Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline TLA  
#1 Đã gửi : 11/05/2012 lúc 02:00:35(UTC)
TLA

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 29-04-2011(UTC)
Bài viết: 631
Đến từ: Nam quốc sơn hà Nam đế cư - Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? - Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Cảm ơn: 99 lần
Được cảm ơn: 104 lần trong 72 bài viết

Tuanvietnam - Việc sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay rất tùy tiện, tạp nham, cẩu thả. Nhiều người cho rằng ngôn ngữ "tuổi teen" không tác động lớn đến đời sống và sự học hành của thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay. Nhưng sự thực hoàn toàn ngược lại và khá nghiêm trọng.

Ngôn ngữ "tuổi teen", kiểu "sát thủ đầu mưng mủ" đang được giới trẻ tôn vinh, cho là hàng... sành điệu. Nhưng càng "sành điệu" bao nhiêu thì tiếng Việt lại càng bị bám bụi bẩn bấy nhiêu. Phải chăng nước Việt Nam văn hiến ngàn năm giờ đã, đang và sẽ xuất hiện một tầng lớp mà cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng ví von là "một lũ lai căng"?

Tiếng Việt đang bị "méo mó"?

Theo Karl Marx, chính lao động đã tạo ra ngôn ngữ. Bởi nhờ có ngôn ngữ con người mới có thể truyền tải kinh nghiệm, tập hợp được lực lượng sản xuất và khiến hoạt động lao động của con người được thực hiện nhịp nhàng, ngày một tinh vi hơn.

Người Việt cổ có nguồn gốc bản địa cũng nhờ lao động mà phát sinh ra ngôn ngữ của chính mình. Bởi thế những công trình thủy lợi (Sơn Tinh, Thủy Tinh) và công cuộc chống ngoại xâm (Thánh Gióng) của người Việt cổ bao giờ cũng có sức lan tỏa nhanh chóng và hiệu quả đến toàn thể cộng đồng, tạo nên bản sắc văn hóa của người Việt cổ.

Nhà nước Văn Lang ra đời chứng tỏ người Việt cổ cũng đã có chữ viết dù cho đến hiện nay vẫn chưa tìm ra được chứng cứ tin cậy chứng minh về điều này. Tuy nhiên nếu đã có Nhà nước thì phải có chữ viết để điều hành các công việc hành chính (như trong truyện Thánh Gióng có sứ giả đi từng làng truyền tin vua Hùng cầu hiền tài giúp nước). Nói dông dài như vậy cũng là để chứng tỏ cùng với quá trình dựng nước và giữ nước của người Việt, tiếng mẹ đẻ đã góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn bản sắc của dân tộc.

Sau này, không biết vì lý do gì, tiếng Việt cổ không còn được sử dụng hoặc đã trở thành một "văn tự chết". Nhưng dù tầng lớp trí thức sử dụng chữ Hán hoặc chữ Quốc ngữ như hiện nay thì tiếng mẹ đẻ vẫn đứng vững trong lòng dân tộc. Đến nỗi mà những từ như áo dài, bún bò không thể dịch ra nghĩa khác ở các cuốn từ điển nước ngoài mà chỉ là AO DAI và BUN BO.

Tiếng Việt giàu và đẹp chính là vì nó đã trường tồn sau lũy tre làng suốt 1000 năm Bắc thuộc, không bị bẻ cong bởi chữ Hán, chữ Pháp và Anh ngữ trong một thời gian khi các thế lực ngoại bang thực hiện sự "đồng hóa" văn hóa. Chính tiếng Việt đã tạo nên sự đậm đà, sâu lắng cho tâm hồn người Việt Nam thêm ý nhị, một dân tộc yêu thơ, văn và lao động cộng đồng.

Nhưng trong đời sống hiện đại, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng đã chỉ ra, nhiều biểu hiện sử dụng tiếng Việt một cách tùy tiện, xu hướng lai căng, "lạm phát" sử dụng các yếu tố tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Anh.

Sự "sáng tạo" một cách vô nguyên tắc, tạo ra xu hướng quái dị, kì quặc trong sử dụng ngôn ngữ, thậm chí là đi ngược lại với đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, cũng là một cách thể hiện sự sa sút về nhân cách.

Không chỉ là các bạn trẻ thế hệ 8X, 9X còn nông nổi, bồng bột, thích cái mới lạ, khác người, thích "cá tính", mà ngay cả các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã góp phần không nhỏ tạo nên sự hỗn loạn, "ô nhiễm" của đời sống ngôn ngữ.



Ảnh minh họa

Ngôn ngữ "tuổi teen": Phá cách quái dị!

Sự nghiệp đổi mới và hội nhập sâu rộng quốc tế đã tạo cho Việt Nam nhiều thời cơ và bên cạnh đó, tạo ra nhiều thử thách. Đối với tiếng Việt thì đó là nguy cơ bị hòa tan, trộn lẫn với những ngôn ngữ quốc tế và ngôn ngữ "phá cách".

