  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
9. Sự kỳ thị. Từ khi lịch sử bắt đầu được ghi chép, chưa từng có một nhóm đàn ông hay phụ nữ nào bị mọi người căm thù và khinh bỉ như những người đồng tính. Bị lên án như những kẻ có tội và bị những người Do Thái, Cơ đốc và Hồi giáo ruồng bỏ, trừng phạt đối với hành vi đồng tính thường là sự nhục nhã, bỏ tù và thậm chí cái chết. Luật nước Anh thời Trung cổ là chôn sống những kẻ kê gian (giao hợp qua đường hậu môn). Trong thế kỷ XVI, luật nhẹ hơn, cho phép treo cổ. Việc giết những người đồng tính vẫn còn tiếp tục cho đến hiện nay ở nhiều nơi trên thế giới. Có báo cáo là những đội xử tử bán quân sự ở Côlômbia và Êcuađo đã giết hơn 300 người đồng tính trong những năm từ 1986-1990. Theo thông tin của mạng San Francisco Latino, hơn 1200 người đồng tính nam và đồng tính nữ đã bị giết ở Braxin trong thập kỷ qua. Các đội xử tử ở Pêru cũng chịu trách nhiệm về những cái chết của hàng trăm người đồng tính. Ngày 12 tháng 7 năm 1992 năm nhà hoạt động AIDS đồng tính đã bị giết một cách dã man ở thủ đô Mêxicô. Một trong số người đã được tìm thấy bị tra tấn, đâm dao và thắt cổ là tiến sĩ Francisco Estrada Valle, Chủ tịch và là người sáng lập của Ave de Mexico, tổ chức giáo dục và trợ giúp AIDS hàng đầu nước này. Một cuộc khảo sát gần đây cho thấy rằng cứ một trong ba người Nga được cho là đồng tính nam và đồng tính nữ phải bị “trừ khử”. Năm 1988, Chính phủ Ixraen hủy bỏ một đạo luật phạt tù mười năm tội kê gian. Ở hạt Los Angeles, đàn ông đồng tính thường hay trở thành nạn nhân nhất của các hành động tội phạm bạo lực. Khi dẫn ra kinh thánh, một số lãnh tụ Cơ đốc giáo chính thống tiếp tục ủng hộ án tử hình đối với những kẻ kê gian. Các nhóm phân biệt chủng tộc da trắng cũng kêu gọi giết những người đồng tính như một phần của chương trình “niềm kiêu hãnh da trắng” và “quyền lực da trắng” của chúng. Khuynh hướng tình dục của 75% các ca AIDS hiện nay trên thế giới là tình dục khác giới. Sự kiện này không ngăn cản Pat Buchanan, một ứng cử viên của Đảng Cộng hòa cho chức Tổng thống Mỹ năm 1992, rao giảng rằng AIDS là sự trừng phạt của Chúa đối với bọn đồng tính. Thị trưởng New York David Dinkins, người đã tự hào đi cùng những người đồng tính trong cuộc diễu hành ngày lễ Thánh Patrick hàng năm của thành phố, đã bị Buchanan chỉ trích gay gắt là “vênh váo đi cùng bọn kê gian và xúc phạm những người Thiên chúa giáo”. Khi chửi rủa “bọn kê gian và đồng tính nữ”, vị ứng cử viên Tổng thống gọi các nam nữ đồng tính là bọn quỉ Sa tăng. Những đòn tấn công của cánh hữu bây giờ đang lên đến đỉnh điểm khi mà giới đồng tính đang được phần lớn công luận chấp nhận. Đối với một số chính khách, đánh vào giới đồng tính là một kỹ thuật giành phiếu phổ biến. Nguyên Thượng nghị sĩ Mỹ Bill Armstrong, phát ngôn viên hiện tại cho “Bang Colorado vì những giá trị gia đình”, tin rằng AIDS “được tự tạo ra bởi những người đồng tính ham mê khoái lạc”. Nghị sĩ California William Dannemeyer nói rằng những người đồng tính giàu có và nhiều quyền lực âm mưu đề cao tình dục trụy lạc của họ. Ông phàn nàn “mạng lưới đồng tính” này ảnh hưởng xấu đến các chính sách về AIDS của Bộ Y tế và Phúc lợi con người của Mỹ. Người truyền đạo trên truyền hình John Hagee bảo các tín đồ rằng “Nước Mỹ đang chết” vì AIDS và nạn đồng tính hoành hoành. Ông ta tuyên bố Chúa yêu những người đồng tính, nhưng nhà thờ của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ chấp nhận đồng tính luyến ái như một lựa chọn lối sống kiểu khác. Về nguồn gốc của AIDS, Hagee nhắc lại “một thuyết chính” là “AIDS bắt đầu trong các nhà tù châu Phi, trong đó hàng ngàn người đàn ông bị tước bỏ tình dục bình thường đã quay sang tình dục lầm lạc. Sự nhiễm trùng do tình dục lệch lạc đã dẫn tới nhiễm bệnh AIDS”. Hageecó một cách chữa AIDS : sự trinh bạch. Những kẻ kỳ thị cơ đốc giáo tin rằng những người đồng tính “chống lại gia đình” và đi lệch khỏi “các giá trị gia đình truyền thống”. Tuy vậy, đổ lỗi cho những người đồng tính về sự băng hoại gia đình hiện nay ở Mỹ là phi lý. Những vấn đề lớn về tâm sinh lý và xã hội giờ đây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội Mỹ. Theo Trung tâm Nạn nhân Quốc gia, 683.000 phụ nữ đã bị hiếp dâm ở Mỹ năm 1990, nhưng chỉ có 16% nạn nhân báo cáo về tội phạm này. Tại Mỹ, cứ tám phụ nữ thì có một người bị tấn công cưỡng bức tình dục. Hai triệu rưỡi trẻ em bị lạm dụng tình dục hàng năm, 1.200 cháu chết vì sự lạm dụng ấy. Ở Los Angeles mỗi tuần có một cháu bé bị giết, ở thành phố New York tỷ lệ là mỗi tuần hai cháu. Một nghiên cứu gần đây ở California tiết lộ rằng cứ một trong năm cháu gái, và một trong bảy cháu trai bị họ hàng gạ gẫm tình dục. Một triệu vị thành niên tìm cách tự tử mỗi năm. Một phần tư số đó cần điều trị y tế. Gần 30% thiếu niên đồng tính cố tự sát. Cứ hai trong ba trẻ em da đen, và một trong ba trẻ em Mỹ la tinh sinh ra có cha mẹ không cưới nhau; 40% người da đen và 35% người Mỹ la tinh sinh ra đã nghèo khổ, ở California một nửa số trẻ em sống trong các gia đình chỉ có cha hoặc mẹ. Hàng năm, trên một nửa triệu trẻ em được sinh ra bởi cha mẹ ở lứa tuổi vị thành niên. Hơn 25% trẻ em California (trên 2 triệu) không có bảo hiểm y tế. Đối với việc thanh toán theo yêu cầu của luật pháp để nuôi trẻ, một phần tư của tổng số những người cha không chi gì cả, một nửa số người cha trả ít hơn yêu cầu của tòa án. Có phải những người đồng tính nam và đồng tính nữ chịu trách nhiệm trước tiên về những con số thống kê bất hạnh ấy, phản ánh “các giá trị gia đình trong những năm 1990” ở Mỹ ? Năm 1991, hai mươi bốn ngàn người Mỹ đã bị giết; đã ghi lại được 1.800 nạn nhân bị giết ở Los Angeles, nơi tôi ở. Mỹ đứng đầu thế giới về số tọi phạm giết người. Có trên 5,6 triệu tội phạm bị kết án; và nước Mỹ bỏ tù nhiều người tính theo đầu người hơn bất kỳ nước nào khác trên thế giới. Năm 1991, các nhà tù cấp bang và liên bang chứa 823.414 tù nhân, tăng 150% tính từ năm 1980. Vào tuổi 19, một nửa triệu thanh thiếu niên có quan hệ tình dục. Năm 1991, một cuộc nghiên cứu cấp chính phủ được đề xuất để tiếp tục xác định phạm vi đầy đủ hành vi tình dục của thanh thiếu niên và người lớn đã bị hủy bỏ, chủ yếu là do sự phản đối ở quốc nội của dân biểu William Dannemeyer, thượng nghị sĩ Jesse Helms và các chính khách có quyền lực khác muốn đề cao “các giá trị gia đình truyền thống”. Từ khi có AIDS, tội kê gia giờ đây là một đề tài nổi bật cho các phân tích và thảo luận khoa học. Tuy công chúng nghĩ tất cả đàn ông đồng tính đều kê gian, việc thực hiện tình dục bằng đường hậu môn và bằng miệng của những người tính dục khác giới ít được để ý tới. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Tiến sĩ June Renisch, Giám đốc Viện Nghiên cứu tình dục Kinsley ước tính có 39% phụ nữ trưởng thành Mỹ tham gia giao hợp hậu môn, cùng khoảng chừng đó số nam giới. Dựa trên một số nghiên cứu, bà cũng khẳng định rằng 29% các bà vợ Mỹ ít nhất có một lần ngoại tình. Cứ tám trong mười đàn ông đồng tính cũng có quan hệ tình dục với một phụ nữ ít nhất một lần. Theo số phát hành tháng 7 năm 1989 của ấn phẩm “Từ trung tâm tới trung tâm” (do Công ty burroughs Wellcome cung cấp cho các thầy thuốc), các số liệu khôgn công bố cho thấy 25% phụ nữ có chồng đã giao hợp qua hậu môn. Trong một nghiên cứu công bố trong cuốn Văn thư lưu trữ về hành vi tình dục năm 1991, Bruce Voeller khẳng định rằng 10% phụ nữ Mỹ và bạn tình nam giới của họ có hành vi tình dục hậu môn với mức độ đều đặn nào đó. Ông kết luận rằng “tình dục qua hậu môn trong những người Mỹ tính dục khác giới được giữ khá bí mật, có thể gồm 16 triệu người hay nhiều hơn nữa”. Những thống kê sơ bộ đó cho thấy rằng số kẻ kê gian có tính dục khác giới vượt xa tổng số đồng tính nam ở Mỹ. Công chúng coi dân đồng tính là những người chung chạ bừa bãi. Từ điển định nghĩa sự chung chạ bừa bãi là “không giới hạn ở một bạn tình”. Nói một cách chặt chẽ, bất cứ ai có hơn một bạn tình là chung chạ bừa bãi. Vào khoảng những năm 1960, giáo sư da liễu của tôi một lần đã ranh mãnh nhận xét rằng một người chung chạ bừa bãi là người có nhiều bạn tình hơn anh. Tuy định nghĩa chính xác về sự chung chạ bừa bãi có thể còn phải bàn, sự thực trong cuộc sống là ngày nay càng ít người chỉ một vợ một chồng. Những người tính dục khác giới Mỹ thong thường chắc chắn không sống một vợ một chồng. Theo tờ Nước Mỹ ngày nay (số ra ngày 28-6-1991), những người Mỹ trung bình có bảy bạn tình bắt