Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


2 Trang12>
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#1 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:15:19(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi



HIV được phát hiện khi nào và nó được chẩn đoán như thế nào ?

Vào năm 1981, những người đàn ông đồng tính luyến ái có triệu chứng mà bây giờ được xem là dấu hiệu để chẩn đoán hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) được mô tả đầu tiên ở Los Angeles và New York. Những người đàn ông này có kiểu nhiễm trùng phổi (viêm phổi) bất thường được gọi là viêm phổi do Pneumocystis carinii (PCP) và các khối u hiếm được gọi là sarcoma Kaposi.

Bệnh nhân được ghi nhận bị ức chế nặng một loại tế bào máu miễn dịch đặc biệt, được gọi là tế bào CD4. Những tế bào này, thường được ám chỉ như là tế bào T, giúp cơ thể chống lại sự nhiễm trùng. Một thời gian ngắn sau đó, bệnh này được nhận diện khắp Hoa Kỳ, Tây Âu và Châu Phi.

Vào năm 1983, các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Pháp đã mô tả virus gây ra Hội Chứng Suy Giảm Miễn Dịch Mắc Phải (AIDS), bây giờ được biết là HIV.

Vào năm 1985, xét nghiệm máu trở nên có sẵn để đo kháng thể kháng HIV, khi đó phát hiện đáp ứng miễn dịch của cơ thể với HIV. Xét nghiệm máu này vẫn là phương pháp tốt nhất cho việc chẩn đoán nhiễm HIV. Gần đây, các xét nghiệm đã trở nên có sẵn để tìm cùng các kháng thể này trong nước bọt và nước tiểu.

HIV lây lan như thế nào ?

HIV hiện diện trong máu và các dịch tiết sinh dục của tất cả các bệnh nhân bị nhiễm, cho dù họ có triệu chứng hay không. Sự lây lan HIV có thể xảy ra khi những dịch tiết này tiếp xúc với các mô như biểu mô âm đạo, vùng hậu môn, miệng hoặc mắt (màng niêm mạc), hoặc với một vết rách ở da, như là từ một vết cắt hoặc kim đâm.

Các cách thường gặp nhất mà HIV lan truyền khắp thế giới bao gồm quan hệ tình dục, dùng chung kim chích, và sự lây lan từ các bà mẹ bị nhiễm sang con họ lúc mang thai, lúc sanh hoặc cho con bú. (Xem phần bên dưới về điều trị lúc mang thai ở phần bàn luận về việc giảm nguy cơ lây lan cho trẻ sơ sinh.)

Sự lây lan HIV qua đường tình dục đã được mô tả từ đàn ông sang đàn ông, đàn ông sang phụ nữ, phụ nữ sang đàn ông, và phụ nữ sang phụ nữ bằng hoạt động tình dục qua âm đạo, hậu môn và họng. Cách tốt nhất để tránh sự lây lan qua đường tình dục là kiêng quan hệ tình dục cho đến khi chắc chắn rằng cả hai người trong mối quan hệ một vợ một chồng là không bị nhiễm HIV. Bởi vì xét nghiệm tìm kháng thể kháng HIV có thể mất đến 6 tháng để chuyển dương, nên cả hai người cần có xét nghiệm âm tính 6 tháng sau tiếp xúc tiềm ẩn cuối cùng với HIV.

Nếu sự kiêng cử không phải là vấn đề bàn đến nữa, thì phương pháp tốt nhất kế tiếp là dùng các màng chắn chất dẻo. Ðiều này liên quan đến việc đặt một bao cao su vào dương vật ngay khi sự cương cứng đạt được để tránh tiếp xúc với các dịch trước và khi xuất tinh có chứa HIV gây lây. Liên quan đến quan hệ tình dục qua đường họng, các bao cao su nên được dùng khi mút dương vật (tiếp xúc đường họng với dương vật) và màng chắn chất dẻo (đê răng) khi liếm âm hộ  (tiếp xúc đường miệng với âm đạo). Một đê răng là một mảnh latex ngăn dịch âm đạo khỏi việc đi đến tiếp xúc trực tiếp với họng. Mặc dù những đê như vậy thỉnh thoảng có thể được mua, hầu hết chúng có thể được tạo ra bằng việc cắt một mảnh chất dẻo hình vuông từ một bao cao su.

Sự lây lan HIV bởi việc tiếp xúc với máu bị nhiễm thường do dùng chung kim chích, như được dùng với các thuốc bất hợp pháp. HIV cũng có thể được lây lan bởi việc dùng chung kim cho các steroid đồng hoá được dùng để tăng sức cơ, xăm hình, và đâm xuyên vào cơ thể. Ðể tránh lây lan HIV, cũng như các bệnh khác bao gồm viêm gan, các kim chích không nên được dùng chung. Ðầu đại dịch HIV, nhiều người bị nhiễm HIV do truyền máu hoặc các sản phẩm của máu, như những sản phẩm được dùng cho bệnh Hemophilie. Tuy nhiên, gần đây vì máu được làm xét nghiệm tìm kháng thể kháng HIV trước khi truyền nên nguy cơ bị nhiễm HIV do truyền máu ở Hoa Kỳ là cực kỳ thấp và được xem như là không quan trọng.

Có một ít bằng chứng rằng HIV có thể được lây lan bởi các tiếp xúc thông thường, như có thể xảy ra ở môi trường trong gia đình. Chẳng hạn, trừ khi có ổ loét hoặc chảy máu trong họng, hôn hít nói chung được xem không phải là yếu tố nguy cơ lây lan HIV. Ðiều này là vì nước bọt, khác với dịch tiết sinh dục, đã được chứng tỏ chứa rất ít virus. Tuy nhiên, các nguy cơ trên lý thuyết đi kèm với việc dùng chung bàn chải đánh răng và dao cạo vì chúng có thể gây chảy máu. Do đó, những thứ này không nên được dùng chung với những người bị nhiễm.

Tương tự, nếu không có tiếp xúc tình dục hoặc tiếp xúc trực tiếp với máu thì sẽ có ít nguy cơ lây HIV trong nơi làm việc hoặc phòng học.

Ðiều gì xảy ra sau khi tiếp xúc với người bị nhiễm HIV ?

Nguy cơ lây HIV xuất hiện sau bất kỳ khả năng tiếp xúc nào với dịch cơ thể thì khó xác định được. Tuy nhiên, hoạt động tình dục có nguy cơ cao nhất được nghĩ là giao hợp qua đường hậu môn mà không dùng bao cao su. Trong trường hợp này, nguy cơ nhiễm trùng có thể là 3-5% cho mỗi lần tiếp xúc. Nguy cơ có thể thấp hơn đối với giao hợp qua đường âm đạo mà không có bao cao su và thấp hơn nữa cho qua đường miệng mà không có màng chắn chất dẻo. Dù thực tế rằng không có sự tiếp xúc sinh dục đơn thuần nào mang một nguy cơ lây, sự nhiễm HIV có thể xuất hiện sau bất kỳ hoạt động tình dục đơn độc nào. Vì thế, người ta phải luôn luôn chăm chỉ trong việc tự bảo vệ họ khỏi bị khả năng nhiễm.

Trong vòng 2-6 tuần sau khi tiếp xúc người bị nhiễm, một người bị nhiễm thường sẽ có xét nghiệm tìm kháng thể kháng HIV dương tính, như được chứng tỏ bởi cả xét nghiệm tầm soát gọi là ELISA và xét nghiệm khẳng định gọi là Western blot. Trong suốt thời gian này, hơn 50% những người bị nhiễm sẽ có biểu hiện bệnh giống "cúm" hoặc "tăng đơn nhân nhiễm trùng" trong vài tuần lễ. Lúc này được xem như giai đoạn nhiễm HIV đầu tiên (tiên phát). Các triệu chứng thường gặp nhất trong giai đoạn này là sốt, đau cơ và khớp, viêm họng và phì đại hạch bạch huyết ở cổ. Tuy nhiên, người ta không rõ tại sao chỉ vài người bị nhiễm xuất hiện các triệu chứng này. Người ta cũng không biết việc có hay không có triệu chứng có ảnh hưởng gì trên diễn tiến bệnh sắp tới. Dù thế nào đi nữa, những người bị nhiễm sẽ trở nên không có triệu chứng sau giai đoạn này. Trong suốt giai đoạn không triệu chứng, những cá nhân bị nhiễm sẽ biết được họ có bị nhiễm hay không nếu chỉ một xét nghiệm cho HIV được thực hiện. Vì thế, bất cứ người nào mà có khả năng đã từng tiếp xúc với HIV nên đi làm xét nghiệm dù họ không có bất kỳ triệu chứng nào. Xét nghiệm HIV có thể được thực hiện bởi một thầy thuốc hoặc tại một trung tâm xét nghiệm.

Trong suốt giai đoạn nhiễm trùng không triệu chứng, đúng là hàng tỉ phần tử HIV được tạo ra mỗi ngày. Sự sinh sản virus này kết hợp với sự giảm (với một tốc độ không ổn định) số lượng tế bào CD4 qua những năm sau đó. Cùng với sự hiện diện trong máu, virus cũng hiện diện ở khắp cơ thể, đặc biệt là trong các hạch bạch huyết, não, và chất tiết sinh dục. Khoảng thời gian từ lúc nhiễm HIV đến lúc xuất hiện AIDS là khác nhau. Vài người xuất hiện triệu chứng, báo hiệu các biến chứng của HIV để xác định AIDS, trong vòng 1 năm sau nhiễm trùng. Tuy nhiên, những người khác vẫn hoàn toàn không có triệu chứng trong khoảng 20 năm. Thời gian trung bình cho sự diễn tiến từ nhiễm trùng ban đầu đến AIDS là 8-10 năm. Lý do tại sao những người khác nhau diễn tiến với những tốc độ khác nhau là một lĩnh vực đang nghiên cứu.

Các xét nghiệm gì được dùng để theo dõi những người bị nhiễm HIV ?

Có hai xét nghiệm máu được dùng để theo dõi người nhiễm HIV. Một trong 2 xét nghiệm này, xét nghiệm đếm số lượng tế bào CD4, đánh giá trạng thái của hệ miễn dịch. Xét nghiệm khác, được gọi là tải lượng virus, đo lường trực tiếp số lượng virus. Ở những người không bị nhiễm HIV, số lượng CD4 trong máu bình thường > 500 tế bào / ml. Những người bị nhiễm HIV nói chung không trở nên có nguy cơ biến chứng cho đến khi tế bào CD4 của họ < 200 tế bào / ml. Ở mức tế bào CD4 này, hệ miễn dịch không hoạt động đầy đủ và được xem như bị ức chế. Những bệnh nhân mà có số lượng tế bào CD4 này được coi như bị ức chế miễn dịch. Sự giảm số lượng tế bào CD4 ám chỉ rằng bệnh HIV đang tiến triển nặng. Vì thế, số lượng tế bào CD4 thấp báo hiệu rằng người ấy có nguy cơ bị 1 trong những nhiễm trùng không thường gặp (gọi là nhiễm trùng cơ hội) mà xuất hiện ở những người bị ức chế miễn dịch. Hơn nữa, số lượng tế bào CD4 thực sự chỉ ra điều trị nào nên được bắt đầu để tránh những nhiễm trùng này.

