Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Tu-an  
#1 Đã gửi : 26/12/2009 lúc 12:44:56(UTC)
Guest
Danh hiệu: Guest

Nhóm:
Gia nhập: 24-06-2009(UTC)
Bài viết: 25.549

Được cảm ơn: 35 lần trong 21 bài viết

Tụng kinh hỗ trợ điều trị HIV/AIDS!

25/12/2009 06:43:55

- Kết quả nghiên cứu dùng Kinh Phật tụng niệm hỗ trợ điều trị HIV/AIDS của GS.TS Phan Thị Phi Phi (Trường ĐH Y Hà Nội) và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người trên 28 bệnh nhân cho thấy, các chỉ số tế bào miễn dịch chống HIV đều tăng trong 6 tháng, bệnh nhân không bị chuyển sang giai đoạn AIDS.

Kết quả này đã được báo cáo tại Hội nghị "Năng lượng sinh học và sức khoẻ" do Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người tổ chức tại Hà Nội ngày 19/12.

Theo GS Phi, xét về Tây y, nguyên nhân gây bệnh là do các khiếm khuyết di truyền (gen) và các yếu tố môi trường. Kinh Phật nói rằng, bệnh tật, số phận con người là do Nghiệp gây ra, nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh phật có thể thay đổi Nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi.



a
GS Phi đang báo cáo kết quả tại Hội nghị.

Vì vậy, tụng kinh trị bệnh đã được áp dụng tại nhiều nước, nhưng chưa tác giả nào nghiên cứu vấn đề áp dụng Phật Pháp trong hỗ trợ điều trị HIV/AIDS.

Do đó, GS và các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu trên 28 bệnh nhân, trong đó có 20 trường hợp giai đoạn sớm và trung gian, 3 trường hợp giai đoạn muộn và 5 trường hợp muộn mới xét nghiệm trước khi tụng.

23 bệnh nhân đầu tiên đều đã được xét nghiệm 2 lần (trước khi tụng Phật Pháp và sau khi tụng) các chỉ số miễn dịch tế bào liên quan đến bệnh như TCD3, TCD4, TCD8, tỷ lệ TCD4/TCD8 tại Trung tâm phòng chống AIDS, Viện Vệ sinh phòng dịch quân đội...

 

Bệnh nhân hiểu, trình bày được luật nhân quả 3 đời và trì tụng hằng ngày hay hằng tuần tại nhà, một tháng một lần tại chùa 12 câu thần chú.

 

GS Phi cho biết, khi HIV vào cơ thể, số lượng tế bào TCD4 bị giảm sút nhanh chóng, khó trở về mức bình thường được nữa. Cùng với TCD4 giảm, tổng lượng lympho máu giảm, đặc biệt TCD3.

Sau đó vào tuần thứ 2, số lượng lympho tăng dần, trước hết là TCD8, để chống lại HIV nhưng TCD4 vẫn giảm, do đó tỷ lệ TCD4/TCD8 bị đảo ngược.

Số lượng TCD4 giảm nhưng chủ yếu là chức năng tế bào này bị tổn thương trầm trọng làm giảm chức năng miễn dịch của cả các tế bào khác như lympho B, đại thực bào, NK...

Qua 6 tháng dùng Phật pháp trì tụng hỗ trợ điều trị HIV/AIDS, kết quả tổng hợp tất cả các bệnh nhân cho thấy, đa số các bệnh nhân đều có tăng các thành phần miễn dịch tế bào, đặc biệt là TCD4 (60,8% số trường hợp nghiên cứu) và tương tự tăng cả TCD3 và TCD8.

Mức độ tăng lần lượt là là 3,4; 11,4 và 89,1. Tỷ lệ TCD4/TCD8 cũng có tăng 52,17% số trường hợp, tuy mức độ tăng rất ít, vì trước thời gian trì tụng, chỉ số này cũng rất thấp. Đặc biệt, đối với 16 bệnh nhân đã dùng thuốc chống virus ARV, số lượng cũng như mức độ tăng đều cao hơn so với giá trị chung của cả nhóm và có nghĩa cũng cao hơn nhóm không sử dụng ARV.

Đặc biệt, trong nhóm nghiên cứu có 3 bệnh nhân HIV giai đoạn muộn (TCD4 từ 50 - 200), nhưng sau trì tụng thì 2 trong 3 trường hợp này đều có tăng nhẹ TCD4 và một trường hợp giữ thấp như cũ.

 

Các bệnh nhân đều chưa thay đổi giai đoạn của bệnh (tức là chưa chuyển sang giai đoạn bệnh nặng hơn hay có biểu hiện của bệnh cơ hội AIDS).

 

Tuy nhiên, theo GS Phi, đây mới chỉ là đánh giá ban đầu, nhóm vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để có những đánh giá sâu hơn.   

Nhật Hà
http://bee.net.vn/channel/1981/200912/Tung-kinh-ho-tro-dieu-tri-HIV/AIDS-1733782/


Quảng cáo
Offline vuagao  
#2 Đã gửi : 25/01/2011 lúc 02:07:05(UTC)
vuagao

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 25-01-2011(UTC)
Bài viết: 3
Đến từ: Vietnam

Nghiên cứu ứng dụng phật pháp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS.

(Phan thị Phi Phi, Lê Thị Tâm, Lê Ngọc Anh, Trương Xuân Ngọc, Nguyễn Thị Tuyết Mai, Đào Vọng Đức.)

 

 1./  Đặt vấn đề :

-  Y học hiện đại quan niệm rằng “ Bệnh là do sai lệch hay thương tổn về cấu trúc và chức năng của bất kỳ cơ quan, hệ thống nào trong cơ thể biểu hiện bằng một bộ triệu chứng đặc trưng giúp người thầy thuốc có thể chuẩn đoán xác định và chuẩn đoán phân biệt, mặc dù nhiều khi ta chưa rõ nguyên nhân, về bệnh lý học và tiên lượng&rdquowinking Dorlands 2000)

Nguyên nhân thường do các khiếm khuyết di truyền ( gen) và tác động tương hỗ với gen là các yếu tố môi trường.

-         Kinh phật nói rằng : Bệnh tật , số phân con người là do nghiệp gây ra. Nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh Phật có thể thay đổi Nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi. Các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải học các kinh nói về nhân quả, tội phước. Kinh nhân quả ba đời trước khi nghiên cứu các kinh cao ( Thích Thiện Tâm – Giáo hội phật giáo Việt Nam)

-         Đấy là cơ sở thứ nhật của đề tài: Trì tụng kinh phật có thể thay đổi nghiệp bệnh. Ở đây là người nhiễm HIV/AIDS đây cũng là nội dung mới chưa có tác giả nào làm được cho đến nay.

-         Cơ sở thứ hai của đề tài: Theo S. Freud (1856-1939) thì bệnh là do rối loạn và mất cân bằng giữa ý thức , tiềm thức và bản năng. Trong số các bản năng của sinh vật, bản năng đấu tranh cho sự sống, cho sự tồn tại có sự tự vệ chống “ Bản năng tử vong là một bản năng mạnh, mãnh liệt trong mọi giai đoạn cuộc sống, mọi thời khắc của cuộc sống để sinh khí ( Pneuma) vào cơ thể, tạo ra sinh lực, rồi góp phần tạo ra sự hằng định nội mội. Claude Bernard , nhà sinh lý học thiên tài và y học thực nghiệm của Pháp thế kỷ XVIII, là nhà khoa học đầu tiên gắn liền sự sống với sự hằng định nội môi, yếu tố quyết định đến sự sống. Đến đây, sự sống của sinh vật đã ổn định và tăng cường lên. Sự áp dụng lý thuyết này vào hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS chắc chắn là đã có nhiều tác giả áp dụng, nhưng chưa có tổng kết nào.

