tác hại của thuốc gây nghiện là biện pháp ưu tiên hàng đầu. Có thể tham khảo thêm các hướng dẫn làm giảm tác hại thuốc gây nghiện của TCYTTG theo các liên kết dưới đây: Tài liệu kỹ thuật: Các chiến lược vắn tắt: Cách đánh giá tình trạng HIV/AIDS không mấy khác biệt ở những người có và không tiêm chích ma túy. Tuy nhiên, do nhiều người tiêm chích ma túy đến cơ sở y tế ở giai đoạn sớm của nhiễm HIV, vì thế cần xem xét, theo dõi cẩn thận các nhiễm trùng cơ hội ở những bệnh nhân này. Các liệu pháp điều trị nghiện thuốc giảm đau hiện có là: điều trị duy trì bằng thuốc chủ vận methadone uống; duy trì bằng thuốc bán chủ vận buprenorphine ngậm dưới lưỡi hoặc phối hợp buprenorphine và naloxone ngậm dưới lưỡi; duy trì bằng thuốc đối kháng naltrexone uống; và sử dụng các thuốc chống cai nghiện/giải độc (như methadone, buprenorphine và/hoặc clonidine) trong thời gian ngắn để khuyến khích bệnh nhân tiếp cận với các biện pháp điều trị không thuốc hoặc bằng thuốc đối kháng. Có hai loại thuốc chính thường được sử dụng trong liệu pháp thay thế thuốc giảm đau gây nghiện là methadone và buprenorphine, tuy nhiên thuốc đôi khi khó kiếm ở một số nước châu Á. Liệu pháp thay thế thuốc giảm đau gây nghiện được thực hiện hằng ngày giúp người bệnh tiếp xúc thường xuyên với nhân viên y tế và giúp cải thiện điều kiện tiếp cận và tham gia vào liệu pháp điều trị kháng virus. Methadone Methadone là một dạng thuốc giảm đau gây nghiện tổng hợp thường được sử dụng nhất trong liệu pháp thay thế thuốc giảm đau gây nghiện. Trên toàn thế giới, có trên nữa triệu người nghiện thuốc giảm đau gây nghiện được điều trị bằng methadone và con số này trên thực tế đang tăng dần ở tất cả các khu vực. Liệu pháp điều trị duy trì bằng methadone được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ, Úc và Tây Âu, sau đó được triển khai rộng trên toàn cầu, trong đó nước có số cơ sở y tế sử dụng methadone phát triển nhanh nhất là Trung Quốc, ở đó có 8 cơ sở y tế sử dụng methadone năm 2004 và thêm 128 cơ sở y tế được phép sử dụng trong năm 2005. Tùy theo từng phác đồ, liệu lượng methadone thay đổi từ 20-150 mg/ngày và có thể cao hơn. Liều từ 60-120 mg đạt hiệu quả điều trị tốt hơn và giảm nguy cơ lén lút sử dụng thuốc hơn liều thấp. Buprenorphine Gần đây, buprenorphine, một thuốc bán chủ vận giảm đau gây nghiện, đã được sử dụng để giải độc và điều trị duy trì ở những người nghiện ma túy. Liều duy trì hiệu quả của buprenorphine thay đổi từ 12-34 mg và liều trung bình hàng ngày là 16 mg. Do đặc tính bán chủ vận nên buprenorphine ít gây quá liều hơn methadone. Tuy nhiên, thuốc vẫn còn rất đắt. |  | 4.3.2 Các chương trình giải độc có giám sát Biện pháp giải độc có giám sát về mặt y tế là thành tố ban đầu của một số chương trình điều trị cai nghiện nhưng đừng bao giờ xem đó là biện pháp duy nhất điều trị tình trạng nghiện thuốc. Do tình trạng nghiện thuốc có thể tái phát nên biện pháp giải độc đơn thuần sẽ không có hiệu quả lâu dài vì đa số bệnh nhân sẽ nghiện thuốc trở lại sau khi giải độc nếu không áp dụng thêm các biện pháp can thiệp sau đó. Quá trình giải độc nên được thay đổi theo từng người để giám