Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline na74  
#1 Đã gửi : 14/10/2010 lúc 08:59:11(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Bút ký người điều tra:

Từng là những kẻ cầm đầu các băng đầu gấu, vào tù vẫn còn
quậy phá nhưng khi về với đời thường, họ đã dốc hết khả năng của mình để
“góp mặt” với đời. Có người trở thành ông chủ thành đạt, có người an
phận với cơ ngơi mà mình làm ra, có người muốn cống hiến cả sức lực, trí tuệ của mình vào việc giữ gìn ANTT.

Kỳ 1: GẬP GHỀNH ĐƯỜNG HOÀN LƯƠNG


Đi đến đâu, từ bãi vàng, bãi đá đỏ, thậm chí ngay trong trại giam, Dũng
cũng là kẻ đầu trò. Làm trùm giang hồ, chủ bưởng, đại ca, đại bàng mãi
cũng chán, một ngày Dũng bỗng thay đổi khi bắt gặp khuôn mặt thánh thiện của một nữ phạm nhân.

CÚ VẤP ĐẦU ĐỜI

Người đàn ông đó tên thật là Lê Văn Dũng (SN 1960, ở Lạc Sơn, Phổ Yên,
Thái Nguyên). Đang học lớp 8, Dũng bỏ học theo chúng bạn vào đội thủy
lợi để “kiếm điểm”, lấy thóc. Năm 1978, trong một lần ham chơi bị bố
mắng, Dũng âm thầm viết đơn xin đi bộ đội và được chấp thuận. Sau ba
tháng huấn luyện, Dũng được bố trí về Trung đoàn 338 chiến đấu. Thấy
Dũng nhanh nhẹn, thông minh, mặt mũi sáng sủa, lãnh đạo đơn vị cho đi
học lớp tiểu đội trưởng ở cấp sư đoàn và chưa đầy hai năm sau, năm 1980,
anh được kết nạp Đảng, trở thành đảng viên trẻ tuổi nhất trung đoàn khi đó.


Được giao phụ trách nổ mìn các công trình nên Dũng thường xuyên là người
tiếp nhận mìn, thuốc nổ, trông coi khối tài sản đó cho đơn vị. Một vài
lần Dũng lấy thuốc nổ ra suối đánh cá. Khi kiểm kê, khối lượng thuốc nổ
hao hụt mất khoảng 200kg. Dũng bị khai trừ ra khỏi Đảng, một năm sau thì
ra quân. Dũng bắt đầu bươn chải với đủ nghề từ chăn vịt thuê, buôn quần
áo khắp các chợ vùng cao đến đi buôn trâu. Một hôm nằm rỗi ở nhà, tình
cờ Dũng thấy nhiều người cần các loại giấy để ra vào Viện 91 gần nhà
mình nên nảy sinh ý định sẽ làm giả các loại giấy tờ này, bán kiếm lời.
Vậy là thay vì đi buôn trâu như mọi khi, Dũng ở nhà mày mò tự sản xuất
giấy vào, ra viện, giấy thanh toán, phiếu thuốc... của Viện 91, bán cho
người sử dụng. Với hành vi này, năm 1986 Dũng bị CAQ Hai Bà Trưng bắt
giữ, sau đó bị Tòa án Quân khu I xử 18 tháng tù giam về tội làm giả giấy tờ.


Mãn hạn tù, Dũng mặc cảm trước con mắt dò xét của dân làng nên khoác
balô ra đi và bước chân vô định đã đưa anh vào thị trấn huyện Na Rì, Bắc
Cạn. Dừng chân ở một quán nước ven đường, nghe dân tình bàn tán có một
bưởng trưởng trong bãi vàng quê ở Thái Nguyên, Dũng liền xốc balô, đi
thẳng lên đó xin việc. Tại bãi vàng ở xã Kim Sơn, Na Rì, bưởng trưởng có
tên Giang “còi” nhận Dũng vào làm và chỉ một thời gian ngắn sau đã giao
toàn bộ việc điều hành trong bưởng cho Dũng để anh ta có thời gian ăn
chơi. Để ra oai, Dũng bắt đầu nuôi râu và khuôn mặt vuông vức, thêm bộ
râu được xén tỉa cẩn thận, uốn vểnh ngược, trông chẳng khác nào mặt
người trong con bài “K cơ” của bộ tú lơ khơ nên biệt danh Dũng “K cơ” xuất hiện từ đó.


Dũng với hai súng trong tay, xua quân đi các bưởng khác kiếm người. Chỉ
nhìn dáng cao to của Dũng với trang phục rằn ri, chân đi giày đinh là
những kẻ bị chọn không dám cãi lời, răm rắp đi sang. Nhiều bưởng trưởng
căm tức nhưng không dám ra mặt chống đối vì ngán vẻ lầm lỳ đến khó hiểu
của kẻ có khuôn mặt giống con bài này. Khi lực lượng làm thuê đã hùng
hậu, Dũng “K cơ” và Giang “còi” khoanh một vùng rộng lớn, cắm biển “có
chủ” để cảnh báo những kẻ có ý định lấn chiếm. Ngày đó vàng kiếm được
nhiều nên để khuyến khích hơn 200 “kiến thợ” làm việc, Dũng cho dựng
nhiều công trình có quy mô lâu dài, từ nhà ăn, nhà chỉ huy đến khu vui
chơi giải trí. Dũng còn tự mình về Hà Nội mua hai chiếc máy phát điện cỡ
to phát suốt 24/24 giờ, mua thêm cho mỗi lán một chiếc đài cassette
Toshiba loại “nồi đồng cối đá”. Chuyện thưởng cho “lính” bằng thuốc
phiện và gái đẹp bắt đầu xuất hiện. Anh cũng không bỏ qua việc khám chữa
bệnh cho anh em nên thuê hẳn bác sĩ vào, lập trạm xá để cấp thuốc vì
thế mà tên tuổi Dũng được đồn khắp bãi vàng, dân tứ chiếng trong đó
nhiều kẻ là tù tội, giang hồ nô nức kéo về làm thuê cho Dũng, tôn anh làm bưởng trưởng, cai quản cả một vùng vàng rộng lớn.


