ND - Thời gian gần đây, công tác dân số - sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình tại thị xã Bến Tre đã được cải thiện khá rõ nét, song, vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập.
Theo kết quả điều tra "Phân tích tình hình giới tại tỉnh Bến Tre" (tháng 7-2007) của Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, thời gian gần đây, công tác dân số - sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình (DS-SKSS-KHHGÐ) tại thị xã Bến Tre đã được cải thiện khá rõ nét trên các góc độ: truyền thông tư vấn, giảm sinh, nâng cao chất lượng dân số, sử dụng các biện pháp tránh thai (BPTT), nhận thức về chăm sóc SKSS... Song, vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập.
Bất cập đầu tiên có thể thấy là: mức độ tiếp cận các hoạt động truyền thông tư vấn về HIV/AIDS, các bệnh lây nhiễm qua đường sinh sản cho người dân trên địa bàn còn chưa cao, nhất là nam giới. Qua số liệu nghiên cứu cho thấy: chỉ có 33,5% số nam giới được tiếp cận thông tin về HIV/AIDS, trong đó 3,1% trả lời cả vợ và chồng được tiếp cận.
Không chỉ có vậy, mức độ hiểu biết về bệnh HIV/AIDS và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục của người dân còn quá thấp. Rất ít người biết từ ba căn bệnh trở lên liên quan đến HIV/AIDS và lây nhiễm qua đường sinh sản. Ðây là bất cập lớn khi đại dịch HIV/AIDS rất nguy hiểm, đang đe dọa tất cả mọi người, mọi gia đình và cộng đồng xã hội.
Bất cập thứ hai: phụ nữ là lực lượng chủ yếu tham gia thực hiện các BPTT. Theo số liệu khảo sát, có 71,5% các BPTT được thực hiện ở người vợ, 28,5% ở nam giới, trong đó biện pháp sử dụng bao cao-su là 16% (năm 2005 là 5,9%), triệt sản là 0% (năm 2000 là 0,5%), xuất tinh ra ngoài là 12,5%.
Bên cạnh đó, các BPTT cho phụ nữ như cấy dưới da, thuốc tiêm tránh thai, uống viên tránh thai chưa được quan tâm thỏa đáng. Tỷ lệ phụ nữ thực hiện các BPTT cao gấp ba lần so với nam giới (71,5% và 28,5%). Ðiều này cho thấy, cần phải tăng cường vận động nam giới nhìn nhận về vấn đề này đúng đắn hơn. Ðồng thời, cần có những dịch vụ KHHGÐ/SKSS cho nam giới, tăng cường đội ngũ tư vấn, cộng tác viên dân số nam.
Sự bất cập lớn nhất là sự khác nhau trong trình độ học vấn và điều kiện kinh tế gia đình, ảnh hưởng lớn tới nhận thức đúng đắn về kiến thức DS-KHHGÐ và SKSS. Những phụ nữ có số năm đến trường nhiều, có nhận thức tốt hơn so với người ít học. Thường họ đi khám và sử dụng các BPTT đầy đủ hơn. Số người học vấn cấp tiểu học khẳng định nam giới dùng bao cao-su để chia sẻ trách nhiệm vơi phụ nữ trong việc thực hiện KHHGÐ là 10%; thì người học vấn cấp THCS là 13,5% và tăng lên 22,7% đối với người học vấn cấp THPT.
Ðiều kiện sống cũng có vai trò tác động không nhỏ đến khả năng tiếp cận, mức độ bình đẳng giới trong nhận thức hành vi về DS-KHHGÐ và SKSS. Những phụ nữ nghèo thường ít tiếp cận với các BPTT, do đó họ không thể quyết định số con và khoảng cách mỗi lần sinh. Ở những gia đình nghèo đói thì người vợ luôn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc áp dụng BPTT. Trong khi ở các gia đình có điều kiện khá, số nam giới chia sẻ trách nhiệm là 12,5%.
Qua cuộc điều tra, có thể thấy công tác truyền thông về bình đẳng giới trong lĩnh vực DS-KHHGÐ và SKSS ở Bến Tre cần tập trung, cân bằng cho cả hai phía nam và nữ. Cần tăng cường đội ngũ cộng tác viên dân số là nam, để họ tuyên truyền, tư vấn kiến thức, hành vi thực hiện đầy đủ hơn.
Trong hoạt động tuyên truyền, tư vấn và cung cấp các dịch vụ DS-KHHGÐ và SKSS cần chú ý đến những đặc thù về điều kiện của từng nhóm đối tượng cụ thể về học vấn, mức sống, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp... để đạt được hiệu quả cao nhất, để nữ giới thật sự được bình đẳng.