đầu từ tuổi 18. Người ta không biết phạm vi ảnh hưởng đầy đủ đến sự lan truyền AIDS của hành vi lưỡng tính, đặc biệt của những người đàn ông lưỡng tính. Nhà nghiên cứu Schaar Gochros, tác giả cuốn Khi những người chồng thú nhận, ước tính rằng có 6 triệu đànông lưỡng tính Mỹ cưới vợ hay có quan hệ đầu tiên với một phụ nữ, nhưng bí mật có quan hệ tình dục với đàn ông. Vấn đề ở đây không phải là để phê phán những người đồng tính, những người tình dục khác giới hay lưỡng tính, mà là nêu rõ rằng ngày nay phần lớn mọi người không phải là một vợ một chồng. Do đó, phần lớn nững người hoạt động tình dục đều có nguy cơ bị AIDS. Tại sao có quá nhiều người ghét dân đồng tính ? Theo các nhà nghiên cứu của Viện Kinsley trong cuốn Tình dục và luân lý ở Mỹ (1989), việc công chúng không tán thành và sợ dân đồng tính “gắn liền với ba niềm tin thông thường : rằng họ ốm yếu, giống đàn bà, và nguy hiểm”. Niềm tin họ ốm yếu dựa trên các thuyết phân tâm học lâu đời về đồng tính luyến ái. Ý tưởng cho rằng những người đồng tính nam giống đàn bà rõ ràng dựa trên khuôn mẫu vai trò tình dục thịnh hành trong nền văn hóa của chúng ta. Cái nhãn “nguy hiểm” thườn áp dụng cho các nhóm thiểu số, đặc biệt khi người ta biết ít về họ. Vác nà nghiên cứu kết luận rằng sự thù địch đối với dân đồng tính “dường như nảy sinh từ những điều giáo huấn từ thơ ấu, có khuynh hướng quán tính trừ phi cách sống của một người trở nên tự do về tình dục hơn so với cha mẹ, hoặc là nền giáo dục hình thức đưa người ta đến chổ nghi vấn thực sự những niềm tin và giá trị đã được học trong khi lớn lên”. Nguồn gốc của AIDS ở Mỹ rõ ràng bắt nguồn từ các cuộc thử nghiệm với dân đồng tính do chính phủ tiến hành. Vào lúc mà Szmuness đang cẩn thận chọn lựa những người đàn ông đồng tính khỏe mạnh nhất ở Manhattan cho các cuộc thử vác-xin của mình, đất nước đang trãi qua thời kỳ kỳ thị nhất trong lịch sử. Tháng 10 năm 1978, một tháng trước khi cuộc thử nghiệm của Szmuness bắt đầu, các cử tri California đang quyết định liệu có cấm những người đồng tính dạy trong các trường học của bang này hay không. “Dự luật 6” là một vấn đề tranh luận nóng bỏng trong giới truyền thông. Tờ Thời báo Los Angeles (số ra ngày 15-10-1978) mang tiêu đề : “Các giáo viên đồng tính có phải là một mối đe dọa ?” James F.Baxter, một giáo viên đã 22 năm kinh nghiệm và là cha của bôan đứa trẻ, lên án đồng tính luyến ái như một sự lệch lạc với bản chất con người. Baxter gán cho những người đồng tính là “tàn tật” và không xứng đáng dạy trẻ. “Những người đồng tính bị kiểm soát bởi nững mối quan tâm về nhục dục chứ không phải trí tuệ, và trong bất kỳ tình huống nào khi hai mặt đó cạnh tranh nhau thì nhục dục sẽ thắng. Đồi bại, lệch lạc, kỳ quái và khác thường kông phải là các tính từ mà là những điều mô tả thích hợp cho hành vi đồng tính. Gọi một người đồng tính là gay (phóng đãng) thự tế là một hành động vô nhân đạo, vì nó không cho thấy yêu cầu đầu tiên nếu muốn chữa trị những què quặt tâm lý đó : sự thừa nhận khách quan về bệnh tật của họ”. May thay, đa số cử tri California không đồng ý với các quan điểm khắc nghiệt của ngài Baxter, và Dự luật 6 bị đánh bại hoàn toàn trong các cuộc bỏ phiếu. Khi AIDS xuất hiện năm 1981, các quan chức y tế khẳng định với công chúng rằng không có gì phải sợ. “AIDS là một bệnh của người đồng tính”, là một câu được lặp đi lặp lại trong giới truyền thông. Đến tận năm 1987, Robert Gallo đã nói với phóng viên David Black của tờ Playboy rằng “Cá nhân tôi không biết một ca nào (ở Mỹ) mà người đàn ông bị nhiễm vi rút (AIDS) từ một người phụ nữ qua giao hợp tình dục”. Ở châu Phi, nơi AIDS lây nhiễm cho số đàn ông và pụ nữ nhiều như nhau, lời giải thích của Gallo với Black là : “Nó xảy ra, nhưng đó có thể là do những khác biệt về cách thực hiện tình dục, chung chạ bừa bãi hơn hay số trường hợp bệnh hoa liễu lớn hơn”. Những tuyên truyền về AIDS và các nhận xét phân biệt chủng tộc trong giới truyền thông không hề bị thách thức, nghi ngờ. Ví dụ, những người châu Phi da đen (nhưng không bao giờ là người châu Phi da trắng) bị nghi ngờ là chung chạ bừa bãi. Tương tự, những người Mỹ tình dục khác giới da trắng không bao giờ bị coi là những người chung chạ bừa bãi. Gallo đã cho Playboy biết đánh giá chuyên môn của mình về triển vọng của AIDS ở những người tính dục khác giới tại Mỹ :”AIDS sẽ không bao giờ trở thành mối nguy hiểm áp đảo đối với công chúng”. Tại sao AIDS được coi là một căn bệnh riêng của người đồng tính ở Mỹ ? Lời giải thích của tiến sĩ Strecker là cách duy nhất cắt nghĩa điều đó. Lý do AIDS bắt đầu như một “căn bệnh của người đồng tính” là vì vi rút AIDS được cố ý đưa vào cộng đồng đồng tính trong các thử nghiệm vác-xin viêm gan B. Khi bệnh dịch lan ra dân chúng “nói chung”, các viên chức chính phủ cố hết sức làm cho nhân dân tin rằng AIDS thoạt tiên là một bệnh của dân đồng tính “có nguy cơ cao” và rằng AIDS không phải là một căn bệnh của người tính dục khác giới. Tình dục của người đồng tính là “nguy cơ cao” nhưng tình dục của người tính dục khác giới thì không bao giờ bị cho là “nguy cơ cao”. Các thống kê chính thức của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật được nhào nặn để củng cố cho quan điểm ấy. Những người lưỡng tính bị AIDS đều được kê khai cùng với những người đàn ông đồng tính. Đàn ông lưỡng tính không được đặt thành loại riêng “lưỡng tính” hay trong cùng một loại “tính dục khác giới/ lưỡng tính”. Những người nghiện ma túy tiêm tĩnh mạch có tính dục khác giới được đưa vào loại đặc biệt “ma túy IV”. Các nhà dịch tễ học thường cho rằng những người dùng ma túy IV là đàn ông có tính dục khác giới bị HIV từ những kim tiêm bẩn - chứ không bao giờ do quan hệ tình dục với phụ nữ nhiễm bệnh. Vài năm sau khi AIDS bùng phát ở thành phố New York, căn bệnh trở thành nhân tố giết người hàng đầu đối với nam thanh niên đồng tính và nam nữ thanh niên tính dục khác giới ở thành phố này. Vẫn cực kỳ hiếm thấy AIDS ở một người đồng tính nữ, trừ trường hợp liên quan đến ma túy. Một số phụ nữ bị nhiễm bệnh do chồng hoặc người tình có quan hệ chung chạ bừa bãi. Một thập kỷ sau cuộc thử nghiệm viêm gan, AIDS ngày nay là vấn đề số một về sức khỏe đối với các nam nữ thanh niên Mỹ. AIDS là nguyên nhân chết hàng đầu của đàn ông trong độ tuổi từ 33 đến 45. Nhiều đàn ông chết vì AIDS hơn là chết ở chiến tranh Việt Nam. Tổng số đàn ông chết vì AIDS ở San Francisco bây giờ lớn hơn tổng số đàn ông San Francisco chết trong cả ba cuộc chiến tranh : Chiến tranh thế giới thứ II, Chiến tranh Triều tiên và Chiến tranh Việt Nam. Năm 1991, Earvin (Magic) Johnson, ngôi sao bóng rổ được mọi người yêu thích, cong khai thừa nhận anh đã bị nhiễm HIV. Anh khẳng định anh là người tính dục khác giới và không bao giờ có quan hệ đồng tính. Lần đầu tiên, nhiều người tính dục kác giới bắt đầu coi AIDS là nghiêm trọng. thanh niên nghĩ :”Nếu nó có thể xảy ra với Magic, nó có thể xảy ra với tôi”. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Khoảng cùng thời gian đó, huyền thoại bóng rổ Wilt Chamberlain tiết lộ với công chúng một điều rất ấn tượng rằng anh ta đã ngủ với 20.000 người đàn bà khác nhau. Trong giới đồng tính, không ai biết có bất cứ người nào có thể vượt kỷ lục của Chamberlain. Rõ ràng Chamberlain thoát được lây nhiễm HIV, nhưng năm sau anh ta phải vào bệnh một thời gian ngắn vì tim loạn nhịp. Không có nơi đâu mà sự kỳ thị lại trắng trợn hơn và độc ác hơn trong quân đội. Tuy đồng tính luyến ái đã được coi là không hợp với đời sống quân ngũ, sự thật vẫn có vô số nam và nữ đồng tính pục vụ đất nước họ một cách hiệu quả và đáng tự hào trong thời bình và trong thời chiến. Mặc dầu vậy, hàng ngàn đàn ông và phụ nữ đồng tính đã bị thải hồi khỏi quân đội vì khuynh hướng tình dục của họ. Trong quá trình bị đuổi ra khỏi quân ngũ, nhiều người đã bị làm thương tổn hay bị giết. King nghiệm của tôi với quân đội bắt đầu năm 1951, ở tuổi 17, khi tôi đăng ký vào một chương trình của học viện ROTC. Vào tuổi 20, tôi được cử đi Fort Sill, Oklahoma cho một chương trình huấn luyện mùa hè. Được nghỉ phép ba ngày, một nhóm chúng tôi lên một chuyến xe buýt do quân đội bảo trợ đi Monterey, Mexico. Chuyến thăm thành phố bao gồm điểm dừng bắt buộc tại một nà thổ trong khu đèn đỏ khét tiếng. Tôi bước vào hoạt động tình dục của nhóm tình dục khác giới vào năm 1961 trong khi phục vụ với tư cách một thầy thuốc quân đội trong lực lượng Liên Hiệp Quốc đóng tại vùng phi quân sự ngăn