Đầu tháng 5-1990, Dũng dẫn quân về vùng vàng ở Thần Sa, Võ Nhai (Thái Nguyên) nhưng ở đâu cũng có chủ, muốn có điểm khai thác mới phải cướp.

TƯỚNG CƯỚP TRỐN TRẠI

Chiều 22-5-1990, Dũng lận lưng hai khẩu súng dẫn đàn em dao mác đầy
mình, đón xe khách về Thái Nguyên sau đó đi tiếp lên Võ Nhai. Đến Thác
Riềng, cách thị xã Bắc Cạn 12km, Dũng yêu cầu dừng xe nhưng do không
biết mặt Dũng “K cơ”, thấy nhóm của anh ta đi xe không trả tiền nên lái
xe không dừng. Rút súng, bắn ra ngoài hai phát liền, Dũng làm cả lái,
phụ xe cùng hành khách có mặt run rẩy. Nhân đà đó, Dũng cho đàn em thu
dọn hết tài sản của khách trên xe, đem bán được 64 triệu đồng rồi dẫn
quân quay lại Na Rì. Trong số hành khách đi trên xe hôm đó có người biết
Dũng, đã tới Công an tỉnh Bắc Thái (sau này tách thành tỉnh Bắc Cạn và Thái Nguyên) trình báo.


Bị truy bắt với tội danh cướp, Dũng bắt đầu cuộc đào tẩu. Sau nhiều ngày
lẩn quất ở các bãi vàng, anh trốn lên Cao Bằng và tình cờ gặp lại một
“đồng nghiệp” cùng đi tù trước đó. Tưởng gặp được người cùng cảnh, Dũng
dốc hết gan ruột với anh ta, định bàn cách làm ăn do ngày ở Trại T4 hay
bị Dũng đánh, người bạn tù này rất hận, bèn tìm cách báo công an. Ngay
sau đó, Dũng bị Công an Cao Bằng bắt giữ, chuyển cho Công an Bắc Thái
thụ lý. Trong khi chờ ngày bị đưa ra xét xử, đêm 23 Tết năm đó, Dũng bỏ
trốn, trở thành kẻ có lệnh truy nã đặc biệt toàn quốc. Quay lại nơi từng
làm bưởng trưởng, Dũng “K cơ” xin được khoảng 4 cây vàng, liền đón xe
ra Quảng Ninh tính chuyện buôn bán động vật hoang dã. Dũng thường đón xe
vào Đăk Lăk gom hàng đưa ra Móng Cái bán với giá phải chăng. Một mình
một ngựa, buôn từ gốc đến ngọn, Dũng kiếm được không ít tiền. Việc bỗng
dưng xuất hiện của Dũng đã khiến nhiều “thổ địa” mất thị phần liền tìm
cách “chơi bẩn”. Rửa hận, sau khi đánh cho kẻ đầu chòm là một đại ca
giàu có nhà ở gần cầu Ka Long một trận thừa sống thiếu chết, Dũng nhảy
lên xe ôm chuồn khỏi Quảng Ninh. Về Hà Nội kiếm việc, trong lúc lang
thang, Dũng nghe người ta kháo nhau về vùng đất Lục Yên (Yên Bái) đang
rộ lên phong trào đào đá đỏ liền “đổ bộ” lên đây dù chưa có bất cứ thông tin gì về vùng này.


Vừa đặt chân đến đây, anh ta  “thửa” luôn cái tên Phong, quê Vĩnh Phúc,
xin được làm cửu vạn, để tìm hiểu xem chất đất như thế nào thì có đá đỏ,
đá như thế nào thì có giá trị... Thế nhưng, Dũng lại được phân công làm
bếp, chuyên nấu ăn. Những trận chửi mắng vì nấu không ngon diễn ra như cơm bữa nhưng Dũng không dám hé lộ thân phận.


Làm đầu bếp được khoảng một tuần, chịu không thấu, Dũng gọi ngay trưởng
nhóm tên Phòng ra ngoài rừng thổ lộ: “Nói thật tôi vốn là dân “bộ đội”
chỉ làm tướng, chưa bao giờ làm quân. Bọn Dũng “K cơ”, Giang “còi”, ông
thích tôi tả từng cái nốt ruồi của từng thằng cho”. Trong lúc trưởng
nhóm còn sững sờ, Dũng bồi luôn: “Tôi muốn được ra làm độc lập, chỉ xin
các ông cho tôi ở nhờ tại đây, nhưng từ nay cử người khác nấu nướng, anh
em ai làm việc nấy”. Nghe khẩu khí, biết ngay gặp đại bàng, Phòng gật đầu chấp nhận luôn.


Ngay ngày hôm sau, Dũng tìm đến các “thoòng” nước mới, nghe ngóng xem
hang đất nào đang rộ lên chuyện trúng đá đỏ; đất có đá được vác từ hang
nào đến đây. Đêm đến, Dũng vác bao tải và một con dao nhỏ, chui xuống
hang đào trộm đầy bao đất mang về. Sáng hôm sau, khi mọi người đi làm
việc hết, Dũng mang bao đất ra suối đãi. Sau ba đêm, ăn cắp được ba bao
đất, Dũng gặp vận may, trúng được một viên đá đỏ khá đẹp. Sau khi bán
được 8 triệu đồng viên đá này, anh quyết định không đi đào đá đỏ nữa mà
làm nghề xe ôm, một nghề ở Lục Yên bấy giờ chưa có. Về Hà Nội mua chiếc
Minsk, Dũng phóng thẳng lên Lục Yên hành nghề. Bãi đá đỏ rộng lớn, nhu
cầu đi lại nhiều nên Dũng làm không hết việc nhưng khách chủ yếu là dân
giang hồ tứ xứ tìm đến nên chuyện va chạm giữa “Phong ôm” (biệt danh của
Dũng “K cơ”) với họ cũng thường xuyên xảy ra nhưng phần thắng luôn
nghiêng về Dũng. Bản tính ngỗ ngược, nếu làm ăn chân chính, mỗi ngày
cũng kiếm được tiền triệu nhưng chỉ được một thời gian là Dũng bắt đầu
quậy, bảo kê các xe chở hoa quả, chi phối mọi hoạt động buôn bán ở đây.
Ban đầu nạn nhân chỉ là những người buôn thúng bán mẹt từ nơi khác đến,
tiếp đến là các gia đình sở tại rồi những tay có máu mặt. Nhiều vụ dằn
mặt nhau xảy ra; nhiều xe hàng bị hất hết cam, quýt xuống đường. Sau
những cuộc tranh chấp đó, các xe hàng ở tỉnh ngoài đến, mỗi khi ra vào
bến xe đều phải xin “ý kiến” Dũng. Tiếng tăm nổi như cồn, được đà, Dũng
“K cơ” quay lên vùng đá đỏ làm chủ đề. Khi đã có được số tiền kha khá
trong tay, Dũng “K cơ” mới thấy cuộc sống đơn thương độc mã thật vô vị
liền tính chuyện về quê rồi ra đầu thú. Vậy là sau bốn năm kể từ ngày
gây ra vụ cướp ôtô chấn động dư luận tỉnh Bắc Thái, ngày 22-5-1994 Dũng “K cơ” quyết định về đầu thú tại Công an tỉnh Thái Nguyên.