sát việc cai nghiện, giảm mức độ nặng của các triệu chứng và biến chứng xuất hiện khi cai nghiện. Quá trình giải độc có thể được thực hiện bằng cách giảm dần liều các thuốc điều trị: Thuốc | Liều duy trì | Giảm liều | Thời gian giải độc | Methadone | 40 – 60 mg/ngày | 5 mg/tuần | 8 – 10 tuần | Buprenorphine | 8 – 10 mg/ngày | 1 – 2 mg/tuần | 5 – 6 tuần | Nếu sử dụng đúng, các thuốc này sẽ cai nghiện được an toàn và ít khó chịu. Tuy nhiên, đa số bệnh nhân sẽ tái phát sau cai nghiện cho dù sử dụng phương pháp nào đi nữa. Hiện nay, trên thế giới có trên 13 triệu người tiêm chích thuốc nhưng không phải tất cả đều tiêm chích thuốc giảm đau gây nghiện. Các thuốc khác như thuốc an thần, cocaine và các thuốc kích thích thuộc nhóm amphetamine (ATS) cũng có thể gây nghiện. Các thuốc này làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV do tiêm chích không an toàn hoặc do các hành vi khác như tình dục không an toàn. Cho đến nay vẫn chưa có liệu pháp điều trị thay thế nào có hiệu quả đối với tình trạng nghiện các thuốc ngoài thuốc giảm đau gây nghiện. Thách thức đối với việc cung cấp các thuốc kháng virus cho những người nghiện ma túy và nghiện các thuốc kích thích thuộc nhóm amphetamine cũng tương tự như thách thức của các chương trình quản lý người nghiện ma túy hoặc như trường hợp không có thuốc thay thế thuốc giảm đau gây nghiện. Triệu chứng cấp tính thường xuất hiện trong vòng 3-5 ngày đầu sau cai nghiện, tuy nhiên ở những người có bệnh lý nội khoa hoặc bệnh tâm thần kèm theo thì các triệu chứng này có thể kéo dài đến 2 tuần. Thường khó điều trị đối với những người sử dụng các thuốc kích thích thuộc nhóm amphetamine nói chung và methamphetamine nói riêng. Những trường hợp này có tỷ lệ bỏ điều trị hoặc tái phát cao. Các triệu chứng như kích động hoặc trầm cảm cấp tính thường xuất hiện sau khi ngừng cocaine hoặc các thuốc kích thích thuộc nhóm amphetamine, và để giải quyết các triệu chứng này đôi khi phải dùng thuốc an thần nhẹ như diazepam trong thời gian ngắn. Các triệu chứng loạn thần như ảo giác cần được điều trị bằng thuốc chống loạn thần. Hồi hộp và bất an có thể đỡ khi dùng propranalol (thuốc chẹn beta), là thuốc đã được chứng minh giúp cải thiện hiệu quả điều trị và giảm sử dụng lại cocaine ở những bệnh nhân có triệu chứng cai nghiện nặng. Những thuốc kích thích hệ dopamine trong não có thể giúp làm giảm triệu chứng trầm cảm và biểu hiện thèm thuốc ở những người nghiện cocaine nặng. Ngoài ra, amantadine, một thuốc điều trị bệnh Parkinson cũng cho thấy có hiệu quả. Các thuốc và biện pháp giải độc sau tỏ ra có hiệu quả trong dự phòng tái phát: - Topiramate (thuốc chống động kinh) làm giảm sảng khoái và hạn chế thèm thuốc.
- Disulfiram làm khó chịu và lo âu.
|  | Điều quan trọng là phải theo dõi sát các dấu hiệu tương tác thuốc có thể có khi kê những thuốc này cùng với các thuốc kháng virus. Như đã đề cập ở trên, không có lý do và qui định nào không điều trị kháng virus cho những người tiêm chích ma túy. Cách xử trí cũng theo các hướng dẫn thông thường, ngoại trừ một số trường hợp sau: - Không kê Efavirenz (EFV) cho những phụ nữ muốn mang thai.