Trong giao tiếp hiện nay, thay vì nói "đồng ý" thì nhiều người lại dùng từ OK. Thậm chí việc sử dụng tiếng Anh thuần nhất trong giao tiếp cũng khiến cho những người Ăng - lê xứ sương mù cũng phải lắc đầu ngao ngán. Chẳng hạn thay vì nhắn tin là Good night (Chúc buổi tối vui vẻ) thì giới trẻ Việt giờ đây chỉ nhắn là g9.

Từ g9 được giới trẻ hiểu ngầm là Good night. Nhưng nếu phân tích thì nó lại là một từ viết tắt không chính xác và khá... khôi hài. Bởi g thì có thể là good nhưng 9 thì nào có phải là night (bởi 9 là nine).

Chỉ bằng một ví dụ như vậy ta đã thấy được việc sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay rất tùy tiện, tạp nham, cẩu thả. Nhiều người cho rằng ngôn ngữ "tuổi teen" không tác động lớn đến đời sống và sự học hành của thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay. Nhưng sự thực hoàn toàn ngược lại và khá nghiêm trọng.

Chẳng hạn, một học sinh tin học đoạt giải đã trả lời email một phóng viên như sau:  "><jn lÔo~j méy hem ney 3m b4.n thj wóa, hok kó tjme tr4? loj* em4jl". Nhìn vào đây thì anh chàng phóng viên cũng lắc đầu, không thể hiểu nổi nghĩa của những ký tự bí ẩn này. Nhưng câu giải mã "bí ẩn" này lại là: "Xin lỗi mấy hôm nay em bận thi quá không có thời gian trả lời email".



Những đoạn "ngôn ngữ @" được phần mềm V2V dịch lại

Cũng vì hiện tượng này nên Dương Đăng Trúc Khuyên, một nữ sinh Trường THPT Trần Đại Nghĩa (TPHCM) đã viết nên phần mềm dịch ngôn ngữ @, đặt tên là V2V (Việt sang Việt). Thế nhưng phần mềm V2V vẫn không theo kịp tốc độ biến dạng của ngôn ngữ teen.

Bởi càng về sau, các teen càng có nhiều cách dùng quái đản. V2V phiên bản đầu không dịch chính xác được, buộc tác giả phải tiếp tục nghiên cứu và nâng cấp lên phiên bản 1.3, đến nay đã là... 1.4.

Theo PGS- TS Đặng Ngọc Lệ, Phó Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học VN, Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học TPHCM, giới trẻ hiện nay thích sử dụng ngôn ngữ "chat" trong giao tiếp và hành văn là do tâm lý muốn mình phải khác người. Nhưng theo người viết, có rất nhiều cách để có thể "khác người" thông qua sự cố gắng rèn luyện trong học tập và lao động.

Như chàng thành niên 9X Lê Quang Liêm có vẻ ngoài không @ nhưng lại là Đại Kiện tướng quốc tế. Như vậy đâu cần phải đi xe @, nói ngôn ngữ @, mua hàng hiệu @ là có thể khác người và để giành lấy cái vị nể của thói đua đòi theo kiểu "công tử Bạc Liêu"?

Như vậy liệu có mất gốc? Câu hỏi đó chắc chắn sẽ ám ảnh nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam có tâm huyết trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong bối cảnh ngôn ngữ @ bủa vây đời sống xã hội.

Về một "vấn đề" đã qua

Nếu ngôn ngữ "tuổi teen" và việc sử dụng khập khiễng ngôn ngữ ngoại lai là một bằng chứng cho thực tế tiếng Việt đang "bị bụi bám" thì một vấn đề liên quan đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng đã phát sinh và tạo nên cuộc tranh luận sóng gió trong dư luận thời gian vừa qua.

"Vấn đề" đó là Cục Công nghệ thông tin của Bộ GD và ĐT đã soạn thảo Thông tư hướng dẫn sử dụng tiếng Việt trong máy tính và hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có việc thêm bốn chữ cái vào tiếng Việt.



Từ g9 được giới trẻ hiểu ngầm là Good night. Nhưng nếu phân tích thì nó lại là một từ viết tắt không chính xác và khá... khôi hài. Bởi g thì có thể là good nhưng 9 thì nào có phải là night (bởi 9 là nine).

Theo Tiến sĩ Lê Vinh Quốc, bốn chữ "ngoài luồng": F, J, W và Z dù không có tên trong bảng chữ cái tiếng Việt (gồm 29 chữ) vẫn được xã hội sử dụng thường xuyên và ngày càng được trọng dụng. Và do đó, vấn đề chuẩn hóa bảng chữ cái tiếng Việt đã được đặt ra "một cách cấp bách, để việc sử dụng các chữ cái đó trở nên hoàn toàn thỏa đáng".

