Lịch sử về phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
trên thế giới và tại Việt Nam
Khoa Hiếm muộn – BV. Phụ sản Từ Dũ
Trên thế giới
1959, Chang lần đầu tiên thành công trong việc cho thụ tinh giữa tinh trùng và trứng động vật có vú (thỏ) trong điều kiện phòng thí nghiệm. Đây được xem là thành tựu quan trọng nhất trong lịch sử phát triển của thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Nó chứng tỏ trứng và tinh trùng của động vật có thể thụ tinh được bên ngoài cơ thể. Từ sau thí nghiệm này TTTON đã được nghiên cứu trên nhiều loại động vật khác nhau, kể cả người.
1966, các bác sĩ người Mỹ và nhà khoa học người Anh RG Edwards lần đầu tiên công bố trường hợp lấy được trứng người qua phẫu thuật nội soi tại Mỹ. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu này thất bại trong việc chứng minh trứng và tinh trùng người có thể thụ tinh được bên ngoài cơ thể.
1971, Steptoe và Edwards ở Anh bắt đầu báo cáo nuôi cấy được phôi nang người trong ống nghiệm và chuyển phôi vào buồng tử cung.
1976, trường hợp có thai đầu tiên từ TTTON trên thế giới được ghi nhận tại Anh do Steptoe và Edwards công bố. Tuy nhiên, rất tiếc đây lại là trường hợp thai ngoài tử cung.
1978, em bé đầu tiên từ TTTON, Louis Brown, ra đời đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của TTTON trên người. Sau đó, 2 trường hợp sanh khác từ TTTON cũng đã được báo cáo tại Anh. Sau đó, chương trình này tại Anh bị gián đoạn trong 2 năm.
1980, em bé TTTON thứ tư trên thế giới được sinh ra tại Úc. Trung tâm Monash ở Úc được ghi nhận là nơi thứ hai trên thế giới thực hiện thành công TTTON. Trung tâm này sau đó liên tục báo cáo các trường hợp sanh sau TTTON. Do trung tâm TTTON đầu tiên ở Anh tạm ngưng hoạt động sau 3 trường hợp sanh đầu tiên, người ta ghi nhận rằng 12 trong số 15 em bé TTTON đầu tiên trên thế giới được ra đời từ trung tâm Monash ở Úc.
1981, em bé TTTON đầu tiên ở Mỹ ra đời. Đây cũng là trường hợp TTTON đầu tiên sử dụng gonadotropin để kích thích buồng trứng.
Sau đó, trong những năm 80, kỹ thuật TTTON đã phát triển rất mạnh và lần lượt được báo cáo thành công tại nhiều nước trên thế giới, kể cả ở Châu Á. Trong đó, Singapore được ghi nhận là nơi thực hiện thành công TTTON đầu tiên ở Châu Á vào năm 1983 bởi nhóm nghiên cứu của SC Ng và cộng sự.
1983, siêu âm đầu dò âm đạo được giới thiệu và kỹ thuật chọc hút trứng qua ngã âm đạo với hướng dẫn của siêu âm đầu dò âm đạo được giới thiệu lần đầu tiên và thay thế hoàn toàn việc chọc hút trứng quan nội soi tốn kém, nguy hiểm và kém hiệu quả.
1984, kỹ thuật chuyển giao tử vào vòi trứng (GIFT) được báo cáo thành công tại Mỹ.
1984, em bé đầu tiên ra đời từ trường hợp một phụ nữ không còn buồng trứng, thực hiện xin trứng TTTON tại Úc.
1984, em bé đầu tiên sinh ra từ phôi người đông lạnh được báo cáo ở Úc bởi Trounson và Mohr.
1986, Chen báo cáo trường hợp có thai từ trứng người sau động lạnh và rã đông tại Úc. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công được báo cáo rất thấp.
1988, trường hợp tiêm tinh trùng vào dưới màng trong suốt (SUZI) được báo cáo thành công lần đầu tiên tại Singapore bởi SC Ng và cộng sự.
1989, kỹ thuật đục thủng màng trong suốt (PZD) để hỗ trợ thụ tinh được giới thiệu ở Mỹ bởi Cohen.
1992, kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được báo cáo thành công lần đầu tiên tại Bỉ bởi Palermo và cộng sự.
1994, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng non trưởng thành trong ống nghiệm (IVM) được báo cáo tại Úc.
1994, các trường hợp MESA-ICSI (hút tinh trùng từ mào tinh qua vi phẫu và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng) đầu tiên được báo cáo.
1995, kỹ thuật PESA-ICSI (chọc hút tinh trung từ mào tinh xuyên da và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng) được giới thiệu.