- Nevirapine (NVP) có thể làm xuất hiện các đợt cấp của viêm gan hoạt động hơn các thuốc khác .
- Ở những bệnh nhân nhiễm viêm gan C và/hoặc viêm gan B, thuốc hoặc hội chứng hồi viêm do miễn dịch (IRIS) có thể làm tăng độc tính đối với gan.
- Ở những người tiêm chích ma túy nhiễm viêm gan B kèm HIV, 3TC (lamivudine) và TDF (tenofovir DF) có hiệu quả đối với cả HIV và viêm gan B, và nên được sử dụng trong điều trị.
- Ở những người nghiện rượu, didanosine (ddI) làm tăng nguy cơ viêm tụy.
- Ở những người nghiện rượu, Stavudine (d4T) làm tăng nguy cơ bệnh thần kinh ngoại biên.
- Nếu có kèm lao thì nên dùng NNRTI (delavirdine, nevirapine, và efavirenz).
- Nếu bất dung nạp với NNRTIs do bệnh gan (viêm gan B, C) hoặc do các bệnh tâm thần, có thể chuyển sang dùng PI (saquinavir, ritonavir, indinavir, nelfinavir, và amprenavir).
- Rifampicin không nên dùng kèm với PI để điều trị lao (vì có thể gây viêm gan do thuốc).
Cần chú ý đến tương tác giữa các thuốc kháng virus và các thuốc do người tiêm chích ma túy sử dụng trái phép. Hiện có nhiều trang web hữu ích cung cấp thông tin cập nhật về tương tác với các thuốc kháng virus. Viêm gan C (HCV) Tỷ lệ đồng nhiễm viêm gan C ở những người tiêm chích ma túy nhiễm HIV ước tính vào khoảng 60-90%. Mặc dù virus có thể biến mất tự nhiên khỏi cơ thể trong 25% trường hợp, nhưng vẫn có nhiều trường hợp tái nhiễm và tiến triển đến bệnh gan mạn tính. Một trong những tác dụng ngoại ý của liệu pháp điều trị viêm gan C là làm cho bệnh nhân kém đáp ứng với liệu pháp kháng virus HIV. Vì thế, cần thận trọng khi điều trị viêm gan C ở các trung tâm cai nghiện hoặc các trung tâm điều trị HIV/AIDS vì bệnh nhân ở đó thường đã được áp dụng liệu pháp điều trị thay thế thuốc giảm đau gây nghiện và liệu pháp kháng virus. Cách tiếp cận này có một ưu điểm nữa là có thể theo dõi bệnh nhân trên lâm sàng và có thể hỗ trợ về mặt tâm lý/tâm thần ở các trung tâm cai nghiện vì trầm cảm là một trong những tác dụng phụ trầm trọng xuất hiện khi điều trị với interferon. Nên cân nhắc điều trị interferon người và ribavarin cho bệnh nhân nhiễm virus viêm gan C. Tỷ lệ đáp ứng điều trị đối với interferon người và ribavarin vào khoảng 11-29% đối với genotype 1 và 43-73% đối với các genotype không phải 1, do đó nên cân nhắc cẩn thận trước khi điều trị cho bệnh nhân. Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng điều trị bao gồm lượng CD4, số lượng HIV bị nhiễm và có hay không có xơ gan. Việc điều trị nên được thực hiện lúc lượng CD4 cao trước khi cần đến liệu pháp kháng virus HIV. Nếu bệnh nhân cần điều trị với thuốc kháng virus HIV thì nên điều trị ngay cho bệnh nhân cho đến khi tình trạng bệnh nhân ổn định với lượng CD4 > 200/mm3 thì mới bắt đầu điều trị kháng virus viêm gan C. Viêm gan B (HBV) Virus viêm gan B và HIV có cùng đường lây nhiễm và vùng dịch tễ, tuy nhiên virus viêm gan B dễ lây nhiễm gấp 100 lần so với HIV. Vì thế, hơn 70% người nhiễm HIV có dấu ấn nhiễm viêm gan B trước đây hoặc hiện tại. Những người đồng