-         Cơ sở thứ ba là long tin yêu của bệnh nhân vào công đồng và chính bản thân của mình.

Từ 3 cơ sở chủ yếu trên, mục tiêu của đề tài là :

1./  Người bệnh hiểu và trình bầy được luật nhân quả ba đời và 12 câu thần chú dùng trong trì tụng hàng ngày hay hàng tuần tại nhà và tổ chức tập trung 01 lần/ tháng tại chùa Văn Điển, Hà nội.

2./  Đánh giá sức đề kháng HIV/AIDS trước và sau 06 tháng trì tụng bằng số lượng các tế bào Tcd3, Tcd4, Tcd8 , tỷ lệ Tcd4/Tcd8, đặc biệt chú trọng số lượng Tcd4.

2./  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu :

2.1  Đối tượng nghiên cứu:

28 người tuổi chủ yếu từ 25-33 , sinh hoạt trong câu lạc bộ hoa sen của Chùa Văn điển Hà nội. Trong số này :

-  Có 23 người được xét nghiệm đầy đủ 02 lần ( đầu tháng 07/2008- trước trì tụng phật pháp và sau trì tụng, tháng 01/2009).

- Có 03 người mới tham gia xét nghiệm 01 lần ( Trước trì tụng, tháng 07/2008).

Trong số này có 16 người đã dùng thuốc ARV do trung tâm phòng chống AUDV cấp ( có tên trong phụ lục ) và 10 người chưa dùng thuốc.

- Toàn trạng tương đối còn lanh lẹ, khỏe, vui vẻ, hiện tại chưa có biểu hiện bệnh cơ hội, một số có công ăn việc làm.

2.2    Phương Pháp nghiên cứu :

2.2.1: Các chỉ số miễn dịch tế bào được tiến hành ở các trung tâm phòng chống AIDS , viện vệ sinh phòng dịch Quân đội, trên máy FACS count SW version 1,5 4/05 ( Mỹ). Tiến hành so sánh với các gia trị ban đầu và giá trị sinh học người Việt nam bình thường thập kỷ 90- Thế kỷ XX

Xét nghiệm HIV cũng tiến hành tại đây theo 03 kỹ thuật :

-         Dertemine HIV ½

-         SFD HIV – ½

-         Genscreen HIV ½ V2

2.2.2        Tiến trình nghiên cứu:

* Trước trì tụng : Thử hệ miễn dịch tế bào của bệnh nhân HIV(+) hoặc đã chuyển sang AIDS, bao gồm các chỉ số TCD3, TCD4, TCD8 , tỷ lện TCD4/TCD9.

*  Trì tụng : trì tụng ở nhà 1 lần/ ngày hay có người 1 tuần mới trì tụng 1 lần , có người nhiều lần/ ngày do tự thấy trì tụng hiệu quả. Ban chủ nhiệm tổ chức 01 tháng trì tụng tập thể 1 lần tại chùa Văn Điển hà nội, trì tụng trước tam bảo. Đôi khi thầy Thích Giác Minh tham dự. Trì tụng tập thể 6 lần/6 tháng.

Phật pháp trì tụng chủ yếu là 12 thần chú:

1/  Nam Mô A Di Đà Phật

2./  Nam Mô Bổn sư Thích ca mâu ni Phật

3./ Nam mô Di lặc Tôn Phật

4./ Nam mô tiêu tai- Diên Thọ- Dược sư Phật

5./ Nam mô Đại bi quán thế Âm Bồ Tát

6./  Nam mô Đại nguyện địa tạng vương bồ tát.

7./ Án Lam

8./ Án Xỉ Lâm bộ lâm

9./ Úm ma ni bát minh hồng

10./  Úm Xỉ lặc hê diêm

11./  Án Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha.

12/  Khư tri khư trụ khư tì chi giam thọ, giam tho đa chi bà chi ta bà ha.

* Sau 6 tháng trì tụng: Xét nghiệm lại hệ miễn dịch tế báo với các thông số miễn dịch quy định của ban phòng chống AIDS quốc gia và quốc tế, và xét nghiệm HIV.

2.2.3        Xử lý kết quả : Thống kê y học theo SPSS 14.0

III Kết quả nghiên cứu :

Bảng 1 . So sánh chung kết quả trước sua và hàng số sinh học ( tế bào/mm3 máu)

 winking Quý độc giả có thể xem bảng ở dưới đây)

 

Nhận xét:

-         Tế bào TCD3 không khác biệt với trị số sinh học dùng là xét nghiệm trước hay sau trì tụng (P>0,05) . Nữ xu hướng có số lượng tế bào miễn dịch cao hơn nam giới nhưng sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (P>0,05).          

-         Tế bào TCD4 là tế bào đích của HIV, số lượng tuyệt đối của nữ có xu hương cao hơn nam, nhưng cả hai giới đều thấp hơn trị số sinh học với P<0,01. Trước và sau trì tụng không khác biệt (p>0,05) , nghĩa là đều giảm thấp so với trị số sinh học.

-         Tế bào TCD8 trước và sau trì tụng đều không khác biệt (p>0,05). So với trị số sinh học cả nam và nữ đều có số lượng TCD8 lớn hơn ( P<0,01) chứng tỏ ở các bệnh nhân được nghiên cứu tế bào miễn dịch chống HIV còn hoạt động tốt.

-         Tỷ lện TCD4/TCD8 có rối loạn cân bằng thể hiện ở tỷ lệ thấp đảo ngước so với trị số sinh học, đặc biệt ở nam thấp hơn nữ, và thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ sinh học (0,40+-0,21 so với 1,12-1,25) với P,0,01. Trước và sau trì tụng tỷ lệ này chưa tăng lên bao nhiêu mà vẫn duy trì như cũ.

-         Một cách tổng hợp, có thể phân loại kết quả thu được ở 23 trường hợp như sau:

 

Nhận xét : Số có tăng tế bào miễn dịch chống HIV là :

-         TCD3 là 16/23 trường hợp chiếm 69,57% , với mức độ tăng là 25,77%

-         TCD4 mức tăng là 60,87% ( 14/23 trường hợp) mức độ tăng là 24,02%

-         TCD8 mức tăng là 65,22% ( 15/23 trường hợp), mức độ tăng là 27,90%

-         TCD4/TCD8 mức tăng là 52,17% ( 12/23 trường hợp, ) mức độ tăng là 17,41%

 

Ta có thể hình dung được kết quả nghiên cứu tổng hợp trên biểu đồ 1 với các biến đổi tế bào miễn dịch TCD4 trước và sau thử nghiệm.

 

 

IV. Bàn luận:

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) do virus HIV lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ từ đầu những năm 1980 , đã nhanh chóng được tìm thấy trên mọi khu vực biên giới, kể cả Việt nam. Trường hợp HIV(+) đầu tiên tại Việt nam được phát hiện vào tháng 2/1990. Kể từ đó số bệnh nhân ngày càng gia tăng trên toàn quốc, tính đến 31/08/2008, số người nhiễm HIV còn số là 132.048 người , số AIDS còn sống là 27.597 người và 40.717 người đã thử vong ( Theo cục phòng chống HIV/AIDS Việt nam tháng 10/2008).