Giải pháp khả thi, theo Tiến sĩ Lê Vinh Quốc là phải "bổ sung bốn chữ F, J, W, Z vào bảng chữ cái hiện hành. Sau đó sẽ từng bước xem xét về những tác dụng mới của bốn chữ này". Tuy nhiên, một số ý kiến lại cho rằng không nên thêm bốn chữ cái này vào bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành.

GS.TS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: "bảng chữ cái là thể hiện cách phát âm Việt Nam, không thể bổ sung bất cứ cái gì được. Bổ sung W vào đây thì phát âm thế nào? Một khi đã thêm vào thì phải có sự phân công nhiệm vụ các chữ cái này. Nếu chữ "F" thay "PH" thì sửa hết sách? Mà Thông tư là văn bản quy phạm pháp luật phải theo".

Còn bạn đọc Phạm Trinh của báo Tuổi Trẻ thì viết: "Bản thân tôi cũng là thế hệ cuối 8X. Không phải tôi cổ hủ hay không chịu tiếp thu cái mới, nhưng thêm làm gì khi cách phát âm của bốn chữ cái đó đều có thể dùng bảng chữ cái cũ để diễn đạt. Thêm các chữ cái kia vào là một việc vẽ vời mất thời gian, tốn tiền để chỉnh sửa bảng chữ cái đang rất VN thành một thứ lai căng, rồi phải in lại sách và những hiệu ứng domino khác gây khó khăn cho giáo dục".

Nếu thêm F, J, W, Z vào bảng chữ cái thì tiếng Việt liệu có bị nhùng nhằng? Và ngôn ngữ teen sẽ có thêm "đất dụng võ" trong hành văn, gây ra sự náo loạn trong giao tiếp bằng chữ viết? Những băn khoăn này các nhà ngôn ngữ học và những giới chức liên quan không thể không tính đến trong chiến lược lâu dài. Bởi nếu hội nhập kinh tế mà hòa tan văn hóa thì vị thế người Việt sẽ ở đâu trong cái thế giới vốn không có điểm chung này?

Cũng may, là sau những sóng gió kiểu đó, là... trời yên biển lặng!

NGUYỄN VĂN TOÀN

http://www.quansuvn.net/
Nơi sinh: Việt Nam
thanks 1 người cảm ơn TLA cho bài viết.
Tứ phương trên 17-05-2012(UTC) ngày
Quảng cáo
Offline Tứ phương  
#2 Đã gửi : 17/05/2012 lúc 06:36:29(UTC)
Tứ phương

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức, Hội viên Câu lạc bộ ARV
Gia nhập: 05-12-2011(UTC)
Bài viết: 208
Man
Đến từ: Nơi mẹ sinh tôi ra.

Thanks: 49 times
Được cảm ơn: 120 lần trong 83 bài viết
                                                          Tiếng Việt
                                                                              Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
   Tiếng Việt, hay Việt ngữ, đôi khi cũng được gọi "tiếng Việt Nam", là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại (trong đó có gần 1.8 triệu người Mỹ gốc Việt). Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Hán để viết, sau đó được cải biên thành chữ Nôm, tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại). Ngày nay tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc Ngữ, cùng các dấu thanh để viết.

   Với những cơ sở khoa học gần đây được đa số các nhà ngôn ngữ học thừa nhận, tiếng Việt thuộc hệ Nam Á ở khu vực Đông Nam Á hiện nay, có quan hệ họ hàng gần nhất với tiếng Mường. Xa hơn một chút là các tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Thí dụ, từ tay trong tiếng Việt tương đương trong tiếng Mường là thay, trong tiếng Khmer là đay và trong tiếng Mông là tai.

   Lịch sử
  Tiếng Việt là ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất thân từ nền văn minh nông nghiệp, tại nơi mà ngày nay là khu vực phía bắc lưu vực sông Hồng và sông Mã của Việt Nam.
 
Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với các ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao, hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ 6 (thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam) với ba thanh điệu và phát triển ổn định vào khoảng thế kỷ 12 (nhà Lý) với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô thanh với hữu thanh sang tách biệt.
 
    Ảnh hưởng từ miền nam Trung Hoa
  Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập quốc. Có 6 âm sắc chính là: ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Bắt đầu từ khi Trung Quốc có ảnh hưởng tới Việt Nam, tiếng Việt có rất nhiều âm mà không có trong tiếng Trung Hoa; "đ". Trong quá trình phát triển đã du nhập thêm những từ ngữ Hán cổ như "đầu", "gan", "ghế", "ông", "bà", "cô"..., từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu tố Hán-Việt. Như là "chủ", "ở", "tâm", "minh", "đức", "thiên", "tự do"... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như "nhiệt náo" thành "náo nhiệt", "thích phóng" thành "phóng thích", "đảm bảo" thành "bảo đảm"... Hoặc được rút gọn như "thừa trần" thành "trần" (trong trần nhà), "lạc hoa sinh" thành "lạc" (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như "phương phi" trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", "bồi hồi" trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động"...
 