tính luyến ái nam có tỷ lệ đồng nhiễm virus viêm gan B/HIV cao hơn những người tiêm chích ma túy. Liệu pháp điều trị kháng virus HIV cho bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan B nên bao gồm 3TC và TDF vì các thuốc này có hiệu quả đối với cả HIV lẫn viêm gan B. Bệnh gan mạn tính Đồng nhiễm viêm gan B và C ngày càng được quan tâm vì tình trạng này có thể gây xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan. Nói chung, nhiễm virus viêm gan B và C thường gặp ở những người nhiễm HIV hơn là người bình thường. Hơn nữa, nhiễm virus viêm gan B và C ở những đối tượng này sẽ dẫn đến bệnh gan mạn tính nhanh hơn và tỷ lệ tử vong cũng cao hơn. Ngoài ra, bệnh gan do rượu cũng thường gặp ở những người tiêm chích ma túy. Bệnh lao và HIV/Lao ở người tiêm chích ma túy Việc điều trị lao đồng nhiễm với HIV ở những người tiêm chích ma túy là rất phức tạp, mặc dù có thể giải quyết hiệu quả. Hiện vẫn chưa có đủ các khuyến cáo điều trị cụ thể đối với tình huống này và cần phải có thêm các nghiên cứu. Ngoài ra cũng cần xem xét mức độ sẵn có của các thuốc kháng lao cũng như tình trạng lao đề kháng tại các khu vực. Cần cẩn thận khi tính liều methadone cho những người tiêm chích ma túy được điều trị lao. Vì rifampicin là thuốc kích hoạt cytochrome P450 gây giảm nồng độ methadone lưu hành trong máu do đó cần tăng liều methadone sử dụng. Mặt khác, do buprenorphine cũng được chuyển hóa qua cytochrome P450, nên rifampicin cũng có ảnh hưởng tương tự lên nồng độ của buprenorphine. Các nhiễm trùng phối hợp khác Các nhiễm trùng phối hợp khác thường gặp ở những người tiêm chích ma túy: - Huyết khối tĩnh mạch sâu và huyết khối ở phổi.
- Tăng nguy cơ bị bệnh hô hấp, bệnh liên quan đến hút thuốc lá và các bệnh mạn tính khác.
- Các bệnh nhiễm khuẩn thường gặp:
- Nhiễm trùng da và áp-xe mô mềm.
- Viêm phổi do vi khuẩn là những biểu hiện sớm và thường gặp (khi lượng CD4 từ 200-400 /mm3).
- Viêm nội tâm mạc và nhiễm trùng huyết.
Xử trí các nhiễm trùng phối hợp có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều trị ở những người tiêm chích ma túy nhiễm HIV. Có thể giải quyết các nhiễm trùng phối hợp này thông qua các chương trình dự phòng tích cực và các dịch vụ điều trị. Kết thúc bài 4.3 | Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC) Bài viết: 5.759 Đến từ: Heaven in hell
Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
|
BÀI 4.4 : KIỂM SOÁT PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VÀ KỲ THỊ TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Phân biệt đối xử là hành động mang tính miệt thị. Nó hình thành các định kiến và hành vi xấu đối với một số người hoặc một nhóm người trong xã hội. Nó định rõ cách người ta nhận thức và coi trọng họ và cách mà họ được nhìn nhận như là những cá thể trong xã hội. - Phân biệt đối xử do xã hội áp đặt (phân biệt đối xử bên ngoài). Loại phân biệt đối xử này xuất hiện thông qua các hành vi như xa lánh, đuổi, bài trừ về mặt đạo đức, từ chối hỗ trợ và các dạng sỉ nhục.