Tải lượng virus tiên đoán tế bào CD4 có giảm hay không trong những tháng tới. Nói cách khác, những người có tải lượng virus cao dễ bị sụt giảm tế bào CD4 và bệnh tiến triển nhanh hơn những người có tải virus lượng thấp. Vì thế, việc biết được tải lượng của virus có thể được dùng để tiên đoán sự phát triển của bệnh. Tải lượng virus cũng là một phương tiện quan trọng cho việc theo dõi hiệu quả của các điều trị mới và quyết định khi nào thuốc không còn tác dụng. Tải lượng virus sẽ giảm trong vòng vài tuần bắt đầu một phương thức điều trị kháng virus hiệu quả. Nếu một phối hợp thuốc rất mạnh, số lượng virus trong máu sẽ giảm đến 100 lần, như từ 100.000 xuống 1000 bản sao / ml trong 2 tuần đầu và giảm từ từ hơn nữa trong 12-24 tuần tiếp theo sau. Hơn nữa, càng ngày càng rõ ràng rằng, sự giảm tải lượng virus sau khi bắt đầu điều trị càng lớn thì virus còn bị ức chế càng lâu.

Sửa bởi quản trị viên 10/01/2012 lúc 04:16:44(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Quảng cáo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#2 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:16:45(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Các nguyên tắc chính trong điều trị HIV là gì ?

Ðầu tiên, không có bằng chứng rằng những người bị nhiễm HIV có thể được điều trị khỏi bởi các điều trị hiện có.

Quả thực, những người được điều trị tới 3 năm và xét nghiệm được lặp lại có một mức virus trong máu không thể phát hiện được. Tuy nhiên, khi ngưng điều trị thì số lượng virus tăng vọt trở lại. Do đó, quyết định bắt đầu điều trị phải cân nhắc giữa khả năng tiến triển đến bệnh có triệu chứng với các nguy cơ đi kèm của điều trị. Các nguy cơ của điều trị bao gồm các tác dụng ngắn và dài hạn, được mô tả trong những phần tiếp theo, cũng như khả năng virus trở nên kháng với điều trị. Sự đề kháng này khi đó sẽ hạn chế các lựa chọn điều trị tương lai.

Một lý do chính để sự đề kháng xuất hiện là bệnh nhân không tuân theo đúng điều trị được cho, như không dùng thuốc tại thời điểm đúng. Một yếu tố khác là khả năng ức chế virus đến mức không thể phát hiện được cho những bệnh nhân với số lượng tế bào CD4 thấp hơn và tải lượng virus cao hơn thì không tốt bằng. Cuối cùng, nếu tải lượng virus vẫn có thể phát hiện được với bất kỳ một phương thức điều trị được cho, sự đề kháng tất yếu sẽ xuất hiện. Quả thực, với những thuốc nhất định, sự đề kháng có thể xuất hiện tính bằng tuần lễ, như với 3TC (lamivudine, Epivir) và những thuốc khác trong nhóm thuốc ức chế sao chép ngược giống nonnucleoside (NNRTI) như nevirapine (Viramune TM), delavirdine (Rescriptor TM) và efavirenz (Sustiva TM). Vì thế, nếu những thuốc này được dùng như một phần của một phối hợp thuốc mà không ức chế được tải lượng virus đến mức không phát hiện được thì sự đề kháng sẽ xuất hiện nhanh chóng và điều trị sẽ không hiệu quả.

Ngược lại, HIV trở nên đề kháng với những thuốc nhất định khác, như Zidovudin (AZT), slavudine (D4T), và các thuốc ức chế men protease, sau nhiều tháng. (Tất cả những thuốc này được bàn luận chi tiết hơn trong những phần sau). Hơn nữa, sự đề kháng với 1 thuốc thường gây ra cùng kiểu phản ứng với những thuốc liên quan khác, gọi là đề kháng chéo. Tuy nhiên, những người bị nhiễm HIV nên nhận ra rằng liệu pháp kháng virus có thể rất hiệu quả. Ðiều này đúng thậm chí ở những người có số lượng tế bào CD4 thấp và bệnh đã tiến triển nặng, chừng nào sự đề kháng chưa xuất hiện.

Các yếu tố gì nên được xem xét trước khi bắt đầu liệu pháp kháng virus ?

Một trong các lĩnh vực gây bàn cải nhất liên quan đến điều trị bệnh HIV là việc quyết định thời điểm tốt nhất để bắt đầu điều trị kháng virus. Rõ ràng, điều trị trong giai đoạn bệnh có triệu chứng nhẹ làm chậm sự tiến triển của nó đến AIDS, và việc điều trị những người bị AIDS sẽ làm tử vong chậm lại. Do đó, hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng các bệnh nhân đã có các biến chứng của bệnh HIV, như nấm họng (nhiễm nấm trong họng), tiêu chảy kéo dài không giải thích được, sụt cân, nhiễm trùng cơ hội, hoặc sa sút trí tuệ (chẳng hạn hay quên) nên được bắt đầu điều trị kháng virus cho dù các triệu chứng là nhẹ. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân không có triệu chứng thì không chắc chắn hơn. Hầu hết các đề nghị cho nhóm này là dựa trên các dấu chứng của sự tiến triển lâm sàng, đó là, số lượng tế bào CD4 và tải lượng virus. Vài nghiên cứu đã minh chứng rằng nguy cơ tiến triển nặng của bệnh tăng lên ở những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 < 350-500. Tương tự vậy, những người có tải lượng virus tăng, bất chấp số lượng tế bào CD4, thì nguy cơ tiến triển nặng của bệnh tăng lên. Tuy nhiên, tranh cải vẫn tiếp tục bất chấp mức ngưỡng tốt nhất mà tại đó ấn định tải virus để khuyến khích bắt đầu điều trị bằng thuốc.

Hội Ðồng Các Chuyên Gia Từ Cục Sức Khoẻ Hoa Kỳ và Hiệp Hội AIDS Quốc Tế đã đưa ra những hướng dẫn cho việc bắt đầu liệu pháp kháng virus. Họ đề nghị điều trị tất cả bệnh nhân có triệu chứng và những người có số lượng tế bào CD4 < 350 (và nhiều bệnh nhân < 500) hoặc tải lượng virus > 10.000 - 20.000 bất chấp số lượng tế bào CD4. Tuy nhiên, nên ghi nhớ rằng khả năng gây độc ngắn và dài hạn là quan trọng với bất kỳ chương trình điều trị nào, sự tuân thủ điều trị là khó khăn, và sự đề kháng thuốc của virus xuất hiện. Vì thế, các tác giả khác đã đề nghị trì hoãn điều trị đến khi tải virus thậm chí cao hơn nữa. Bất chấp cả hai, tất cả đều đồng ý rằng HIV là một bệnh tiến triển chậm và việc điều trị hiếm khi cần được bắt đầu ngay tức khắc. Vì thế, thường có một thời gian cho mỗi bệnh nhân để xem xét cẩn thận các lựa chọn trước khi quyết định khi nào bắt đầu điều trị.

Trước khi bắt đầu điều trị bạn phải ý thức được các tác dụng phụ ngắn và dài hạn, bao gồm thực tế là vài biến chứng lâu dài có thể không biết được. Bệnh nhân cũng cần nhận ra rằng điều trị là một cam kết lâu dài và đòi hỏi mức độ tuân thủ điều trị cực kỳ cao. Hơn nữa, thầy thuốc và bệnh nhân nên nhận ra rằng trầm cảm, cảm giác bị cách ly, lạm dụng thuốc gây nghiện, và các tác dụng phụ của thuốc kháng virus tất cả có thể gắn liền với việc không theo được chương trình điều trị.

Liệu pháp ban đầu tốt nhất cho HIV là gì ?

Các hướng dẫn cho việc sử dụng liệu pháp kháng virus đã được phát triển và được cập nhật đều đặn bởi nhóm hội thảo viên tinh thông được nhóm họp bởi Cục Sức Khoẻ và Quỹ Herry J. Kaiser. Những hướng dẫn của họ chỉ là một trong vài cái đã được phát triển để cung cấp những khuyến cáo cho điều trị bệnh HIV.

Các lựa chọn điều trị kháng virus chủ yếu bao gồm sự phối hợp 2 thuốc ức chế men chuyển dạng ngược giống nucleoside(NRTI), thường được gọi là "nucs" với 1 thuốc ức chế protease (PI). Hơn nữa, cùng với 2 thuốc NRTI, vài phối hợp của 2 PI đã được dùng thay cho 1 thuốc PI đơn độc bởi vì những phương thức điều trị này dễ tuân theo hơn và có ít tác dụng phụ hơn. Gần đây, ngày càng có nhiều kinh nghiệm với các phương thức điều trị mà phối hợp các thuốc NRTI với các thuốc NNRTI, thường được gọi là "non-nucs". Những phối hợp có chứa các thuốc NNRTI thường dễ dùng hơn là các phối hợp có chứa các thuốc PI và các thuốc PI có thể dành cho sử dụng sau này. Cuối cùng, dữ kiện sơ bộ hiện chứng tỏ rằng những phối hợp gồm toàn 3 thuốc NRTI có thể hiệu quả, đặc biệt ở những bệnh nhân có tải lượng virus thấp (< 100.000).

Nói chung, hầu hết các phác đồ kháng virus cho bệnh HIV chứa một trụ cột gồm ít nhất 2 thuốc NRTI. Các thuốc NRTI bao gồm zidovudine (ZDV, AZT, Retrovir TM), stavudine (d4T, Zerit TM), didanosine (ddI, Videx TM), Zalcitabine (ddC, HIVID TM), lamivudine (3TC, Epivir TM), và abacavir (ABC, Ziagen TM). Một phác đồ điển hình sẽ bao gồm hoặc ZDV hoặc d4T cùng với ddI, ddC hoặc 3TC. Mặc dù abacavir, thuốc mới nhất của NRTI, có thể được dùng với bất kỳ hoặc tất cả những thuốc này, cách tốt nhất để dùng thì chưa được biết. Ở các phác đồ gồm 3 thuốc NRTI, các thuốc NNRTI và PI không được dùng. Phần lớn dữ kiện bắt nguồn từ kinh nghiệm với sự phối hợp của ZDV, 3TC, và abacavir. 

Cách chia liều thường dùng và những hạn chế theo bữa ăn cho các thuốc NRTI 

 

ZDV*

d4T

DdI

ddC

3TC*

ABC

Hàm lượng ở mỗi viên

300 mg

40 mg

100 mg

0.75 mg

150 mg

300 mg

Chia liều

1 viên 2  lần/ngày

1 viên 2  lần/ngày

1 viên 2  lần/ngày hoặc 4 viên 1 lần/ngày

1 viên 3   lần/ngày

1 viên 2  lần/ngày

1 viên 2  lần/ngày

Hạn chế với bữa ăn

Không

Không

30 phút trước hoặc 60 phút sau ăn

Không

Không

Không

ZDV, zidovudine; d4T, stavudine; ddI, didanosine; ddC, zalcitabine, 3TC, lamivudine; ABC, abacavir.

*ZDV và 3TC ở dạng 1 viên kết hợp, Combivir, có thể dùng 1 viên 2 lần 1 ngày.

Ðây là những liều chuẩn cho người lớn có kích thước trung bình và liều lượng có thể thay đổi tuỳ vào trọng lượng bệnh nhân.

Các thuốc NNRTI bao gồm nevirapine (Viramune TM), delavirdine (Rescriptor TM), và efavirenz (SustivaTM). Phần lớn kinh nghiệm dùng NRTI kết hợp với các thuốc NRRTI là ZDV, 3TC và enfavirenz. Sự phối hợp này được xem là một phác đồ ban đầu hợp lý. Cũng nên chú ý rằng dữ kiện sơ bộ gợi ý rằng các phối hợp bao gồm 2 thuốc NRTI cùng với 1 trong những thuốc NNRTI cũng có thể tỏ ra là các lựa chọn có thể tồn tại được

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#3 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:17:30(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Cách chia liều thường dùng và những hạn chế theo bữa ăn cho các thuốc NNRTI

 

Nevirapine

Delavirdine

Efavirenz

Hàm lượng ở mỗi viên

200 mg

200 mg

200 mg

Chia liều

1 viên 2 lần/ngày (bắt đầu với 1 viên 1 lần/ngày trong 14 ngày đầu tiên)

2 viên 3 lần/ngày*

3 viên 1 lần/ngày

Hạn chế với bữa ăn

Không

Không

Tránh các thức ăn giàu mỡ

*Nhiều dữ kiện bây giờ : 3 viên 2 lần/ngày

Các thuốc ức chế protease bao gồm saquinavir (InviraseTM, FortovaseTM), ritonavir (NorvirTM), indinavir (CrixivanTM), nelfinavir (ViraceptTM), và amprenavir (AgeneraseTM). Thực tế, mỗi thuốc này đã tỏ ra làm giảm 1 cách hiệu quả tải lượng virus khi được dùng phối hợp với 2 thuốc NRTI.