Đặc biệt là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ "sĩ diện", "phi công" (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay "bao gồm", "sống động", "sinh đẻ" (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt rất lớn. Về lĩnh vực chuyên môn và khoa học thì có thể lên đến 80%. Nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn 12,8%; kịch nói rút xuống còn 8,9%; và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp hơn nữa. Dù ở tỷ lệ nào đi nữa đại đa số những từ đó đều đã được Việt hóa cho phù hợp với nhận thức của người Việt. Tiếng Việt gọi là "thủ tướng" nhưng tiếng Hoa là "tổng lý"; tiếng Việt là "truyền hình" thì tiếng Hoa là "điện thị"; tiếng Việt là "thành phố" thì tiếng Hoa là "đô thị". Những chữ thủ tướng, truyền hình, thành phố hoàn toàn là Hán Việt nhưng người Hoa tuyệt nhiên không dùng. Do vậy tiếng Việt dù vay mượn tiếng Hán nhưng giữ được bản sắc riêng của mình trước ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong khi lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình.
 
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (sông Cầu). Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789.
 
    Ảnh hưởng của Pháp
  Kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho như là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt, ngày càng được phổ biến, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương (chủ yếu là từ tiếng Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và tiếng Hán như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ Gia Định báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc Ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
 
   Thời kỳ 1945 cho đến nay

  Chữ Quốc Ngữ là chữ ghi âm, chỉ sử dụng 27 ký tự Latin và 6 dấu thanh, đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học cao, dễ học, dễ nhớ, thông dụng; thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và tiếng Hán vốn khó đọc, khó nhớ, không thông dụng với người Việt.
 
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, sự phát triển tiếng Việt giữa miền Bắc và miền Nam có chiều hướng khác nhau. Vì các lý do chính trị và kinh tế, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có mối quan hệ gần gũi với Trung Quốc, và sự hiện diện của các chuyên viên nhân sự Trung Quốc đưa nhiều từ Bạch Thoại (ngôn ngữ nói của Trung Quốc) vào ngữ vựng tiếng Việt[cần dẫn nguồn]. Những từ này thường có gốc Hán-Việt, nhưng thường đổi ngược thứ tự hay có nghĩa mới. Tại miền Nam, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ đã đem một số từ tiếng Anh vào ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày.
 Tuy nhiên, trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam thì ở miền Bắc có xu hướng sử dụng từ thuần Việt và ở miền Nam lại có khuynh hướng sử dụng từ Hán-Việt. Ví dụ như miền Nam vẫn giữ tên "Ngân hàng Quốc gia" trong khi miền Bắc đổi thành "Ngân hàng Nhà Nước" (1960), miền Nam lại gọi là "phi trường" thì miền Bắc gọi là "sân bay", miền Nam gọi là "Ngũ Giác Đài" thì miền Bắc gọi là "Lầu Năm Góc", miền Nam gọi là "Đệ nhất Thế chiến" thì miền Bắc kiên quyết gọi là "Chiến tranh thế giới lần thứ nhất", miền Nam gọi là "hỏa tiễn" thì miền Bắc lại gọi là "tên lửa", miền Nam vẫn gọi là "phi công" còn miền Bắc lại đổi thành "người lái máy bay", "giặc lái" (theo ý Hồ Chí Minh)[cần dẫn nguồn], miền Nam vẫn gọi là "thủy quân lục chiến" còn miền Bắc lại đổi thành "lính thủy đánh bộ"... Ngược lại danh từ miền Bắc như "tham quan", "sự cố", "nhất trí", "đăng ký", "đột xuất", "vô tư" v.v. thì miền Nam dùng những chữ "thăm viếng", "trở ngại/trục trặc", "đồng lòng", "ghi tên", "bất ngờ", "thoải mái"... Các từ có gốc phương Tây, miền Nam có khuynh hướng biến đổi thành từ Hán Việt, như Băng đảo, Úc Đại Lợi, Hung Gia Lợi còn miền Bắc có khuynh hướng phiên âm ra thành Ai-xơ-lan, Ơxtrâylia, Hung-ga-ri...
 Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ Bắc Nam được kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa một phần nào. Nhiều từ thuần Việt được sử dụng phổ biến thay cho từ Hán Việt, cũng như với sự tiến triển của internet và toàn cầu hóa, nhiều từ nước ngoài được dùng theo đúng ngôn ngữ gốc.
 
    Phân bố
  Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, và cũng là ngôn ngữ phổ thông đối với các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Thêm vào đó, tiếng Việt được hơn 1 triệu người sử dụng tại Hoa Kỳ (đứng thứ 7 toàn quốc, thứ 3 tại Texas, thứ 4 tại Arkansas và Louisiana và thứ 5 tại California), cũng như trên 100.000 người tại Canada và Úc (đứng thứ 6 toàn quốc).
Theo Ethnologue, tiếng Việt còn được nhiều người sử dụng tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Séc, Sénégal, Thái Lan, Trung Quốc và Vanuatu. Tiếng Việt cũng còn được dùng bởi những người Việt sống tại Đài Loan, Nga...
 