1995, kỹ thuật TESE-ICSI (phân lập tinh trùng từ tinh hoàn ở những trường hợp giảm sinh tinh tại tinh hoàn và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng) được báo cáo thành công.
1997, trường hợp có thai ở phụ nữ 63 tuổi với kỹ thuật xin trứng TTTON được báo cáo.
1997, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng trữ lạnh và rã đông của Mỹ được báo cáo. 11 năm sau trường hợp đầu tiên trên thế giới được báo cáo.
2001, phác đồ mới trong kỹ thuật trữ trứng được báo cáo, cải thiện đáng kể tỷ lệ thành công. Đồng thời, những trường hợp sanh đầu tiên từ cả trứng và tinh trùng đông lạnh được báo cáo tại Ý.
Tại Việt Nam
TTTON được thực hiện thành công tại Việt Nam khá muộn so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Tuy nhiên, trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được những bước tiến nhanh và vững chắc. Hiện nay, chúng ta đã thực hiện thành công các kỹ hỗ trợ sinh sản phổ biến trên thế giới hiện nay với tỷ lệ thành công khá cao và ổn định.
Trung tâm TTTON tại BV. Phụ sản Từ Dũ hiện được ghi nhận là trung tâm lớn nhất khu vực Đông Nam Á và là một trong những trung tâm hàng đầu ở Châu Á. Uy tín của ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam đã bắt đầu được ghi nhận trong khu vực và trên thế giới trong những năm qua. BV. Phụ sản Từ Dũ đã có hơn 10 báo cáo khoa học về lãnh vực này tại các hội nghị khoa học trong vùng và trên thế giới. Trong thời gian qua, chúng tôi đã thu hút được trên 100 trường hợp người ở nước ngoài đến điều trị. Năm 2004, chúng ta cũng bắt đầu thu hút được bác sĩ từ các nước đến học hỏi kinh nghiệm trong lãnh vực này.
Sự phát triển của TTTON tại Việt Nam từ 1997 đến nay
- 1997, BV. Phụ sản Từ Dũ bắt đầu thực hiện TTTON.
- 30/4/1998, 3 em bé TTTON đầu tiên ra đời ở Việt Nam.
- 1998 – 2000, BV. Phụ sản Từ Dũ bước đầu đào tạo và chuyển giao công nghệ cho học viện Quân Y về kỹ thuật lọc rửa tinh trùng, trữ lạnh tinh trùng, TTTON.
- 1999, BV. Hùng Vương bắt đầu thực hiện TTTON.
- 1999 – 2000, BV. Từ Dũ bắt đầu đào tạo và chuyển giao công nghệ cho Viện Bảo vệ Bà mẹ và Sơ sinh (BVBMSS). Trong thời gian này, 6 bác sĩ và 2 kỹ thuật viên của Viện BVBMSS đã được đào tạo tại BV. Từ Dũ.
- Cũng trong thời gian này, BV. Phụ sản Từ Dũ đã đào tạo các kỹ thuật viên của Viện BVBMSS kỹ thuật thực hiện tinh dịch đồ theo tiêu chuẩn của WHO và kỹ thuật lọc rửa tinh trùng. Nhờ đó, trước khi thực hiện được TTTON Viện BVBMSS cũng đã triển khai được kỹ thuật IUI với tinh trùng lọc rửa thay vì bơm tinh dịch trực tiếp vào tử cung.
- Từ 4/1999 đến hết năm 2001, BS. Huỳnh Thanh Liêm và Nguyễn Việt Quang được Sở Y tế Cần Thơ cử đến đào tạo chuyên sâu tại BV. Từ Dũ về các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Cuối năm 2000, BV. Từ Dũ hỗ trợ về kỹ thuật trong thời gian chuẩn bị và cử bác sĩ giúp Viện BVBMSS thực hiện các trường hợp TTTON đầu tiên. Trong thời gian 3 tháng đầu thực hiện chương trình, BS. Huỳnh Thanh Liêm đã ở hẳn tại Viện BVBMSS để trực tiếp tham gia và hướng dẫn cán bộ của Viện BVBMSS thực hiện các trường hợp đầu tiên.
- 2001, em bé đầu tiên ra đời tại Viện BVBMSS.
- Sau thời gian gửi cán bộ đào tạo tại BV. Phụ sản Từ Dũ và tích lũy được kinh nghiệm, Học viện Quân Y bắt đầu thực hiện các trường hợp TTTON đầu tiên với sự hỗ trợ của BV. Từ Dũ và Viện BVBMSS.
- Cuối năm 2001, BV. Phụ sản Từ Dũ hỗ trợ BV. Phụ sản Quốc tế thực hiện các trường hợp TTTON đầu tiên.
