Nhiều người thường cho rằng chính quyền
thừa nhận các quan hệ yêu đương và sự chăm sóc riêng tư của họ. Nhưng
thật ra một số quan hệ tình cảm lại không được công nhận một cách độc
đoán. Kết quả có lẽ là phá hoại. Một đối ngẫu có thể bị chối từ các
quyền:
-Đưa quyết định y tế nhân danh đối ngẫu khi người này đau ốm, hay ngay cả việc viếng thăm đối ngẫu hoặc con của người này.
-Đưa đối ngẫu bị mất người thân hoặc đau yếu đi chăm sóc, hay tang chế cho đối ngẫu hoặc con cái của người này.
-Chia sẻ bình đẳng các quyền và trách nhiệm trong việc chăm sóc con cái.
-Có người đối ngẫu chăm lo các thủ tục về phúc lợi y tế và việc làm.
-Đưa đơn di trú hay cư trú cho đối ngẫu sống ở nước khác.
-Liên kết hồ sơ hồi thuế và thụ hưởng các phúc lợi thuế cho các cặp,
liên kết lợi ích trong bảo hiểm, hay ngay cả việc cho thuê hoặc sở hữu
tài sản chung.
-Có sự bảo vệ chống bạo hành gia đình.
-Nhận được dàn xếp công bằng về của cải khi quan hệ kết thúc.
-Thừa kế từ đối ngẫu đã qua đời nếu người này không làm chúc thư.
-Chọn nơi an nghỉ cuối cùng cho đối ngẫu.
-Nhận phúc lợi hưu trí nếu đối ngẫu qua đời.
Ở những nước từ chối đi đến hôn nhân cho các cặp đồng giới, các bất
bình đẳng có hệ thống như vậy, theo lệ thường, vẫn được khoan thứ.
Trong tường trình toát lược này, Human Rights Watch xem xét sự bất bình
đẳng đó qua lăng kính của luật pháp và thực tiễn nhân quyền quốc tế.
Quyền hôn nhân là một quyền con người cơ bản. Việc áp dụng không thoái
thác sự bảo vệ quốc tế chống đối xử bất bình đẳng phát ra một đòi hỏi
rằng các cặp đồng giới nam và nữ - trong phạm vi luật pháp quốc tế
chống phân biệt đối xử, - không kém gì các cặp dị giới, cần thụ hưởng
quyền không có bất kỳ "loại trừ" hôn nhân dân sự nào. Hơn nữa, các dẫn
chứng tóm tắt trong văn bản này cho thấy xu hướng ở nhiều quốc gia đi
tới công nhận quyền này.
Nhiều phán lệnh đã đáp lại lời kêu gọi bình đẳng trong công nhận các
quan hệ tìmh cảm, bằng việc tạo nên một chế định tương đương nhằm điều
tiết các quan hệ đồng giới. Các luật về điều được gọi là "kết hợp dân
sự" hay "đối ngẫu gia đình" được chấp nhận ở nhiều nước và vô số các
vùng. Các bước như vậy thể hiện sự tiến bộ, nhưng là tiến bộ không đầy
đủ. Những nỗ lực này gần như tạo nên địa vị tương đồng với hôn nhân tuy
vẫn giữ những khác biệt quan trọng. Chúng có lẽ phản ánh định kiến rơi
rớt lại đối với các đôi cùng giới, hay quan niệm bất bình đẳng vốn có
về cái tạo nên một "quan hệ tình cảm sai phạm".
Chính quyền nào cam kết với bình đẳng thì không thể đảo ngược hợp pháp
phạm vi nào đó của đời sống dân sự khi cho phép miễn trừ trước những
vùng bất bình đẳng. Các nguyên tắc nhân quyền đòi hỏi chính quyền chấm
dứt phân biệt đối xử trong hôn nhân dân sự trên cơ sở thiên hướng tình
cảm giới tính, và để mở địa vị hôn nhân đến tất cả.
I. Công nhận các quan hệ tình cảm: Luật pháp và thực tiễn quốc tế
Trong việc quyết định ai và bằng cách nào thụ hưởng quyền hôn nhân, thì
sức mạnh của những nguyên tắc bảo vệ quốc tế chống kỳ thị - gồm cả bảo
vệ trên cơ sở giới tính và cả khuynh hướng tính dục - rõ ràng là thích
hợp.