    Tiếng địa phương
   Phương ngữ và Phương ngữ tiếng Việt
  Tiếng Việt có sự thay đổi trong giọng nói từ Bắc vào Nam, không đột ngột mà tiệm tiến dần theo từng vùng liền nhau. Trong đó, giọng Bắc Hà Nội, giọng Trung Huế và giọng Nam Sài Gòn là ba phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh hỏi và thanh ngã ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam. Miền Bắc sử dụng một số phụ âm (tr, ch, n, l...) khác với miền Nam và Trung. Giọng Huế khó hiểu hơn những giọng khác vì có nhiều từ địa phương. Theo trang thông tin của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc[9] và học giả Laurence Thompson[10] thì cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng Hà Nội. Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes lấy tiếng miền Bắc làm nền tảng, Dictionarium Anamitico Latinum (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine lấy tiếng miền Nam làm nền tảng.
 
     Sáu thanh trong tiếng Việt
  Trong tiếng Việt có sáu thanh: ngang (không dấu: a), sắc (nghiêng phải: á), huyền (nghiêng trái: à), hỏi (dấu hỏi: ả), ngã (dấu ngã: ã) và nặng (dấu chấm: ạ). Tất cả các dấu đều được đặt trên nguyên âm, riêng dấu nặng được đặt dưới nguyên âm.
 Chị huyền mang nặng ngã đau Anh ngang sắc thuốc hỏi đầu bớt chưa
Hệ thống thanh điệu của tiếng Việt khá phức tạp (do có những thanh và từ không thể đi chung với nhau - ví dụ: từ "mit" không thể đi với thanh huyền).
  Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, nhưng những từ ghép cũng có nhiều. Nguyên âm đôi và nguyên âm ba rất thông thường.
 
    Ngữ pháp
  Ngữ pháp tiếng Việt
  Mỗi âm tiết trong tiếng Việt khi đi kèm với nhau (nếu có thể) theo một trật tự nào đó đều cho ra nghĩa. Việc đổi trật tự các âm tiết, từ ngữ đều làm nghĩa thay đổi.
 
Ví dụ: với năm âm tiết (năm từ đơn): "sao, nó, bảo, không, đến" khi sắp xếp theo các trật tự khác nhau sẽ cho ra các nghĩa khác nhau.
 
"Sao nó không đến bảo?"; "Sao? Nó bảo đến không?"; "Sao nó đến không bảo?"; "Sao bảo nó không đến?"; "Sao? bảo nó đến không?"; "Sao? Bảo nó đến không?"; "Sao bảo không đến nó?"; "Sao? Đến bảo nó không?"; "Sao đến không bảo nó?"; "Sao đến nó bảo không?"; "Sao không đến bảo nó?"; "Sao không bảo nó đến?"
 
"Nó bảo sao không đến?"; "Nó bảo không đến sao?"; "Nó đến, sao không bảo?"; "Nó đến, không bảo sao?"; "Nó đến, sao bảo không?"; "Nó đến bảo không sao!"; "Nó đến, bảo sao không?"; "Nó không bảo, sao đến?"; "Nó không bảo đến sao?"; "Nó không đến bảo sao?"
 
"Bảo sao nó không đến?"; Bảo! Sao không đến nó?"; "Bảo nó sao không đến?"; "Bảo nó: đến không sao."; "Bảo nó đến sao không?"; "Bảo nó không đến sao?"; "Bảo đến sao nó không?"; "Bảo đến nó không sao!"; "Bảo không, sao nó đến?"; "Bảo! Không đến nó sao?"
 
"Đến! Sao nó bảo không?"; "Đến! Sao bảo nó không?"; "Đến nó bảo không sao."; "Đến nó không bảo sao."; "Đến nó sao không bảo?"; "Đến bảo nó không sao!"; "Đến bảo sao nó không…"; "Đến không bảo nó sao?"; "Đến không? Bảo sao nó..."
 
"Không sao! Bảo nó đến."; "Không! Nó bảo sao đến?"; "Không! Nó đến bảo sao?"; "Không bảo sao nó đến"; "Không bảo nó đến sao?"; "Không đến sao nó bảo?"; "Không đến bảo nó sao."
 