“ĐẠI BÀNG” TRẠI GIAM

Lên trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên, Dũng “K cơ” bị đưa vào phòng
giam đặc biệt, trong đó có hai kẻ đang kháng nghị án tử hình là Khánh
“Roành” và Hồng “Quý”. Cho rằng mình đã đầu thú nghĩa là muốn làm người
tử tế vậy mà lại bị giam với những kẻ tiền án, tiền sự đầy mình, Dũng
nảy sinh tiêu cực, trút giận lên các bạn tù cùng buồng. Những kẻ mới đến
đều bị Dũng bắt làm thủ tục nhập phòng tức là nuy 100% cho mọi người
trong buồng chiêm ngưỡng dung nhan sau đó có đồ tiếp tế gì thì phải mang
ra chiêu đãi. Đêm đến, Dũng bắt các bạn tù kể cả hai kẻ có án tử hình
kia phải thay nhau hầu quạt, khiến bạn tù tuy sợ nhưng trong lòng rất
hận. Khánh bàn với Hồng liên kết với mấy phạm nhân khác tính chuyện trả thù.


Một đêm đầu hè năm 2005, khoảng 1 giờ sáng, Dũng “K cơ” đang ngủ chợt
thấy nghẹt cứng ở cổ liền vùng dậy thì thấy có người đang dùng dây thít
cổ mình, chưa kể còn liên tục bị các vật cứng đập thẳng vào đầu làm máu
trào ra lênh láng. May có sức khoẻ nên cuối cùng Dũng thoát được trận
đòn hội đồng của bạn tù, trở nên cảnh giác hơn và cũng bớt tính ăn hiếp
người khác như trước. Hơn một năm sau, Dũng bị đưa ra xét xử và bị phạt 14 năm tù. Được chuyển lên trại Phú Sơn 4, tỉnh Thái Nguyên thụ án.



Anh Dũng kiểm tra công nhân làm đá quý

ÔNG CHỦ XƯỞNG TRANH

Vào Trại Phú Sơn 4 được khoảng hơn một năm, nghe kể về một phạm nhân nữ
vừa nhập trại nhưng rất xinh và hào phóng, đã chia hết số quà mang vào
cho những phạm nhân cũ. Bí mật tìm hiểu, Dũng được biết tên đầy đủ của
cô là Nguyễn Thị Kim Oanh, SN 1966, giáo viên dạy giỏi một trường chuyên
ở Bắc Giang, vào tù về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã
hội chủ nghĩa”. Ngày đó nơi Oanh công tác có phong trào buôn hàng từ
biên giới Lạng Sơn về. Oanh đã dùng tiền của nhà trường cho một số người
vay để đi buôn nhưng khi họ vỡ nợ thì Oanh phải gánh hậu quả và bị xử
tám năm tù giam. Thầm thương Oanh, bằng nhiều cách chỉ những kẻ tù tội
mới nghĩ ra, Dũng liên lạc với cô giáo này và nhận được sự đáp trả. Tuy
nhiên, họ vẫn chưa một lần biết mặt nhau. Khi trại Phú Sơn 4 tổ chức
trao đổi hạt giống giữa các phân trại, Dũng được sang phân trại nữ để
“xem mặt” cô gái vẫn liên lạc với mình lâu nay. Nhìn thấy Oanh, Dũng cảm
thấy đây sẽ là bến đậu cho con thuyền lênh đênh của mình nên từ đó liên
tục trao đổi thư tín với Oanh. Trong thư, Dũng hứa sẽ cải tạo tốt, sớm
ra tù tổ chức đám cưới với người mà mình yêu thương. Cảm động trước tấm chân tình của Dũng, Oanh hẹn sẽ cùng Dũng làm lại cuộc đời.

Năm 2000, cả Oanh và Dũng đều được tha tù trước thời hạn. Nước mắt rưng
rưng, họ chưa kịp giãi bày tâm sự khi có dịp ở bên nhau thì gia đình
Oanh tới đón, cô chỉ kịp dúi vào tay Dũng địa chỉ của mình rồi từ biệt.
Về quê, nhìn bố mẹ già trong ba gian nhà tranh vách đất, Dũng chợt nhớ
tới miền đá đỏ Lục Yên. Anh quyết định lên đó lập nghiệp, đem cả Oanh theo cùng.