Hiệp ước Quốc tế về Quyền chính trị và Quyền dân sự (ICCPR), mà Hoa Kỳ
là một thành viên ký kết, cấm phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính [1]
. Năm 1994, trong vụ Nicholas Toonen kiện Australia, Uỷ ban Nhân quyền
Liên hiệp quốc, cơ quan theo dõi sự tuân thủ và phân xử bạo hành theo
ICCPR, nhận định các luật trừng phạt hành vi đồng giới ở người trưởng
thành liên ứng là xâm phạm các nguyên tắc bảo vệ chống kỳ thị trong
ICCPR [2] . Đặt biệt, Uỷ ban Nhân quyền cho rằng "khuynh hướng tình cảm
giới tính" là một tình trạng được bảo vệ trước sự phân biệt đối xử,
theo ICCPR, nhận định rằng tham chiếu đến "tính dục" trong các điều
khoản 2 và 26 là đã bao gồm khuynh hướng tính dục [3] . Nên, cùng một
ứng dụng đúng lý đối với hôn nhân, việc ngăn chặn những người đồng giới
nam và nữ đi đến hôn nhân dân sự là một hình thức kỳ thị về thiên hướng
tình cảm giới tính [4] .
Chấm dứt kỳ thị trong tiếp cận hôn nhân dân sự đã trở thành vấn đề bức
bách ở nhiều quốc gia. Cơ quan lập pháp Hà Lan, năm 2001, và Bỉ, năm
2003, đã mở rộng quyền hôn nhân dân sự đầy đủ cho các đôi đồng giới.
Tòa án các tỉnh Ontario và British Columbia, Canada, đã rộng mở hôn
nhân đến các cặp cùng giới vào năm 2003. Quốc hội Canada có thể nới
rộng sự khả dĩ của hôn nhân đồng giới trên khắp nước này trong năm nay.
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những phát triển gần đây nhất và nhanh chóng
nhất trong xu hướng quốc tế rộng khắp công nhận các quan hệ cùng phái.
Năm 1989, Đan Mạch trở thành quốc gia đầu tiên trao vị thế quan hệ có
đăng ký cho các đôi cùng giới. Trong những năm tiếp theo, Na uy, Thụy
Điển, Iceland, và Phần Lan đều theo bước. Và năm 1995, các nước
Scandinavia đã ký kết một hiệp ước công nhận các quan hệ tình cảm có
đăng ký của lẫn nhau.
Năm 1995, Hungary mở rộng việc công nhận hôn nhân "thực tế" đối với các
đối ngẫu cùng giới tính. Từ đó, trên lục địa Châu Âu, Croatia, Pháp,
Đức, và Bồ Đào Nha đã xây dựng các hình thức công nhận cho các quan hệ
đồng giới.
Sự nhìn nhận như vậy không giới hạn ở Châu Âu. Hiến pháp năm 1996 của
Nam Phi dứt khoát cấm phân biệt đối xử trên cơ sở tình cảm giới tính.
Một số lớn phán quyết quan trọng trên cơ sở điều khoản này đã xác quyết
quyền bình đẳng của các cặp đồng giới nam và nữ trong phúc lợi hôn
nhân, con nuôi và chăm sóc con cái, và quyền di trú cho người đối ngẫu
ngoại quốc. Tòa án Hiến pháp Nam Phi đã nhận định rằng "gia đình và đời
sống gia đình đối với những người đồng tính ái nam và nữ là có thể xây
dựng được. Có sự tôn trọng mang ý nghĩa, không thể tách biệt [mang tính
kỳ thị] trước những đôi phối ngẫu này. Và các quan hệ con người càng
trở nên quan trọng đối với các cặp đồng giới nam và nữ khi họ đi đến
quan hệ phối ngẫu gia đình" [5] . Ngày 01/09/2003, Uỷ ban Cải cách Luật
pháp Nam Phi công bố một báo cáo, lên án việc không công nhận pháp lý
chính thức đối với hôn nhân đồng giới là vi hiến.
Ở cấp độ quốc gia, quan hệ cùng giới được nhìn nhận ít nhất là vì một
số phúc lợi hôn nhân, như ở Brazil, Colombia, Costa Rica, Cộng hòa
Czech, Israel, New Zealand, cùng các nước khác. Ở cấp độ địa phương,
quan hệ đồng giới được nhìn nhận trong nhiều phán lệnh tư pháp, đa
dạng, như tại Argentina, Australia, Brazil, Italy, Spain, và
Switzerland, cũng như ở bang Vermont bên trong Hoa Kỳ.