- Phân biệt đối xử có thể gán cho người ta những từ xấu như “người ngoại quốc”, “người tàn tật”, “người đồng tính”, “người nghiện”… Các từ ngữ được dùng mang tính phân biệt chủng tộc, phân biệt giới hoặc phân biệt giai cấp.
- Mặt khác, phân biệt đối xử có thể tự hình thành (tự phân biệt đối xử). Loại phân biệt đối xử này thường dưới dạng tự loại trừ mình, ít coi trọng mình, sợ bị khám phá, rút lui và cách ly khỏi xã hội.
|  Mit-tinh chống phân biệt đối xử đối với người nhễm HIV/AIDS. Ảnh: VAAC | Phân biệt đối xử sẽ dẫn đến kỳ thị, là hành động tước đi quyền con người và từ chối những đòi hỏi chính đáng của họ. Điều này làm thay đổi vai trò và hành vi của một hay một nhóm người. Những người bị kỳ thị sẽ bị cô lập và rất khó hoặc không thể tìm và nhận được sự hỗ trợ về mặt vật chất, kinh tế hoặc hỗ trợ cá nhân. - Phân biệt đối xử ảnh hưởng rất xấu đến dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS.
- Ở tất cả các nền văn hóa, có nhiều cách suy diễn làm cho các quan điểm xã hội liên quan đến phân biệt đối xử HIV/AIDS càng xấu thêm. Người ta thường suy diễn HIV/AIDS thành “dịch hạch thời hiện đại”, “dịch do tình dục”, “máu xấu” hoặc là “đồng tính, máu không đông hay nghiện heroin”.
- Các cách suy diễn được sử dụng, dù dưới hình thức từ ngữ hoặc hình ảnh, cũng đều phóng đại hình ảnh “khác thường” và “bất thường”, ví dụ như vi phạm thuần phong, qui tắc, đạo đức và đe dọa tính chính trực. Cách mô tả này cuối cùng sẽ dẫn đến tình trạng phân biệt giữa “họ” (những người bị nhiễm HIV/AIDS, còn gọi là nạn nhân AIDS) và “chúng ta” (những người không có nguy cơ bị nhiễm HIV do thái độ, nhận thức về tôn giáo hoặc do hòa nhập với xã hội).
Những người sống với HIV/AIDS thường ít được tiếp cận với những hỗ trợ từ các hệ thống xã hội, với các cơ sở y tế và với các tổ chức xã hội. Tuy nhiên để sống sót, họ ngày càng phải lệ thuộc vào những hệ thống này. |  Một cảnh phân biệt đối xử. Nguồn: Medmissio | Dưới đây là những thái độ và hành vi xấu dẫn đến phân biệt đối xử: Tự phân biệt đối xử : - Những người nhiễm HIV/AIDS cảm thấy bị những người khác phán xét nên họ tự cô lập. Họ tự căm ghét mình, bị trầm cảm và ở trong tâm trạng của người bị bệnh. Điều này trước hết ảnh hưởng xấu đến tinh thần rồi đến thể chất.
Phân biệt đối xử từ nhân viên y tế : - Hành vi vô đạo đức: thờ ơ trong chăm sóc bệnh nhân, thái độ chỉ trích đánh giá, vi phạm nguyên tắc bảo mật, ép buộc phải cho biết tình trạng nhiễm HIV, từ chối điều trị, triệt sản không cần sự đồng ý của người bệnh. Một ví dụ ở Thái Lan cho thấy 40% người sống chung với HIV/AIDS được phỏng vấn cho biết cán bộ y tế tiết lộ tình trạng HIV của họ cho người khác biết mà không được họ đồng ý. Trong một điều tra khác trên 1000 nhân viên y tế ở một nước, 10% thừa nhận đã từ chối chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS hoặc ngăn không cho họ nhập viện, và 20% cảm thấy những người sống chung với HIV/AIDS đã cư xử vô luân và đáng chết.