Lại nói về Oanh, vốn là con nhà gia giáo, bố mẹ có chức sắc ở Sở Giáo
dục tỉnh Phú Thọ nên khi biết con muốn gắn cuộc đời với một tên tướng
cướp đã kịch liệt phản đối. Không nhận được sự ủng hộ, Oanh trốn nhà lên
với Dũng, trong tay chỉ có ba triệu đồng do một người bạn tốt cho mượn,
hai người đưa nhau lên Lục Yên làm lại cuộc đời. Số tiền mang theo chỉ
vừa đủ thuê căn nhà nhỏ, sắm một cái giường và xe đạp mini để đi lại.
Với kinh nghiệm trước đó, Dũng bày cho vợ cách đi buôn đá nhỏ còn mình
lên núi, cào cuốc kiếm đá. Sáu tháng sau Dũng đã có người làm thuê, anh
quyết định lập thêm đội công nhân nữa chuyên làm đá xây dựng. Lượng đá
đỏ khai thác được, một ít vợ chồng Dũng bán đi để trả lương công nhân,
còn bao nhiêu giữ lại như một duyên trời định cho việc mở xưởng tranh đá
quý sau này. Năm 2003, thị trường có vẻ “no”, đá đỏ không được thu mua
nhiều như trước, Dũng nghĩ đến chuyện về quê làm ăn. Với lưng vốn kha
khá và bao đá đỏ để dành, vợ chồng anh về thị xã Sông Công (Thái Nguyên) bắt đầu công việc kinh doanh trên mảnh đất vừa mua ven đường.


Lại bắt đầu xoay đủ nghề từ cho thuê xe, nhận cầm đồ đến buôn bán tranh
đá quý từ Lục Yên về Hà Nội, Hải Phòng. Cuối năm 2005, vợ chồng anh xây
nhà rồi lập một xưởng làm tranh đá quý. Số đá giữ lại từ xưa có dịp đem
ra trưng dụng cùng với một lượng nguyên liệu mua từ Lục Yên, xưởng tranh
của vợ chồng Dũng bắt đầu hoạt động với khoảng 20 thợ. Ngày khai trương
cơ sở làm tranh đá quý, rất đông cán bộ lãnh đạo các cấp ở Thái Nguyên
đã tới dự. Đó là cơ sở sản xuất tranh đá quý đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên.

HÀ MY - THANH HÒA
- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Quảng cáo
Offline na74  
#2 Đã gửi : 14/10/2010 lúc 09:01:42(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Kỳ 2: CHỦ QUÁN RƯỢU DỪA VÀ MỘT THỜI LÀM CƯỚP

Giỏi văn chương nhưng bản tính nóng nảy lại không chịu được
cuộc sống kham khổ, Bùi Thanh Phúc (SN 1961, ở phường Trần Tế Xương,
thành phố Nam Định) trở thành tên cướp khét tiếng thời bấy giờ với cái
tên Phúc “Nhiếp”. Ba mươi năm sau, tên cướp ấy đã là một chủ quán với món rượu dừa nổi tiếng.


QUÁ KHỨ TỘI LỖI

Sinh ra trong một gia đình công nhân, bố mẹ công tác tại Nhà máy dệt Nam
Định, Phúc vừa là con một lại bé nhất nhà nên lúc nào cũng được chiều
chuộng. Thời tem phiếu, trong khi mọi người phải tằn tiện, sống như ép
xác nhưng với Phúc từ lúc lọt lòng đã được cha mẹ và hai chị bao bọc,
cưng chiều nên chưa biết thế nào là đói khổ. Ương bướng và nóng nảy,
Phúc nổi tiếng nghịch ngợm, đánh nhau song lại rất có khiếu về môn văn,
là học sinh giỏi cấp tỉnh bấy giờ. Kỳ thi vào cấp ba, Phúc được 9 điểm
văn nhưng toán lại bị điểm liệt. Cũng may là học sinh giỏi cấp tỉnh nên
Phúc được đặc cách vào trường cấp ba Ngô Quyền, thế nhưng chỉ vài tháng
sau, trong một lần đùa nghịch, Phúc đánh gãy tay một thầy giáo và bị đuổi học.


Bố mẹ Phúc xin cho anh vào học tại Trường công nghệ dệt (nay là Trường
Cao đẳng nghề Nam Định). Học nhưng chưa kịp thành nghề thì chiến tranh
biên giới năm 1979 xảy ra, Phúc có tên trong danh sách tổng động viên
ngày đó. Những ngày làm “lính”, cái mà Phúc tiếp thu được chỉ đơn giản
là những khẩu súng có thể giúp mình mau chóng nổi danh trong giới anh
chị ở thành Nam. Sau ba tháng tổng động viên, Phúc quay về với một khẩu AK và khẩu Colt 45.


Trở về nhà, Phúc tiếp tục đi học nghề nhưng tâm trí chỉ để ở hai khẩu
súng với những cảnh trấn cướp mà anh ta mường tượng ra. Trong một lần
đang học, một nhóm côn đồ bên ngoài nhảy vào uy hiếp những học sinh
trong trường lấy đồ đạc. Nổi máu yêng hùng, Phúc vác dao chém lại và
chuyện học hành cũng từ đây chấm dứt. Để có tiền đi chơi với người yêu,
Phúc vác súng ra đường “xin đểu” sau đó lại quần áo chỉnh tề tới đón
người yêu đi chơi. Cái tên Sầu Thương Hận, biệt hiệu của Phúc mỗi khi đi
cướp bắt đầu xuất hiện. Một buổi tối, sau khi gây ra năm vụ cướp, Phúc
giắt khẩu Colt vào thắt lưng, gọi xích lô tới đón người yêu đi chơi.
Đang ngồi chung xích lô với người yêu, đi ngang qua phường Trần Tế Xương
thì một thanh niên đang trình báo bị cướp nhìn thấy hô: “Thằng này lúc
nãy vừa gí súng cướp ví của tôi”. Phúc bị bắt với khẩu súng trong người và bị kết án 20 năm tù.


Vào trại giam Ninh Khánh, Phúc không chịu được khổ cực, chỉ vài tháng
sau đã tìm cách trốn trại. Hai lần trốn không thành vì không tìm được
đồng minh, lần thứ ba Phúc trốn thoát cùng với ba người nữa cũng đều là
những kẻ có “số má”, con nhà có vai vế. Ngay đêm đó, bốn kẻ tù tội lội
tắt qua ruộng ra Quốc lộ 1, định đón tàu vào Nam nhưng vơ vẩn thế nào
lại nhảy đúng chuyến tàu ra Hà Nội. Những dãy phố nham nhở vì bom đạn đã
khiến họ lạc nhau, không nơi tá túc, Phúc quay về Nam Định, tiếp tục đi cướp. Năm 1981, Phúc mò lên Yên Bái với quyết tâm cải tà quy chính.