   Ngày nay, ngoài các từ tiếng Việt mượn của tiếng Hán hoặc các tiếng Ấn-Âu thì tất cả các từ còn lại được coi là các từ thuần Việt. Những từ được gọi là thuần Việt này thường là bộ phận từ vựng gốc của tiếng Việt, biểu thị các sự vật, hiện tượng, khái niệm cơ bản nhất và tồn tại từ rất lâu. Nếu so sánh các từ trong bộ phận thuần Việt này với các từ tương ứng trong tiếng Mường, các tiếng Tày-Thái, Môn-Khơme, người ta thấy chúng có sự giống nhau nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa. Từ đó, các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra ba giả thuyết chủ yếu sau về nguồn gốc của tiếng Việt:
 1.Các nhà ngôn ngữ học như J.R. Logan, Wilhelm Schmidt, André-Georges Haudricourt, cho rằng tiếng Việt cổ bắt nguồn từ ngôn ngữ Môn-Khơme thông qua luận cứ chủ yếu là: tiến trình chuyển biến từ tiếng Việt cổ không có thanh điệu (như phần lớn các ngôn ngữ Nam Á) sang tiếng Việt hiện đại có thanh điệu. Nền tảng Nam Á trong vốn từ vựng cơ bản của tiếng Việt chiếm tỉ lệ rất lớn.
 2.Các nhà ngôn ngữ học như Henri Maspero cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc từ các tiếng Tày-Thái, qua việc căn cứ vào sự giống nhau của các từ cơ bản cũng như cơ cấu cấu tạo từ và thanh điệu giữa chúng. Maspero cho rằng tiếng Việt cổ sinh ra do sự hòa trộn giữa một phương ngôn Môn-Khơme và một phương ngôn Thái. Theo luận cứ của Maspero, tiếng Việt không có phụ tố giống như các tiếng Thái, trong khi các tiếng Môn-Khơme có nhiều phụ tố, nhất là tiền tố và trung tố; và tiếng Việt có hệ thống thanh điệu giống tiếng Thái cổ, trong khi các tiếng Môn-Khơme không có thanh điệu[12].
 3.Giả thuyết thứ ba cho rằng tiếng Việt sinh ra do sự kết hợp các ngôn ngữ Nam Á và Tày-Thái. Giả thuyết này do George Coedès đưa ra năm 1949. Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương căn cứ trên tiến trình biến đổi hình thái học của từ cũng đi đến kết luận này[13].
 
    Từ thuần Việt
  Nếu coi từ thuần Việt là kết quả của quá trình tiếp xúc, tác động lâu dài giữa các ngôn ngữ Nam Á và Tày-Thái thì các từ này hình thành nên một lớp từ vựng cơ bản và lâu đời nhất trong tiếng Việt, có thể chia ra như sau:
 Những từ tương ứng với tiếng Mường như: [đuôi, móng, mồm, sừng...]; [cô gái, đàn ông, vợ, chồng...]; [cây, củ, cơm, mả...]; [bí, cỏ, chuối, hành...], [bướm, cáo, cầy, chuột...]; [bẩn, cay, chậm, dài...], [ăn, bơi, cấy, chạy...]
 Những từ tương ứng với các tiếng Tày-Thái như: bánh, bóc, buộc, đường, gọt, ngắt, ngọn, rẫy, vắng...
 Những từ tương ứng với các tiếng Việt-Mường và Tày-Thái như: bão, bể, dao, gạo, ngà voi, sống...
 Những từ tương ứng với nhóm Việt-Mường và Bru ở tây Quảng Bình: bụng, bốc, bớt, củi, đêm, mặt trăng, mặt trời, núi, rắn, chuột...
 Những từ tương ứng với nhóm Việt-Mường và Môn-Khơme ở Tây Nguyên: [dốc, đèo, khói, mây, mưa, rừng, sấm...]; [da, đầu gối, mỡ, người, óc, tim, thịt...]; [bố, bọn, mày, mẹ, nó...]; [bếp, cày, chổi, cuốc, ruộng...]; [bịt, bóp, bú, bưng, cắn, cắt, đứng, gãi, hét, lắc, mặc, nghĩ, ngồi, phá, quăng, ôm, rụng, tát, về, xé...]
 Những từ tương ứng với nhóm Việt-Mường và các ngôn ngữ Môn-Khơme nói chung: [một, hai, ba, bốn, năm...]; [con, cháu, mọi, người]; [đất, đá, gió, lửa...]; [cằm, chân, cổ, lưng...]; [bay, cắt, đẻ, kẹp, liếc...]; [ao, cá, chim, lá...]; [cong, già, mới, ngát]
 
    Từ Hán-Việt
  Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán bắt đầu khi nhà Hán của Trung Quốc xâm chiếm nước Việt. Quá trình tiếp xúc lâu dài đã đưa vào tiếng Việt một khối lượng từ ngữ rất lớn của tiếng Hán. Hiện tượng này diễn ra khác nhau trong các thời kỳ. Giai đoạn đầu có tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chủ yếu thông qua đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc giữa người Việt và người Hán. Đến đời Đường, tiếng Việt mới có sự tiếp nhận các từ ngữ Hán một cách có hệ thống qua đường sách vở. Các từ ngữ gốc Hán này chủ yếu được đọc theo ngữ âm đời Đường tuân thủ nguyên tắc ngữ âm tiếng Việt gọi là âm Hán-Việt. Ví dụ: phiền, phòng, trà, trảm, chủ... Các từ ngữ gốc Hán nhưng không đọc theo âm Hán-Việt ngoài các từ được du nhập vào tiếng Việt trước đời Đường (ví dụ các âm Hán cổ tương ứng với các âm Hán-Việt trên là buồn, buồng, chè, chém,...), cũng cần kể đến những từ xuất phát từ các phương ngữ Trung Quốc khác nhau (như tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu...) được du nhập thông qua đường khẩu ngữ như: ca la thầu, mì chính, xì dầu, bánh pía, sương sáo, lẩu...
 