Cách chia liều thường dùng và những hạn chế theo bữa ăn cho các thuốc PI

 

Saquinavir+

Ritonavir

Indinavir

Nelfinavir

Amprenavir

Hàm lượng ở mỗi viên

200 mg

100 mg

400 mg

250 mg

150 mg

Chia liều

6 viên 3 lần/ngày*

6 viên 2 lần/ngày

2 viên mỗi 8 giờ

3 viên 3 lần/ngày hoặc 5 viên 2 lần/ngày

8 viên 2 lần/ngày

Hạn chế với bữa ăn

Uống cùng lúc các bữa ăn chính

Uống cùng với thức ăn nếu có thể

1 giờ trước hoặc 2 giờ sau ăn hoặc với thức ăn ít mỡ

Với các bữa ăn

Với các bữa ăn

+Thuốc này lúc đầu được bào chế là InviraseTM, được dùng 3 viên chia 3 lần/ngày và sau đó được bào chế lại là FortovaseTM, viên nang gel mềm với sự hấp thu ở đường ruột tốt hơn, được cho 6 viên chia 3 lần/ngày.

*Nhiều dữ kiện đang có với liều 8 viên chia  2 lần/ngày.

Các phối hợp của thuốc PI cùng với 2 thuốc NRTI đã được dùng trong thực tế lâm sàng với tần suất tăng dần.

Hầu hết các phối hợp có chứa thuốc PI đã dùng ritonavir, nó là một chất ức chế mạnh sự thanh thải các thuốc khác. Ðiều này có nghĩa là ritonavir làm chậm sự đào thải các thuốc khác khỏi cơ thể. Ý nghĩa của ritonavir trong các phối hợp này là để làm giảm liều của mỗi thuốc trong phác đồ, giảm số lần cho thuốc, và thỉnh thoảng giảm thiểu những hạn chế về bữa ăn. Những hạn chế bữa ăn thường cần thiết bởi vì những thuốc nhất định có thể không được hấp thu hiệu quả nếu được dùng chung với thức ăn, trong khi những thuốc khác nên được dùng chung với thức ăn để tránh làm khó chịu dạ dày. Vì thế, bệnh nhân phải phối hợp cẩn thận các thuốc của họ với thời gian các bữa ăn. Sự cần thiết cho phối hợp này thường làm cho phác đồ khó theo hơn.

Sự phối hợp thuốc PI được nghiên cứu tốt nhất đã từng là ritonavir 400 mg x 2 lần/ngày (thay vì thông thường FortovaseTM 1200 mg x 3 lần/ngày). Vài kinh nghiệm cũng dùng ritonavir cùng với indinavir đã chỉ ra rằng indinavir có thể được dùng 2 lần/ ngày mà không xem xét đến bữa ăn. Liều tối ưu cho sự phối hợp này chưa được xác định. Tuy nhiên, các phác đồ thường được dùng nhất kết hợp ritonavir 400 mg 2 lần/ngày với indinavir 400 mg 2 lần/ngày, hoặc ritonavir 200 mg 2 lần/ngày với indinavir 800 mg 2 lần/ngày. Các phối hợp khác của thuốc PI cũng đang được nghiên cứu, như nelfinavir với saquinavir. Hơn nữa, các nghiên cứu gần đây đang nỗ lực để xác định tính chất ức chế thanh thải của ritonavir có thể cho phép dùng liều thuốc PI 1 lần trong ngày được không.

Các thuốc tỏ ra hứa hẹn trong các thử nghiệm lâm sàng trước được đưa ra thị trường bởi các nhà sản xuất, với sự chấp thuận của Cục Thực Phẩm và Thuốc Hoa Kỳ, cho những đối tượng nhất định. Ðây là những bệnh nhân không còn đáp ứng nữa với các thuốc hiện có sẵn hoặc không thể dung nạp chúng. Các thuốc mới đầy hứa hẹn được tung ra như là 1 phần của chương trình "dùng vớt vát" hoặc "tiếp cận mở rộng". Một thuốc như thế là thuốc nhóm PI được gọi là ABT-378, nó được dùng với liều 400 mg kết hợp với liều thấp (100 mg) ritonavir 2 lần / ngày. Ðể nhận thêm thông tin liên quan đến chương trình này, các thầy thuốc có thể gọi Chương Trình Tiếp Cận Sớm ABT-378/r của hãng Abbott với số 919 998-2619,(Hoa Kỳ).

Một thuốc khác, được gọi là Tenofovir, vừa được sản xuất thông qua chương trình "tiếp cận mở rộng". Thuốc này thuộc 1 nhóm thuốc mới, được gọi là ức chế sao chép ngược giống nucleotide. Các thuốc giống nucleotid làm chậm lại khâu tương tự trong việc sinh sản virus giống như các chất giống nucleoside tác dụng. Tuy nhiên, hai nhóm thuốc này, đủ khác nhau mà đối với bệnh nhân một thuốc nucleoside không thành công vẫn có thể đáp ứng với nucleotide. Giống như những thuốc khác được sản xuất thông qua các chương trình này, khả năng của Tenofovir để làm giảm tải lượng virus và các tác dụng phụ có thể của nó vẫn đang được xác định.

Các tác dụng phụ của liệu pháp kháng HIV là gì ?

Có nhiều tác dụng phụ có thể có gắn liền với những liệu pháp kháng virus này. Những tác dụng phụ thường gặp nhất cho mỗi nhóm thuốc được tóm tắt trong những bảng sau đây.

Các tác dụng phụ thường gặp của các thuốc NRTI

 

ZDV

d4T

DdI

ddC

3TC

ABC

Giảm tế bào máu, buồn nôn, mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, viêm gan.

Bệnh thần kinh (bất thường của các sợi thần kinh), viêm gan.

Bệnh thần kinh, viêm tuỵ, buồn nôn, tiêu chảy.

Bệnh thần kinh, loét họng, viêm gan.

Viêm gan.

Phản ứng có thể đe dọa tính mạng với sốt, phát ban, buồn nôn, nôn, mệt mỏi, viêm gan.

 

 Các tác dụng phụ thường gặp của các thuốc NNRTI

Nevirapine

Delavirdine

Efavirenz

Nổi mẫn, viêm gan.

Nổi mẫn, viêm gan, đau đầu.

Nổi mẫn, viêm gan, hoa mắt, lẫn lộn, mơ sinh động.

Các tác dụng phụ thường gặp của các thuốc PI

Saquinavir

Ritonavir

Indinavir

Nelfinavir

Amprenavir

Buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng, đau đầu, viêm gan, tăng đường huyết, tăng chảy máu (ở bệnh nhân hemophilie).

Buồn nôn, tiêu chảy, nôn, tê bàn tay và quanh miệng, viêm gan, vị giác bất thường, mỡ và đường máu tăng, tăng chảy máu (ở bệnh nhân hemophilie).

Sỏi thận, bất thường thận, buồn nôn, đau đầu, tăng đường huyết, tăng chảy máu (ở bệnh nhân hemophilie).

Tiêu chảy, tăng đường máu, tăng chảy máu (ở bệnh nhân hemophilie).

Buồn nôn, tiêu chảy, nổi mẫn, tăng đường máu, tăng chảy máu (ở bệnh nhân hemophilie).

 Trong suốt 3 năm cuối, sự tăng mỡ máu (đặc biệt triglyceride và cholesterol) thấy xuất hiện kết hợp với vài liệu pháp kháng virus. Hơn nữa, một hội chứng được gọi không chặt chẽ là loạn dưỡng mỡ cũng đã được mô tả. Hội chứng này ám chỉ những người mà đã xuất hiện mất lớp mỡ dưới da, làm má nhăn và tĩnh mạch nổi rõ ở cánh tay và chân. Những biến đổi thể chất khác liên quan đến hội chứng này bao gồm sự tích tụ mỡ ở bụng, làm bụng phệ, hoặc sau cổ, tạo ra cái gọi là bướu bò đực. Tất cả những bất thường này trong máu và mỡ có thể được chú ý trước khi nhiều thuốc mới được tung ra. Những bất thường này dường như đang xuất hiện với tần suất tăng, do đó làm tăng mối quan tâm rằng chúng có thể là các biến chứng lâu dài của các trị liệu cũ vừa dùng. Nguyên nhân thực sự của những bất thường này, chúng có xuất hiện với vài loại thuốc này hơn là những thuốc khác hay không, và điều trị chúng như thế nào vẫn chưa được biết rõ.

Một người được theo dõi như thế nào trong khi đang điều trị kháng virus ?

Nói ngắn gọn, mục đích điều trị kháng virus là tăng cường miễn dịch và làm chậm lại hoặc ngăn chặn sự tiến triển nặng về lâm sàng đến giai đoạn bệnh có triệu chứng mà không gây ra các tác dụng phụ quan trọng nào.

Gần đây, dấu chỉ điểm tốt nhất cho tác dụng của một thuốc là sự giảm tải lượng virus. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, số lượng virus dao động tự phát. Sự thay đổi ít hơn 3 lần, như từ 30.000 xuống 10.000, có thể không có ý nghĩa lâm sàng. Vì thế, không có quyết định điều trị nào được đưa ra dựa trên sự đo tải lượng virus một lần đơn độc. Mặc dù số lượng tế bào CD4 được hy vọng ổn định hoặc tăng lên như là kết quả của điều trị hữu hiệu, các số đo lường CD4 cũng có thể thay đổi tự phát và nên được lý giải cẩn thận.

Một cách lý tưởng, trước khi bắt đầu điều trị, tải lượng virus và số lượng tế bào CD4 nên được kiểm tra 2 lần trong khoảng thời gian 1-4 tuần. Xét nghiệm tải lượng virus sau đó nên được lặp lại sau 2-4 tuần điều trị để chắc chắn rằng điều trị có kết quả. Nếu bệnh nhân chưa từng được điều trị trước đây, và đang bắt đầu một phác đồ nghĩ là có tác dụng mạnh (hoạt tính cao), số lượng virus sẽ giảm 10-100 lần trong khoảng thời gian này. Ðáp ứng điều trị tốt nhất sẽ là tải lượng virus giảm đến mức không thể phát hiện được. Giả sử có đáp ứng tối ưu cho một phác đồ điều trị, tải lượng virus sẽ giảm từ từ đến ít hơn 500 bản sao trong khoảng 8-12 tuần và ít hơn 50 bản sao trong khoảng 16-24 tuần. Chiến lược thích hợp cho việc điều trị những bệnh nhân đang dùng các thuốc như đã được mô tả, trừ những người không đạt được các mốc virus này, vẫn chưa được xác định. Những lựa chọn trong tình huống này bao gồm việc thêm 1 hoặc 2 thuốc nữa, thay đổi tất cả các thuốc, hoặc tiếp tục giám sát cẩn thận. Những bệnh nhân đã từng dùng nhiều thuốc kháng virus sẽ được dự đoán có đáp ứng ít hoàn toàn hơn với điều trị. Vì thế, sự giảm tải lượng virus của chúng sẽ có khả năng nhẹ hơn. Cho dù thế nào đi nữa, một sự thay đổi nhỏ hơn 3 lần gợi ý rằng các thuốc này không hiệu quả hoặc bệnh nhân không dùng chúng.