Gần một năm trời làm người rừng, chịu không thấu, Phúc xin bố mẹ tiền
mua một chiếc xe đạp, ngày ngày xuống Hương Khánh, một bản người dân tộc
cách thành phố 25km, mua sắn khô về bán. Thấy chàng thanh niên Hà Nội
bảnh trai, chăm chỉ, ngày nào cũng cần mẫn tới mua hàng, dân bản ai cũng
quý. Nhiều cô gái còn đem lòng thương mến nhưng trái tim các sơn nữ
không giữ nổi chân kẻ phong trần, chỉ năm tháng sau Phúc đã đổi chiếc xe của mình lấy khẩu côn 6 ly về Nam Định tiếp tục con đường cũ.


Cuốn nhật ký ký tên Sầu Thương Hận của Phúc “Nhiếp”


Đúng lúc Phúc quay về Nam Định thì người yêu của anh không biết có phải
do không chịu nổi tai tiếng do người yêu đem lại hay vì một lý do gì đó
đã tự vẫn, không một lời từ biệt. Chán nản, Phúc quyết định “Nam tiến”
để giã từ quá khứ và mối tình đầu đau khổ. Khi tàu dừng ở Huế, Phúc giấu
khẩu súng mang theo vào một chỗ kín rồi tìm đường đến nhà người quen.
Thấy Phúc nhanh nhẹn, có sức khỏe, người quen của Phúc đã xin cho anh đi
thanh niên xung phong, đóng quân ở Đắc Nông. Cuộc sống vất vả giữa vùng
đất đỏ khiến Phúc nhớ lại những ngày cực khổ, heo hút ở Yên Bái. Sợ
hãi, Phúc bỏ ra Bắc, trên đường đi không quên tìm lại khẩu súng trước đó đã cất giấu.


Trở về Nam Định, Phúc không dám về nhà vì sợ liên lụy tới bố mẹ. Được
một đàn em ở phường Nguyễn Du cưu mang, rất nhiều lần cậu con út này
muốn về nhà nhưng không dám dù chỉ cách nhà vài trăm bước chân. Những
ngày ở nhà bạn, thấy họ sống bằng nghề vận chuyển hàng thuê trên sông,
Phúc chợt nảy ra ý định sắm một con thuyền đi cướp trên sông nhưng chưa gây được vụ nào thì bị bắt.


Một buổi sớm năm 1984, sau khi neo thuyền ở chùa Non Nước, thị xã Ninh
Bình (nay là thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình), Phúc thong thả bước
lên bờ ăn sáng rồi theo thói quen gọi một điếu ba số nhưng không có.
Bước qua đường, Phúc chợt tái mặt khi thoáng nhìn thấy ông Khanh, cán bộ
trại giam Ninh Khánh đang ngồi gần đây, vội quay gót bỏ đi nhưng không
kịp. “Phúc, Phúc”, tiếng ông Khanh văng vẳng phía sau khiến Phúc rảo
bước nhanh hơn nhưng tiếng gọi của người cán bộ vẫn bám theo. Bỏ chạy ra
phía cầu Ninh Bình, Phúc như kẻ bị dồn vào ngõ cụt khi phía trước đột
ngột xuất hiện một tốp công an thị xã Ninh Bình. Họ đi ăn sáng gần đấy,
biết có chuyện liền chạy tới. Phía trước là công an, đằng sau có người
đuổi, trong đầu Phúc nghĩ nhanh nếu họ bắt được chắc bị tử hình. Lao
mình xuống dòng nước giá buốt, Phúc thấy ân hận vì đã để súng, lựu đạn
trên thuyền. Phúc mải miết bơi cho đến lúc lạnh quá ngất đi, không biết
gì nữa. Lúc tỉnh dậy, Phúc thấy hai tay tê cứng, miệng đau rát. Bị đưa
ra tòa, Phúc bị kết án thêm một năm nữa về tội trốn trại. Lần này anh ta
không còn được ở trại giam Ninh Khánh nữa mà bị đưa tới trại giam Thanh Cẩm, Thanh Hóa.

BẤT NGỜ CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ


Nhấp một ngụm rượu nóng, anh Phúc bảo: “Lần bị TAND tỉnh Thanh Hóa kết
thêm 9 năm tù vì hai lần chém cụt tay, cụt chân hai phạm nhân, tôi cứ
nghĩ thế là đời mình xong, chẳng còn ngày về, đến năm 1995 thì được
chuyển trại rồi bất ngờ được tha. Mừng quá nhưng vừa về đến nhà, ông bà già đã làm đơn xin cho tôi đi trại tiếp vì sợ ở nhà lại quậy phá”.


Theo lời anh Phúc, ngày đó sau khi được tha về, thiếu tướng Phan Vĩnh,
Giám đốc CA tỉnh Nam Định, lúc đó là Phó trưởng CATP Nam Định đã đến
nhà, chưa kịp động viên, Phúc đã nhấm nhẳng: “Tôi vừa mới về, thấy khổ quá, đang muốn quay lại trại tiếp đây. Ở đó nóng còn có người quạt”.


Trại Thanh Cẩm ngày ấy nằm sâu trong núi. Vừa chân ướt chân ráo vào
trại, bằng con mắt trải đời, Phúc hiểu ngay cái thế của mình nên quyết
không để tên nào cùng buồng giam lấn lướt. Cùng buồng với Phúc có một
tên vốn là một anh chị có tiếng ở đất cảng, thấy Phúc “săm lốp” rắn
chắc, vẻ mặt lầm lỳ cũng có vẻ dè chừng. Hắn không cho đàn em tới chọc
ghẹo nhưng mỗi khi kêu chúng xoa bóp, lại lớn tiếng cạnh khóe. Rồi thời
cơ của hắn cũng tới khi Phúc được phân công lao động ở bếp ăn nơi anh ta
làm đội trưởng. Để bắt Phúc quy phục, kẻ này luôn tìm cách bắt bẻ, tìm
những việc trái khoáy để hành Phúc. Một tuần trôi qua không có sự phản
kháng, hắn bắt đầu khoái trá. Số là vẫn quen thói mọi khi bắt bẻ Phúc
trong công việc, lần này hắn tiếp tục gây khó dễ, bắt Phúc phải làm thêm
cả phần việc của hai tên nữa để chúng rảnh tay đấm bóp cho y. Không một
lời phản ứng, Phúc xách dao ra ngoài ao mài tới khi chém thử quả mít
đứt làm đôi liền đi vào bếp, chém cụt chân kẻ lộng quyền. Sau lần đó,
những phạm nhân cùng buồng không dám về phe kia nữa, Phúc “Nhiếp” bị kết án thêm 5 năm tù.