Người mắc AID rất ít có dấu hiệu đặc trưng mà chủ yếu là triệu chứng của những bệnh cơ hội do suy giảm số lượng, chất lượng của các tế bào miễn dịch gây ra. Vacsxin HIV-1 biến đổi kháng nguyên rất nhiều và rất nhanh ( theo thời gian và theo vùng địa lý), Quá nhiều các biến thể, các dạng tái tổ hợp mới đã ngăn cản việc sản xuất vacsxin chống HIV.

Năm 1987, CDC ( Trung tâm kiểm soát bệnh tật – Mỹ ) Phân loại tiến triển bệnh dựa vào số lượng tế bào Lympho TCD4 và định nghĩa AIDS khi số lượng TCD4<200 tế bào /mm3 máu. Năm 1993, CDC bổ sung thêm 03 bệnh cơ hội chỉ điểm cho AIDS là lao các loại, ung thư cổ tử cung xâm lấn với viêm phổi tái đi tái lại do vi khuẩn, nâng tổ số bệnh cơ hội đặc trưng cho AIDS lên tới 25 bệnh. Người ta chia nhiễm HIV ra thành 6 giai đoạn

-  Nhiễm trùng tiên phát;

-  Bệnh HIV-1 sớm ( TCD4>500 tế bào/mm2)

-  Bệnh HIV-1 trung gian ( TCD4 từ 200-500)

-  Bệnh HIV-1 muộn ( TCD4 từ 50-200)

-  Bệnh HIV-1 trầm trọng ( TCD4<50)

-  Bệnh HIV-1 giai đoạn cuối.

Như vậy ta thấy số lượng TCD4 là rất quan trọng trong sức đề kháng HIV ( nó nằm trong tổng số tế bào TCD3 và sau TCD4 là TCD8, đại thực bào NK... TCD4 là tế bào đầu tiên và đích pháp hủy chính của HIV-1 , thụ thể TCD4 tiếp nhận GP120 của HIV-1 bộc lộ gp41 của HIV. Sau đó gp41 sẽ hòa màng để giải phóng nhân HIV-1 vào trong bào tương tế bào. Các đồng thụ thể khác cần cho sự xâm nhập HIV-1 vào tế bào như CXCR-4, CXCR-5, CCR-3, CCR-2b, Heparansulfate proteoglycans, ICAM-1, HLA-DR giúp HIV-1 tấn công vào tế bào khác không phải lympho của cơ thể. Trong nghiên cứu lần này chúng tôi gặp 02 bệnh nhậ có HIV(-) đã thử 02 lần cách nhau 06 tháng( dù vợ và con đều có HIV(+)) có thể do thiếu các đồng thụ thể này mà đề tài chưa có điều kiện phân tích 02 trường hợp này.

Các rối loạn điều hòa miễn dịch trong nhiễm HIV-1

Khi HIV-1 vào cơ thể, số lượng tế bào TCD4 bị giảm sút nhanh chóng , khó trở về mức bình thường được nữa. Cùng với TCD4 giảm , tổng lượng Lympho máu giảm, đặc biệt TCD3. Sau đó vào tuần thứ hai, số lượng Lympho tăng dần , trước hết TCD8, để chống HIV-1 nhưng TCD4 vẫn giảm , do đó tỷ lệ TCD4/TCD8 bị đảo ngược. Số lượng TCD4 giảm nhưng chủ yếu là chức năng tế bào này bị tổn thương trầm trọng làm giảm chức năng miễn dịch của các tế bào khách khu Lympho B, đại thực bào, NK..

Qua thử nghiệm dùng Phật pháp trong hỗ trợ điều trị beenhjHIV/AIDS này, ta thấy đa số bệnh nhân đều có tăng các thành phần miễn dịch tế bào, đặc biệt là TCD4 ( 60,8% số trường hợp nghiên cứu và tương tự tăng cả Tcd3, Tcd8 nhiều hơn cả số có tăng Tcd4-69,57% và 65,22%). Tỷ lệ Tcd4/Tcd8 cũng có tăng 52,17% số trường hợp tuy mức độ tăng rất ít, vì trước thời gian trì tụng, tỷ số này cũng đã rất thấp. Ở đây , ta thấy có 03 bệnh nhân thuộc giai đoạn HIV-1 muộn (TCD4 từ 50-200), nhưng sau trì tụng 2 trong 3 trường hợp này đều có tăng nhẹ Tcd4 và 01 trường hợp giữ thấp như cũ. Cả hai trường hợp tuy tăng Tcd4 ít nhưng đều chưa thay đổi giai đoạn của bệnh tức là chưa chuyển sang giai đoạn HIV-1 trầm trọng.

Chưa có tác giả nào nghiên cứu vấn đề áp dụng Phật Pháp trong hỗ trợ điều trị HIV/AIDS. Mặc dù chỉ mới áp dụng trong 06 tháng, dù đã có một số trường hợp tự nguyện trì tụng được hơn 11 tháng. Đây là nghiên cứu đầu tiên của nhóm tác giả này. Hiện nay nhóm bệnh nhân này vẫn duy trì trì tụng theo lịch trình và có thêm nhiều đối tượng mới tham gia dù đề tài đã kết thúc.

 

V. Kết luận :

Bước đầu chúng tôi có một số nhận xét sau:

1./  Đại đa số thành viên câu lạc bộ hoa sen đều bị nhiễm HIV-1 giai đoạn sớm và giai đoạn trung gian (20/23 trường hợp) và 03/23 trường hợp ở giai đoạn muộn

2./  Các chỉ số nghiên cứu đều tăng được từ 52,17% đến 60,87% trường hợp nghiên cứu , đặc biệt là TCD4 tăng 60,87% số ca nghiên cứu (14/23 trường hợp)

3./  Chưa có bệnh nhân nào ở giai đoạn muộn chuyển sang giai đoạn bệnh nặng hơn hay có biểu hiện là bệnh cơ hội.

 

Lời cảm ơn: Xin đặc biệt cảm ơn bác Lê Thị Tâm đã tập hợp được số em trong câu lạc bộ hoa sen, hướng dẫn trì tụng. Xin cám ơn ban giám đốc đã ủng hộ cho đề tài, xin cám ơn GS Ngô đạt tam, TS Phạm Thanh Hải, GS Phan Thị Phi Phi, KS Trương Xuân Ngọc, BS Phạm thị Yến , Sư Thầy Thích Giác Minh và bà Nguyễn thị Tuyết Mai đã hỗ trợ kinh phí cho đề tài.

 

 

 

 

 

 

 

 

Offline vuagao  
#3 Đã gửi : 25/01/2011 lúc 02:11:20(UTC)
vuagao

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 25-01-2011(UTC)
Bài viết: 3
Đến từ: Vietnam

http://forum.hiv.com.com/?frame=product_detail&id=1766

 



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT

Thật là dịp may hiếm có của tôi vào cuối năm 2010 âm lịch khi chứng kiến sự kỳ diệu của Ứng dụng Phật pháp vào chữa căn bệnh và những nghị lực quyết tâm xóa tan bằng được bệnh H của các thành viên trong câu lạc bộ .

 

Câu lạc bộ được sự hướng dẫn của

1.Sư Thầy Thích Giác Minh Chủ trì chùa Văn Điển là người có lòng thương vô bờ bến các bệnh nhân H. Thầy gợi ý đặt địa điểm sinh hoạt câu lạc bộ tại Chùa Văn Điển và hướng dẫn các em cách niệm phật ( Ngôi chùa  văn điển là nơi hoạt động cách mạng trong thời kỳ chống pháp. Mời các bạn click vào đây để biết thêm thông tin về chùa Văn Điển).