Ðiều gì nên làm nếu tải lượng virus của bệnh nhân bắt đầu tăng trong khi điều trị?

Khi theo dõi tải lượng virus của bệnh nhân trong khi điều trị, thật là quan trọng để nhận ra rằng sự tăng số lượng virus có thể xuất hiện do vài lý do. Một lý do có thể là bệnh nhân không dùng thuốc thích hợp, trong trường hợp này một sự giải thích cho việc không tuân theo điều trị này phải được xác định. Nếu sự tuân thủ kém là do độc tính của thuốc, các nỗ lực nên được hướng đến việc điều trị các tác dụng phụ hoặc việc đổi sang các phác đồ được dung nạp tốt hơn. Nếu lý do là khó khăn trong việc phân liều lượng, các chiến lược mới nên được xem xét. Các chiến lược mới như thế có thể bao gồm việc đặt thuốc trong một hộp thuốc, phối hợp lần uống thuốc với những hoạt động nhất định trong ngày, như đánh răng, hoặc có thể thay đổi phác đồ. Cuối cùng, nếu lý do của sự tuân thủ kém là trầm cảm, lạm dụng thuốc gây nghiện, hoặc một vấn đề cá nhân khác, vấn đề nên được giải quyết. Hơn nữa, nếu cần thiết, các thuốc kháng virus có thể tạm dừng cho đến khi vấn đề đã được giải quyết.

Ghi nhớ rằng, thỉnh thoảng, vì các lý do không được hiểu hoàn toàn, tải lượng virus có thể tăng thoáng qua. Vì thế, sự tăng không mong đợi cần phải thử lại xét nghiệm tải lượng virus trước khi bất kỳ quyết định lâm sàng nào được đưa ra. Tuy nhiên, nếu tải lượng virus tiếp tục tăng dù tuân thủ đúng với điều trị được cho, cần xem xét nghiêm túc khả năng virus trở nên kháng 1 hoặc tất cả các thuốc được cho. Chiến lược tốt nhất cho việc giải quyết tình huống này vẫn chưa được xác định. Nó đủ để nói rằng tình huống này thì phức tạp và các phương pháp cho giải quyết vấn đề này đang nổi lên. Theo đó, những bệnh nhân này nên được giới thiệu tới các thầy thuốc tinh thông trong liệu pháp kháng virus. Nói chung, một chuyên gia sẽ thay đổi phác đồ sang cái mà không có khả năng gây ra kháng thuốc.

Gần đây, một số dữ kiện ngày càng tăng gợi ý rằng các xét nghiệm có sẵn mới đây cho kháng thuốc có thể giúp lựa chọn phác đồ kế tiếp. Tuy nhiên, những xét nghiệm này có thể có giá từ 400-1000 đô la và thường không được hoàn lại bởi các nhà bảo hiểm. Hơn nữa, các xét nghiệm có thể khó giải thích khi không có chuyên gia trong lĩnh vực này.

Ðiều gì xảy ra nếu 1 liều thuốc kháng virus bị bỏ quên hoặc ngưng điều trị ?

Người ta khuyên một cách mạnh mẽ rằng những người đang điều trị phác đồ kháng virus không nên bỏ bất kỳ liều thuốc nào. Tuy nhiên, trong cuộc sống liều thuốc thường bị bỏ quên. Lý do cho các liều bị bỏ quên là từ chuyện bệnh nhân chỉ quên dùng thuốc, rời nơi ở mà không mang theo thuốc, cho đến việc phải cấp cứu, như cần phẫu thuật khẩn cấp. Chẳng hạn, sau khi cắt ruột thừa vì viêm ruột thừa cấp, một bệnh nhân có thể không có khả năng dùng thuốc qua đường uống trong vài ngày. Khi một liều bị bỏ quên, bệnh nhân nên liên hệ thầy thuốc của cậu hoặc cô ta ngay để bàn về quá trình hành động. Các lựa chọn trong tình huống này là phải dùng các liều bị bỏ ngay tức khắc hoặc đơn thuần dùng lại thuốc với liều đã được hoạch định kế tiếp.

Mặc dù mỗi liều bị bỏ quên làm tăng khả năng virus sẽ xuất hiện đề kháng với thuốc, một liều đơn độc bị bỏ không là nguyên nhân cho báo động này. Ngược lại, nó là cơ hội để có được kinh nghiệm và quyết định tại sao nó xảy ra nếu nó có khả năng xuất hiện lại, và việc gì có thể làm để hạn chế việc bỏ thuốc trong tương lai. Hơn nữa, nếu bệnh nhân không thể dùng thuốc trong một khoảng thời gian, như trong cấp cứu y tế, vẫn không là lý do cho cảnh báo trên. Trong tình huống này, bệnh nhân có thể được bảo đảm rằng chừng nào tất cả các thuốc bị ngưng đồng thời và sau đó bắt đầu lại trong tương lai thì nguy cơ xuất hiện kháng thuốc là thấp

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#4 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:18:59(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Những bệnh nhân có biểu hiện bệnh giống

Những bệnh nhân được nhận ra có HIV quanh thời gian họ bị nhiễm đầu tiên có thể có lợi nếu liệu pháp kháng virus mạnh được cho tại thời điểm đó. Lý do cho việc bắt đầu điều trị sớm này chủ yếu là lý thuyết. Tuy nhiên, bằng chứng sơ bộ gợi ý rằng các khía cạnh độc nhất của đáp ứng miễn dịch của cơ thể với virus có thể được duy trì bởi chiến lược này. Người ta nghĩ rằng điều trị lúc bị nhiễm tiên phát có thể là một cơ hội để giúp hệ thống đề kháng tự nhiên của cơ thể chống lại virus. Do đó, bệnh nhân có thể đạt được sự kiểm soát nhiễm trùng được cải thiện trong khi đang điều trị, và thậm chí có thể sau khi ngưng điều trị. Tuy nhiên, hiện tại, những người bắt đầu điều trị lúc nhiễm trùng tiên phát sẽ cần duy trì vài dạng điều trị kháng virus vô thời hạn. Các nghiên cứu đang thực hiện để quyết định xem có hoàn cảnh nào mà ở đó việc điều trị được dừng một cách an toàn mà không gây ra tăng tải lượng virus hay không.

Lúc trước, hy vọng đến là nếu điều trị được bắt đầu từ rất sớm trong tiến trình nhiễm HIV, HIV có thể được loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, hầu hết các bằng chứng ngày nay gợi ý rằng điều này là không đúng. Do đó, điều trị sớm không thể điều trị khỏi hoàn toàn, dù các lợi ích khác có thể vẫn hiện diện. Vì thế, đề nghị hiện tại là các bệnh nhân này nên được giới thiệu đến các nghiên cứu lâm sàng nếu họ có khả năng cam kết tuân theo một chế độ điều trị  hiệu quả. Tuy nhiên, nếu các tình huống tâm lý hoặc xã hội làm sự tuân thủ với điều trị như thế còn nghi ngờ, bệnh nhân tốt hơn hết là trì hoãn điều trị. Nói chung, trung bình, những người bị nhiễm có thể hy vọng vẫn còn khoẻ mạnh trong một thời gian dài. Cho dù thế nào đi nữa, bệnh nhân cần ý thức rằng việc bắt đầu điều trị sớm đặt họ vào nguy cơ xuất hiện các tác dụng phụ ngắn và dài hạn cũng như sự đề kháng với virus.

Ðiều trị HIV trong thai kỳ ra sao ?

Một trong những tiến bộ lớn nhất trong điều trị nhiễm HIV là ở phụ nữ mang thai. Trước khi có liệu pháp kháng virus, nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ bị nhiễm sang con là xấp xỉ 25-35%. Các thuốc kháng virus không được cho phụ nữ trong 3 tháng đầu thai kỳ vì trong thời gian đó, thuốc dễ gây ra các bất thường cho thai nhi hơn. Các nghiên cứu ở đó ZDV được bắt đầu sau 3 tháng đầu thai kỳ, sau đó tiêm tĩnh mạch trong tiến trình sinh, và sau sinh thuốc được cho cho trẻ sơ sinh trong 6 tuần, đã thấy rằng nguy cơ lây lan được giảm xuống thấp hơn 10%. Mặc dù hiện có ít dữ kiện hơn về các phối hợp thuốc mạnh hơn, kinh nghiệm lâm sàng gợi ý rằng nguy cơ lây truyền có thể giảm xuống thấp hơn 5%. Các khuyến cáo gần đây là khuyên các phụ nữ mang thai mà bị nhiễm HIV lưu ý tới cả các ảnh hưởng không rõ của liệu pháp kháng virus lên thai nhi và kinh nghiệm lâm sàng hứa hẹn của liệu pháp mạnh trong việc ngăn chặn sự lây truyền. Tuy nhiên, trong phân tích cuối cùng, các phụ nữ mang thai mà có HIV nên được điều trị cơ bản như là phụ nữ không mang thai bị nhiễm HIV, ngoại trừ trong 3 tháng đầu thai kỳ.

Tất cả phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV nên được điều trị bởi 1 nhà sản khoa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Các thận trong tối đa về sản khoa như tránh việc theo dõi qua da đầu và việc giảm thiểu đau đẻ sau khi vỡ màng ối có thể được thực hiện. Hơn nữa, khả năng dùng mổ bắt con nên được bàn luận, đặc biệt ở những phụ nữ không được kiểm soát sự nhiễm HIV tốt. Mổ bắt con, loại bỏ sự cần thiết sanh qua ngã âm đạo, do đó có thể tạo ra những lợi ích nữa vẫn chưa được xác định. Cũng nên ghi nhớ rằng bú sữa mẹ nên được tránh nếu sự dinh dưỡng thay thế cho trẻ là có sẵn. Dù nguy cơ lây truyền giảm cùng với liệu pháp kháng virus, các phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV cần được khuyên bảo cẩn thận về việc lưu tâm đến tất cả các nguy cơ, cũng như tất cả các lựa chọn, bao gồm việc phá thai điều trị khi thích hợp.

Ðiều trị những người có tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết sinh dục của một người bị nhiễm HIV ra sao ?

Gần đây, phần lớn quan tâm đã tập trung vào việc ngăn chặn sự lây lan sang những cá nhân có tiếp xúc bằng việc cho sớm những liệu pháp kháng virus. Vì nguy cơ lây nhiễm sau hầu hết các tiếp xúc đơn độc là tương đối thấp, thường thấp hơn 5%, các nghiên cứu chính thức khó thực hiện ở bệnh nhân. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên thú vật và vài kinh nghiệm ở con người gợi ý rằng điều trị sau khi tiếp xúc có thể hiệu quả. Quả thực, khuyến cáo hiện tại là các nhân viên y tế mà bị kim đâm dính dịch từ một người bị nhiễm thì dùng thuốc kháng virus trong 4 tuần để làm giảm nguy cơ lây nhiễm.

Mở rộng khuyến cáo trên, nhiều thầy thuốc đã đưa ra khuyến cáo điều trị dự phòng tương tự cho những người có tiếp xúc tình dục với HIV. Tuy nhiên, ít nhất 5 hạn chế gắn với khuyến cáo này. Ðầu tiên, điều trị sau tiếp xúc không thể được tin là ngăn được sự lan truyền HIV. Thứ hai, hiện giờ, điều trị như thế sẽ được giới hạn cho những tiếp xúc không thông thường và tình cờ, như vỡ bao cao su khi giao hợp. Thứ ba, dù các phác đồ với hai hoặc ba thuốc thường được đề nghị cho những người bị tiếp xúc trong môi trường y tế, liệu pháp tốt nhất cho tiếp xúc tình dục vẫn chưa biết rõ. Thứ tư, liệu pháp có thể sẽ tốt nhất nếu được bắt đầu trong vòng hai giờ đầu sau tiếp xúc. Thứ năm, cung cấp 4 tuần của một phối hợp gồm 3 thuốc kháng virus có giá sấp xỉ 1000 đôla, thường không được chi trả bởi bảo hiểm.