Theo dòng hồi tưởng của ông chủ quán rượu dừa thì ngoài việc chém cụt
chân kẻ này, anh còn chém cụt tay một phạm nhân nữa cũng vì tranh giành
ngôi thứ với các nhóm đầu gấu trong trại giam. Hai lần ra tòa ở Thanh
Hóa, với tổng cộng 30 năm tù giam cho cả những lần trước đó, con đường
về với Phúc ngày càng xa dần nhưng chuyện đánh nhau giữa anh ta với các tay anh chị ở Hải Phòng, Thanh Hóa, Lạng Sơn vẫn âm thầm diễn ra.


Với một con người có bề dày thành tích như Phúc, tưởng không thể giáo
dục được nhưng các quản giáo lại nhìn thấy điểm tốt ở anh ta. Tuy tính
nết nóng nảy nhưng Phúc rất thẳng thắn, không xu nịnh và sống rất có
tình. Ban giám thị đã quyết định giao cho Phúc nhiệm vụ cùng quản giáo
đi lĩnh nhu yếu phẩm về cho phạm nhân. Hàng ngày được ra khỏi trại, Phúc
rất mừng, luôn tận tâm với công việc, đưa gạo, muối về cho trại đầy đủ.
Vài lần chạm trán bọn cướp nhưng chỉ nghe Phúc xướng danh, chúng đã
chạy biến vào rừng. Tình cờ một lần nghỉ giữa chừng bên khe suối, bất
chợt Phúc nhìn thấy một nhóm người ăn mặc như trên phố, khoác tay nải,
đi vào. Phúc đoán gần đó có một bãi vàng và những kẻ này là người trên
tỉnh vào mua vàng. Trong đầu Phúc bỗng nảy sinh một ý nghĩ táo bạo. Vậy
là thay vì lăn ra cỏ nằm nghỉ như mỗi lần đi lấy gạo về đến chỗ giải
lao, Phúc lại tranh thủ tạt vào chỗ các bưởng vàng dựng lán, “xin đểu”
ít vàng cám đem về cất giấu. Cũng có khi Phúc chặn đường những người
buôn vàng, xin của họ và lần nào cũng kiếm được tí chút. Anh biết họ
cũng vất vả nên không cướp mà chỉ xin một ít gọi là san sẻ chút lời lãi
của họ. Ngày đó Hiền “đầu bạc” cũng mới lên bãi vàng lập nghiệp, đang
gây thanh thế nhưng mỗi khi Phúc tới “chơi”, dù trong lòng rất ấm ức song chẳng khi nào dám để “khách” về tay không. 


Năm 1993, trại giam Thanh Cẩm có phong trào phạm nhân được tham gia gác
trại. Theo quy định, lực lượng vũ trang sẽ gác vòng ngoài, khuôn viên
trại do các phạm nhân tích cực canh gác, Phúc cũng có mặt trong đội ngũ
ấy. Một đêm cuối tháng 10, Phúc cùng mấy phạm nhân về khu bếp đốt lửa
sưởi nhưng mới ngồi một lúc, Phúc đã thấy sốt ruột nên đứng dậy đi ra
ngoài. Ngang qua buồng giam số hai, nơi có bảy phạm nhân tù chung thân
bị cùm chân, Phúc bỗng thấy im ắng lạ thường liền để ý quan sát, phát
hiện đằng xa có một bóng người đang vắt vẻo trên hàng rào dây thép gai
cao 6m liền chạy tới gõ kẻng báo động. Ngay sau đó kẻ này bị bắt giữ nhưng sáu tên cùng phòng đã mất dạng.


Vì kẻ trốn trại đều là những tên côn đồ khét tiếng ở Hà Nội nên sáng hôm
sau, nhận được thông tin, Bộ Công an đưa trực thăng chở quân về tăng
cường cho trại, rà soát cả vùng núi rừng, mở rộng tới tận biên giới giáp
Lào nhưng không có kết quả. Một tuần trôi qua, trong khi lực lượng cơ
động đặc biệt của Bộ Công an nằm trên núi thì những kẻ đào tẩu lại rúc
trong hang, đợi đêm xuống mò vào nương lúa của dân tuốt hạt đem về cầm
cự. Vốn từng bỏ trốn, Phúc thừa biết chúng chẳng dại gì cắt lúa về mà sẽ
tuốt hạt cho vào ống tay áo đập cho tróc vỏ rồi nhét vào ống nứa thổi
thành cơm ăn. Thế nhưng phải mất một tuần sau, khi trực thăng rà soát
không tìm được tung tích những kẻ này, buộc phải rút quân thì ý kiến của
Phúc mới tới lãnh đạo trại. Được cho phép tham gia cùng lực lượng công
an truy bắt sáu tên tội phạm nguy hiểm, anh Phúc cùng tổ công tác lên
danh sách những khu vực có người dân sống và sản xuất, đánh dấu những
hang núi gần đó đồng thời vận động người dân, nếu mất mát gì dù nhỏ nhặt
cũng phải trình báo. Miệt mài trong các hang núi, các anh nhận được tin
có một người dân trong lúc lên nương, bắt gặp một kẻ đang cắt trộm bí
ngô liền hô hoán khiến kẻ này sợ hãi, bỏ chạy. Cầm chiếc khăn và con dao
bị đánh rơi, Phúc nhận ra ngay đó là tác phẩm mà chỉ những kẻ ở tù mới
có nên chỉ nửa tiếng sau, một tiểu đoàn gồm cả công an và quân đội được
tăng cường, bao vây ngọn núi gần đó, gọi được cả sáu tên ra đầu thú. Với
thành tích này, Phúc được Cục quản lý trại giam BCA đồng ý cho chuyển
ra trại Lam Sơn, trong khi quản giáo trại Thanh Cẩm chỉ mong anh ở lại. 30-4-1995, Phúc được tha tù trước thời hạn.