Tại tất cả các nước này, việc mở rộng tiếp cận đến các quyền trong hôn
nhân dân sự đã không làm biến đổi mà cũng không công kích vào các giá
trị đạo đức và văn hóa nền tảng. Đúng ra, nó xác quyết tầm quan trọng
của bình đẳng công dân mà không để lại sự quấy nhiễu đối với tự do tư
tưởng và niềm tin cá nhân. Hầu hết các quốc gia, trong các thế kỷ qua,
đã xây dựng phạm vi luật dân sự chi phối cả cánh cửa đi đến hôn nhân và
cả sự tan rã của nó. Các nhà làm luật tìm kiếm sự bảo đảm việc bước vào
hôn nhân chỉ bằng sự tự do và đồng thuận lẫn nhau hoàn toàn; bảo đảm
rằng các đối ngẫu hưởng thụ các quyền bình đẳng trong hôn nhân; và để
bảo vệ sự phân chia công bằng tài sản khi hôn nhân kết thúc. Theo đó,
điều chỉnh nhà nước đối với hôn nhân thường phân rẽ với các quy tắc tôn
giáo. Nhiều nước, chẳng hạn, cho phép cả ly dị và tái hôn dù tôn giáo
phổ biến tại đó có thể lên án cả hai trường hợp. Vì thế, có tiền lệ rõ
rệt là các luật hôn nhân dân sự công nhận các hôn sự mà nếu theo các
tiêu chuẩn tôn giáo thì có thể không. Luật công dân về hôn nhân có thể
được tu chính để chấm dứt phân biệt đối xử trên cơ sở tình cảm giới
tính mà không xâm phạm quyền của các tôn giáo duy trì luật lệ và thực
tế của chính họ. Và dù gì chăng nữa, chừng nào mà nhà nước nắm giữ hôn
nhân với tư cách người công nhận pháp lý các quan hệ tình cảm, nó cần
được chi phối bởi những nguyên tắc bảo vệ quốc tế cho bình đẳng và
chống lại sự phân biệt đối xử.
Liên hiệp quốc cũng có một phạm vi rộng rãi trong việc xác thực những
tiến triển - thay vì cố định - của định nghĩa về gia đình. Uỷ ban Nhân
quyền LHQ đã lưu ý rằng "khái niệm gia đình có thể khác biệt trong vài
khía cạnh, giữa các quốc gia, và ngay cả giữa các tôn giáo, và vì thế
không thể đưa ra một định nghĩa chuẩn mực chung" [6] . Uỷ ban Quyền trẻ
em LHQ đã tuyên bố điều này trong "Nhận định về môi trường gia đình",
rằng cần phản ánh "những cấu trúc gia đình khác nhau, phát sinh từ các
mẫu hình văn hóa và các quan hệ tình cảm gia đình đa dạng đang nổi lên"
[7] .
II. Kết hợp dân sự hay Hôn nhân?
Nhiều phán quyết tư pháp đã đáp lại lời kêu gọi bình đẳng trong công
nhận các quan hệ tình cảm, bằng việc tạo nên một định chế tương đương
cho việc điều chỉnh quan hệ đồng giới. Các luật về điều được gọi là
"kết hợp dân sự" hay "đối ngẫu gia đình" đã được áp dụng ở nhiều nước
và vô số các địa phương. Trong vài trường hợp (như ở Pháp), chúng đưa
địa vị này tiếp cận đến cả các cặp đồng giới và dị giới, trong khi hôn
nhân thì vẫn dành riêng cho các đôi dị giới. Những trường hợp khác (như
ở Đức), tình trạng này chỉ dành cho các cặp cùng giới trong khi hôn
nhân là lựa chọn duy nhất cho việc công nhận chính thức quan hệ tình
cảm dị giới.
Những bước như vậy thể hiện tiến bộ, nhưng là tiến bộ không đầy đủ.