Ðiều gì có thể được làm cho người bị ức chế miễn dịch nặng ?

Mặc dù một mục tiêu của liệu pháp kháng virus là ngăn chặn sự ức chế hệ thống miễn dịch, vài bệnh nhân đã bị ức chế miễn dịch khi họ lần đầu đến khám. Những người khác tiến triển đến giai đoạn như là hậu quả của sự đề kháng với các thuốc kháng virus. Tuy nhiên, mọi nỗ lực phải được thực hiện để tối ưu hóa liệu pháp kháng virus ở tất cả những bệnh nhân này. Hơn nữa các kháng sinh đặc hiệu nhất định nên được khởi dùng, phụ thuộc vào tế bào CD4, để ngừa các biến chứng (đó là các nhiễm trùng cơ hội) đi kèm với sự ức chế miễn dịch do HIV. Các hướng dẫn cho sự phòng ngừa các nhiễm trùng cơ hội có thể được tìm thấy tại trang web www.hivatis.org

Tóm lại những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 < 200 nên nhận sự điều trị phòng ngừa Pneumocystis carinii (vi khuẩn cơ hội gây viêm phổi ) bằng trimethoprim/ sulfamethoxazole (BactrimTM, SeptraTM), được cho 1 lần 1ngày hoặc 3 lần mỗi tuần. Nếu họ không dung nạp với thuốc đó, bệnh nhân có thể được điều trị bằng thuốc thay thế như là dapsone, pentamidine, hoặc otovoquone (MepronTM). Những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 thấp hơn 100 những người mà có bằng chứng đã bị nhiễm toxoplasma, thường được xác định bởi sự hiện diện của kháng thể kháng toxoplasma trong máu, nên được cho trimethoprim/ sulfamethoxazole. Nếu họ đang uống dapsone, khi đó pyramethamine và leukovorin có thể được thêm vào phác đồ của họ 1 lần mỗi tuần. Nhiễm toxoplasma là một bệnh ký sinh trùng cơ hội mà ảnh hưởng não và gan. Cuối cùng, những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 thấp hơn 50 nên được điều trị dự phòng nhiễm Mycobacterium avium complex (MAC) bằng azithromycin (ZithromaxTM) mỗi tuần, hoặc một thuốc thay thế, clarithromycin (BiaxinTM) 2 lần mỗi ngày hoặc mycobutin (RifabutinTM). MAC là vi trùng cơ hội gây nhiễm trùng ở ruột, phổi, và gan.

Ðiều gì xảy ra trong tương lai cho những người bị nhiễm HIV và cho những người có nguy cơ nhiễm HIV ?

Các xu hướng tiếp tục hướng về việc làm đơn giản hóa các phác đồ thuốc để cải thiện sự tuân thủ và giảm các tác dụng phụ. Hơn nữa, nhiều thuốc mới đang được phát triển. Những thuốc mới này thuộc các nhóm thuốc hiện có sẵn cũng như các nhóm mới, như là nhóm ngăn chặn virus khỏi đi vào tế bào hoặc khỏi việc hòa hợp chính nó vào chất liệu di truyền con người. Cả hai hoạt động này ngăn chặn virus khỏi việc tự nhân lên, do đó ức chế sự tăng tải lượng virus. Thậm chí có thể quan trọng hơn, các nhà nghiên cứu đang nỗ lực để tăng cường sự đề kháng tự nhiên của cơ thể với HIV để kiểm soát sự phát triển virus. Một thí dụ của sự tiếp cận này là việc dùng vaccin HIV, có hay không có liệu pháp kháng virus. Cũng như vậy, các nghiên cứu cải tiến đang thực hiện để cố gắng làm sạch hoặc loại bỏ virus khỏi cơ thể. Lý do cho sự làm sạch là cho phép dừng điều trị mà không có tăng vọt trong số lượng các phần tử virus trong máu. Chẳng hạn, các thuốc đã phát triển để kích thích các tế bào CD4 bị nhiễm HIV, các tế bào mà sau đó hy vọng sẽ trãi qua sự tự huỷ virus hoặc miễn dịch. Mặc dù tất cả trong nghiên cứu này là thú vị và, về lâu dài, đầy hứa hẹn, thực tế là trong tương lai gần, bệnh nhân sẽ vẫn cần liệu pháp kháng virus.

Tin tốt lành là sự phát triển của liệu pháp kháng virus đã dẫn đến sự giảm rõ rệt tử vong liên quan đến AIDS ở nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, phần lớn những người bị nhiễm, không tiếp cận được những thuốc đắt tiền này. Do đó, hy vọng tốt nhất cho việc hạn chế dịch hiện tại trên thế giới vẫn là một vaccin hiệu quả. Tuy nhiên, dù những nghiên cứu trong lĩnh vực này ngày càng tăng, sự phát triển một vaccin tiếp tục đi sau sự tiến bộ mà đã xảy ra trong liệu pháp kháng virus.

Sơ lược về HIV

HIV là một loại virus được gọi là một retrovirus, gây nhiễm ở người khi nó tiếp xúc với những mô như biểu mô âm đạo, vùng hậu môn, miệng, hoặc mắt, hoặc một vết rách ở da.

Nhiễm HIV nói chung là một bệnh tiến triển chậm trong đó virus hiện diện khắp cơ thể ở tất cả các giai đoạn của bệnh.

Ba giai đoạn của nhiễm HIV đã được mô tả.

- Giai đoạn đầu (nhiễm trùng tiên phát), xảy ra trong vòng vài tuần mắc phải virus, thường được đặc trưng bởi bệnh giống "cúm" hoặc "tăng đơn nhân nhiễm trùng" mà thường hồi phục trong vòng vài tuần.
- Giai đoạn nhiễm trùng mãn tính không triệu chứng (nghĩa là một thời gian dài nhiễm trùng không triệu chứng) kéo dài trung bình 8-10 năm.

- Giai đoạn nhiễm trùng có triệu chứng, khi đó hệ thống miễn dịch (hoặc đề kháng) của cơ thể đã giảm đến nổi các biến chứng xuất hiện, được gọi là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Các triệu chứng là do các biến chứng của AIDS, chúng bao gồm 1 hoặc nhiều hơn các nhiễm trùng hoặc ung thư không thông thường, sút cân nhiều, và sút giảm trí tuệ.

Khi HIV phát triển (nghĩa là tự sinh sôi), nó đòi hỏi khả năng thay đổi (đột biến) chính cấu trúc của nó. Sự đột biến này làm cho virus có thể trở nên kháng với liệu pháp thuốc hiệu quả trước đó.

Mục đích của điều trị thuốc là ngăn chặn sự huỷ hoại hệ miễn dịch bởi virus HIV và để chặn đứng hoặc làm chậm sự tiến triển của nhiễm trùng đến bệnh có triệu chứng.

Ðiều trị HIV bao gồm các phối hợp thuốc làm giảm sự phát triển virus đến một mức mà điều trị ngăn chặn hoặc làm chậm rõ rệt sự xuất hiện đề kháng của virus với thuốc.

Sự phối hợp thuốc tốt nhất cho HIV vẫn chưa được xác định, nhưng một trong những yếu tố quan trọng nhất là phác đồ phải được dung nạp tốt để nó có thể được tuân theo một cách ổn định mà không bỏ liều

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#5 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:21:52(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

dung ai hoi tui van de ji` o may bai viet tren nhe tui ko co biet ji dau a' mong la no bo ich cho cac ban   con voi toi thuoc ko quan trong quan trong la bao jio toi chet chet cang som cang tot hix hix

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#6 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:23:36(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Những địa chỉ tư vấn, khám chữa bệnh HIV/AIDS miễn phí tại Khánh Hòa

* Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS, 220 Ngô Gia Tự, Nha Trang, ĐT 511321: Khám chữa bệnh miễn phí cho người nhiễm HIV/AIDS. Phục vụ từ thứ hai đến thứ sáu, riêng thứ bảy phục vụ tư vấn miễn phí;  sáng từ 7g - 11g và chiều từ 13g - 17g.

* Phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện của Quĩ Toàn Cầu đặt tại năm điểm:

+ Bệnh viện đa khoa tỉnh: đường Quang Trung, Nha Trang, ÐT: 811012.

+ Trung tâm Y tế TP Nha Trang: 13 Lê Lợi, Nha Trang, ÐT: 819698.

+ Trung tâm Y tế huyện Diên Khánh: ÐT: 751539.

+ Trung tâm Y tế thị xã Cam Ranh: 196 Nguyễn Trọng Kỷ, thị xã Cam Ranh, ÐT: 952668.

+ Trung tâm Y tế huyện Ninh Hòa: ÐT: 632642.

Cả năm trung tâm nêu trên đều phục vụ tư vấn và xét nghiệm miễm phí cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Phục vụ từ thứ 2 - 6 trong giờ hành chính.          

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#7 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:26:08(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Theo nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Trường ĐH Miami, Mỹ, các bệnh nhân HIV có thể dùng viên bổ sung selen - một khoáng tố chống oxy hóa - mỗi ngày để giảm virus HIV trong máu.

Nghiên cứu - được đăng tải trên tài liệu y học nội khoa Mỹ - cho biết những bệnh nhân HIV dùng 200 microgram selen mỗi ngày có thể giảm được trung bình 12% lượng virus này trong máu.

Selen là một khoáng tố có trong đất có thể được các loại cây trồng hấp thu. Trâu bò và các động vật khác cũng có thể hấp thu selen khi chúng ăn cỏ ở vùng đất có selen.

Các nghiên cứu trước đây cho thấy có mối liên quan giữa sự thiếu hụt selen và bệnh tim, sự giảm hoạt động của tuyến giáp và hệ miễn dịch suy yếu. Các nghiên cứu khác cũng phát hiện khoáng tố này có tác dụng kiềm hãm sự tái tạo của virus HIV trong phòng thí nghiệm và một số bệnh nhân HIV cho thấy có lượng selen thấp hơn bình thường

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#8 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:26:47(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Thuốc chống HIV mới từ tảo

Các nhà khoa học Brazil vừa phát triển một loại thuốc chống HIV mới dưới dạng gel được chiết xuất từ một loại tảo được tìm thấy ở bờ biển Brazil.

Theo nhà nghiên cứu miễn dịch Luiz Castello Branco, điều phối viên dự án nghiên cứu và sản xuất loại thuốc nói trên, kết quả kiểm tra giai đoạn đầu cho thấy thuốc này có khả năng ngăn HIV lây qua đường tình dục đến 95%.

Các nghiên cứu được thực hiện tại châu Phi cũng cho thấy loại thuốc này đạt hiệu quả 30%, có thể giúp giảm khoảng 40% các ca nhiễm HIV/AIDS.

Branco cho biết giai đoạn hai của cuộc thử nghiệm sẽ được tiến hành ở chuột và các tế bào sống từ cổ tử cung vào tháng 2-2007. Nếu thành công, các thử nghiệm ở người sẽ được thực hiện trong vài tháng sau đó.

"Chúng tôi chắc chắn sản phẩm cuối cùng sẽ cho hiệu quả trên 50%", Branco nói. Theo tờ Folha de Sao Paulo, loại thuốc này có thể được đưa ra thị trường trong vòng 7 năm tới.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#9 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:27:31(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Trẻ cắn nhau không làm lây HIV

Hầu hết phụ huynh có con học mẫu giáo đều lo rằng việc trẻ học cùng các em bé nhiễm HIV sẽ có thể dẫn đến lây bệnh nếu cắn nhau gây chảy máu. Tuy nhiên, các chuyên gia y tế cho biết, khả năng lây bệnh qua đường này gần như bằng không.