2.GS, TS Phan Thi Phi Phi ( sau khi tôi search trên google thì mới biết được GSTS Phan Thị Phi Phi năm nay 76 tuổi  là người đã làm được rất nhiều công trình lớn như Hội nạn nhân chất độc mầu gia cam, chữa bệnh HIV...) Mời các bạn click vào đây để biết thêm thông tin về giáo sư.

3. GS TS Đào Vọng Đức ( Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người) đã có tâm huyết hỗ trợ câu lạc bộ đi đến thành công trong ứng dụng Phật pháp vào chữa bệnh

4. Cụ Tâm: Năm nay 74 tuổi, Khi hỏi cụ về Câu lạc bộ thì mới biết Cụ Tâm có nhiều câu chuyện rất đặc biệt, ngay cả chuyện liên quan đến câu lạc bộ Hoa sen này cũng rất đặc biệt. Tôi có hỏi cụ Tâm về câu lạc bộ này, tôi xin chia sẻ một số thông tin: Từ những năm 1990 cụ Tâm đã nghiên cứu sâu Phật Pháp và trăn trở làm sao để ứng dụng Phật Pháp để chữa bệnh HIV mới xuất hiện tại Việt nam trong khi thế giới đang chưa tìm ra phương thuốc hữu hiệu. Xuất phát từ lòng thương vô bờ bến đối với các bệnh nhân H, hàng này cụ Trì tụng kinh chú nhà Phật và nguyện tìm được pháp phù hợp để chữa khỏi cho các em đang bị bệnh. Những năm 2000 do hiểu được nguồn gốc của bệnh tật đều do  "nghiệp " gây ra, cụ thường nói,  cụ sẽ phải chữa được bệnh H, và không ai tin được lời cụ nói. Và điều kỳ diệu đã xuất hiện, Xuất hiện một vài em bị bệnh H gọi điện cho cụ và nhờ cụ hướng dẫn chữa bệnh. Lúc đầu chỉ có 1, 2 em đến nhà học hỏi, sau đó có khoảng 20 em thường xuyên đến nhà cụ để nghe cụ giảng về phật học cơ bản và cách thức tiêu nghiệp chướng nhanh. Sau một thời gian ứng dụng  Pháp của Phật vào điều trị winking Khai tâm khi giảng về Phật học và 12 câu thần chú của Phật), Cụ đã thấy sắc mặt của các em đã hồng hào và tinh thần đã thay đổi, các em đã không còn ngại bệnh tật và tự tin trong cuộc sống. Đến năm 2006, do có nhân duyên, Cụ gặp được GSTS Phan Thi Phi Phi và đã trình bầy ước nguyện chữa bệnh cho các em bị H, GSTS đã nhận bảo trợ và chủ nhiệm Câu lạc bộ Hoa sen để hướng dẫn dìu dắt các em vượt qua khó khăn. 

Và một số các bác khác tham gia vào buổi sinh hoạt cuối năm .

Điều kỳ diệu thứ nhất mà tôi tận mắt chứng kiến: Tất cả các bạn bị H đều khỏe mạnh hồng hào, tinh thần lạc quan.  Nhiều bạn những năm trước đã không đi lại được, xanh xao nhưng nay đã trở lại bình thường.

Điều kỳ diệu thứ 2 : Hầu hết các bạn đều có công ăn việc làm và có bạn còn làm chủ doanh nghiệp sản xuất bảo hộ lao động cung cấp cho thị trường nhiều tỉnh. Khi Cụ Tâm hỏi 1 bạn về công việc, ban nói, năm 2010 thu nhập tốt hơn so với các năm khác.

Điều kỳ diệu thứ 3: Hai vợ chồng bị H, nhưng khi sinh con thì con lại không bị H.

Điều kỳ diệu thứ 4: Có bạn trước khi tham gia Câu lạc bộ bị 1 U ở phía sau mông không đi lại được. Bệnh viện từ chối mổ. Với lòng thương của Cụ Tâm, Cụ đã sang nhà và hướng dẫn trì chú câu: Án xỉ lặc hê diêm và xoa vào khối U, Kỳ diệu là sau 1 tuần, khối u đấy đã tiêu và bạn đó đã đứng dậy đi lại bình thường.

Điều kỳ diệu thứ 5 : Các bạn thường xuyên xét nghiệm lại và bệnh H không còn tiến triển. Thấy tiến triển của bệnh bị đẩy lùi đã làm cho các bạn có niềm tin, Các bạn đã trở thành những thành viên  tình nguyện hướng dẫn cho các bạn bị H khác. Hiện tại số lượng các bạn bị bệnh H đang được các thành viên chăm sóc tự nguyện là trên 100 bạn.

Điều kỳ diệu thứ 6: một tổ chức quốc tế sau khi thấy được kết quả ứng dụng Phật Pháp vào điều trị bệnh H, đã nhận tài trợ và cùng đồng hành với các thành viên câu lạc bộ Hoa sen từ năm 2011 ( Và đặt tên: Nhóm Tuệ Tĩnh đường) để nhằm mở rộng, ứng dụng giúp cho nhiều bệnh nhân hiện đang bị H.

Cuộc gặp mặt cuối năm báo cáo kết quả thực hành phật pháp vào chữa bệnh và  những lời cảm ơn từ đáy lòng người bệnh đã làm sưởi ấm tất cả các thành viên câu lạc bộ, Sư Thầy Thích Giác Minh.

Sang một năm mới, cầu chúc cho các bạn H khỏi hẳn bệnh và hướng dẫn cho nhiều người bệnh cách thức chữa bệnh.

Chúc cho GSTS Phan Thị Phi Phi, GSTS Đào Vọng Đức, Cụ Tâm ... khỏe mạnh và tiếp tục theo sát dự án này.

Một điều kỳ diệu thứ 7 nữa là lời nhắn của Cụ Tâm: " Nếu con gặp ai mà bị bệnh, con cứ bảo họ gọi điện trực tiếp cho cụ theo số điện thoại 01666151106" .

Cám ơn những người mẹ hiền đã lo lắng và giúp đỡ người bệnh.

" Nam mô tiêu tai diên thọ dược sư Phật "

 Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha

Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghen con
”.
 

Offline vuagao  
#4 Đã gửi : 21/02/2011 lúc 08:18:22(UTC)
vuagao

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 25-01-2011(UTC)
Bài viết: 3
Đến từ: Vietnam

Thật là dịp may hiếm có của tôi vào cuối năm 2010 âm lịch khi chứng kiến sự kỳ diệu của Ứng dụng Phật pháp vào chữa căn bệnh và những nghị lực quyết tâm xóa tan bằng được bệnh H của các thành viên trong câu lạc bộ .

Câu lạc bộ được sự hướng dẫn của

1.Sư Thầy Thích Giác Minh Chủ trì chùa Văn Điển là người có lòng thương vô bờ bến các bệnh nhân H. Thầy gợi ý đặt địa điểm sinh hoạt câu lạc bộ tại Chùa Văn Điển và hướng dẫn các em cách niệm phật ( Ngôi chùa  văn điển là nơi hoạt động cách mạng trong thời kỳ chống pháp. Mời các bạn click vào đây để biết thêm thông tin về chùa Văn Điển).

2.GS, TS Phan Thi Phi Phi ( sau khi tôi search trên google thì mới biết được GSTS Phan Thị Phi Phi năm nay 76 tuổi  là người đã làm được rất nhiều công trình lớn như Hội nạn nhân chất độc mầu gia cam, chữa bệnh HIV...) Mời các bạn click vào đây để biết thêm thông tin về giáo sư.