Ông chủ quán rượu dừa Vạn Phúc ngày nay


Đang không biết phải làm gì, anh đồng ý lấy một cô gái do cha mẹ “chấm”
sẵn với nhiệm vụ tạm thời là trông coi cửa hàng tạp hóa cho gia đình,
sau đó chuyển sang nghề bán bia hơi. Thấy khách thích nhậu, anh mày mò
học hỏi rồi mạnh dạn xây lò, chế biến thịt quay bán và trở thành cửa
hàng thịt quay ngon nổi tiếng thành Nam ngày ấy. 10 năm bươn chải với
nghề quay thịt, anh dần quên đi quá khứ ngang tàng một thời, trở thành ông bố chu đáo với hai đứa con gái xinh xắn.


Năm 1997, Nam Định xảy ra lụt lớn, người tới uống bia ít hẳn nên anh
nghĩ phải làm ra một loại rượu độc đáo nào đó để thu hút khách. Ban đầu
anh làm rượu dứa, rượu mít nhưng không ăn thua vì khách chê ngọt quá. Bất chợt anh nghĩ dứa không được thì thử dừa xem sao.

Lần đầu tiên thử làm, anh mua sáu quả dừa về đục lỗ, bỏ bớt nước bên trong, cho rượu vào, ủ vào lò quay thịt.


Hơn mười năm xuất hiện trên thị trường, giờ đây món rượu dừa của anh
Phúc theo chân người nhậu có mặt ở khắp mọi nơi song ít ai biết được tác giả của loại rượu này là một giang hồ thứ thiệt.

(Còn tiếp)

HÀ MY - THANH HÒA
- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Offline dautroc_7x  
#3 Đã gửi : 14/10/2010 lúc 09:45:17(UTC)
dautroc_7x

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 03-05-2010(UTC)
Bài viết: 1.225
Đến từ: Bệnh viện tâm thần Quảng ninh

Cảm ơn: 633 lần
Được cảm ơn: 673 lần trong 377 bài viết
Giang hồ rẽ lối  mình rất thik , lâu lắm rồi mới đc đọc lại ...xin cảm ơn
UserPostedImage


Trước đây nghịch dại lắm
Bây giờ đỡ nhiều rồi



UserPostedImage


Offline Tình_ca  
#4 Đã gửi : 15/10/2010 lúc 02:29:07(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
"Giang hồ rẽ lối" và hy vọng hoàn lương

ANTG - 4 tiền án, 8 năm tù và 1 tập truyện thơ Giang hồ rẽ lối
là bức thông điệp sám hối gửi cho cuộc đời, cho tất cả những ai đã và
đang lăm le bước vào vòng tội lỗi. Đó là chuyện đời đầy nước mắt của một tội phạm đã hoàn lương.

Tên thật của anh là Nguyễn Tích Đức, nhưng vì không
tích cóp được gì trong mấy chục năm phạm pháp, nên khi tỉnh ngộ, quyết
chí “rẽ lối hoàn lương”, anh mới lấy bút danh là Đức Tân để rũ bỏ cả chuỗi ngày u ám cũ.

Năm 1976, khi đứa con đầu lòng mới được 9 tháng
tuổi, Đức đang là Đội trưởng sản xuất ở Nhà máy Bê tông Ba Lan. Đội của
anh sửa chữa đường ray sân. Công việc phập phù, công nhân nghỉ không
lương dài dài vì nhà máy đang bí nguyên liệu. Trong khi đó, các thanh
ray tập kết ở cánh đồng Thịnh Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) hàng đống chất
ngất chẳng “ma” nào bảo vệ. Thế là Đức cho “rinh” về để anh em thi công.
Bên đường sắt chẳng biết mình mất trộm, công nhân có việc làm cũng
không ai rỗi hơi tố cáo anh. Nhưng Nhà máy Bê tông thì phe phái, mất
đoàn kết, thế là Đội trưởng Đức bị lập biên bản, sa thải với lý do “trộm cắp tài sản XHCN”.

Mất việc, Đức xoay sang buôn sắn dây, cà chua từ
Lào Cai, rồi buôn lậu lạc từ Nghệ An ra Hà Nội. Trúng quả đậm, năm 1979,
anh xây nhà to nhất xã Đông Mỹ, tiếng tăm lan rộng cả một vùng ngoại ô
Hà Nội... Năm 1985, trong một phi vụ lạc lậu, Đức bị Công an Ba Đình bắt
với tội buôn bán hàng quốc cấm. Một xe ôtô 4-5 tấn lạc mất trắng đã
biến Đức từ một kẻ có máu mặt thành tay trắng. Chán đời, Đức lao vào
rượu chè, đề đóm và thuốc phiện. Từng miếng ngói, gian nhà bị rỡ đi vì nàng tiên nâu và những con đề.

Năm 1987, mất nhà, đói thuốc, Đức giả làm người bán
báo để hành nghề cướp giật trên tàu Thống Nhất. Với tài nhảy tàu ở tốc
độ 40-50 km/h, rồi bẻ khóa, cạy cửa, Đức kiếm được khá nhiều cùng cả
chục lần thoát khỏi tay công an. Lần cuối cùng ở Đà Nẵng, bị công an
chụp ảnh, lăn tay, Đức buộc phải sang chuyển nghề “chôm” xe đạp. Ít thì
đôi ba ngày một chiếc, nhiều thì hai ba chiếc một ngày. Bị công an bắt
khá nhiều nhưng do láu cá, chuyển địa bàn hoạt động liên tục, nên Đức
vẫn ngoài vòng pháp luật. Anh còn có tài giả giọng miền trong, giọng
người dân tộc, đến mức dân Nghệ ở Hà Nội cũng không biết mình bị lừa,
còn người dân tộc thì chỉ nghe vài câu đã nhận Đức làm người anh em.
Sống với “bạn nghề”, Đức cũng tỏ ra hào phóng. Đứa thiếu, Đức “vặt” xe đạp đem cho...