|  Phân biệt đối xử trong y tế ?. Ảnh: BBBS | Diễn đạt và giao tiếp: - Lời nói bất cẩn và thuật ngữ không rõ ràng trên các phương tiện truyền thông có thể diễn đạt không đúng những người sống chung với HIV/AIDS thành những người đang chết hơn là những người đang sống. Ví dụ, chúng ta thường nghe đến thuật ngữ “nạn nhân AIDS”. Ngoài ra, người ta còn thường hiểu sai về hành vi của những người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt là hành vi tình dục của họ.
Môi trường xã hội và môi trường làm việc: - Thái độ thù hằn, quá khích, im lặng và khước từ sẽ loại trừ những người sống chung với HIV/AIDS. Những người này có thể bị mất việc, bị đuổi ra khỏi nhà, bị từ chối cho vay hoặc bảo hiểm. Con cái của họ có thể bị tẩy chay ở trường và ngoài cộng đồng.
Thật vậy, không dễ loại trừ được tình trạng phân biệt đối xử. Tuy nhiên có thể áp dụng 3 cách giải quyết chính sau đây: - Truyền thông,
- Các biện pháp bảo vệ những người sống chung với HIV/AIDS khỏi bị kỳ thị,
- Chăm sóc những người sống chung với HIV/AIDS.
3 cách giải quyết này có mối quan hệ tăng cường, hỗ trợ lẫn nhau. Hệ quả phản ứng tích cực của cộng đồng đối với kỳ thị  Kết thúc bài 4.4 | Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC) Bài viết: 5.759 Đến từ: Heaven in hell
Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
|
- 5-15% các trường hợp nhiễm HIV là do lây truyền qua máu hoặc các chế phẩm của máu.
- Để bảo đảm an toàn truyền máu, cần sàng lọc những người hiến máu có nguy cơ cũng như chế phẩm máu hiến.
- Để thực hiện chiến lược an toàn truyền máu toàn diện, cần xem xét lại các chỉ định hiến máu, truyền máu và sử dụng các sản phẩm thay thế máu.
- Biện pháp dự phòng ban đầu các nhiễm trùng qua đường máu cũng quan trọng như biện pháp dự phòng sau phơi nhiễm bằng các thuốc kháng virus.
- Liệu pháp phối hợp kháng virus chủ động (HAART) ngày càng được sử dụng rộng rãi, do đó cũng nên phối hợp thuốc để điều trị dự phòng sau phơi nhiễm.
- Quá trình tư vấn và xét nghiệm tự nguyện chỉ có hiệu quả khi có đủ nhân viên được đào tạo tốt, các phương pháp được giám sát và có đủ các phương tiện kỹ thuật (như có đủ các xét nghiệm kháng thể thích hợp).
- Để nhân rộng chương trình điều trị phối hợp kháng virus chủ động, TCYTTG đề xuất các cơ sở y tế nên xét nghiệm và tư vấn trước.
- Những người tiêm chích ma túy gặp rất nhiều vấn đề về sức khỏe như nhiễm trùng, bệnh tâm thần và quá liều thuốc.
- Việc chăm sóc những người tiêm chích ma túy bao gồm chăm sóc y tế nói chung, giảm tác hại, điều trị nghiện thuốc và hỗ trợ tâm lý-xã hội.
- Có thể áp dụng có hiệu quả liệu pháp phối hợp kháng virus chủ động ở những người sử dụng ma túy. Tuy nhiên cần lưu ý đến liệu pháp thay thế thuốc giảm đau gây nghiện.
- Phân biệt đối xử có cả hình thái bên ngoài và bên trong.
- Cần giám sát chặt chẽ và loại trừ phân biệt đối xử trong ngành y tế.
Kết thúc bài học Chủ đề 4 | Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC) Bài viết: 5.759 Đến từ: Heaven in hell
Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
|
| Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp. |
|
|
|
Di chuyển
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.
|