3. GS TS Đào Vọng Đức ( Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người) đã có tâm huyết hỗ trợ câu lạc bộ đi đến thành công trong ứng dụng Phật pháp vào chữa bệnh

4. Cụ Tâm: Năm nay 74 tuổi, Khi hỏi cụ về Câu lạc bộ thì mới biết Cụ Tâm có nhiều câu chuyện rất đặc biệt, ngay cả chuyện liên quan đến câu lạc bộ Hoa sen này cũng rất đặc biệt. Tôi có hỏi cụ Tâm về câu lạc bộ này, tôi xin chia sẻ một số thông tin: Từ những năm 1990 cụ Tâm đã nghiên cứu sâu Phật Pháp và trăn trở làm sao để ứng dụng Phật Pháp để chữa bệnh HIV mới xuất hiện tại Việt nam trong khi thế giới đang chưa tìm ra phương thuốc hữu hiệu. Xuất phát từ lòng thương vô bờ bến đối với các bệnh nhân H, hàng này cụ Trì tụng kinh chú nhà Phật và nguyện tìm được pháp phù hợp để chữa khỏi cho các em đang bị bệnh. Những năm 2000 do hiểu được nguồn gốc của bệnh tật đều do  "nghiệp " gây ra, cụ thường nói,  cụ sẽ phải chữa được bệnh H, và không ai tin được lời cụ nói. Và điều kỳ diệu đã xuất hiện, Xuất hiện một vài em bị bệnh H gọi điện cho cụ và nhờ cụ hướng dẫn chữa bệnh. Lúc đầu chỉ có 1, 2 em đến nhà học hỏi, sau đó có khoảng 20 em thường xuyên đến nhà cụ để nghe cụ giảng về phật học cơ bản và cách thức tiêu nghiệp chướng nhanh. Sau một thời gian ứng dụng  Pháp của Phật vào điều trị winking Khai tâm khi giảng về Phật học và 12 câu thần chú của Phật), Cụ đã thấy sắc mặt của các em đã hồng hào và tinh thần đã thay đổi, các em đã không còn ngại bệnh tật và tự tin trong cuộc sống. Đến năm 2006, do có nhân duyên, Cụ gặp được GSTS Phan Thi Phi Phi và đã trình bầy ước nguyện chữa bệnh cho các em bị H, GSTS đã nhận bảo trợ và chủ nhiệm Câu lạc bộ Hoa sen để hướng dẫn dìu dắt các em vượt qua khó khăn. 

Và một số các bác khác tham gia vào buổi sinh hoạt cuối năm .

Điều kỳ diệu thứ nhất mà tôi tận mắt chứng kiến: Tất cả các bạn bị H đều khỏe mạnh hồng hào, tinh thần lạc quan.  Nhiều bạn những năm trước đã không đi lại được, xanh xao nhưng nay đã trở lại bình thường.

Điều kỳ diệu thứ 2 : Hầu hết các bạn đều có công ăn việc làm và có bạn còn làm chủ doanh nghiệp sản xuất bảo hộ lao động cung cấp cho thị trường nhiều tỉnh. Khi Cụ Tâm hỏi 1 bạn về công việc, ban nói, năm 2010 thu nhập tốt hơn so với các năm khác.

Điều kỳ diệu thứ 3: Hai vợ chồng bị H, nhưng khi sinh con thì con lại không bị H.

Điều kỳ diệu thứ 4: Có bạn trước khi tham gia Câu lạc bộ bị 1 U ở phía sau mông không đi lại được. Bệnh viện từ chối mổ. Với lòng thương của Cụ Tâm, Cụ đã sang nhà và hướng dẫn trì chú câu: Án xỉ lặc hê diêm và xoa vào khối U, Kỳ diệu là sau 1 tuần, khối u đấy đã tiêu và bạn đó đã đứng dậy đi lại bình thường.

Điều kỳ diệu thứ 5 : Các bạn thường xuyên xét nghiệm lại và bệnh H không còn tiến triển. Thấy tiến triển của bệnh bị đẩy lùi đã làm cho các bạn có niềm tin, Các bạn đã trở thành những thành viên  tình nguyện hướng dẫn cho các bạn bị H khác. Hiện tại số lượng các bạn bị bệnh H đang được các thành viên chăm sóc tự nguyện là trên 100 bạn.

Điều kỳ diệu thứ 6: một tổ chức quốc tế sau khi thấy được kết quả ứng dụng Phật Pháp vào điều trị bệnh H, đã nhận tài trợ và cùng đồng hành với các thành viên câu lạc bộ Hoa sen từ năm 2011 ( Và đặt tên: Nhóm Tuệ Tĩnh đường) để nhằm mở rộng, ứng dụng giúp cho nhiều bệnh nhân hiện đang bị H.

Cuộc gặp mặt cuối năm báo cáo kết quả thực hành phật pháp vào chữa bệnh và  những lời cảm ơn từ đáy lòng người bệnh đã làm sưởi ấm tất cả các thành viên câu lạc bộ, Sư Thầy Thích Giác Minh.

Sang một năm mới, cầu chúc cho các bạn H khỏi hẳn bệnh và hướng dẫn cho nhiều người bệnh cách thức chữa bệnh.

Chúc cho GSTS Phan Thị Phi Phi, GSTS Đào Vọng Đức, Cụ Tâm ... khỏe mạnh và tiếp tục theo sát dự án này.

Một điều kỳ diệu thứ 7 nữa là lời nhắn của Cụ Tâm: " Nếu con gặp ai mà bị bệnh, con cứ bảo họ gọi điện trực tiếp cho cụ theo số điện thoại 01666151106" .

Cám ơn những người mẹ hiền đã lo lắng và giúp đỡ người bệnh.

" Nam mô tiêu tai diên thọ dược sư Phật "

 Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha

Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghen con
”.
 

http://www.forum.hiv.com.com/?frame=product_detail&id=1766

Mời các bạn tham khảo lời nguyện thứ 7 của Phật Dược sư:
Nguyện thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ đề, nếu có chúng hữu tình nào bị những chứng bịnh hiểm nghèo không ai cứu chữa, không ai để nương nhờ, không gặp thầy, không gặp thuốc, không bà con, không nhà cửa, chịu nhiều nỗi nghèo hèn khốn khổ, mà hễ nghe danh hiệu ta đã nghe lọt vào tai một lần thì tất cả bệnh hoạn khổ não đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến sum vầy, của cải sung túc, cho đến chứng được đạo quả vô thượng Bồ đề.

 



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT



NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT, NAM MÔ TIÊU TAI DIÊN THỌ DƯỢC SƯ PHẬT

 

 

Offline admin  
#5 Đã gửi : 22/02/2011 lúc 09:41:59(UTC)
Admin

Danh hiệu: Administration

Nhóm: Administrators
Gia nhập: 24-06-2009(UTC)
Bài viết: 1.969

Cảm ơn: 235 lần
Được cảm ơn: 519 lần trong 224 bài viết
Đề nghị bạn vuagao không spam bài bằng cách gửi nhiều lần với cùng một nội dung.
Tu-an  
#6 Đã gửi : 22/02/2011 lúc 12:07:56(UTC)
Guest
Danh hiệu: Guest

Nhóm:
Gia nhập: 24-06-2009(UTC)
Bài viết: 25.549

Được cảm ơn: 35 lần trong 21 bài viết
Admin đã viết:
Đề nghị bạn vuagao không spam bài bằng cách gửi nhiều lần với cùng một nội dung.


xoá tổng cộng 5 bài Spam hôm qua ở chuyên mục  Hỏi và đáp liên quan đến HIV/AIDS  của thành viên  vuagao .
Offline huy_skidrow  
#7 Đã gửi : 09/08/2011 lúc 05:06:57(UTC)
huy_skidrow

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 10-01-2005(UTC)
Bài viết: 2.217

Cảm ơn: 21 lần
Được cảm ơn: 241 lần trong 124 bài viết
Nam Mô A Di Đà Phật!