Đức phải hầu tòa lần đầu vào tháng 4/1988 về tội
trộm cắp xe đạp, khi bị Công an Cầu Giấy bắt. Tháng 8 cùng năm, công an
Hoàn Kiếm bắt lần nữa. Đầu năm 1989, bị TAND Hà Nội triệu ra tòa, Đức
trốn vào Quỳnh Châu, Nghệ An, nơi anh từng buôn đá đỏ. Tìm đến nhà ông
bố mẹ nuôi, lừa được hơn 1 cây vàng, Đức đưa cả vợ con vào thị xã Long Xuyên.

Cái nghề đạp xích lô và làm đậu phụ ở xứ người mang
lại cho Đức ít nhiều sự thanh thản và những đồng tiền sạch sẽ. Tết
Nguyên Đán 1992, có chút tiền dư dả, anh đưa vợ con về thăm quê. Nhưng
rồi cờ bạc, bàn đèn lại đưa con ngựa bất kham quay trở lại con đường cũ.
Để có tiền vào Nam, Đức quyết định làm một “quả” xe Nhật. Cái xe ăn cắp
cuối cùng trong đời đã đưa Đức vào chốn tù tội với hình phạt 8 năm 10 tháng.

Trong tù, đếm từng tờ bạc lẻ 500, 1000 đồng tanh
tanh mùi cá, hôi hôi mùi bún riêu mà vợ tích cóp thăm nuôi hàng tháng,
Đức bỗng cay cay. Nghe vợ mếu máo “mẹ ốm đang không có tiền mua thuốc
thì con lại ngã xe đạp vỡ đầu”, anh lại quặn lòng. Và bài thơ đầu tiên của Đức đã được viết ra trong một phút tê tái.

Mẹ ơi!

Bao tháng ngày mẹ hiền mong đợi

Con viết lời tạ tội với mẹ đây

Đã bao lần mẹ nuốt đắng ngậm cay

Nước mắt đẫm đôi vai gầy của mẹ

Có lẽ nào mẹ ơi, con lại thế?

Vắt kiệt mồ hôi cho việc cải tạo lao động của người
tù nhân mỗi ngày, đêm đến lại hì hục đánh vật với từng con chữ, để cuối
cùng, sau 2 lần giảm án vì thành tích cải tạo xuất sắc, ngày 2/9/1995,
Đức được đặc xá. Như con chim xổ lồng, anh bay vào bầu trời tự do, hoàn thiện tập thơ Giang hồ rẽ lối, vừa được NXB Thanh Niên in và phát hành giữa tháng 1 vừa qua. Đức bộc bạch:

Trong cuộc sống đời
thường đầy gian lao và vất vả, bao con người đầy nghị lực đã vượt qua và
làm nên tất cả. Còn tôi thì gục ngã! Tự biến mình thành kẻ lưu manh,
lừa đảo, nghiện ngập và bao thói bê tha. Để rồi cái giá mà tôi phải trả là bốn lần đứng hầu tòa!

Tôi đã đền đáp công sinh
thành, dưỡng dục bằng nỗi khổ đau. Tôi đã trả công cho người vợ hiền thủy chung bằng tủi buồn, cơ cực. Đàn con dại thì đói rách, lầm than!

Cuộc đời cứ mãi xoay vòng tội lỗi, cửa nhà bán hết, dắt díu vợ con đi phiêu bạt xứ người, vẫn không tránh nổi luật đời quả báo.

Ai đã dang bàn tay nhân
ái cứu giúp tôi làm lại cuộc đời? Qua tập truyện thơ này, tôi xin gửi cả
tấm lòng thành tạ lỗi. Xin gửi lời cảm ơn từ đáy lòng mình, nguyện trọn đời ghi lòng tạc dạ.

Lẽ đời: Khổ nghèo thì oán đất trách trời

Giàu sang vỗ ngực ta người tài hoa

Ngẫm từ kim cổ mà ra

Đời nào chẳng có nỗi ta, phận người.

Nhà báo Trường Phước (Đài Truyền hình Việt Nam)
nói: “Tôi ước sao tập truyện thơ của Đức Tân được gửi tới tất cả thanh
thiếu niên, nhất là những người đang trong vòng lầm lỗi. Chắc chắn lợi
ích giáo dục từ tập thơ này không phải là nhỏ”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa
cho rằng “Anh tốt hơn những kẻ tự cho mình là tốt”. Và có lẽ vì yêu mến
cả người và thơ của Đức Tân nên các nhà báo, nhà thơ Trường Phước, Trần
Đăng Khoa, Trần Nhuận Minh, Trần Tâm... mới góp tiền tài trợ cho tập thơ được xuất bản.

Sau khi vô tình đọc tập Giang hồ rẽ lối,
Phêrô Bùi Ngọc Tuấn, linh mục nhà thờ Đồng Trì, cai quản 7 xử đạo của
Thanh Trì, đã mời tác giả Đức Tân tới thăm nhà thờ của ông, và xin mua 50 cuốn để phát cho học sinh trường dòng của mình.

Sau linh mục Bùi Ngọc Tuấn, đến lượt Trung tâm Giáo
dục thường xuyên Đông Mỹ, trường PTTH Ngọc Hồi mời tác giả về nói chuyện chuyên đề phòng chống tệ nạn xã hội và hậu quả của nó.

Giờ đây, Đức Tân đã trở về cuộc sống hàng ngày,
chăm sóc cho đàn con và quán phở của mình ở chợ Ngũ Hiệp, nơi anh quyết
tâm hoàn lương vĩnh biệt những chuỗi ngày tù tội. Ông Hoàng Văn Bội, cán
bộ UBND xã Ngũ Hiệp (Thanh Trì) nhận xét: “Anh Đức Tân đã hoàn lương
thực sự. Anh tham gia rất tích cực phong trào phòng chống tệ nạn xã hội.
Anh viết báo ca ngợi người tốt, việc tốt, bài trừ tập quán hủ tục.
Không ít người lầm lỗi theo gương anh đã trở thành người tốt. Tấm gương của anh rất đáng cho những người lầm lỡ noi theo”.

Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.