cách Bắc và Nam Triều Tiên. Những kỳ nghỉ phép cuối tuần hiếm hoi tới Xê un với các sĩ quan đồng ngũ bao giờ cũng có nhiều đợt uống rượu, tiếp theo là lùng sục gái điếm, mỗi chúng tôi một người. Không ai, trừ tôi, tỏ ra quan tâm về chuyện giữ gìn sự kín đáo, mà còn ngược lại. Không thể tránh những cuộc gặp gỡ như vậy ở Triều Tiên sau chiến tranh. Khôg đắm chìm vào những trò tiêu khiển tình dục khi có cơ hội thì bị coi là không đàn ông và không hiểu nổi. Việc các sĩ quan đồng ngũ của tôi đều đã có vợ không làm thay đổi vấn đề. Không ai mong đợi bất kỳ một quân nhân nam bình thường nào trong trắng hay chung thủy. Đồng tính hay tính dục khác giới, người ta đều cho rằng anh ta sẽ thực hiện hành vi tình dục và hưởng khoái lạc. Đó là cung cách diễn ra ở Triều Tiên đầu những năm 1960. Tôi cho rằng nó vẫn như thế hiện nay. Như có thể dự đoán, tỷ lệ bệnh hoa liễu trong binh lính ở Triều Tiên là rất lớn. Các sĩ quan không ngừng diễn thuyết với binh lính về mức độ nhiễm bệnh hoa liễu không thể chấp nhận được, nhưng binh lính ít khi để ý đến điều đó. họ biết quá rõ các sĩ quan cũng làm như vậy. Sự khác biệt duy nhất là các sĩ quan có đủ tiền để kiếm gái điếm Triều Tiên trông khá hơn và khỏe mạnh hơn. Các sĩ quan cấp cao thường vung tiền để gủ với đàn bà da trắng trong các khu riêng của họ. Thống kê mức bệnh da liễu trong các sĩ quan không tồn tại. Chẳng bao lâu, tôi đã rõ lý do của nó. Vị trung sĩ chỉ huy đơn vị tôi khuyên tôi không ghi các trường hợp nhiễm bệnh của các sĩ quan. Giang mai hay lậu là chẩn đoán không chấp nhận được trong y bạ của sĩ quan - một y bạ ghi bệnh hoa liễu sẽ làm hỏng cơ hội thăng cấp của anh ta. Kinh nghiệm của một sĩ quan quân y ở Triều Tiên đã dạy tôi mọi điều cần biết về sự chính xác của “các thống kê” chính thức của chính phủ, cũng như tính đạo đức giả của luân lý tình dục khác giới trong quân đội. Bốn thập kỷ sau, năm 1992, một số bí mật tình dục của quân đội đã bị phơi bày ra công luận. Chuyên gia quân đội Jacqueline Ortiz, trong khi phục vụ làm thợ cơ khí trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh đã bị trung sĩ của cô cưỡng bức kê gian. Khi cô đầm đìa nước mắt báo cáo sự việc với các sĩ quan chỉ huy, họ đã bỏ ngoài tai những lời tố cáo của cô. Sự việc của Ortiz đã được để ý nghiem túc hơn tại một cuộc điều trần ở Thượng viện về lạm dụng tình dục trong quân đội. Trong khi điều trần, người ta tiết lộ rằng có tới 60.000 cựu binh nữ có thể đã bị hiếp dâm hoặc hành hung trong khi còn ở quân ngũ. Người ta kết luận rằng một phụ nữ phục vụ trong quân đội ở vùng Vịnh Péc xích dễ bị quân mình tấn công hơn là bị kẻ thù tấn công. Trong các sãnh đường bê ngoài buồng của họ tại khách sạn Las Vegas Hilton, ơi diễn ra Hội nghị “Tailhook 91”, các sĩ quan hải quân say rượu hành hung ít nhất hai chục phụ nữ, bao gồm mười bốn nữ sĩ quan hải quân. Các phụ nữ kinh hãi khi những người đàn ông này mò mẫm và sờ soạng họ, và cố cưỡng bức lột quần lót của họ. Không lấy làm lạ là những lời phàn nàn của các nữ sĩ quan đã rơi vào những các tai điếc. Cuối cùng, vụ xì căng đan hải quân được đưa ra ánh sáng và là rung chuyển Washington, dẫn đến sự từ chức của Bộ trưởng Hải quân vào tháng 6 năm 1992. Khi kể lại câu chuyện trên, tờ Thời báo (số ra ngày 13-7-1992) trích dẫn một nghiên cứu của Lầu Năm Góc cho thấy hai phần ba các nữ quân nhân bị quấy nhiễu tình dục bởi các nam quân nhân. Tờ Thời báo cũng nhắc lại một trường hợp năm 1987 trên một tàu cứu hộ hải quân, thuyền trưởng đã thực hiện hành động tình dục bằng miệng đối với một gái điếm trước sự chứng kiến của thủy thủ đoàn; và một trường hợp khác vào năm 1990, một nữ chuẩn úy hải quân tại học viện Hải quân Mỹ đã bị một nam chuẩn úy hải quân đồng ngũ ép buộc còng tay vào bồn đi tiểu của nam giới. Tất cả các vụ đó đều mờ nhạt nếu so với thú nhận của Chính phủ Nhật Bản tháng 7 năm 1992 rằng có tới 200.000 phụ nữ các nước Nhật Bản,Trung Quốc, Triều Tiên, Đài Loan, Philippin và Inđônêxia đã được tuyển để phục vụ như những “đàn bà giải trí” trong các nhà chứa của quân đội trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chính phủ Nhật Bản cuối cùng đã tỏ ra hối tiếc vì những đau khổ họ gây ra cho các phụ nữ đó. Vấn đề đồng tính luyến ái trong quân đội trở thành những tin hàng đầu ngày 8 tháng 7 năm 1992 khi phóng viên truyền hình Barbara Qalters hỏi ứng xử viên Tổng thống Ross Perot rằng liệu ông có cho phép những người đồng tính gia nhập quân đội không. Cộng đồng đồng tính nổi giận khi Perot trả lời :”Tôi không cho đấy là thực tế.”. Mấy tuần sau, Perot cam đoan rằng ông sẽ không tha thứ sự phân biệt đối xử chống những người đồng tính, nhưng từ chối nói rõ quan điểm của ông về việc cấm gia nhập quân đội. Tướng Colin Powell, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, đã nhắc lại lý do quân đội đã trục xuất các nam nữ đồng tính : mối quan tâm chủ yếu của Lầu Năm Góc là bảo vệ quyền riêng tư của những người lính, họ có thể cảm thấy không thoải mái khi phục vụ quân ngũ với “những người đồng tính công khai”. Lầu Năm Góc lấy cớ rằng sự có mặt của những người đồng tính trong quân ngũ sẽ có hai cho “đạo đức và kỷ luật” quân đội. Những lý lẽ không cho các nam nữ đồng tính tham gia lực lượg vũ trang cũng tương tự các lý lẽ trước đây không cho người da đen hòa nhập hoàn toàn với người da trắng trong quân đội. Người ta không hiểu tại sao dân đồng tính có thể bị loại trừ khỏi quân đội dựa trên các cơ sở đạo đức. Làm thế nào mà các quân nhân được huấn luyện kỹ càng nghệ thuật giết chóc lại bị lo lắng bối rối vì các nam nữ đồng tính đòi quyền phục vụ đất nước họ và quyền tình dục như bất cứ ai khác. Tháng 11 năm 1992, có hơn 242.000 người Mỹ được kê khai là bị AIDS. Khoảng một nửa các trường hợp đó là người da đen hay Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong số các thanh thiếu niên chết vì AIDS, 37% là da đen, 19% là Mỹ La Tinh; 100.000 ca đầu tiên mất tám năm để phát triển bệnh, 100.000 ca thứ hai mất hơn hai năm; 7% các ca AIDS gần đây nhất là do tình dục khác giới. Ở hạt Los Angeles nơi tôi sống, đã ghi được 16.000 ca AIDS, với 11.000 người chết. Chín mươi phần trăm các ca được phân loại là “đồng tính/ lưỡng tính”. Trước đây, trong lịch sử y học, chưa bao giờ có bệnh dịch nào lại được giới hạn lạ lùng trong những người da màu hay dân đồng tính. Ngày nào đó, nhân dân sẽ nhận ra rằng sự kỳthị, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và khuynh hướng tình dục là gốc rễ của AIDS. Không phải loài khỉ xanh mang HIV đến cho chúng ta. Nguyên nhân là do chính chúng ta và sự ngây thơ của chúng ta về nhiều mặt bản năng giới tính của con người. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
10. Khoa học về AIDS Bất cứ ai nhìn một người chết vì AIDS cũng biết rằng việc điều trị căn bệnh này là một việc thương tâm. Lý do của thảm kịch này là các thầy thuốc, mặc dầu trãi qua một thế kỷ y học hiện đại, không có phương thuốc nào khôi phục được hệ thống miễn dịch bị thương tổn. Thuốc duy nhất được dùng để trị nhiễm HIV là Zidovudine, thường gọi là “AZT” hay Retrovir. Các bệnh nhân dùng AZT vì họ nghĩ nó tốt cho máu và hệ thống miễn dịch. Họ tin nó sẽ giết vi rút, và ngăn ngừa KS, viêm phổi pneumocystis và các lây nhiễm có tính cơ hội khác. Nhưng thực ra, AZT không làm các việc đó. Thực tế là AZT cực kỳ độc cho máu. Kết quả là nhiều bệnh nhân dùng lâu AZT cần truyền máu thường xuyên. AZT không ngăn ngừa KS và viêm phổi pneumocystis, cũng không ngăn ngừa bất kỳ lây nhiễm cơ hội chết người nào của AIDS. Khi AZT được kết hợp với các thuốc khác, tính độc của nó tăng lên. Kinh thánh về thuốc của các bác sĩ là cuốn PDR (Physician’s Drug Reference – Sách tham khảo thuốc của thầy thuốc) cảnh báo rõ ràng : “Trị liệu bằng AZT có thể kèm theo ngộ độc huyết học bao gồm chứng giảm bạch cầu hạt (số bạch huyết thấp) và thiếu máu nghiêm trọng cần truyền máu. Ngoài ra, các bệnh nhân điều trị bằng AZT có thể tiếp tục phát triển các lây nhiễm cơ hội và các biến chứng khác của nhiễm HIV”. Tại sao các bác sĩ kê đơn AZT ? Tại sao mà một bệnh nhân lại để mình được điều trị bằng một thuốc độc như vậy ? Câu trả lời thật đơn giản : AZT là thuốc duy nhất được FDA (Cơ quan quản lý Dược - Thực phẩm Hoa Kỳ) duyệt cho bệnh AIDS, và việc duyệt đó dựa trên những nghiên cứu cố chứng minh rằng AZT kéo dài sự sống. Do đó, các thầy thuốc điều trị AIDS bằng AZT; và các bệnh nhân từ chối dùng thuốc này thường bị coi là khó bảo, không hợp tác