- Đầu năm 2002, tạp chí định kỳ “Sinh sản & Sức khỏe” ra mắt số đầu tiên. Tạp chí đã đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần phổ biến kiến thức liên quan đến hiếm muộn – vô sinh và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đến các cán bộ y tế, nhân dân và các đối tượng quan tâm trong cả nước.
- 2002, các em bé TTTON đầu tiên ra đời tại Học viện Quân Y và BV. Phụ sản Quốc tế.
- 2002, khóa đào tạo “Sơ bộ chuyên khoa về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” đầu tiên được khai giảng tại BV. Phụ sản Từ Dũ.
- 2/2003, Nghị định của Chính phù về sinh và con theo phương pháp khoa học được ban hành.
- Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ 1999 đến nay, qua các đào tạo thường xuyên, BV. Từ Dũ đã giúp đào tại nhân sự cho các chương trình điều trị hiếm muộn và TTTON của nhiều đơn vị khác trong cả nước như: Trường Đại học Y Hà Nội, BV. Phụ sản Hà Nội, Bệnh Đa khoa Thái Nguyên, BV. Phụ sản Hải Phòng, BV. Phụ sản Thanh Hóa, BV. TW Huế, BV. Trường Đại học Y Huế, BV. Đa khoa Đà Nẵng, BV. Sản phụ khoa Bình Dương, Trường ĐHYD TP. HCM, BV. Hùng Vương, BV. Đa Khoa Cần Thơ.
- Cho đến năm 2003, đa số các tỉnh thành phía Nam (khoảng 90%) đã xây dựng được các đơn vị chuyên biệt khám, chẩn đoán và điều trị hiếm muộn theo quan điểm hiện đại và thực hiện được kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung với tinh trùng lọc rửa.
- 2004, website đầu tiên cung cấp thông tin, kiến thức về hiếm muộn vô sinh và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời: www.ivftudu.com.vn
Với sự quan tâm của ngành Y tế nhiều địa phương và sự chuẩn bị tích cực trong việc đào tạo nhân sự cũng như sự phát triển nhanh chóng của lãnh vực này tại Việt Nam trong thời gian qua, hy vọng trong thời gian tới chúng ta sẽ tiếp tục đón nhận sự ra đời của nhiều trung tâm TTTON mới trong cả nước.
Sự phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại tại Việt Nam
Sự kiện | Năm | Nơi thực hiện | Thế giới |
Thực hiện thành công trữ lạnh tinh trùng người | 1995 | BV. Từ Dũ | 1964 |
Thực hiện thành công kỹ thuật IUI với tinh trùng lọc rửa | 1995 | BV. Từ Dũ | cuối 1970 |
Thực hiện thành công kỹ thuật TTTON đầu tiên | 1997 | BV. Từ Dũ | 1971 |
Các trường hợp TTTON đầu tiên ra đời | 1998 | BV. Từ Dũ | 1978 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật ICSI | 1999 | BV. Từ Dũ | 1993 |
Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ TTTON sử dụng rec. FSH | 2000 | BV. Từ Dũ | 1995 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật cho trứng – TTTON | 2000 | BV. Từ Dũ | 1984 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật TTTON – mang thai hộ | 2001 | BV. Từ Dũ | 1984 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật giảm thai sau TTTON | 2001 | BV. Từ Dũ | 1999  |
Thực hiện thành công trữ lạnh phôi người | 2002 | BV. Từ Dũ | 1983 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật MESA – ICSI | 2003 | BV. Từ Dũ | 1995 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật PESA – ICSI | 2003 | BV. Từ Dũ | 1995 |
Em bé đầu tiên từ chu kỳ TTTON sử dụng GnRH antagonist | 2003 | BV. Từ Dũ | 1995 |
Em bé đầu tiên ra đời từ phôi đông lạnh | 2003 | BV. Từ Dũ | 1984 |
Em bé TTTON thứ 1000 tại BV. Từ Dũ | 2003 | BV. Từ Dũ | 1984 |
Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ TTTON sử dụng rec LH | 2003 | BV. Từ Dũ | 1984 |
Thai lâm sàng đầu tiên từ cả trứng và TT người đông lạnh | 2003 | BV. Từ Dũ | 2001 |
Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật TESE – ICSI | 2004 | BV. Từ Dũ | 1995 |
Kỹ thuật giảm thai muộn, có tiêm KCl (10 – 12 tuần) thực hiện thành công trên thế giới từ năm 1986. Kỹ thuật giảm thai sớm (< 9 tuần) hiện đang áp dụng tại BV. Từ Dũ được báo cáo lần đầu tiên trên thế giới năm 1999.