Tình cờ vào trang web của Phật Giáo, thấy bài này mình gửi cho cả nhà cùng xem!

Trích dẫn:http://hoibongsen.com/diendan/showthread.php?t=7308

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát!


Tụng kinh hỗ trợ điều trị HIV/AIDS!

25/12/2009 10:20 (GMT +7)
Kết
quả nghiên cứu dùng Kinh Phật tụng niệm hỗ trợ điều trị HIV/AIDS của
GS.TS Phan Thị Phi Phi (Trường ĐH Y Hà Nội) và Trung tâm nghiên cứu tiềm
năng con người trên 28 bệnh nhân cho thấy, các chỉ số tế bào miễn dịch
chống HIV đều tăng trong 6 tháng, bệnh nhân không bị chuyển sang giai đoạn AIDS.



Kết quả này đã được báo cáo tại Hội nghị "Năng
lượng sinh học và sức khoẻ" do Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người tổ chức tại Hà Nội ngày 19/12.

Theo GS
Phi, xét về Tây y, nguyên nhân gây bệnh là do các khiếm khuyết di truyền
(gen) và các yếu tố môi trường. Kinh Phật nói rằng, bệnh tật, số phận
con người là do Nghiệp gây ra, nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh phật có thể thay đổi Nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi.

http://tintuconline.vietnamnet.vn/Li...y25/baocao.jpg
GS Phi đang báo cáo kết quả tại Hội nghị

vậy, tụng kinh trị bệnh đã được áp dụng tại nhiều nước, nhưng chưa tác
giả nào nghiên cứu vấn đề áp dụng Phật Pháp trong hỗ trợ điều trị HIV/AIDS.

Do đó, GS và các nhà khoa học đã
tiến hành nghiên cứu trên 28 bệnh nhân, trong đó có 20 trường hợp giai
đoạn sớm và trung gian, 3 trường hợp giai đoạn muộn và 5 trường hợp muộn mới xét nghiệm trước khi tụng.

23 bệnh
nhân đầu tiên đều đã được xét nghiệm 2 lần (trước khi tụng Phật Pháp và
sau khi tụng) các chỉ số miễn dịch tế bào liên quan đến bệnh như TCD3,
TCD4, TCD8, tỷ lệ TCD4/TCD8 tại Trung tâm phòng chống AIDS, Viện Vệ sinh phòng dịch quân đội...

Bệnh nhân hiểu,
trình bày được luật nhân quả 3 đời và trì tụng hằng ngày hay hằng tuần tại nhà, một tháng một lần tại chùa 12 câu thần chú.

GS
Phi cho biết, khi HIV vào cơ thể, số lượng tế bào TCD4 bị giảm sút
nhanh chóng, khó trở về mức bình thường được nữa. Cùng với TCD4 giảm, tổng lượng lympho máu giảm, đặc biệt TCD3.

Sau
đó vào tuần thứ 2, số lượng lympho tăng dần, trước hết là TCD8, để chống lại HIV nhưng TCD4 vẫn giảm, do đó tỷ lệ TCD4/TCD8 bị đảo ngược.

Số
lượng TCD4 giảm nhưng chủ yếu là chức năng tế bào này bị tổn thương
trầm trọng làm giảm chức năng miễn dịch của cả các tế bào khác như lympho B, đại thực bào, NK...

Qua 6 tháng
dùng Phật pháp trì tụng hỗ trợ điều trị HIV/AIDS, kết quả tổng hợp tất
cả các bệnh nhân cho thấy, đa số các bệnh nhân đều có tăng các thành
phần miễn dịch tế bào, đặc biệt là TCD4 (60,8% số trường hợp nghiên cứu) và tương tự tăng cả TCD3 và TCD8.

Mức độ
tăng lần lượt là là 3,4; 11,4 và 89,1. Tỷ lệ TCD4/TCD8 cũng có tăng
52,17% số trường hợp, tuy mức độ tăng rất ít, vì trước thời gian trì
tụng, chỉ số này cũng rất thấp. Đặc biệt, đối với 16 bệnh nhân đã dùng
thuốc chống virus ARV, số lượng cũng như mức độ tăng đều cao hơn so với
giá trị chung của cả nhóm và có nghĩa cũng cao hơn nhóm không sử dụng ARV.

Đặc biệt, trong nhóm nghiên cứu có 3
bệnh nhân HIV giai đoạn muộn (TCD4 từ 50 - 200), nhưng sau trì tụng thì 2
trong 3 trường hợp này đều có tăng nhẹ TCD4 và một trường hợp giữ thấp như cũ.

Các bệnh nhân đều chưa thay đổi
giai đoạn của bệnh (tức là chưa chuyển sang giai đoạn bệnh nặng hơn hay có biểu hiện của bệnh cơ hội AIDS).

Tuy nhiên, theo GS Phi, đây mới chỉ là đánh giá ban đầu, nhóm vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để có những đánh giá sâu hơn.
Cùng nhau tham gia ký tên đấu tranh quyền lợi của NCH:http://forum.hiv.com.vn/default.aspx?g=posts&t=172763
thanks 2 người cảm ơn huy_skidrow cho bài viết.
banhtroinuoc trên 09-08-2011(UTC) ngày, gaixinh1102 trên 09-08-2011(UTC) ngày
Offline adidaphat  
#8 Đã gửi : 10/08/2011 lúc 10:11:09(UTC)
adidaphat

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-06-2011(UTC)
Bài viết: 470
Man
Đến từ: Gió và Biển

Thanks: 20 times
Được cảm ơn: 93 lần trong 88 bài viết
+Phật pháp nhiệm màu ,adidaphat (Tiếc là phần nhiều người còn mê muội ).
Nam mô adidaphat

Yahoo: samhoi_adidaphat
Offline Falling in love  
#9 Đã gửi : 08/04/2012 lúc 02:43:14(UTC)
Falling in love

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 07-09-2004(UTC)
Bài viết: 1.200

Cảm ơn: 2 lần
Được cảm ơn: 197 lần trong 122 bài viết

Tụng kinh chữa “hat i vê và ết”?

(Petrotimes) - “Nghiên cứu ứng dụng Phật pháp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS” - thoạt nghe tên công trình nghiên cứu này, chúng tôi bất ngờ bởi sự “hoang đường” của một đề tài khoa học, bởi căn bệnh thế kỷ làm nền y học thế giới “vã mồ hôi hột” trong nhiều thập niên qua lại có thể bị chặn đứng bởi một giải pháp mang đậm màu sắc tâm linh: Tụng kinh niệm Phật.

Tuy nhiên, khi tiếp xúc trực tiếp với những người đã dày công xây dựng công trình này mấy chục năm qua, với những người bệnh đang trực tiếp điều trị, niềm tin của chúng tôi bắt đầu được nhen nhóm. Đương nhiên, muốn khẳng định đây là một phát hiện có giá trị khoa học và để áp dụng rộng rãi được trong cộng đồng thì công trình này cần phải có thêm nhiều kết quả thực nghiệm ở mức độ cao hơn bởi các cơ quan chức năng uy tín.

Cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ kỳ lạ

Bà Lê Thị Tâm có khuôn mặt đôn hậu, mái tóc bạc trắng. Tuy đã ngót 80 tuổi nhưng dáng đi của bà vẫn còn rất nhanh nhẹn, trí tuệ sắc sảo và mẫn tiệp. Nếu chỉ nhìn vào dáng vẻ bề ngoài của bà, khó ai có thể tin rằng, bà đã không dưới một lần đối diện với tử thần vì bệnh tật. Bà từng mắc đến 15 loại bệnh, trong đó có căn bệnh nan y: ung thư cổ tử cung. Có đận, khối ung thư trong người vỡ ra, người nhà đã chuẩn bị lo hậu sự nhưng chẳng hiểu có phép mầu gì mà bà lại vực lên được rồi lần hồi tự chữa bệnh cho mình và đã khỏi được bệnh. Hỏi về bí quyết chiến thắng nhiều cơn bạo bệnh, bà chỉ nói ngắn gọn: “Phật pháp nhiệm mầu”.

Bà Lê Thị Tâm – người đã chiến thắng bệnh tật nhờ tụng kinh niệm Phật

Gần 30 năm trước, khi đang giữ chức Trưởng ban giám sát điện năng của quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bà Tâm bị bệnh thiên đầu thống. Khi bệnh này còn chưa khỏi thì bà lại mắc thêm bệnh máu nhiễm mỡ, viêm gan mãn tính, rồi bị ngã, xương sống bị sút, sau đó thành bại liệt. Bệnh tật đã biến bà thành một phế nhân, chỉ nằm chờ chết.

Trong những giải pháp cuối cùng để cứu vớt sự sống, bà Tâm tìm đến chùa Quán Sứ để tĩnh tâm. Tại đây, bà đã gặp hòa thượng Thích Tâm Tịch và được truyền thừa. Sau một thời gian vừa uống thuốc vừa kết hợp với sám hối, ngồi thiền và tụng kinh niệm phật, bà tự giác ngộ rằng, căn nguyên của tất cả là do cái nghiệp gây nên. Thật kỳ diệu, chỉ trong vòng 3 năm, mọi bệnh tật của bà bị đẩy lùi mà ngay cả đến các bác sĩ tại nhiều bệnh viện lớn phải bất ngờ.

Từ niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh tinh thần, bà Tâm cho rằng, bệnh tật là do nghiệp gây ra. Nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh Phật có thể thay đổi nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi. Từ suy nghĩ này, bà Tâm liều lĩnh khẳng định có thể ứng dụng Phật pháp để hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS.

Bệnh nhân nhiễm HIV đầu tiên được bà Tâm đưa vào chữa trị là người phụ nữ tên Hà, ở Đông Anh, Hà Nội. Hoàn cảnh của chị Hà hết sức éo le: hai vợ chồng và đứa con duy nhất đều bị HIV, kinh tế gia đình khánh kiệt, cả gia đình chị Hà chỉ nghĩ đến cái chết.

Bà Tâm bắt tay vào trị bệnh cho gia đình chị Hà bằng phương pháp tương đối đơn giản. Trước tiên người bệnh phải gạt bỏ hết suy nghĩ tiêu cực, hướng đến tương lai tươi sáng, bỏ qua suy nghĩ cũng như hành động tàn ác để hướng đến điều thiện, làm việc thiện. Ngoài ra, trước mỗi buổi ngồi thiền, nghe giảng đạo và tụng kinh, bệnh nhân cần phải tắm rửa, vệ sinh sạch sẽ.

Sau một thời gian ngồi thiền, kết hợp đọc và được nghe giảng kinh, anh chị Hà thấy sức khỏe của mình tiến bộ đến không ngờ. Những cơn ho đã giảm bớt, sắc mặt đã hồng hào hơn và quan trọng nhất, anh chị đã bớt tuyệt vọng hơn vào cuộc sống.

Kết quả bước đầu trong hỗ trợ điều trị HIV/AIDS bằng tụng kinh niệm Phật đã làm bà Tâm hết sức phấn khởi. Tuy nhiên, suy cho cùng, đó cũng chỉ là cách chữa “mò” mà kết quả cũng như cách thức vẫn chưa được kiểm chứng bằng khoa học hiện đại. Chỉ đến khi bà Lê Thị Tâm gặp GS Phan Thị Phi Phi, nguyên giảng viên Đại học Y Hà Nội thì những vấn đề này mới bắt đầu được gỡ rối. GS Phi là nhà khoa học, có cách nhìn nhận và luận giải mọi vấn đề bằng tư duy khoa học. Từ niềm tin bước đầu, GS Phi kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, Viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội để xây dựng đề tài khoa học “Nghiên cứu ứng dụng Phật pháp trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS”.

Tế bào miễn dịch tăng lên

GS Phan Thị Phi Phi cho biết, theo nhà thần kinh học S. Freud (1856-1939) thì mọi căn bệnh mắc phải là do rối loạn và mất cân bằng giữa ý thức, tiềm thức và bản năng. Trong số các bản năng của sinh vật thì bản năng sống là một bản năng mạnh, mãnh liệt trong mọi giai đoạn cuộc sống. Claude Bernard, nhà sinh lý học thiên tài và y học thực nghiệm của Pháp thế kỷ XVIII, nhà khoa học đầu tiên gắn liền sự sống với sự hằng định nội môi (homeostasis), yếu tố quyết định đến sự sống. Đến đây, sự sống của sinh vật đã ổn định và tăng cường lên. Chính vì thế, áp dụng lý thuyết này vào hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS chắc chắn sẽ có tác dụng.

Các bệnh nhân HIV đang tụng kinh niệm Phật tại chùa Văn Điển, Hà Nội

Trong khi đó, kinh Phật nói rằng: Bệnh tật, số phận con người là do nghiệp gây ra. Nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh Phật có thể thay đổi nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi. Mục tiêu mà đề tài này hướng đến là: Người bệnh hiểu và trình bày được luật nhân quả ba đời và 12 câu thần chú dùng trong trì tụng hằng ngày tại nhà và tổ chức tập trung một lần hằng tháng tại chùa Quang Văn Tự (người dân hay gọi là chùa Văn Điển), Hà Nội. Trong quá trình đó, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành đánh giá sức đề kháng HIV/AIDS trước và sau 6 tháng trì tụng, bằng số lượng các tế bào TCD3, TCD4, TCD8, tỉ lệ TCD4/TCD8 và đặc biệt chú trọng số lượng TCD4 là những tế bào miễn dịch chống HIV/AIDS.

Các bộ kinh được chọn giảng và hướng dẫn trì tụng là kinh Pháp Hoa – giáo pháp về sự chuyển hóa của “Phật tính” và khả năng giải thoát, kinh Dược Sư và kinh Bản Nguyện, kết hợp đọc Chú Lăng Nghiêm và Thập chú.

Đối tượng nghiên cứu là 28 người được chọn từ các bệnh nhân bị HIV/AIDS đang sinh hoạt tại CLB Hoa Sen, chùa Văn Điển, Hà Nội. Họ đều được đưa đi xét nghiệm đánh giá mức độ bệnh trước khi trì tụng, 6 tháng đưa đi xét nghiệm một lần nữa để so sánh. Các chỉ số miễn dịch tế bào được tiến hành ở các trung tâm phòng chống AIDS, Viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội, trên máy FACS count SW (Mỹ).