và không khôn ngoan. Khi có biến chứng ở những người dùng AZT, bác sĩ có khuynh hướng đổ lỗi cho “vi rút”. Khi có vấn đề y tế nảy sinh với những người không dùng AZT, thầy thuốc đổ lỗi cho bệnh nhân không chịu dùng AZT. Các nguy cơ của AZT được chứng minh rõ ràng trong ca của John Kuivenhoven, một người đàn ông đồng tính đã được điều trị sai lầm về AIDS “phát triển đầy đủ” trong sáu năm bằng AZT và các thuốc thử nghiệm khác. Các tác dụng phụ đau đớn của thuốc chữa AIDS đó đã tàn phá sức khỏe của ông, buộc ông phải bỏ việc trong khi đợi chết. Giờ đây, người ta biết rằng ông chưa bao giờ bị AIDS, ông cũng chưa từng xét nghiệm HIV cho tới năm 1992, khi mà cuối cùng phát hiện ra rằng ông không bị suy giảm miễn dịch và có kết quả xét nghiệm HIV âm tính. Kuivenhoven đã đệ đơn kiện đòi bồi thường 2 triệu đôla đối với Kaiser Permanente, tổ chức bảo dưỡng sức khỏe lớn nhất nước. Luật sư của ông tuyên bố rằng những liều cao AZT làm cho khách hàng của mình nhức đầu kinh niên, cao huyết áp và liên tục đau các cẳng chân (bệnh thần kinh ngoại biên). Các thầy thuốc thường đổ lỗi các triệu chứng của AIDS đó cho “vi rút”. Tuy nhiên, nếu các thuốc được duyệt về AIDS có thể gây những tác dụng phụ phá hoại như vậy ở một người HIV âm tính và không suy giảm miễn dịch như ông Kuivenhoven, thì các thuốc đó đóng góp bao nhiêu vào sự đau đớn và những cái chết của các bệnh nhân AIDS có HIV dương tính ? AIDS thường được coi là căn bệnh “chắc chết”. có hay không có AZT, kết cục cuối cùng là chết. Vào lúc ban đầu của dịch AIDS, các chuyên gia dự đoán 10% những người đồng tính nhiễm HIV sẽ có AIDS phát triển đầy đủ. Giờ đây hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng 90% những người HIV dương tính cuối cùng sẽ chết vì căn bệnh này. Có những người khẳng định rằng AIDS không phải là một bản án tử hình và có thể “chữa”, nhưng phần lớn các chuyên gia bác bỏ khả năng đó. Dẫu sao thì cũng có một số ít người thoát chết một thời gian dài tuyên bố đã chinh phục được AIDS. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Cái gì quyết định một phương thuốc chữa AIDS ? Tuy không tồn tại một phương thuốc AIDS được chấp nhận về mặt y học, dường như hợp lý khi chấp nhận một “định mức chữa năm năm”, như đối với bệnh nhân ung thư. Cơ quan thẩm quyền y học coi bất kỳ bệnh nhân ung thư nào sống được 5 năm sau khi chẩn đoán là “chữa được ung thư”. Ngay dù một bệnh nhân chết vì ung thư hơn 5 năm sau khi chẩn đoán, bệnh nhân vẫn được coi là “khỏi bệnh”. Trong suốt thời gian hành nghề của tôi, chỉ có một người đồng tính (một đàn ông trung niên da đen) bị AIDS phát triển đầy đủ mà còn mạnh khỏe và sống sót sau hơn 5 năm. Bệnh của ông bắt đầu với những hạch bạch huyết lan rộng ở bẹn, chứng tỏ đó là KS kiểu thông thường ở châu Phi. Ông còn có rất nhiều thương tổn da kiểu KS, và các cẳng chân bị sưng. Tuy các xét nghiệm máu cho thấy chứng cớ ức chế miễn dịch, ông vẫn cảm thấy khỏe và khôgn bị tàn tật bất cứ kiểu gì. Ông không bao giờ dùng AZT hay hóa trị liệu. Tuy chúng ta có “các thuốc chữa ung thư 5 năm” và AZT, việc điều trị và chẩn đoán cho ung thư giai đoạn cuối và AIDS vẫn còn cực kỳ xấu đối với nhiều bệnh nhân. Trong những năm 1960, tôi bắt đầu nghiên cứu “vi khuẩn ung thư”, là tác nhân lây nhiễm đi đôi với ung thư và các bệnh về miễn dịch khác. Vi khuẩn cũng là “đồng nhân tố” lây nhiễm không nhận ra, cần thiết cho sự phát triển đầy đủ AIDS. Không may là mọi mặt nghiên cứu vi khuẩn ung thư đã bị các cơ quan y tế thẩm quyền bỏ qua. Các chi tiết về một thế kỷ nghiên cứu vi khuẩn ung thư đã được ghi lại trong cuốn sách của tôi Vi khuẩn ung thư (1990). Vi khuẩn ung thư tồn tại trong máu và trong tổ chức bị tổn thương vì ung thư và AIDS. Sự hiểu biết về vi khuẩn này và độc tính của nó là nhân tố cốt yếu để hiểu tại sao AIDS và ung ung thư là những căn bệnh tàn phá như vậy. Trước khi tác nhân lây nhiễm này được nhận ra, người ta ngờ rằng y học sẽ chẳng bao giờ đạt tới điều trị có hiệu quả AIDS và ung thư. Theo quan điểm của tôi, phát hiện khoa học quan trọng nhất của thế kỷ này là nhận dạng được vi khuẩn ung thư. Vi khuẩn ung thư thì “đa hình”, nghĩa là vẻ bề ngoài trên kính hiển vi của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của nó. Các nhà nghiên cứu đã chứng tỏ rằng nó có thể giống các vi rút và vi trùng. Vi khuẩn ung thư tồn tại trong mọi sinh vật. Việc phát hiện các vi khuẩn ung thư ở người và động vật có liên quan tới sự có mặt khắp nơi của chúng trong mọi vật chất sống. Việc các nhà khoa học không đủ năng lực nhận ra tầm quan trọng sinh học sâu sắc của vi khuẩn ung thư đã dẫn tới các cuộc thử nghiệm vi rút động vật nguy hiểm và nghiên cứu chiến tranh vi trùng. Kết quả của toàn bộ nghiên cứu công nghệ cao đó là sự sản xuất và gieo rắc “các vi rút siêu đẳng” đột biến, giờ đây đe dọa lây nhiễm toàn thể loài người. Vi khuẩn ung thư cư trú trong mỗi tế bào, và y học không nhận biết được. Kghi một tế bào bị thương tổn (vì bất cứ ký do gì), vi khuẩn ung thư trở nên hoạt động. Khả năng của vi khuẩn ung thư đa hình có thể hiện ra như một vi rút và như một vi trùng, thách thức mọi quy luật của vi sinh học. Tính đa hình của vi khuẩn ung thư giống như con tắc kè luôn thay đổi màu sắc là lý do chính tại sao vi khuẩn đã không được giới y học “thừa nhận”. Vi khuẩn ung thư đã được chứng minh bằng kính hiển vi trong các bệnh miễn dịch, trong ung thư và trong các tổ chức bị thương tổn vì AIDS. Vi khuẩn ung thư là tác nhân lây nhiễm gây nên u ác tính trên da (KS). Vi khuẩn này đã được nhận ra trong mô tế bào bị KS, trong các hạch bạch huyết bị sưng đi đôi với AIDS và trong các cơ quan bị AIDS làm thương tổn. Tuy nghiên cứu này đã được công bố trong các tạp chí y học có tiếng, giới thẩm quyền về AIDS vẫn hoàn toàn làm ngơ. Nhiều dạng khác nhau của vi khuẩn ung thư cư trú trong máu của các cá thể khỏe mạnh và ốm yếu. Một hệ thống mễn dịch bình thường cho phép vi khuẩn ung thư tồn tại trong sự cân bằng thích hợp bên trong cơ thể. Tuy nhiên, trong trạng thái có bệnh, vi khuẩn ung thư sẽ sinh sôi nảy nở. Sự phát triển các mầm bệnh đó trong máu và trong các tổ chức của bệnh nhân là nguyên nhân của phần lớn sự nhiễm độc và tê liệt kèm theo ung thư và AIDS. Sự thiếu máu nghiêm trọng của các bệnh nhân ốm nặng chủ yếu là do các vi khuẩn ung thư phá hủy các hồng huyết cầu. Các thuốc độc như AZT tăng cường quá trình hủy hoại đó. Mặc dù có một thế kỷ nghiên cứu vi khuẩn ung thư, các nhà khoa học vẫn tin rằng máu bình thường là “vô trùng”. Song, sự quan sát đơn giản về máu bằng cách dùng một kính hiển vi “trường tối” đã cho thấy rõ ràng các yếu tố của vi khuẩn ung thư. Các hạt nhỏ nhất của vi khuẩn là những dạng sống, là những khối cấu trúc nhỏ nhất của tự nhiên. Tiến sĩ y khoa Virginia Livingston, người đã nghiên cứu vi khuẩn ung thư hơn 40 năm, tin rằng các vi rút ung thư đều liên quan với vi khuẩn ung thư có ở khắp nơi. Livingston, chết năm 1990 ở tuổi 84, đã viết rất nhiều về vi sinh vật học ung thư, và làm nhiều việc để phổ biến về vi khuẩn ung thư hơn bất kỳ thầy thuốc nào khác của thế kỷ này. Bà đã phải chịu nhiều đau khổ vì những niềm tin của mình, và bị giới y học ngược đãi vì những phương pháp điều trị ung thư không chính thống của bà, bao gồm vác-xin “tự phát” được làm từ chính vi trùng ung thư của bệnh nhân. Cuốn sách của bà Cuộc chinh phục bệnh ung thư (1984) đã tạo ra tiếng vang trong cộng đồng khoa học. Một bài báo không có tính chất tán dương, viết về những ý tưởng cách mạng của bà trong vấn đề vi trùng ung thư đã xuất hiện trên tờ Thời báo Los Angeles (số ra ngày 6-4-1984). Trong nhiều năm, Virginia Livingston đã là bạn và là thầy của tôi, và tôi kính trọng bà hơn bất kỳ thầy thuốc nào tôi biết. Trong nghiên cứu được công bố của tôi, tôi đã khẳng định nhiều quan sát của bà về vi trùng trong ung thư và các bệnh miễn dịch khác. Trong bài viết cho tờ Thời báo, tôi đã bảo vệ quan điểm không chính thống của Virginia Livingston về tính chất truyền nhiễm của ung thư. Các đối thủ khoa học của Livingston lên án công trình của bà một cách không thương tiếc. Tờ Thời báo hỏi ý kiến Robert Gallo, ông này đâu cũng có mặt, về sự nghiệp nghiên cứu ung thư của Virginia Livingston. Ông ta nói giọng huênh hoang :”Cái gì đang diễn ra ở đất nước này ? Đây là sự điên rồ. Bà ấy có thể có thuyết riêng của mình và tôi có thể nói gì đây ? Tôi khôngcó cơ sở nào để ủng hộ nó.” Cũng năm ấy, người ta hỏi Gallo về phát hiện của tôi về vi