Phần lớn những nỗ lực này tạo nên vị thế tương tự hôn nhân tuy vẫn giữ
những khác biệt quan trọng. Chúng có lẽ phản ánh định kiến còn rơi rớt
lại đối với các đôi đồng giới, hay những quan niệm bất bình đẳng vốn có
về cái tạo nên "quan hệ tình cảm sai phạm". Tại bang New York, Hoa Kỳ,
chẳng hạn, các đối ngẫu gia đình muốn sự đăng ký chính thức phải chứng
minh rằng họ đã sống với nhau hai năm liên tục; trong khi người đàn ông
và đàn bà tìm kiếm hôn nhân có thể làm điều đó mà không có những vấn đề
xâm phạm sự tư riêng như họ đã biết nhau bao lâu, hay họ đã cư trú ở
đâu. Các đôi cùng giới phải đối mặt với gánh nặng bất bình đẳng và phân
biệt đối xử, là chứng minh quan hệ của họ là "thật". Tương tự, vài phán
quyết đòi hỏi các cặp đồng giới chứng minh rằng họ chia sẻ tài chính
hay công khai thể hiện chính họ là một cặp. Trong hoàn cảnh mà sự khẳng
định công khai quan hệ đồng giới của một người có thể dẫn đến kỳ thị
hay bạo hành; hoàn cảnh mà người ta có thể mất việc hay nhà ở mà không
có bồi thường pháp lý; thì gánh nặng phải chịu đựng không chỉ là phân
biệt đối xử, mà còn là những nguy hiểm.
Ngoài ra, "kết hợp dân sự" không mang lại cùng sự bảo đảm công nhận từ
các khía cạnh tư pháp khác mà hôn nhân thông thường có được. Đã có một
hiệp ước quốc tế điều tiết việc công nhận hôn nhân xuyên biên giới [8]
. Ngay cả các quốc gia không tham gia hiệp ước này thì dù sao, với học
thuyết thân thiện quốc gia - được định nghĩa trong luật pháp Hoa Kỳ là
"nhìn nhận điều mà một quốc gia cho phép trong lãnh thổ của họ đối với
hành động lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia khác, có liên quan
đến nghĩa vụ và lợi ích quốc tế, và cả đối với những quyền mà công dân
của chính họ được bảo bệ theo luật pháp của họ" [9] - thường đưa các
nước đến chỗ công nhận hôn sự được thực hiện tại cơ quan tư pháp nước
khác. Gánh nặng biện minh việc từ chối nhìn nhận hôn nhân nước ngoài
đặt trên chính phủ. Gánh nặng này thường, và không công bằng, đặt trên
những đối ngẫu "kết hợp công dân" khi chứng minh việc nhìn nhận ngoài
biên giới của họ. Điều này có thể đưa đến những kết quả đau đớn và
nghiêm trọng khi các đối ngẫu kết hợp dân sự du hành đến một nơi mà nền
tư pháp không nhìn nhận họ. Ngay cả quyền của đối ngẫu chăm sóc một đứa
con cũng có thể bị đe dọa.
Cuối cùng, về sự phân liệt kết hợp dân sự thành một tình trạng pháp lý
đặt biệt như một hình thức nhìn nhận "riêng biệt mà bình đẳng". Riêng
biệt ra không bao giờ là bình đẳng: kinh nghiệm phân biệt chủng tộc ở
Hoa Kỳ chứng minh hùng hồn như thế nào rằng duy trì các dị biệt chỉ làm
trường tồn sự kỳ thị. Cho dù các quyền được hứa hẹn trên giấy đối với
sự kết hợp công dân tương ứng chính xác với những điều này ở hôn nhân
dân sự, thì khăng khăng một thuật ngữ riêng biệt có nghĩa là việc xỉ
nhục trước một thành phần hạng hai vẫn sẽ đeo đẳng các quan hệ này.
Chính quyền nào đã cam kết với bình đẳng thì không thể đảo ngược hợp
pháp phạm vi nào đó của đời sống dân sự khi miễn trừ những vùng bất
bình đẳng được cho phép. Các nguyên tắc nhân quyền đòi hỏi nhà nước
chấm dứt phân biệt đối xử trong hôn nhân dân sự trên cơ sở thiên hướng
tình cảm giới tính, và để mở địa vị hôn nhân đến tất cả.
(Tóm lược tường trình của Human Rights Watch, công bố ngày 4 tháng Chín 2003)
Lê Trần Huy Phú dịch
http://www.asianlabrys.com/forum/ind...showtopic=1169