    Từ ngoại lai

  Kể từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng đáng kể đến tiếng Việt và các từ ngữ gốc Pháp thâm nhập khá nhiều vào tiếng Việt, chỉ sau từ Hán-Việt. Sự ảnh hưởng này là do tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Nhà nước và trong giảng dạy ở nhà trường, cũng như trong các loại sách báo khác. Ảnh hưởng này kéo theo sự xuất hiện của nhiều từ gốc Pháp trong nhiều lĩnh vực khác nhau như:
 Tên món ăn: bít tếch, kem, pho mát, rượu vang, xúc xích...
 Tên quần áo: may ô, si líp, sơ mi, vét tông, gi lê, len...
 Tên thuốc: canxi, vitamin, pênixilin...
 Thuật ngữ quân sự: lô cốt, đoan, com măng đô, công voa...
 Thuật ngữ âm nhạc: tăng gô, ácmônica, viôlông...
 Thuật ngữ khoa học kỹ thuật: bê tông, cao su, ô tô, nhà ga, phanh ...
 
Đồng thời qua tiếng Pháp, một số từ tiếng Anh, tiếng Đức cũng du nhập vào tiếng Việt, ví dụ như: mít tinh, boong ke, bồi bàn, buyn đinh...
 
Ngoài ra, ảnh hưởng của Nga cũng dẫn đến sự du nhập của một số từ gốc Nga như: bônsêvích, Xô Viết,...
 
Tiếng Hoa cũng đóng góp một số từ ngữ qua ngả vay mượn âm, không phải qua ngả mượn nghĩa của Hán Việt, thí dụ như: chạp phô, tẩy chay, tài xế, lì xì, lạp xưởng, mì chính...
 
    Từ hỗn chủng
 Từ hỗn chủng là sử dụng hỗn hợp của 3 loại trên

   Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latin gọi là chữ Quốc Ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, chữ Quốc Ngữ phát triển từ trước thế kỷ thứ 17 rồi được chuẩn định do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Ông là người cho in cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum năm 1651.
 
Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, chữ Quốc Ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả các văn bản viết đều dùng nó kể từ sau thập niên 1920. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chính) và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ thuần Việt – ngôn ngữ dân gian). Chữ Nôm tồn tại cho đến đầu thế kỷ 20 mới mất vị trí là công cụ truyền đạt ý tưởng văn chương tiếng Việt.
 
   Có thuyết cho rằng người Việt đã có chữ viết từ thời Hùng Vương, là loại chữ được các tài liệu về sau gọi là "khoa đẩu" ("chữ nòng nọc") hay "hỏa tự" ("chữ lửa"). Sau nhiều năm nghiên cứu, nhà giáo Đỗ Văn Xuyền đã lập được một bộ chữ cái mà ông cho là của loại chữ viết trên, cùng một bảng song ngữ với chữ cái Latin[14]. Thuyết này chưa được công nhận rộng rãi tại Việt Nam.
Ngày nay, chữ Nho và chữ Nôm không còn thông dụng ở Việt Nam; chữ Nôm đã bị mai một nhiều.
 
     Thư pháp

  Cùng với chữ Hán, chữ Nhật và chữ Hàn, chữ viết tiếng Việt cũng được nhiều người yêu thích thư pháp nâng lên thành một nghệ thuật.
 
Có thể nói, thư pháp chữ Việt đầu tiên được viết là thư pháp chữ Nôm. Dần dần, cùng với việc chữ Nôm bị thay thế bởi chữ Quốc Ngữ, do nhu cầu treo chữ trong nhà, người ta đã khởi xướng thư pháp chữ Quốc ngữ.
 
    Bộ gõ chữ Việt
  Để có thể viết chữ Việt trên máy tính, cần có bộ gõ tiếng Việt là một loại phần mềm hỗ trợ soạn thảo văn bản bằng tiếng Việt trên máy tính, thường cần phải có phông ký tự chữ Quốc ngữ đã được cài đặt trong máy tính. Các bộ gõ tiếng Việt khác nhau sẽ quy định các phím bấm khác nhau cho các dấu thanh, dấu mũ và dấu móc. Có những quy ước chuẩn dấu tiếng Việt, bộ mã, cách gõ và những phần mềm khác nhau. Hiện nay, bộ mã chữ Việt theo chuẩn quốc tế Unicode là được dùng phổ biến nhất.
 