trùng trong KS, trong một cuộc phỏng vấn do James D’Eramo tiến hành trên tờ Người New York (số ra ngày 9-9-1984). Gallo đáp :”Tôi không biết nguyên nhân của KS. Điều phỏng đoán của tôi là nó có thể liên quan tới HTLV -3 (HIV) theo cách nào đó.” D’Eramo hỏi tại sao KS lại xảy ra phần lớn ở đàn ông đồng tính, Gallo trả lời :”Tôi không biết. KS làm tôi bối rối.” Mấy năm sau, vào năm 1991, Gallo vẫn im lặng về các báo cáo được công bố của tôi về vi trùng trong KS. Khi nói với các nhà khoa học về AIDS, ông ta tuyên bố mình đang tìm kiếm tới cùng “đồng nhân tố bí ẩn” trong KS. “Tôi muốn nói với các vị rằng chúng ta đã tìm kiếm 7 năm, và chúng ta không tìm thấy bất kỳ vi rút hay vi khuẩn nào khác. Điều đó không có nghĩa là nó không có ở đó, mà có nghĩa là chúng ta hay bất cứ ai khác đã không tìm thấy mối liên hệ bị thiếu”. Các phương diện nghiên cứu vi khuẩn ung thư có liên quan đến nghiên cứu hiện nay của Luc Montagnier, người phát hiện ra vi rút gây AIDS. Montagnier công bố tại Hội nghị AIDS quốc tế lần thứ sáu rằng ông ta đang nghiên cứu một vi khuẩn rất nhỏ gọi là một “mycoplasma” (Một loại trong nhóm các vi sinh vật rất nhỏ không di động, khôgn có thành tế bào cứng và vì thế nó có thể có nhiều dạng) mà ông đã tìm thấy ở AIDS. Các mycoplasma là các tác nhân gây nhiễm, là một phần vi rút và một phầnvi trùng. (Nhớ lại những năm 1950 và 1960, Virginia Livingston đã công bố công trình nghiên cứu chứng tỏ rằng vi khuẩn ung thư có một giai đoạn giống mycoplasma). | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Tại Hội nghị AIDS San Francisco năm 1991, Montagnier khẳng định rằng một mycoplasma có thể là một đồng nhân tố cần thiết để vi rút gây AIDS trở nên nguy hiểm chết người. Nhà nghiên cứu của Viẹn Pasteur tuyên bố mycoplasma tìm thấy trong máu các bệnh nhân AIDS có thể là một nguồn lây nhiễm bổ sung. Tuy nghiên cứu về mycoplasma của Montagnier liên quan tới công trình nghiên cứu vi khuẩn ung thư, ông ta không bao giờ thừa nhận mối liên hệ đó, ông cũng không hề nhắc đến bất kỳ tài liệu y học nào chứng tỏ có các vi trùng đa hình và giống như mycoplasma trong KS và AIDS. KS luôn làm bối rối các chuyên gia, đặc biệt là làm thế nào mà bệnh ung thư đã có hàng thế kỷ đó lắign vào bệnh dịch AIDS mới, gây nên bởi HIV. Khi AIDS lần đầu tiên bùng phát trong những người đồng tính ở Manhattan, KS đã trở thành dấu hiệu chỉ điểm của căn bệnh mới này. Đầu những năm 1980, u da ác tính ở Mỹ là một bệnh rất hiếm, thoạt tiên được thấy ở những người đàn ông Italia và Do Thái nhiều tuổi. Sau khi vi rút gây AIDS được đưa vào năm 1978, u da ác tính đột nhiên trở nên một căn bệnh của dân đồng tính. Một báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật về một ngàn ca AIDS đầu tiên nói rằng các ca KS của dân đồng tính sớm nhất được chẩn đoán trong quý một năm 1978. Liệu các ca KS năm 1978 có phải là “KS liên quan đến AIDS” hay không thì không rõ vì các quan chức Trung tâm Kiểm soát bệnh tật giải thích rằng các ca này “có lẽ tiêu biểu cho diễn biến “nền” hoàn toàn bình thường của KS - tức lằcn bệnh KS không đi đôi với AIDS”. Trong số những người được công nhận có công phát hiện các ca đầu tiên chắc chắn là KS của người đồng tính có : chuyên gia da liễu Alvin Friedman Kien, nhà huyết học Linda Laubenstein, nhà bệnh lý học Geoffrey J. Gottleib,và nhà dịch tễ học Michael Marmor, tất cả đều có quan hệ với Trung tâm Y học Đại học New York. Tất cả bốn người đều xuất hiện như những người góp phần vào báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật về KS liên quan đến AIDS, công bố ngày 3 tháng 7 năm 1981 (U ác tính trên da và viêm phổi pneumocytis trong những người đàn ông đồng tính – Thành phố New York và California). Trong quyển sách AIDS : Dịch u ác tính trên da và các lây nhiễm cơ hội (1984), Friedman Kien khẳng định : “Cuối thu năm 1979 và mùa xuân năm 1981, một số ca u ác tính trên da lây lan đột nhiên được phát hiện ở thành phố New York và California”. Trong một cuộc phỏng vấn của tờ Người New York (số ra ngày 15-7-1984), ông tuyên bố “AIDS không tồn tại ở Mỹ trước năm 1979”. Ông cũng bảo một phóng viên tạp chí New York rằng ông đã chẩn đoán ca KS đầu tiên của người đồng tính vào thánh 2 năm 1981. Tại cuộc họp hàng năm vào năm 1982 của Hội Da Liễu Mỹ, Friedman Kien công bố rằng các ca KS đầu tiên đã được chẩn đoán vào tháng 11 năm 1979”. Nhà dịch tễ học Michael Marmor cũng xác nhận rằng người ta nhận thấy 20 đàn ông đồng tính bị KS ở Đại học New York giữa tháng 3 năm 1979 và tháng 8 năm 1981. Trong cuốn sách giáo khoa về AIDS của mình, Geoffrey J. Gottleib xác định thời gian các ca KS sớm nhất của người đồng tính là vào “đầu năm 1979, hoặc có lẽ đôi chút sớm hơn”. Ông viết, “năm 1979 các ca u ác tính trên da chẩn đoán ở các nam thanh niên được báo cáo rải rác từ các cơ sở y tế (đặc biệt ở thành phố New York), một ca mà bản thân tôi gặp là vào mùa thu năm 1979”. Các chuyên gia KS đó chứng nhận sự thực là các ca được thừa nhận sớm nhất xảy ra năm 1979. Các cuộc thử vác-xin viêm gan B chính thức bắt đầu năm 1978. Như vậy, KS của người đồng tính bắt đầu xuất hiện ngay sau cuộc thử nghiệm với dân đồng tính. Năm 1980, các cuộc thử nghiệm mới bắt đầu ở San Francisco, Los Angeles, Denver, Chicago và St. Louis. Vào mùa thu năm 1979, ca viêm phổi pneumocytis đầu tiên ở bờ biển phía đông được chẩn đoán ở thàn phố New York. Mùa thu năm 1980, các ca AIDS đầu tiên ở bờ biển phía tây xuất hiện ở Los Angeles và San Francisco. Năm 1989, mười năm sau khi các ca KS đầu tiên được chẩn đoán ở Manhattan, một nghiên cứu do nhóm nghiên cứu của Robert Biggar tiến hành đã báo cáo khôngcó các ca KS nào trong các nam thanh niên ở New York trong những năm từ 1973-1976. Tuy nhiên, nào năm 1985, số trường hợp KS ở “những đàn ông chưa bao giơf lấy vợ” ở Manhattan tăng 1850 lần, và ở San Francisco mức KS tăng trên 2000 lần. Nhân tố duy nhất chịu trách nhiệm về việc tăng kỳ lạ trong các thanh niên đồng tính ở hai thành phố đó là việc “đưa” HIV vào cộng đồng đông tính nam giới. Sự thật về việc hai thành phố là những nơi thử vác-xin viêm gan B trong những năm 1978-7980 không bao giờ được nêu như là một nhân tố trong sự bùng nổ KS. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Một báo cáo năm 1980 trong tờ Lưỡi dao chích, viết bởi Valerie Beral và ba thầy thuốc dịch tễ học khác tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật ở Atlanta, kết luận rằng KS giờ đây xuất hiện ở các bệnh nhân AIDS thường xuyên hơn gấp 20.000 lần so với ở dân chúng nói chung. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng mức độ các ca KS mới liên quan đến AIDS đang suy giảm trong giới đàn ông đồng tính. Một nghiên cứu mổ xác năm 1985 cho thấy rõ rằng 94% các bệnh nhân AIDS từ các nhóm nguy cơ khác nhau có KS bên trong. Bất chấp nghiên cứu đó, các bác sĩ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật giờ đây báo cáo rằng KS xảy ra chỉ ở 15% đàn ông đồng tính (giảm xuống từ hơn 30% vào lúc bắt đầu bắt đầu bệnh dịch). Lý do của sự suy giảm S thì không rõ ràng. Có lẽ có ít hơn các ca KS được báo cáo, đặc biệt nếu bệnh nhân AIDS cũng bị các lây nhiễm cơ hội khác. Ví dụ, các nhà nghiên cứu của Trung tâm thừa nhận rằng một ca KS “không được báo cáo nếu nó xảy ra sau khi ca AIDS đã được báo cáo về Trung tâm”. Có thể có một lý do khác về sự suy giảm KS là có ít hơn các tổn thương da ở KS được lấy sinh thiết và báo cáo về trung tâm theo dõi ung thư. Bây giờ các thầy thuốc đã quen hơn với biểu hiện của KS, người ta cần ít hơn các sinh thiết để chẩn đoán. Ngoài ra, về phía các nhà bệnh lý học, họ cũng sợ truyền nhiễm nên rất ít khi mổ xác các ca AIDS. Khi không có mổ xác, nhiều ca KS bên trong rõ ràng không được chẩn đoán và báo cáo. Các thống kê của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thoạt tiên phản ánh các ca KS bên trong. Nhưng KS ( kaposi’s sarcoma - khối u ác tính trên da )vừa là một ung thư da bên ngoài và ung thư bên trong ở các bệnh nhân AIDS. Vì lý do đó, mức 15% hiện tại của KS ở AIDS là rất đáng nghi vấn nếu không nói là con số thống kê vô nghĩa. Sau khi hoàn thành cuộc nghiên cứu của bà ở Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, Valeriae Bernal và một nhóm các nhà dịch tễ học Anh tiến hành một nghiên cứu KS tương tự tại một trung tâm giám sát bệnh truyền nhiễm ở Oxford. Báo cáo cuối cùng của họ có nhan đề “Nguy cơ u ác tính trên da ở các bệnh nhân AIDS ở Anh có tăng hay không nếu