Tiến sĩ Nguyễn Huy Nga, nguyên cục trưởng Cục phòng chống HIV/AIDS Bộ Y tế, khẳng định: về mặt lý thuyết, HIV có thể lây qua việc tiếp xúc với các dịch sinh học trong cơ thể người bệnh. Do đó, nhiều người sợ rằng việc trẻ cắn nhau có thể làm lây virus này từ nước bọt, nhất là khi làm chảy máu. Tuy nhiên, đến nay, thế giới chưa hề ghi nhận một trường hợp nào lây nhiễm do hôn nhau hay cắn nhau.

"HIV không quá dễ lây như người ta tưởng" - bác sĩ Phạm Nguyên Bằng, Chương trình phòng chống HIV/AIDS thuộc Quỹ dân số Liên Hợp Quốc, nói. Theo ông, khả năng lây nhiễm HIV khi trẻ cắn nhau gần như bằng không. Giả dụ như trẻ cắn nhau đến mức chảy máu thì có hai khả năng xảy ra.

Thứ nhất, trẻ khỏe mạnh cắn trẻ nhiễm HIV: Máu của trẻ nhiễm HIV nếu dây vào miệng em bé khỏe mạnh thì cũng chỉ lượng rất ít, không đủ làm lây bệnh ngay cả khi miệng có xây xát. Mặt khác, virus cũng bị nước bọt tiêu diệt và nếu trẻ nuốt máu đó xuống dạ dày thì đến lượt dịch vị cũng làm chết virus.

Thứ hai, trẻ nhiễm HIV cắn trẻ khỏe mạnh: Trong nước bọt của người nhiễm HIV cũng có virus này nhưng với một lượng rất nhỏ, không thể gây lây nhiễm. "Các nhà khoa học đã tính rằng, để đủ lượng virus HIV để làm lây bệnh thì phải cần đến 2 lít nước bọt" - bác sĩ Nguyên Bằng nói. Nếu em bé bị cắn chảy máu, dòng máu chảy ra cũng có xu hướng đẩy nước bọt có virus và chảy tiếp ra ngoài chứ không hút vào bên trong. Trường hợp em bé nhiễm HIV bị chảy máu chân răng và máu dính vào vết thương của bé kia cũng vậy.

Cũng như ông Huy Nga, bác sĩ Bằng khẳng định trên thế giới chưa từng có người nào lây nhiễm HIV qua việc cắn nhau, dù đây là hành vi thường tình của các em bé tuổi nhà trẻ, mẫu giáo ở khắp năm châu.

Có nên lập trường riêng cho trẻ nhiễm HIV?

Tiến sĩ Nguyễn Huy Nga cho biết, câu hỏi này cũng được đặt ra khi Luật Phòng chống HIV/AIDS được trình ra Quốc hội. Tuy nhiên, sau khi nghe các chuyên gia y tế trong nước và quốc tế trình bày, các đại biểu đã nhất trí thông qua Luật, với nội dung không phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong cả chuyện học hành.

"Trên thế giới không hề có nước nào lập trường học riêng cho trẻ nhiễm HIV, ngay cả ở châu Phi nơi dịch bệnh hoành hành ghê gớm nhất" - ông Nga nói. Ở các nước phương Tây, nơi y học phát triển và việc bảo vệ an toàn sức khỏe cộng đồng rất được coi trọng cũng vậy. Do đó, việc Việt Nam để trẻ HIV học chung trường với trẻ khác không phải duy ý chí, mà dựa trên cơ sở khoa học.

Còn bác sĩ Bằng cho rằng, việc lập trường riêng cho trẻ nhiễm HIV chẳng những không cần thiết mà còn có hại. Nó làm tăng sự kỳ thị với người nhiễm HIV - một trong những nguyên nhân khiến bệnh lan tràn do bệnh nhân giấu giếm, không điều trị và công khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Mặt khác, giải pháp này cũng không khả thi. Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 2.500-2.800 trẻ sinh ra nhiễm HIV, nhưng các bé không ở tập trung mà rải rác trên khắp cả nước. Không ngân sách quốc gia nào có thể chi trả cho việc xây dựng cở sở giáo dục riêng cho các cháu.

Theo bác sĩ Bằng, thay vì tách riêng trẻ nhiễm HIV, giáo viên các trường mầm non cần quan tâm theo dõi các cháu và chăm sóc đúng cách. Theo quy tắc y tế, bất kỳ ai bị thương chảy máu thì người xử lý cũng cần đeo găng tay, vì không ai biết máu đó có mầm bệnh hay không, tránh để cháu khác chạm vào. Nếu làm vậy thì các cháu vẫn được an toàn cho dù tình trạng sức khỏe của trẻ nhiễm HIV không được tiết lộ. Còn với những vết thương do trẻ cắn nhau, cần rửa sạch, sát trùng.

Bác sĩ Nguyên Bằng cho rằng, cách thiết thực nhất để giảm lo lắng cho các phụ huynh có con đang học mẫu giáo là giải thích, tuyên truyền cho họ. "Chúng tôi từng giải quyết một vụ "biểu tình" dữ dội của phụ huynh một trường tiểu học ở Tiền Giang, khi họ biết có một cháu bé nhiễm HIV được nhận vào lớp 1 ở đó" - ông Bằng kể. Các cán bộ chương trình phòng chống HIV/AIDS đã mời đại diện chính quyền, các sở giáo dục, y tế đến gặp mặt phụ huynh, và mời chuyên gia nói chuyện. Kết quả là họ đã đồng ý để con mình học cùng với em bé đó.

Tiến sĩ Lê Nhân Tuấn, Giám đốc Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Hà Nội, cũng từng dàn xếp nhiều vụ phản đối tương tự của phụ huynh. Ông cho biết trong hầu hết các trường hợp, khi nghe giải thích rõ về cơ chế lây truyền của virus gây bệnh AIDS, các phụ huynh đều an tâm và không phản đối việc cho con mình học cùng với những em bé nhiễm bệnh nữa.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#10 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:28:00(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Nam Phi: Tuổi thọ trung bình giảm 13 năm do HIV/AIDS

Tuổi thọ trung bình của người dân Nam Phi đã giảm 13 năm so với thời điểm năm 1990, kết quả nghiên cứu của Hội đồng nghiên cứu y học và Hiệp hội bảo hiểm xã hội Nam Phi công bố ngày 12-12 cho biết.

Hiện tuổi thọ trung bình của người Nam Phi là 51 tuổi (49 tuổi ở nam giới, 53 tuổi ở nữ giới), giảm 13 năm so với mức 64 tuổi hồi năm 1990. Theo nghiên cứu trên, sự lây lan nhanh chóng căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS chính là nguyên nhân gây ra tình trạng này.

Nam Phi hiện đứng thứ 2 trên thế giới (sau Ấn Độ) về số người nhiễm HIV/AIDS với 5,5 triệu người nhiễm bệnh trên tổng số 47 triệu dân. Đặc biệt thời gian gần đây, số nữ giới trong độ tuổi 15 đến 24 nhiễm HIV/AIDS ở Nam Phi đã tăng mạnh. Riêng trong năm 2006 đã có tới 160.000 ca mới nhiễm và con số này vẫn tiếp tục tăng ngay cả khi người dân Nam Phi đã có ý thức áp dụng các biện pháp an toàn.

Bản nghiên cứu cũng cảnh báo, nếu chính phủ không triển khai các biện pháp hữu hiệu nhằm tuyên truyền phòng chống và điều trị cho những người mắc HIV/AIDS, tuổi thọ trung bình của người Nam Phi sẽ chỉ còn khoảng 45 tuổi vào năm 2015

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#11 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:28:37(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

2010: 350.000 người nhiễm HIV/AIDS

Đó là thông báo từ phía Bộ Y tế trong Hội nghị Quản lý và sử dụng nguồn viện trợ nước ngoài cho phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam được tổ chức sáng nay.

Ông Dương Quốc Trọng, Cục trưởng Cục phòng chống HIV/AIDS cho biết: Để đáp ứng với đại dịch HIV/AIDS, Việt Nam đã ban hành chiến lược quốc gia phòng chống HIV/ AIDS và nhiều chương trình xã hội khác. Ngân sách phòng chống  HIV/ AIDS đầu tư trong năm 2006 là 82 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài Chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế đa phương…

Theo thống kê của Bộ Y tế, tổng kinh phí các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho công tác phòng chống HIV/ AIDS kể từ năm 1999 đến nay là 134,5 triệu USD. Các dự án do các tổ chức quốc tế hỗ trợ đã giúp Việt Nam nâng cấp năng lực quản lý, hoạch định về chính sách phòng chống HIV/ AIDS, cung cấp bao cao su, tư vấn xét nghiệm tự nguyện v.v..

Tuy nhiên, với tổng các nguồn ngân sách trong và ngoài nước cho công tác phòng chống HIV/ AIDS ở Việt Nam thì cũng chỉ đạt 40% nhu cầu mỗi năm cho hoạt động này.

Được biết, tổng nhu cầu kinh phí cho phòng chống HIV/AIDS trong giai đoạn 2006- 2010 là 594 triệu USD. Ngân sách Nhà nước và các nguồn hỗ trợ quốc tế đã cam kết cho giai đoạn này khoảng gần 200 triệu USD. Tổng kính phí còn thiếu hụt là gần 400 USD

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#12 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:29:20(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Một nghiên cứu mới đây cho thấy, những người Mỹ đã được chẩn đoán nhiễm virus HIV có thể sống thêm khoảng 1/4 thế kỷ và chi phí cho chăm sóc sức khỏe tốn gần 25.000 USD mỗi năm.

Theo nghiên cứu trên, tỷ lệ sống và chi phí chăm sóc sức khỏe ở người nhiễm HIV cao hơn so với ước tính ban đầu của các chuyên gia. Bruce Schackman, chuyên gia y tế công cộng thuộc Đại học Y Weill Cornell (Mỹ), cho biết, thông tin mới này đã cập nhật thêm cho báo cáo năm 1993, theo đó người bị nhiễm HIV chỉ sống thêm khoảng 10 năm.

Kết quả trên được đưa ra dựa trên việc phân tích hồ sơ sức khỏe của khoảng 7.000 người nhiễm HIV đang được điều trị tại 18 phòng khám trên khắp nước Mỹ.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#13 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:29:58(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Việt Nam sẽ sản xuất thuốc điều trị HIV/AIDS

Ngoài ra, mới chỉ có 40 điểm cung cấp thuốc điều trị cho bệnh nhân AIDS ở 20 tỉnh thuộc dự án phòng chống HIV/AIDS do Quỹ toàn cầu tài trợ.

 Trước tình hình này, ông Dương Quốc Trọng - Cục trưởng Cục phòng chống HIV/AIDS - cho biết: "Hiện Bộ Y tế đang tiến hành đàm phán để có thể nhận được sự cho phép của Tổ chức Y tế thế giới trong việc sản xuất thuốc điều trị HIV/AIDS trong nước với mục tiêu để 70% bệnh nhân sẽ có thuốc điều trị vào năm 2010 với giá 1USD/ngày.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#14 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:30:35(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Những 'đặc nhiệm AIDS'

Với tấm lòng của người tình nguyện, họ luôn gần gũi với những con người đang ngấp nghé cái chết, mang niềm tin cho những tâm hồn đang tuyệt vọng. Họ là các cán bộ tham vấn cộng đồng.