    Chính tả

   Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc ngữ đã được Ủy ban Cải cách chữ Quốc ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
 
     Các định nghĩa
  Các định nghĩa sau quan trọng cho việc xây dựng các quy tắc chính tả:
 Âm tiết Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng được phát ra với một thanh điệu, và tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng Việt được ghi thành một "chữ" và đọc thành một "tiếng". Ví dụ: từ "hoa hồng bạch" gồm 3 chữ, 3 tiếng hoặc 3 âm tiết. Từ Từ là đơn vị nhỏ nhất của lời nói mang đầy đủ ý nghĩa truyền tải. Từ có thể gồm duy nhất một âm tiết (từ đơn âm) hoặc cấu thành từ nhiều âm tiết (từ đa âm). Nguyên âm Các nguyên âm là a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư và y. Trong đó, các nguyên âm có dấu phụ là ă, â, ê, ô, ơ và ư. Bán nguyên âm Chỉ có 3 trường hợp của oa, oe, uy thì có o và u là bán nguyên âm, đóng vai trò đệm cho nguyên âm. Có nghĩa là o và u không được xem là nguyên âm trong tổ hợp 3 âm tiết trên. Phụ âm Các phụ âm là b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x. Tổ hợp phụ âm Các phụ âm ghép chuẩn là ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr, gi và qu. Ngày nay, các tổ hợp phụ âm không được nhìn là chữ riêng khi sắp xếp theo chữ cái, cho nên những từ điển mới bỏ ch ở giữa ca và co, nhưng một số từ điển cũ, như là Từ-Điển Thông-Dụng Anh-Việt Việt-Anh của Nguyễn Văn Khôn năm 1987, bỏ ch đằng sau co. Chú ý: gi và qu là tổ hợp bán phụ âm. Tại đây, i và u không là nguyên âm, mà chỉ là một bộ phận của phụ âm bất khả phân li               Đặt dấu thanh
  Quy tắc đặt dấu thanh trong tiếng Việt
  Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, một trong các quan điểm đó như sau:
 1.Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /zero/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
 2.Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quờ, thuỷ, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt...
 3.Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi: Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
 Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: ỉa, tủa, cứa, thùa, khứa...
 
4.Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia": Với "ia" thì thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (có trong từ "giặt gịa" và đọc là zịa [ʐie6]).
 Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /zero/.
  Trong đời sống, hiện vẫn tồn tại hai cách đặt dấu thanh trong tiếng Việt. Ví dụ "hòa" là một cách đặt dấu thanh khác cho "hoà", trong đó "hòa" còn gọi là cách đặt dấu thanh "cũ". Bảng sau liệt kê các trường hợp mà hai cách đặt dấu thanh khác nhau:
 
   òa, óa, ỏa, õa, ọa
   oà, oá, oả, oã, oạ
   òe, óe, ỏe, õe, ọe
   oè, oé, oẻ, oẽ, oẹ
   ùy, úy, ủy, ũy, ụy
   uỳ, uý, uỷ, uỹ, uỵ
 
     Quy tắc sử dụng chữ I và Y
  Kiểu mới
  Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lí cách dùng hai chữ i-ngắn và y-dài hiện nay như sau:
 Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /zero/, âm chính /i/ và âm cuối /zero/, thì có hai cách viết: 1.1. Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
 2.2. Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
 
Đối với các âm tiết có âm đệm /zero/ và âm chính /ie/ thì dùng "i". Ví dụ: chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /zero/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
 Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /ie/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
 Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /zero/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
 Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi... 1.3. Dùng "i" trong trường hợp các tiếng có phụ âm đầu + vần "i" ( ví dụ: lí, mĩ, kĩ, thi, sĩ...) đều thống nhất viết bằng "i" (i ngắn). Ví dụ: lí luận, lí tưởng, thi sĩ, nước Mĩ, Hoa Kì, bánh mì, vua Lí Thái Tông, Lí Bí, kỉ niệm, v.v... (mà không viết "y" (y dài) như trước đây. Đây là quy định của Bộ Giáo duc Việt Nam từ năm 1963 [cần dẫn nguồn]. Hiện nay Nhà xuất bản Giáo dục vẫn thực hiện nghiêm chỉnh quy định này trong việc in Sách giáo khoa các loại.
  Kiểu cũ
  Cách dùng "i" hoặc "y" kiểu cũ thì thường căn cứ vào Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh (1931). Theo đó thì "y" được dùng thay "i" với những từ gốc Hán Việt nếu đứng sau các phụ âm h, k, l, m, t, và q (qu). Vì vậy nên có "ngựa hí", "tì tay" (gốc Nôm) nhưng "song hỷ", "tỵ nạn" (gốc Hán Việt). Những phụ âm khác thì vẫn dùng "i" như "tăng ni" chứ không có ny. Người Việt ở hải ngoại dạy tiếng Việt cho trẻ em dùng mẹo để nhớ sáu phụ âm trên bằng câu "học mau lên kẻo ta quên".
 
    Dấu hỏi hay dấu ngã

  Tiếng Việt có 6 thanh là ngang (hoặc không) – sắc – huyền – hỏi – ngã – nặng. Đối với một số người, việc phân biệt hai thanh hỏi và ngã khá phức tạp
Ta ném mình giữa dòng đời đen bạc/ Mất mát đắng cay một thời lầm lỡ.
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.