Hội chứng suy giảm miễn dịch AIDS do virus HIV gây ra lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và nó đã nhanh chóng được tìm thấy mọi nơi trên thế giới, kể cả ở Việt Nam. Trường hợp bị nhiễm HIV đầu tiên tại Việt Nam được phát hiện vào tháng 2/1990. Kể từ đó số bệnh nhân ngày càng gia tăng trên toàn quốc. Tính đến hết tháng 10/2011, tổng số bệnh nhân có HIV của cả nước đã lên gần 246.000 người, trong đó 99.300 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Người mắc AIDS rất ít có dấu hiệu đặc trưng mà chủ yếu là triệu chứng của những bệnh cơ hội do suy giảm số lượng, chất lượng của các tế bào miễn dịch gây ra. Việc sản xuất vắcxin chống lại căn bệnh này là vô cùng khó khăn bởi có quá nhiều các biến thể, các dạng tái tổ hợp mới của virus đã được sinh ra trong thời gian ủ bệnh.

Năm 1987, CDC (Trung tâm Kiểm soát bệnh tật – Mỹ) đã phân loại giai đoạn bệnh dựa vào số lượng tế bào Lympho TCD4. Người chuyển sang giai đoạn AIDS là khi số lượng TCD4<200 tế bào /mm3 máu. Khi HIV vào cơ thể, số lượng tế bào TCD4 bị giảm sút nhanh chóng, khó trở về mức bình thường được nữa. Cùng với TCD4 giảm, tổng lượng lympho máu giảm, đặc biệt TCD3.

Trở lại với công trình nghiên cứu của GS Phan Thị Phi Phi và các cộng sự của mình, qua 6 tháng dùng Phật pháp trì tụng hỗ trợ điều trị HIV, kết quả tổng hợp tất cả các bệnh nhân là vô cùng khả quan. Đa số các bệnh nhân đều có tăng các thành phần miễn dịch tế bào, đặc biệt là TCD4 (60,8% số trường hợp nghiên cứu) và tương tự tăng cả TCD3 và TCD8. Mức độ tăng lần lượt là là 3,4; 11,4 và 89,1. Tỉ lệ TCD4/TCD8 cũng có tăng 52,17% số trường hợp, tuy mức độ tăng rất ít, vì trước thời gian trì tụng, chỉ số này cũng rất thấp. Đặc biệt, đối với 16 bệnh nhân đã dùng thuốc chống virus ARV, số lượng cũng như mức độ tăng đều cao hơn so với giá trị chung của cả nhóm và có nghĩa cũng cao hơn nhóm không sử dụng ARV.

Đặc biệt, trong nhóm nghiên cứu có 3 bệnh nhân HIV giai đoạn muộn (TCD4 từ 50-200), nhưng sau trì tụng thì 2 trong 3 trường hợp này đều có tăng nhẹ TCD4 và một trường hợp giữ thấp như cũ.

Các bệnh nhân đều chưa thay đổi giai đoạn của bệnh (tức là chưa chuyển sang giai đoạn bệnh nặng hơn hay có biểu hiện của bệnh cơ hội AIDS).

Đây là kết quả vô cùng bất ngờ và đáng mừng, tốc độ phát triển của căn bệnh thế kỷ đang được làm chậm lại.

Cần các cơ quan hữu quan vào cuộc

Bà Lê Thị Tâm hay GS Phan Thị Phi Phi và những người trong nhóm nghiên cứu đều có tâm thiện nguyện và niềm tin trong lành vào Phật pháp. Họ đều khát khao muốn đưa Phật học, sức mạnh niềm tin vào để chữa bệnh, không phải chỉ với HIV/AIDS mà còn với rất nhiều những bệnh nan y khác. Đây là một ước mong chính đáng, vô cùng tốt đẹp.

Phật pháp mang nặng giá trị tinh thần, niềm tin tâm linh nhưng HIV lại là một căn bệnh có thật, hiển hiện trong cơ thể của hàng triệu người bệnh đang khiến cả nền khoa học thế giới lùng sục tìm phương thuốc chữa. Hai phạm trù này dường như chẳng có gì liên quan đến nhau, không hề logic trong tư duy của nhiều người.

Chính vì thế, khi nghe đến câu chuyện nghiên cứu khoa học của họ đã có người hồ nghi và đặt ra vô số câu hỏi: có động cơ gì ẩn sau việc làm của họ đây? Liệu việc làm của họ có nhằm mục đích kinh doanh? Họ đã chịu nỗi đau do chính căn bệnh HIV đem đến?

Trên thực tế, tất cả những nghi ngờ này đều là sai cả. Qua tìm hiểu, chúng tôi biết được rằng, GS Phi, bà Tâm… đều mang một trái tim thiện nguyện trong lành không hề vẩn đục. Họ đều đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn cần mẫn làm việc giúp bệnh nhân mà không lấy tiền công. Họ kêu gọi các nhà hảo tâm hỗ trợ tiền cho những bệnh nhân HIV, ít thì tiền tàu xe đi lại, nhiều là tiền vốn để làm ăn.

Hiện tại, hằng tháng, những bệnh nhân HIV của CLB Hoa Sen đều sinh hoạt tại chùa Quang Văn Tự, lập đạo tràng, tụng kinh niệm phật để mong tâm mình thanh thản và được ngắm nhìn cuộc sống này lâu hơn nữa. Họ, có người khi mắc HIV đã có ý định quyên sinh, trả thù đời nhưng từ khi đến đây, được nghe giảng kinh, tụng kinh thì họ đã khác, bệnh tật với họ giờ đây trở nên nhẹ nhàng, cuộc sống đã có niềm tin trở lại.

Chúng tôi thì cho rằng, việc tụng kinh niệm phật, nói lời tốt, sống tốt, làm việc tốt thì đương nhiên từ ngàn đời nay chưa bao giờ là xấu cả. Việc áp dụng tụng kinh niệm phật để hỗ trợ điều trị HIV đã có kết quả khả quan bước đầu là rất đáng mừng. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng ở cấp độ của Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, số bệnh nhân được đưa vào thực nghiệm là không nhiều. Để phương pháp điều trị này đi được vào cuộc sống, áp dụng được cho vô số những bệnh nhân có HIV thì lại là một câu chuyện khác, cần nhiều trí tuệ hơn, nhiều công sức hơn và nhiều trái tim thiện nguyện hơn nữa.



Sẽ có khoảng 60 triệu bệnh nhân AIDS tử vong đến năm 2015. Bất chấp những nỗ lực từ các chính phủ, đại dịch thế kỷ cũng sẽ gây ra những mất mát hết sức to lớn cho hầu hết mọi cộng đồng. AIDS dễ dàng qua mặt trận dịch hạch Black Death vào thế kỷ XIV để trở thành dịch bệnh giết người đáng sợ nhất trong lịch sử nhân loại. Cho đến cuối năm 2007, ước tính có hơn 30 triệu người chết do AIDS và gấp đôi ngần ấy nạn nhân đã bị nhiễm HIV…Cho đến lúc này, vẫn không có một phương thuốc nào thực sự hữu hiệu để chữa trị AIDS ngoài một nhóm tác nhân sinh dược, gồm cả những loại gây tác dụng phụ, nhưng chỉ có tác dụng làm chậm lại tiến trình phát bệnh AIDS mà thôi. Để chữa trị AIDS, các chuyên gia thường sử dụng kết hợp đồng thời một hỗn hợp gồm từ 3 hay nhiều hơn các dạng sinh dược khác nhau, vì cách này sẽ giúp làm chậm lại khả năng kháng thuốc của HIV. Tuy nhiên, virus này vẫn có khả năng tiến hóa nhanh để vô hiệu hóa hầu hết các loại biệt dược, đặc biệt khi chế độ chữa trị không được tuân thủ nghiêm khắc.

 

Vũ Minh Tiến
(Báo Năng lượng Mới số 109, ra ngày 6/4/2012)
Nguồn : http://www.petrotimes.vn/phong-su-dieu-tra/2012/04/tung-kinh-chua-hat-i-ve-va-et

Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.