Buổi sáng, tại Trung tâm tham vấn và hỗ trợ cộng đồng quận 2, TP HCM, luôn có hơn 20 thanh niên chờ đợi. Chưa đến giờ mở cửa, họ tranh thủ hỏi thăm nhau về bệnh tình, thuốc men, gia cảnh, việc làm... Chị Hòa, nhà ở quận Gò Vấp, nói: “Mấy anh ở đây hay lắm, họ cho tôi uống thuốc bốn tháng rồi, cái con CD4 (chỉ số sức khỏe của hệ miễn dịch) của tôi hồi mới khám chỉ còn có ba con, vậy mà bây giờ có tới 153 con”. Chị Hòa kể trước đây do gia đình đổ vỡ nên sa đà nghiện ngập rồi nhiễm HIV/AIDS...

Ngồi bên cạnh là một chàng trai, đang rất hoang mang do tháng trước quan hệ tình dục không an toàn với một bạn tình mới. Chỉ sau nửa giờ trò chuyện với tham vấn viên, chàng trai đã lấp được nhiều lỗ hổng kiến thức và bình tĩnh cho lấy máu xét nghiệm.

Các tham vấn viên không chỉ chờ người nhiễm HIV tìm đến mà còn thành lập nhiều “tổ đặc nhiệm” đi xuống tận nhà để xoa dịu nỗi đau. Tổ đặc nhiệm ở Trung tâm tham vấn cộng đồng quận Bình Thạnh chỉ có 4 thành viên, nhưng có đến hơn 150 “khách hàng” cần chăm sóc.

Chị Hồng và anh Hiền, tham vấn viên ở phường 28, thường tới thăm một chàng trai trẻ. Anh gầy xác xơ, ăn từng muỗng cháo một cách khó nhọc, nước mắt chảy dài. Anh Hiền vừa đút từng muỗng cháo vừa dỗ ngọt: “Ráng ăn đi, ăn giúp anh vài muỗng nữa nghe”. Còn chị Hồng ngồi cạnh chăm sóc từng mảng da lở loét của người bệnh.

Đa số trung tâm tham vấn tại các quận đều mở cửa tới 20h. Anh Nguyễn Hùng Dũng, tham vấn viên quận 4, giải thích: “Đó cũng là cách để giảm tâm lý mặc cảm cho người bệnh. Rất nhiều người ngại đến đây vào ban ngày”.

Tại Trung tâm tham vấn cộng đồng Bình Thạnh, một trong những nơi đông khách nhất, thậm chí không có giờ nghỉ trưa, bác sĩ Sơn tâm sự: “Áp lực công việc tăng cao nên rất dễ xảy ra tai nạn nghề nghiệp”. Vừa qua, chị Thu - một tham vấn viên ở quận 2 - trong lúc lấy mẫu máu xét nghiệm đã bị mũi kim dính máu quệt vào tay.

Theo bác sĩ Liêm (quận Bình Thạnh), kinh nghiệm qua tiếp xúc thì sau khi tư vấn tâm lý, hầu hết người bệnh đều bình tâm trở lại vì đã hiểu những vấn đề về sức khỏe và tập trung điều trị. Đa số bệnh nhân tìm đến luôn có nhu cầu được khóc, được vỗ về và được mở một lối đi. Và các tham vấn viên phải luôn lắng nghe và thấu hiểu.

“Những phận đời khốn cùng, niềm tin về sự sống đã thúc giục chúng tôi tìm đến người nhiễm HIV/AIDS”, bác sĩ Võ ở Trung tâm tham vấn quận 2 tâm sự. Chính vì thế, một số người bệnh rất ngạc nhiên khi thấy chị Thu và các đồng nghiệp không ngại ẵm bồng, đôi khi còn móc tiền túi của mình hỗ trợ những bệnh nhân nghèo, khi thì bữa cơm lỡ độ đường, khi là tấm vé xe mang niềm tin cuộc sống trở về quê..

“Có người bệnh lúc mới đến đây suy kiệt và tuyệt vọng lắm. Tôi biết ngoài bệnh ra họ còn có những khó khăn trong cuộc sống nên quyết đi tìm, mới biết nhà của người bệnh chỉ là một tấm ván vắt ngang hai nấm mộ", chị Thu vừa kể, vừa chảy nước mắt

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#15 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:31:11(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

110.000 người Việt Nam nhiễm HIV

Việt Nam hiện có khoảng 111.000 người nhiễm HIV, trong đó hơn 18.000 người chuyển sang giai đoạn AIDS, khoảng 10.000 người đã tử vong là con số đáng báo động liên quan đến căn bệnh thế kỷ ở nước ta.

Các con số này được đưa ra tại Hội thảo chương trình "Lãnh đạo hướng tới kết quả trong phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam" do Ban khoa Giáo TƯ, Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP phối hợp với Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Lạng Sơn tổ chức vừa kết thúc chiều ngày 15-9.

Nằm trong chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, chương trình "Lãnh đạo hướng tới kết quả trong phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam" được triển khai tại 3 tỉnh An Giang, Khánh Hoà và Lạng Sơn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện của các cấp uỷ chính quyền, cơ quan đoàn thể...

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#16 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:31:59(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Nhiều phương pháp hứa hẹn có thể chống lại HIV

Thứ 2 vừa qua, các chuyên gia tại Hội nghị toàn cầu về bệnh AIDS cho biết việc cắt bao quy đầu và dịch âm đạo cản trở virút HIV có thể cách mạng hoá chiến dịch dọn đường trong ngăn ngừa sự lây lan HIV.

Ngoài ra còn có các vũ khí lợi hại khác có thể được triển khai trong cuộc chiến chống lại virút làm suy giảm miễn dịch ở người (HIV) trong 1 đến 5 năm nếu chúng cơ bản vượt qua được một trong những trở ngại đầu tiên. 

Helene Gayle, đồng chủ tịch của Tổ chức phòng chống HIV toàn cầu gồm 50 chuyên gia hàng đầu đã soạn bản báo cáo này cho hay: “Từ rất sớm, chúng tôi đã có thể có nhiều biện pháp mới, hiệu quả cao để ngăn ngừa 4 triệu ca nhiễm mới mỗi năm”.

Hàng triệu ca nhiễm mới mỗi năm

Gần 39 triệu người đang sống chung với AIDS. Năm ngoái 4,1 triệu ca nhiễm mới và chưa có cách nào chữa được mà chỉ có một số loại thuốc kìm hãm được virút ở mức có thể kiểm soát được. Nghiên cứu về một loại vaccine cũng chưa cho thấy kết quả khả quan nào. Các biện pháp phòng tránh hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào bao cao su và “kiêng” quan hệ tình dục..

Hứa hẹn những phương pháp mới 

Nhóm các nhà nghiên cứu này với sự giúp đỡ của mạnh thường quân Bill Gates và vợ ông, Melinda Gates đã giới thiệu 6 phương pháp phòng ngừa đầy hứa hẹn:

Cắt bao quy đầu: bằng chứng cho thấy cắt bao quy đầu có thể bảo vệ nam giới chống lại HIV khi quan hệ tình dục mặc dù lý do chính xác tại sao lại như vậy vẫn chưa rõ ràng.

Dùng phim ngừa thai đặt trong âm đạo: lớp phim mỏng này bảo vệ phần trên của âm đạo, nơi thành mô rất mỏng và dễ tổn thương tạo điều kiện cho HIV vào trong máu khi quan hệ tình dục.

Uống thuốc ngăn chặn HIV hàng ngày để làm giảm lượng virut này lây từ bạn tình.

Trị bệnh mụn giộp: vì loại virút này xâm nhập dễ dàng vào vùng da bị tổn thương để vào đường máu. Nó làm tăng thêm nguy cơ mắc phải mầm bệnh AIDS.

Dịch diệt tinh trùng mà phụ nữ có thể đặt trong âm đạo: giúp ngăn chặn và diệt HIV trong tinh dịch. 5 loại dịch đang được thử nghiệm ở người để kiểm tra xem liệu chúng có an toàn và hiệu quả khi sử dụng hay không. Loại dẫn đầu có tên gọi Carraguard sẽ kết thúc thử nghiệm vào tháng 12 năm 2007, nếu tốt, sẽ được bán ra thị trường vào năm 2009.

Vaccine ngừa HIV, vẫn còn đang làm đau đầu các nhà khoa học, và còn phải nhiều năm nữa mới có thể thực hiện được.

Một rủi ro của 6 phương pháp trên đó là có thể gây ra sự chủ quan khiến người ta quan hệ tình dục không an toàn.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#17 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:32:29(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Mỗi năm có thêm 4 triệu bệnh nhân AIDS

Hội nghị toàn cầu lớn nhất về AIDS lần thứ 16 đang diễn ra tại Toronto (Canada) từ ngày 13 đến 18-8, với sự tham gia của 24.000 người đến từ hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Phát biểu tại phiên khai mạc hội nghị, người đứng đầu Chương trình HIV/AIDS của Liên Hiệp Quốc -  tiến sĩ Peter Piot - cho biết sau 25 năm kể từ khi bệnh AIDS xuất hiện, thế giới cần phải chuyển đổi từ cách thức phản ứng "đối phó" với căn bệnh thế kỷ sang hình thức phòng chống lâu dài; điều này đồng nghĩa với việc phải bảo đảm khả năng cung cấp thuốc chữa bệnh AIDS cho hàng triệu người nghèo trong vòng 30-40 năm tới.

Hiện có khoảng năm triệu bệnh nhân AIDS cần thuốc điều trị, trong khi trung bình mỗi năm có thêm bốn triệu người nhiễm bệnh. Mục tiêu chính của nhóm các nước công nghiệp phát triển (G8) là đến năm 2010, thế giới có khả năng cung cấp thuốc cho tất cả bệnh nhân AIDS.

TS Piot kêu gọi chính phủ các nước trên thế giới tăng cường nỗ lực đặc biệt phòng chống bệnh AIDS.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#18 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:33:25(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Hàng nghìn trẻ đường phố có thể nhiễm HIV

Trẻ đường phố dùng chung kim tiêm khi sử dụng ma túy, quan hệ tình dục không an toàn với nhiều người nhưng không biết rằng đó là con đường lây nhiễm HIV. Các em còn cho rằng, AIDS là bệnh của người lớn và có thể điều trị dễ dàng.

Trung tâm truyền thông sức khỏe TP HCM vừa thực hiện một cuộc khảo sát bằng cách phỏng vấn trực tiếp khoảng 400 trẻ em đường phố. Kết quả cho thấy, đa số các em đều không biết dùng chung kim tiêm khi sử dụng ma túy, quan hệ tình dục không an toàn với nhiều người là đối diện với nguy cơ bị lây nhiễm HIV. Thậm chí một số em còn cho rằng, AIDS là bệnh của người lớn và có thể điều trị dễ dàng.

"Mỗi trẻ đường phố đều có nguy cơ bị lây nhiễm hay có thể lây nhiễm HIV cho người khác", phó giám đốc Trung tâm truyền thông sức khỏe TP HCM Trương Trọng Hoàng đánh giá.

Trẻ đường phố rất dễ bị lây nhiễm HIV/AIDS vì không có thông tin, không có kiến thức về căn bệnh nguy hiểm này. Trong khi cuộc sống các em rất đơn độc, phải ngủ ngoài đường không ai bảo vệ, phải tự tìm kế mưu sinh nên rất dễ bị lôi kéo dụ dỗ sử dụng ma túy, bán thân để kiếm sống và thỏa mãn cơn ghiền. Các em không đủ khả năng tự bảo vệ để tránh khỏi nguy cơ bị lây nhiễm HIV, ông Hoàng giải thích.