các bạn tình đến từ Mỹ hay châu Phi ?” xuất hiện trong Tạp san Y học Anh (số ra ngày 16-03-1991). Trong nghiên cứu của Bernal, những người đàn ông đồng tính Anh được hỏi về “nước nào có khả năng là nguồn lây nhiễm HIV”; Sau khi phân tích thống kê, đi đến kết luận rằng KS xảy ra ở 31% đàn ông có nguồn lây nhiễm từ Mỹ (mức KS cao này tương tự với 30% mức của “KS đồng tính” trong những năm đầu bệnh dịch này ở Mỹ). Bernal thấy KS ở 26 đàn ông có nguồn tiếp xúc với châu Phi; và ở 19% đàn ông có nguồn từ chính những người trong nước. Trong một kết luận thống kê giật mình trình bày ở tạp chí Tin tức bệnh dị ứng và ngoài da (số ra tháng 10 năm 1991), các nhà dịch tễ Anh tuyên bố :”Các phát hiện này chỉ rõ rằng tác nhân gây ra KS được đưa vào dân Anh chủ yếu từ Mỹ”. Một nghiên cứu gần đây hơn của Bernal đề xuất một nguồn gốc phân - miệng đối với tác nhân lây nhiễm KS đáng ngờ ở giới đàn ông đồng tính. Rõ ràng nghiên cứu này sẽ ủng hộ quan điểm của một số kẻ kỳ thị tin rằng “bọn đàn ông đồng tính ăn phân”. Khi nghiên cứu các báo cáo dịch tễ học đó tôi thấy dường như các thống kê chính thức đang được nhào nặn để phù hợp với giọng điệu của cơ quan chính phủ bảo trợ ho nghiên cứu ấy. Ví dụ như ở một đàn ông Anh đồng tính với vô vàn bạn tình, làm thế nào có thể xác định chắc chắn rằng một người Mỹ hay một người châu Phi cụ thể nào đó truyền HIV cho bệnh nhân ấy ? Theo tôi, các kết luận rút ra từ các thống kê KS đó của Anh là có tính kỳ thị, phân biệt chủng tộc, chống Mỹ và không khoa học. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Trong thế kỷ XIX, KS đầu tiên là một bệnh của người Áo. Một thế kỷ sau, “dịch” KS được mọi người biết đến như một căn bệnh của người châu Phi da đen, trong khi vẫn chưa được biết đến ở những người Mỹ gốc châu Phi. Hai năm trước đây, ở thành phố New York và Los Angeles, ó được coi là một “căn bệnh của đàn ông Do Thái” Đột nhiên vào đầu những năm 1980, Ks trở thành một căn bệnh của dân đồng tính “đến từ châu Phi”. Một bệnh dịch châu Phi của người có tính dục khác giới da đen đã tự biến đổi một cách lạ lùng thành một căn bệnh của người đồng tính da trắng ở Manhattan. Giờ đây, trong những năm 1980, KS của người Anh đã đột nhiên trở thành một căn bệnh “phân - miệng” của dân đồng tính nhập khẩu từ Mỹ và châu Phi. Không bao giờ có một căn bệnh hoàn toàn giống AIDS và KS. Đó là một hay hai căn bệnh ? Nó là căn bệnh mới hay cũ ? Nó là căn bệnh của người Áo, người châu Phi, người Do Thái, người da trắng, người da đen, người đồng tính hay người có tính dục khác giới ? Câu trả lời dường như phụ thuộc vào ai đang tiến hành nghiên cứu – và đằng sau họ là ai. Để tiếp tục làm rối tinh rối mù các sinh viên nghiêm túc nhất về AIDS, một số nhà dịch tễ học hàng đầu nay lại khẳng định một nguyên nhân “khác” của KS. Và họ tuyên bố rằng dịch KS không có gì quan hệ với AIDS và HIV. Nói cách khác, KS bây giờ được coi là một bệnh dịch riêng lẻ, gây nên bởi một tác nhân lây nhiễm khác chưa từng được biết trước đây, đang lây lan qua con đường tình dục trong giới đồng tính (nhưng không trong cộng đồng tình dục khác giới). Quan điểm mới này được đề xuất bởi Alvin Friedman Kien, người đã phát hiện “KS của dân đồng tính” ở Manhattan năm 1981. Bất chấp các báo cáo da liễu về loại vi trùng gây ung thư ở KS, nghiên cứu về vi sinh vật học của Friedman Kien chỉ ra rằng KS có thể được gây ra bởi một loại vi rút mụn cơm mới (Thời báo da liễu, số ra tháng 1 năm 1992) Ý tưởng về một tác nhân lây nhiễm KS mới lây truyền bằng con đường tình dục dường như ngớ ngẩn, Trong một thế kỷ, chưa từng có một ca ghi lại trong đó một người đàn ông Do Thái, người Italia hay người châu Phi da đen truyền KS cho bạn tình của mình. Ngay cả trong các cặp đồng tính nhiễm HIV, cũng không hay thấy KS trong cả hai người. Loại bện hoa liễu truyền nhiễm nào lây truyền giữa những người đồng tính mà không giữa những người tính dục khác giới ? Hay lây truyền giữa những đàn ông với nhau chứ không giữa những phụ nữ ? Hoặc lây lan chung trong cộng đồng người châu Phi da đen, nhưng không trong số những người Mỹ gốc Phi ? Trong phòng khám bận rộn của tôi ở Hollywood nằm ở một trong những trung tâm AIDS lớn nhất, không ai trong số 8 bác sĩ da liễu của chúng tôi từng thấy KS ở một phụ nữ. Khi hỏi 20 thầy thuốc khác trong nhóm y tế của tôi, làm việc liên tục với các bệnh nhân AIDS. Một thầy thuốc nhớ lại là đã thấy một ca tại một cơ sở khác : bệnh nhân là một phụ nữ đã chuyển tính. Thế còn mối liên hệ của người Haiti và điều nhiều người tin rằng dân đồng tính chung chạ bừa bãi đã mang HIV trở về Cảng Hoàng Tử thì sao ? Thuyết này thường được nhắc đi nhắc lại trên báo chí trong những năm đầu của bệnh dịch, nhưng ít có cơ sở. Theo các nhà dịch tễ học Jean Pape và Warren Johnson thì “bệnh nhân đầu tiên ị u ác tính trên da được chẩn đoán ở Haiti tháng 6 năm 1979, và bệnh nhân đầu tiên bị lây nhiễm cơ hội được thấy vào tháng 2 năm 1980”. Ghi chép từ ba bệnh viện tư ở Cảng Hoàng Tử không tiết lộ ca KS nào trong thời kỳ từ 1968-1983. Xem lại tất cả số liệu về AIDS ở Haiti cho thấy rằng “AIDS có lẽ kôgn tồn tại ở Haiti trước năm 1978”. Trong những năm đầu của bệnh dịch, người Haiti sống ở Mỹ được phân loại là “có nguy cơ cao”. Sau nhiều áp lực chính trị, cuối cùng Trung tâm Kiểm soát bệnh tật loại Haiti ra khỏi nhóm có nguy cơ cao. Trong cuốn Dịch tễ học về AIDS, Richard Kaslow và Donald Francis tưởng tượng ra nguồn gốc của HIV, họ viết :”Người ta dễ cho rằng sự lây nhiễm đầu tiên là do một du khách đi tới ở một vùng xa xôi và nguyên thủy”. Kaslow và Francis “ngờ rằng nguồn gốc của vi rút sẽ không bao giờ được biết đến một cách đầy đủ”. Bất chấp sự bi quan đó, Pape và Johnson tin rằng AIDS bắt nguồn từ châu Phi, sau đó lan đến Mỹ và châu Âu, “và sau đó được đưa vào Haiti hoặc bởi các khách du lịch hoặc những người Haiti trở về nước”. Không có sự thảo luận nào về khoa học AIDS là hoàn chỉnh, nếu không nhắc đế tuyên bố của Peter Duerberg, một giáo sư người Berkeley về sinh học phân tử, khẳng định rằng HIV không phải là nguyên nhân của AIDS. Theo Duerberg, AIDS là kết quả của ma túy và quan hệ tình dục bừa bãi, và HIV không có liên quan gì với AIDS. Quan điểm của Duerberg dường như đặc biệt hấp dẫn đối với những người đồng tính có HIV, là những người bác bỏ quan điểm chính thức rằng họ bị nhiễm thứ vi rút chết người. Khi được phỏng vấn trong tờ Thời báo Chủ nhật Luân Đôn (số ra ngày 26-04-1992), Duerberg tin rằng AIDS “là kết quả của sự bùng nổ việc sử dụng các loại ma túy trí như côcain, đã phá hoại nghiêm trọng hệ thống miễn dịch”. Ông ta coi HIV chỉ như một “kháng nguyên” của máu đi đôi với hành vi chung chạ bừa bãi và sử dụng ma túy bậy bạ. Phần lớn các nhà khoa học không đồng ý với ý kiến của Duerberg cho rằng HIV không gây ra AIDS. Dù vậy, những ý tưởng của Duerberg cũng có ý nghĩa nào đấy đối với một số nhà hoạt động thuộc giới đồng tính, các bác sĩ theo phái tổng thể, và ngay cả một vài chuyên gia AIDS đáng kính. Các chi tiết trong thuyết không chính thống của Duerberg đã xuất hiện trên các tạp san khoa học có uy tín như Nghiên cứu ung thư và Khoa học. Ông ta cũng làm cho các quan điểm của mìh trở nên giật gân bằng cách kể lại cho các phóng viên báo chí rằng ông sẽ cho tiêm HIV vào mình để chứng tỏ vi rút đó vô hại. Tuy nhiên, Duerberg từ chối tiêm chủng vi rút của Gallo. Người ta kể, ông đã bảo với Gallo “Vi rút đó không thể lấy từ phòng thí nghiệm của ông, nó phải sạch hơn vi rút này” (Tuần báo AIDS, số ra ngày 6-7-1987). Duerberg tuyên bố rằng thuốc AZT, vẫn được kê đơn để chữa lây nhiễm HIV, “không phù hợp với sự sống”. Ông tin rằng cần có một “đồng nhân tố” khác với HIV để gây ra AIDS “phát triển đầy đủ”. Tôi đồng ý với Duerberg về hai điểm này. Có lẽ Duerberg sẽ kiểm tra công trình nghiên cứu vi khuẩn ung thư đã được công bố, và bình luận về ý kiến cho rằng AIDS là một bệnh dịch do con người tạo ra với một vi rút được tạo bằng công nghệ gene trong phòng thí nghiệm. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Không may là các nhà điều tra AIDS hàng đầu không muốn xem xét mọi phương diện của khoa học AIDS, ngay cả các mặt còn đang tranh cãi. Lý do thật rõ ràng. Nghiên cứu AIDS là một công chuyện làm ăn lớn. Do đó, nhiều nhà khoa học hết sức bảo vệ công trình nghiên cứu của riêng mình. Họ thường từ chối đề cao các nhà nghiên cứu khác cũng làm công việc tương tự, đặc biệt, nếu nghiên cứu đó cạnh tranh với nghiên cứu của riêng họ. Những nhân vật dẫn đường trong nghiên cứu AIDS dường như quan tâm đến tiền bạc, danh tiếng, sự chú ý của giới truyền thông, thỏa mãn cái tôi, quyền hành khoa học và giải Nobel, hơn là đến chia sẻ các nghiên cứu để tìm cách chữa trị AIDS. Sau bốn thập kỷ hành nghề y, tôi hoàn toàn mất ảo tưởng với “khoa học” y. tôi bị thuyết phục rằng giới thẩm quyền y học kông thực sự muốn có một phương thuốc chữa trị ung thư hay AIDS. Tôi có các đồng nghiệp cố tránh các cuộc hội chẩn bệnh nhân HIV dương tính. Tôi biết có các bác sĩ không muốn đụng chạm vào da của những người đàn ông đồng tính. Tôi đã nghe nói có các thầy thuốc bảo những người bị AIDS rằng người ta không muốn có các bệnh nhân như họ. Tôi biết có các bác sĩ Do Thái đồng tính bị AIDS. Tôi biết có các thầy thuốc Cơ đốc giáo trích dẫn kinh thánh trong khi lên án đồng tính luyến ái. Đó không phải là hoang đường, cũng không phải là sự tưởng tượng của tôi. Trong tạp chí MD (số ra tháng 1 năm 1987), một thầy thuốc ở bang Georgia viết :”AIDS tiêu biểu cho nững hậu quả khi xúc phạm các quy luật của chúa về tình dục”. Một bác sĩ phẩu thuật ở bang Pennsylvania tuyên bố “chúng ta trước đây thường căm ghét đàn ông đồng tính do cảm tính, nay chúng ta có lý do chính đáng”. Một bác sĩ nội khoa từ Oklahoma tin rằng “Đồng tính luyến ái là một tội đáng bị tử hình “. Một báo cáo năm 1986 trong Tạp san Y học phương Tây khảo sát 2.364 thành viên của Hội Y học hạt San Diego (California) về thái độ của các thầy thuốc đối với sự đồng tính luyến ái, các đồng nghiệp và bệnh nhân đồng tính. Một phần tư các bác sĩ giữ thái độ cực kỳ tiêu cực đối với nững người đồng tính, và 30% sẽ không nhận người đồng tính vào trường y. Hầu hết 40% sẽ thuyết phục những người đồng tính đừng học khoa nhi và khoa tâm thần. Một cuộc khảo sát sau này, cũng được công bố trong Tạp san Y học phương Tây số ra ngày 12-01-1992) có những số liệu cũng gây sốc như vậy. Trong số 400 thầy thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Los Angeles được phỏng vấn, 36% từ chối chăm sóc các bệnh nhân có HIV, và 12% khác tỏ rõ họ không muốn làm việc đó nếu những bệnh nhân ấy đến văn phòng của họ. Charles Lewis, Giáo sư y học tại UCLA và tác giả của nghiên cứu đó nói với Thời báo Los Angeles (số ra ngày 12-12-1991) : “Nhiều thầy thuốc nam California tỏ ra thành kiến đối với các nhóm bị ảnh hưởng nhiều nhất của HIV - cụ thể là những người đồng tính và những người nghiện ma túy tiêm ven. Họ cũng sợ bị lây nhiễm và lo rằng các bệnh nhân có HIV có thể làm các bệnh nhân khác xa lánh. Có khá nhiều thầy thuốc rõ ràng đã quyết định không khám bệnh cho các bệnh nhân này. Sự chống đối quá mạnh trong nhiều thầy thuốc đến nỗi việc muốn thay đổi thái độ của họ sẽ là phí thời gian và nỗ lực”. Rõ ràng là nếu không có sự thay đổi thái độ về phía các nhà khoa học và thầy thuốc về AIDS nói chung thì ít có hy vọng cuộc khủng hoảng AIDS toàn thế giới sẽ được giải quyết. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
11. Giải pháp cuối cùng. Từ ngôi nhà của tôi trên đồi nhìn về phía nam, tôi thấy khói bốc lên từ những đám cháy trên đại lộ Hollywood. Những đám cháy được cố ý đốt lên trong các khu người da đen của thành phố, đã lan về phía bắc. Bây giờ những ngọn lửa cách nhà tôi không đầy nửa dặm. Người ta đồn rằng các băng nhóm da đen và La tinh sắp đốt toàn bộ thành phố, và tôi sợ bọn đốt nhà điên cuồng sẽ châm lửa vào các bụi cây khô ở các khe bên trên Hollywood. Đội cứu hỏa vốn đã vất vả, không thể dập tắt các đám cháy lớn trên những ngọn đồi. Thành phố đã trở nên điên rồ do hậu quả phán quyết của Rodney King. Những người da đen đánh đập người da trắng và người La tinh. Các cửa hàng của người Triều Tiên bị đốt. trong cơn bạo lực và giết chóc, dân chúng sợ hãi bảo vệ tài sản của họ bằng súng. Và cảnh sát dường như bất lực không chấm dứt được sự phá phách. Cái xã hội ở Los Angeles chắp từ nhiều mảnh chủng tộc nhạy cảm đột nhiên bị rách toang. Khi tôi đến đây đầu những năm 1960, Los Angeles là một thành phố mà người da trắng chiếm ưu thế, nhưng trong những năm tiếp theo, bộ mặt của nó đã hoàn toàn biến đổi. Những năm 1980, việc nhập cư ồ ạt đã biến công đồng nơi đây thành một nơi hỗn cư gồm 40% người Anglo, 40% người La tinh, 10% người da đen, và 10% người châu Á. Thành phố của các thiên thần bùng nổ thành một thành phố của địa ngục, sự phá phách được ghi lại tỉ mỉ bởi các đội quay phim từ trên các máy bay trực thăng, bay hàng đàn trên các đám đông vô luật pháp. Tôi như mụ đi vì những cảnh trên vô tuyến chiếu sự cướp bóc các cửa hàng quen thuộc của Hollywood mà tôi vẫn ghé mua hàng. Những người La tinh, hai tay đầy hàng ăn cắp được, chạy tán loạn vào các đường phố nơi tôi ở, trong khi cảnh sát túm tụm bên trong các xe tuần tra và quan sát sự cướp phá trong thành phố. Dĩ nhiên có mù mới không thấy các cảnh bạo loạn. Trong nhiều năm. Trên báo chí đầy những mẩu tin câu khách vè lối sống ngày càng suy đồi của Los Angeles và những mối nguy hiểm của nó. Thống kê tội phạm trong hạt thật sự là cơn ác mộng : 55.000 vụ cướp mỗi năm, 70.000 vụ trộm, 65.000 vụ hành hung, 150.000 xe hơi bị lấy cắp. Tờ Thời báo Los Angeles (số ra ngày 17-05-1991) cảnh báo : “Dân chúng hạt Los Angeles đang sống dưới súng đạn. Nhiều người bị bắn chết hơn là chết vì tai nạn xe cộ. Năm ngoái, ít nhất 8.600 người bị trúng đạn - hầu như gần mỗi người một giờ - trong khi hàng ngàn người khác suýt nữa bị bắn”. Từ những năm 1960, dân chúng đã thấy sự biến đổi dần của Los Angeles từ một thành phố đẹp và khá an toàn thành một thành phố xấu xa. Ở nơi mà một thời các phố xá nhộn nhịp, rực rỡ, giờ đây tràn ngập rác rưởi và các mảnh vỡ. Các hình vẽ hoặc chữ viết bậy bạ trên tường có ở khắp nơi, gây nhức mắt, ngay cả ở những khu dân cư trù phú nhất. Những kẻ vô gia cư, nghiện ngập, tâm thần và ăn xin lang thang khắp thành phố. Một ủy ban liên bang báo cẩờng một nửa số người Mỹ có HIV/AIDS là vô gia cư, hoặc là sắp vô gia cư, 15% số dân sống lang thang trên phố bây giờ có HIV dương tính. Thành phố một thời tuyệt vời, giờ đây có những cảnh tượng của một thành phố bị bần cùng hóa của thế giới thứ ba. Dân nhập cư nghèo từ khắp thế giới đổ về Los Angeles. Một nửa số học sinh của trường tiểu học địa phương là người gốc La tinh, một phần tư là gốc Mỹ. Một nửa dân số Los Angeles không nói tiếng Anh ở nhà. Cứ ba người thì một người được sinh ra ở nước ngoài. Nghèo khổ ở khắp nơi. Một trong bảy người trong hạt sống bằng tiền trợ cấp. Trong vùng Nam trung tâm los Angeles bạo loạn tơi bời, một nửa số thanh niên da đen bị thất nghiệp hoặc bị gạt ra khỏi lực lượng lao động. Sự tuyệt vọng và nạn nghiện ma túy lan tràn trong khu người da đen. Trong ba ngày bị bao vây, thành phố biến thành một vùng chiến tranh. Mọi người không được phép ra ngoài khi trời tối. giống như bất kỳ người nào khác bị kìm hãm trong cơn ác mộng chủng tộc và dân tộc, tôi rất tức giận. Tôi đã làm việc vất vả để có chổ đứng trong xã hội, và giờ đây vị thế của tôi bị đe dọa bởi một bầy người cùng sống nơi đây với những bó đuốc chiến tranh trong tay. Tôi nghĩ đến những kẻ thù của nước Mỹ mà người ta đã khích lệ tôi căm thù và sợ hãi trong cuộc đời mình : người Nhật, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Đức, Nga, và cộng sản. Nhưng trong vụ đốt Los Angeles này, không có những kẻ âm mưu, không có cánh tả hay cánh hữu, khôgn CIA. Chỉ chúng tôi thôi. Cuộc chiến tranh Los Angeles bùng nổ trong khi viết cuốn sách này là chứng cớ nữa về sự điên rồ của xã hội chúng ta. Sự tàn phá cộng đồng đồng tính bởi AIDS không khác gì với sự tàn phá Los Angeles có chủ tâm. Về bản chất, cả hai sự tàm phá là “do con người tạo ra”. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Chống lại quan điểm cho AIDS là sự diệt chủng, lý lẽ phổ biến nhất là những người Mỹ sẽ không bao giờ cố ý giết nhau bằng chiến tranh vi trùng. Không may là, lịch sử thế giới hiện đại cho ta vô số ví dụ về việc người ta giết lẫn nhau ngay trong một quốc gia. Các nhóm tôn giáo khác nhau ở Nam Tư (Ngày 4-2-2003, Nhà nước Sécbia và Môngtênêgrô đã chính thức được tuyên bố thành lập, thay thế Liên bang Nam Tư sau 75 năm tồn tại) hiện đang tìm cách tiêu diệt nhau để nắm quyền lực. Toàn bộ dân Hồi giáo của Bosnia-Herzegovina nay đang bị dân Cơ đốc đe dọa tiêu diệt. Giới truyền thông có một từ mới chỉ dự giết chóc ấy :”thanh lọc sắc tộc”. Ở Irắc, ở các nước thuộc Liên Xô trước đây, ở các quốc gia châu Phi và bất cứ nơi đâu trên hành tinh này, người ta tiếp tục giết lẫn nhau mà chỉ có Chúa biết lý do vì sao. Yêu nhau thì khó; giết nhau thì dễ. Tại sao có người muốn tiêu diệt hàng triệu người trên hành tinh này ? Câu trả lời là sự quá tải dân số. Chỉ vì có quá nhiều người tranh nhau các nguồn tài nguyên hạn chế. Trong nhiều thập kỷ, một số nà quy hoạch thế giới khẳng định rằng cần có những biện pháp giảm dân số thế giới. Không may là các chương trình kiểm soát sinh đẻ bắt buộc đã tỏ ra không hiệu quả. Tại Hội nghị thượgn đỉnh về trái đất ở Rio de Janeiro tháng 6 năm 1992, chủ đề về sự tăng nhanh dân số thế giới đã bị hoãn lại, thoạt tiên do áp lực từ Vaticăng và những người Hồi giáo chính thống. Các biện pháp hạn chế tăng dân số bị coi là “không đúng đắn về chính trị”. Sự lây nhiễm HIV đã chứng tỏ là một công cụ kiểm soát sinh đẻ có hiệu quả cao để giảm dân số ở những khu vực nhất định của thế giới, đặc biệt là châu Phi. Người ta dự đoán rằng Uganđa sẽ có 20 triệu dân trong vòng 15 năm, thay cho 24 triệu, do có thể chết vì lây nhiễm vi rút HIV. Các thống kê hiện tại về sự tăng không có kiểm soát của dân số nhân loại thật đáng kể. Theo tài liệu của Tổ chức Tăng trưởng Dân số số không thì “trong 6 giây mà bạn đọc xong câu này, dân số thế giới đã tăng thêm 24 người, trong vòng một giờ tăng lên 11.000, hết ngày hôm nay tăng 260.000. Và, 2 ngày nữa tính từ bây giờ, tổng số dân tăng thêm sẽ đủ ở đầy một thành phố cỡ San Francisco. Chúng ta đang tăng thêm 95 triệu người mỗi năm. Không lấy làm lạ người ta gọi đó là cuộc thi dân số !”. Dân số thế giới hiện nay là 5,3 tỉ chắc sẽ tăng tới 10 tỉ vào năm 2050. Giới truyền thông Mỹ đã kiểm duyệt mọi sự bàn bạc nghiêm túc về AIDS như một căn bệnh do con người tạo ra, và đã bác bỏ những lời tố cáo, coi như sự tuyên truyền xấu xa nhất. Thật khó tin là câu chuyện chiến tranh vi trùng đã bị dập đi trong hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, trong vài năm qua, mọi người đã có được nhận thức sâu sắc về chính phủ “bí mật” đã điều hành nước Mỹ và thường xuyên nói dối côgn chúng. Ngày nay, người ta đã biết rõ rằng các cơ quan bí mật như FBI và CIA và các tổ chức lén lút như mafia, đều có ảnh hưởng đến các công việc quan trọng của nước Mỹ. Các cơ quan đó đều hoạt động ngoài ý muốn của nhân dân Mỹ. Những phim như JFK của Oliver Stone đã gây nên một làn sóng công phẫn đối với việc ỉm đi chứng cớ và các sự việc xung quanh vụ ám sát Tổng thống John F.Kennedy. Ngày nay, 30 năm sau vụ giết Kennedy, những người Mỹ đã biết nhiều về âm mưu của Chính phủ Mỹ dẫn đến việc giết Kennedy trong “cuộc đảo chính” năm 1963. Người ta hẳn nghĩ rằng câu chuyện chiến tranh vi trùng sẽ là bản tin tuyệt vời trên vô tuyến, một nền công nghiệp chuyên say mê các trò giải trí, tình dục, và xì căng đan. Chẳng hạn “Bản tin mười một giờ” của đài ABC (ngày 19-05-1992) đưa tin về các sự kiện đáng đưa tin sau đây trong ba mươi phút buổi tối : Một cuộc phỏng vấn với Tom Cruise và Nicole Kidman đang gắng công thực hiện bộ phim mới Xa và cách biệt, các trích đoạn của bộ phim sắp trình chiếu Người ngoài hành tinh 3, một tác phẩm ngắn của Ringo Starr cựu thành viên ban Beatle trước kia, một mẩu tin về việc có thể tìm lại “nịt ngực” của Madonna bị lấy trộm mất ở Hollywood, một câu chuyện về việc Larry Fortensky (chồng của Elizabeth Taylor) bị kiện ra tòa vì tội lái xe khi đang say. Các mẫu tin khác gồm tin ngắn về các chú chó cảnh sát, những gay go về pháp lý của một người đàn ông Georgia bị tố cáo hiếp dâm một phụ nữ bị rối loạn nhân cách, sự tiết lộ rằng cái chết của “Brady Bunch” cha (Robert Reed) có liên quan đến AIDS, và một mẫu tin về bệnh sởi ở Đức. Hai đoạn tin quan trọng nhất liên quan đến Jesse Jackson (“Tất cả chúng ta phải học sống cùng nhau”), và phó Tổng thống Dan Quayle tìm cách trở lại “các giá trị gia đình” và việc ông lên án nhân vật trên vô tuyến “Murphy Brown” có con ngoài giá thú. Ngoài ra, tin thể thao và tin thời tiết (và vô số tin thương mại) bổ sung cho “các sự kiện quan trọng” trong ngày. Những người mê tín về các âm mưu biết rằng giới truyền thông chủ yếu bị kiểm soát bởi các nhóm lợi ích làm ăn lớn. Những kẻ kiểm soát, điều hành và kiểm duyệt giới truyền thông biết rõ các hàm ý chính trị và xã hội của câu chuyện chiến tranh sinh học AIDS. Một số nhà nghiên cứu các âm mưu tin rằng việc giới truyền thông ỉm đi câu chuyện về AIDS làm cho nó thậm chí đáng tin hơn. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-12-2004(UTC) Bài viết: 138
Cảm ơn: 1 lần Được cảm ơn: 5 lần trong 5 bài viết
|
Ngày nay, muốn có nhiều thông tin thì cần biết nhiều thứ, hơn là chỉ nghe đài hay tin trên vô tuyến và đọc báo hàng ngày. Các cuốn sách bao giờ cũng là nguồn thông tin tốt hơn, nhưng bây giờ ít người đọc. Một cuộc khảo sát mới đây của Hội bán sách Mỹ tiết lộ 60% gia đình Mỹ không mua một cuốn sách nào trong năm 1991. Trong số 40% người mua sách thì 99% liệt họ vào loại “da trắng”. Hai phần ba số sách được mua là “tiểu thuyết”. Mặc dầu có những âm mưu ỉm đi câu chuyện chiến tranh sinh học AIDS, những mẫu tin vẫn dần dần xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Trên chương trình “Giải trí ngày nay” (một chương trình truyền hình của CNN phát vào ngày lễ Tạ ơn năm 1991), Bill Cosby làm khán giả sửng sốt khi nói “AIDS được con người khởi xướng nhằm đuổi đi những người mà họ không thích”. Sau này, Cosby nói với tờ Người điều tra quốc gia (Số ra ngày 24-12-1991) : “Tôi tin AIDS được con người tạo ra. Những người tạo ra AIDS không nhận ra sự hủy diệt họ sẽ gây ra”. Một bài xã luận của tờ Bưu điện New York (số ra ngày 4-12) phê phán những lời của Cosby là “chuyện xấu xa” và “rất có ích cho những kẻ muốn gây thù hằn giữa các nhóm người và kích động bạo lực”. Khi một phóng viên tờ Luật sư (số ra ngày 10-09-1991) hỏi Grace Jones về AIDS, nữ hoàng disco da đen nổi tiếng của những năm 1970 này nhận xét : “Tôi thực sự nghĩ rằng AIDS là một cái gì đó được gieo rắc - một cuộc chiến tranh vi trùng vượt khỏi tầm kiểm soát”. Trong một cuộc phỏng vấn khác của tờ Luật sư (số ra ngày 25-02-1992), phóng viên tin tức Geraldo Rivera được hỏi liệu AIDS có phải là một âm mưu hay một cuộc thử nghiệm y học thất bại, Rivers lảng tránh câu hỏi bằng cách nói :”Tôi nghĩ những nguồn gốc của AIDS ít liên quan đến điều ta bàn nhiều hơn, so với cung cách lan truyền AIDS”. Diễn viên Steven Seagal, người đã làm một số phim hành động nổi tiếng, đã viết một kịch bản về AIDS như một căn bệnh do người tạo ra. Seagal nói kịch bản của ông đã bị các nhà sản xuất phim bác bỏ, cho ý tưởng của ông là “vô trách nhiệm về mặt xã hội”. Diễn viên này nói với tờ Tin thế giới trong tuần (số ra ngày 11-02-1992) : “Tôi tin rằng chúng ta đã bị dối trá về AIDS. Tôi tin nó là một vi rút do con người tạo ra, chứ không phải từ những con khỉ xanh”. Trong tờ Đá lăn, nhà làm phim người da đen Spike Lee viết rằng một ngày nào đó nhiều người sẽ phải đưa ra rất nhiều lời giải thích về AIDS. Làm thế nào mà một căn bệnh bí hiểm và không chữa trị được có thể xuất hiện không biết từ đâu và nhắm đặc biệt vào những người đồng tính và các nhóm thiểu số ? Lee nghĩ căn bệnh bí hiểm này “cũng bí hiểm như nạn diệt chủng”. Ông tin “AIDS là một căn bệnh do chính phủ tạo ra. Họ không bao giờ nhận ra rằng nó không bị giới hạn ở những nhóm người mà người ta định quét sạch”. Lee có phải là người hoang tưởng không ? Ông tuyên bố : “Bạn có thể nghĩ tôi điên khi nói vậy. Tôi không nghĩ thế.” Hiện nay, ngay cả người Mỹ hoài nghi nhất cũng biết rằng thực sự có những hoạt động giấu giếm và những âm mưu của chính phủ. Trong một câu chuyện của tờ Thời báo Los Angeles (số ra ngày 9-2-1992), Dan Oldenburg nêu vắn tắt các thuyết chính về âm mưu hiện đang phổ biến. Đứng đầu dãy liệt kê của ông là thuyết cho rằng “AIDS là một căn bệnh do người thiết kế” được các nhà khoa học của Chính phủ Mỹ tạo ra trong những phòng thí nghiệm tối mật nhằm các mục đích cải tạo giống và nhằm diệt chủng những người đồng tính, những người dùng ma túy, người da đen và những người ít đặc quyền trong xã hội. Oldenburg không bàn về chiến tranh sinh học AIDS, chọn cách phân loại thuyết này như một trong nửa tá “các câu chuyện thực mà họ không muốn chúng ta biết”. | Thất bại không phải là kết thúc, và đôi khi không phải là điều tồi tệ. Nó cho người ta cơ hội để nhìn nhận vấn đề của mình chính xác hơn. |
|
|
|
Di chuyển
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.
|