Theo thống kê của Bộ Y tế, cả nước hiện có khoảng 8.500 trẻ em bị nhiễm HIV, đại đa số là trẻ em đường phố. Đây là các trẻ dưới 16 tuổi kiếm sống bằng nhiều cách khác nhau như ăn xin, lượm rác, bán báo, bán vé số, đánh giày, bán hàng rong, làm thuê, trộm cắp, móc túi, bán dâm... Chỉ riêng tại TP HCM có hơn 10.000 trẻ có nguy cơ lây nhiễm vì cuộc sống không an toàn.

"Vì tin vào lời rủ rê nên em mới bị nghiện. Để có tiền thỏa mãn cơn ghiền chuyện gì em cũng làm kể cả đi khách. Khách ta cũng có, khách tây cũng có. Khách muốn sao cũng chiều miễn có tiền", một trẻ nam kể hoàn cảnh dẫn tới con đường nghiện rồi nhiễm HIV của mình. 

"Có tiền mua được hàng rồi nhiều khi không dám tới nhà thuốc mua ống chích mà phải lượm ống cũ xài lại. Tụi em thường hùn tiền mua hàng rồi chơi chung với nhau. Tới giờ em mới biết mình đã bị AIDS nhưng cũng hỏng dám nói cho mấy đứa kia biết...", cậu bé nói.

Một số trẻ được các anh chị giáo dục viên hướng dẫn là phải yêu cầu khách dùng bao cao su để tránh lây bệnh cho nhau. Nhưng khi khách không chịu, nhất là khách Tây các em cũng không dám từ chối vì cuộc sống.

Tuy nhiên, các em làm công việc này đều cho rằng, chỉ phải cảnh giác với người lạ chứ không cần cảnh giác với người quen, nhất là "bồ" của nhau. "Khách là khách còn bồ là bồ, khác nhau mà. Hai đứa thương nhau thì dù cho có quan hệ cũng làm gì có bệnh", một em hồn nhiên nói lên suy nghĩ của mình.

Ông Hoàng kể thực tế cho thấy nhiều hoàn cảnh rất đau lòng. Nhiều trẻ biết mình mắc bệnh ở bộ phận sinh dục nhưng không dám đi khám. Có một số em khi biết bộ phận sinh dục có mủ cũng chỉ tự mua thuốc uống hay tới trạm y tế để khám. Phần đông các em không làm gì cả. Vì thế có trẻ bị nhiễm HIV phát bệnh nhưng không nơi nương tựa nên phải ở gầm cầu, xó chợ cho đến chết.

Kiến thức về HIV của trẻ đường phố rất hạn chế. Có đến 20% trên 400 trẻ được hỏi khẳng định AIDS là bệnh của người lớn, trẻ em không bị bệnh AIDS. Các em này cũng cho rằng, bác sĩ nhìn bề ngoài sẽ biết ngay người nào mắc bệnh người nào không và bệnh có thể chữa được... Một số ít trẻ biết về AIDS lại kể không dám ở chung nhóm, không dám tiếp xúc với bạn bị nhiễm HIV...và khẳng định HIV có thể lây qua hắt hơi, uống chung ly nước hoặc bắt tay...

"Điều này cho thấy, hàng nghìn trẻ có nguy cơ nhiễm HIV bất kỳ lúc nào nhưng chưa được quan tâm đúng mức", ông Hoàng kết luận.

Cũng theo ông Hoàng, mặc dù có nhiều dự án và cơ sở chăm sóc dành cho trẻ em đường phố nhưng những hoạt động cụ thể để phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS vẫn còn tản mạn. Những thông tin, các cuộc thi tìm hiểu về HIV/AIDS mới chỉ tác động đến các nhóm trẻ sống trong các mái ấm nhà mở. Còn các trẻ lang thang trên đường phố, đối tượng thật sự đang tiếp xúc với các nguy cơ vẫn chưa tiếp xúc được với các thông tin này.

Mặt khác, ông Hoàng cho rằng giáo dục viên đường phố vẫn còn thụ động với công tác này. Họ khá e ngại khi phải đối diện với trẻ có nguy cơ bị nhiễm hay đã nhiễm HIV. Và việc nhận chăm sóc trẻ đường phố bị nhiễm HIV cũng chỉ là những tấm lòng hảo tâm của một vài cá nhân chứ chưa có chính sách dành cho đối tượng này. Có một số điểm khám sức khỏe miễn phí nhưng chưa phát huy tác dụng, hoạt động không liên tục, nhân viên y tế không thân thiện...

Không được thông tin, không có kiến thức về HIV/AIDS, trẻ đường phố không có khả năng cũng như không có cơ hội tự bảo vệ bản thân và cộng đồng tránh khỏi sự lây nhiễm. "Điều đó có nghĩa rằng có hàng chục nghìn dân số đã và có thể bị nhiễm HIV/AIDS bất kỳ lúc nào nhưng chưa được quan tâm ", ông Hoàng cảnh báo

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#19 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:34:12(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Mọi người dân đều nên tư vấn, xét nghiệm HIV

"Không chỉ người dùng ma túy hay mua bán dâm mới nhiễm HIV, nguy cơ này có ở tất cả những người có quan hệ tình dục hay tiêm truyền. Vì vậy, mọi người đều nên đi tư vấn HIV, và xét nghiệm nếu cần thiết" - Cục trưởng Phòng chống HIV/AIDS Nguyễn Huy Nga nói.

Phòng tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện miễn phí đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2002, hiện đã có 53 điểm đặt tại 40 tỉnh thành. Tuy vậy, trong 4 năm qua vẫn chỉ có hơn 88.000 người tìm đến. Đây chỉ là một phần nhỏ trong số những người có hành vi nguy cơ cao (tiêm chích ma túy, truyền máu hay chữa răng không an toàn, có nhiều hơn một bạn tình...).

Ông John Bordman, Phó đại sứ Mỹ tại Việt Nam cho biết, năm 2006, Chính phủ Mỹ sẽ tài trợ 34 triệu USD cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam.

Trong khi đó, theo ông Nguyễn Huy Nga, việc tư vấn HIV là cần thiết cho tất cả mọi người, không chỉ cho mình mà cho cả người thân vì không ai có thể chắc chắn gia đình mình không bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Trên thực tế, người ta đang có xu hướng đánh giá thấp về nguy cơ HIV của bản thân và gia đình và do đó cảm thấy không cần tư vấn hay xét nghiệm. Trong số các bà mẹ có con nhiễm HIV tại Bệnh viện Nhi trung ương, tới 60% chỉ biết mình có virus này khi kết quả xét nghiệm của con là dương tính. "Do đó, đừng nghĩ rằng phòng tư vấn xét nghiệm HIV chỉ dành cho những người thuộc nhóm nguy cơ cao" - ông Nga nói.

Mọi người ngại đến phòng tư vấn xét nghiệm HIV còn vì sợ rằng đến đây có nghĩa là đã "làm gì xấu để bị lây". Thực ra, phòng tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện được lập ra cho tất cả những ai quan tâm đến HIV/AIDS. Ông Nga cho biết, có thể đến đây để được tư vấn về những hành vi có thể dẫn đến lây nhiễm, cách phòng chống; nếu lo lắng rằng mình đã có một hành vi không an toàn thì làm xét nghiệm. Theo ông Nga, mọi người nên coi việc tư vấn, xét nghiệm HIV như là các hoạt động chăm sóc sức khỏe bình thường khác để dẹp bỏ thành kiến và cảm giác ngại ngần.

Theo ông Phạm Lê Tuấn, Phó giám đốc Sở Y tế Hà Nội, các phòng tư vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện ít khách là do người dân chưa biết nhiều về nó. Gần đây, Sở đã phối hợp với Tổ chức Dịch vụ dân số quốc tế (PSI) lắp đặt hàng loạt pano, biển quảng cáo, áp phích và đề can trên các đường phố, nhà chờ xe buýt, nơi công cộng. Kết quả là chỉ chưa đầy 1 tháng, lượng khách đến các trung tâm tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyên đã tăng gấp rưỡi. Có tới 60% số khách hàng trong tháng 5 nói rằng họ biết đến dịch vụ này là do thông tin từ các pano và áp phích.

Để người dân biết nhiều hơn về sự có mặt và tầm quan trọng của các phòng tư vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện, Bộ Y tế và Tổ chức Dịch vụ dân số quốc tế vừa mở một chiến dịch truyền thông quảng bá cho dịch vụ này. Một phòng tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện miễn phí nữa được khai trương sáng nay tại số 2 phố Trúc Bạch, Hà Nội. Cũng như ở các trung tâm khác, nguyên tắc của cơ sở này là đảm bảo bí mật cho khách hàng. Họ không phải cung cấp tên, địa chỉ hay bất cứ thông tin cá nhân nào khác mà sẽ có một mã số để nhận kết quả xét nghiệm (chỉ được thông báo trực tiếp với chính khách hàng đó).

Nếu kết quả dương tính, họ sẽ được tư vấn về cách điều trị, cách giảm nguy cơ lây nhiễm cho người khác và giới thiệu đến các dịch vụ hỗ trợ như chăm sóc y tế định kỳ, điều trị nhiễm trùng cơ hội, điều trị bằng thuốc kháng virus. Nếu kết quả âm tính, khách hàng sẽ được hướng dẫn cách giảm nguy cơ lây nhiễm HIV của bản thân, được giới thiệu đến những dịch vụ như tư vấn sức khỏe sinh sản, cai nghiện, khám chữa bệnh lây truyền qua đường tình dục... nhằm duy trì cuộc sống khỏe mạnh.

Trong số 88.460 khách hàng đã đến các phòng tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện ở Việt Nam:

- 92% quyết định làm xét nghiệm HIV.

- Gần 93% số khách hàng xét nghiệm đã đến nhận kết quả và tư vấn lần 2, trong đó có 17% có kết quả dương tính.

- 92% số khách hàng có kết quả HIV dương tính được chuyển tiếp đến dịch vụ liên quan, 67% được chuyển tiếp tới phòng khám ngoại trú

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Offline anhnamhn_anhnamhn  
#20 Đã gửi : 26/02/2007 lúc 05:35:00(UTC)
anhnamhn_anhnamhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 13-05-2006(UTC)
Bài viết: 176
Đến từ: hanoi

Mỹ hỗ trợ VN phòng chống cúm, HIV

VN là 1 trong 15 nước trọng tâm thuộc Kế hoạch Cứu trợ AIDS Khẩn cấp của Tổng thống Mỹ (PEPFAR). Trợ giúp của Mỹ bao gồm cả giúp đỡ song phương lẫn đa phương, thông qua quỹ Global Fund của Tổ chức y tế thế giới (WHO).

Trong tài khóa 2006, VN nhận trên 34 triệu USD từ PEPFAR. Dự kiến 59 triệu USD khác cũng sẽ được chuyển cho VN trong năm tài khóa 2007.

Mới đây, Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Con người Mỹ Mike Leavitt và Bộ trưởng Y tế VN Trần Thị Trung Chiến cũng đã ký hiệp định tiếp tục hợp tác về các vấn đề y tế, bao gồm các bệnh dịch đang phát triển, cúm gia cầm và HIV/AIDS.

Hiệp định bao gồm việc trao đổi các kiến thức chuyên môn và xây dựng những kế hoạch phản ứng nhanh dành cho VN. Hiệp định cũng khuyến khích và tạo điều kiện cho việc xây dựng các mối quan hệ trực tiếp, cũng như sự hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, trường đại học, trung tâm nghiên cứu, viện, công ty tư nhân và pháp nhân khác.

vong xe lan banh dua nguoi di khuat xa noi cuoi duong minh anh dung nang thinh khoc thuong cho tinh ta lam sao quen duoc em lam sao co the quen bao nhieu yeu thuong jio tan vo jio ko biet em di ve tren chuyen xe cuoi cung minh anh dung ngan ngo khoc thuo
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
2 Trang12>
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.