Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline becon2012  
#1 Đã gửi : 16/07/2012 lúc 10:40:53(UTC)
becon2012

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 03-06-2012(UTC)
Bài viết: 391
Woman
Đến từ: NGÕ CỤT

Thanks: 154 times
Được cảm ơn: 92 lần trong 66 bài viết

Hy vọng cho bệnh nhân AIDS

Email In PDF.

Kỳ 1: Tìm nguồn gốc căn bệnh quái ác

(PL&XH) - Nguồn gốc của AIDS và
HIV đã làm đau đầu các nhà khoa học từ khi họ phát hiện được những ca bệnh đầu tiên vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước.

 


Hơn 30 năm qua, đây là chủ đề của rất nhiều cuộc tranh luận nảy lửa, từ
chuyện một tiếp viên hàng không khá nổi tiếng có quan hệ tình dục bừa
bãi và làm lây lan một căn bệnh "quái lạ", đến các loài vật gây bệnh,
các thí nghiệm “khoa học” của chủ nghĩa phát xít... Vậy thì đâu là sự
thật?

 

Ca bệnh đầu tiên

Các ca bệnh AIDS đầu tiên được thừa nhận
xảy ra tại Mỹ vào đầu những năm 80 thế kỷ trước. Một số người có quan
hệ tình dục đồng giới nam tại New York và San Francisco đột nhiên mắc
những bệnh nhiễm trùng rất hiếm gặp từ trước đến lúc đó, trong đó 5
người bị viêm phổi do Pneumocystic carinii và 26 người bị ung thư  Kaposi mà các thầy thuốc hàng đầu đành phải bó tay.

Tất cả các bệnh nhân đều có một điểm
chung là bị suy giảm hệ miễn dịch một cách kỳ lạ, hệ thống miễn dịch của
họ thậm chí còn không đủ sức chống đỡ các nhiễm trùng đơn giản. Chẩn
đoán ban đầu là GRID, đặt theo chữ cái đầu của cụm từ "Gay Related
Immunodeficiency Disease" (bệnh suy giảm miễn dịch liên quan với người tình dục đồng giới nam).

Nhưng sau đó căn bệnh lạ được đổi tên
thành AIDS. Chẳng bao lâu sau đó, HIV (Human Immunodeficiency Virus)
được chính thức phát hiện và công bố. Dịch AIDS chính thức được Michael
Gottlieb và cộng sự công  bố trên tờ Morbidity and Mortality Weekly
Report vào ngày 5 - 6 -1981, đó là các trường hợp tình dục đồng giới nam bị viêm phổi do nhiễm Pneumocystis carinii.

Vào cuối năm 1983, Giáo sư Luc
Montagnier và cộng sự tại viện Pasteur Paris phát hiện ra virus gây bệnh
và đặt  tên là "LAV- lymphadenopathy associated virus" (virus có liên
quan đến bệnh hạch lymphô). Gần nửa năm sau, Gs Robert Gallo và nhóm
nghiên cứu tại NIH (National Institute of Health) cũng phát hiện một
virus như thế và đặt tên là "HTLV III - Human T-cell lymphotropic virus"
(virus ưa tế bào lymphô T của người) và tự cho mình là người đã phát hiện ra virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).

Chính việc này đã dấy lên 1 cuộc tranh
cãi gay gắt giữa hai nhóm nghiên cứu trên. Đến tháng 3-1987, cuộc tranh
cãi này mới chính thức chấm dứt khi Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và Tổng
thống Pháp quyết định đứng ra dàn xếp, tuyên bố Luc Montagnier và Robert Gallo là đồng tác giả phát hiện ra HIV.

Các giả thuyết về nguồn gốc phát sinh HIV

Tuy nhiên để xác định rõ căn nguyên,
nguồn gốc của căn bệnh thế kỷ này thì không hề đơn giản chút nào. Cũng
có rất nhiều các giả thuyết khác nhau cho rằng SIV là một họ virus lớn
tồn tại ở nhiều loại khỉ châu Phi. Tuy nhiên, tinh tinh là loài khỉ
không đuôi duy nhất bị nhiễm một cách tự nhiên (chứ không phải con
người). Ở một thời điểm nào đó trong quá khứ gần, SIV đã lây nhiễm sang người và đột biến trở thành HIV.

Kể từ đó, nó trở thành đại dịch, cướp đi
sinh mạng của hơn 20 triệu người và lây nhiễm cho 15 triệu người khác
trên thế giới. Theo các nhà khoa học, địa điểm lây truyền sang người là
vùng Guinea-Bissau ở Tây Phi. Nhiều nhà khoa học tin rằng sự lây truyền xảy ra nhiều hơn một lần bởi có nhiều dạng AIDS ở người.

Thời điểm lây truyền vẫn là một vấn đề.
Hàng triệu người châu Phi bị buộc phải rời bỏ nhà cửa với thân phận nô
lệ vào thế kỷ 19 và không ai trong số họ bị nhiễm virus. Điều đó cho thấy nguồn gốc của AIDS phải có từ sau năm 1860.

Giả thuyết thứ hai lại cho rằng, HIV là
một loại virus từ trước vẫn sống chung hoà bình với con người, nhưng do
tác động và sự thay đổi đột ngột của tự nhiên cùng với những sự ô nhiễm
môi trường sống do con người gây ra mà chúng trở nên ác tính và "quay
sang" tấn công con người. Do đã có thời gian "chung sống" với con người
nên loại virus này rất dễ dàng tấn công và "khu lập" được hệ thống miễn dịch của con người một cách dễ dàng…

Giả thuyết khác có phần tiêu cực hơn lại
cho rằng HIV là do chính con người tạo nên trong chiến tranh Thế giới
lần thứ II. Theo những lập luận của một số học giả và các nhà sử học thì
phát xít Đức đã ra lệnh cho một tổ nghiên cứu đặc biệt bao gồm các bác
sỹ, những nhà sinh - hóa học… nghiên cứu tìm ra một loại virus có khả
năng "tiêu diệt" con người trên diện rộng, với tốc độ lây lan nhanh
chóng và đặc biệt là không có loại kháng thể nào có thể ngăn chặn được
sức tàn phá của nó. Và bước đầu những thành công của các nhà nghiên cứu
đã được bọn phát xít áp dụng nhằm chống lại quân Đồng minh, chúng đã đưa
ra nhiều loại virus có khả năng gây bệnh, không loại trừ khả năng trong đó có loại virus làm suy giảm hệ thống miễn dịch của con người.

Cũng có nhiều người theo đạo Thiên chúa
còn khẳng định rằng chính Chúa trời đã tạo ra loại virus này để trừng
phạt loài người, và đưa con người đến bờ vực của sự diệt vong nhưng đó
thì cũng chỉ là những học thuyết của các nhà duy tâm và không hề có bất kỳ sở cứ khoa học nào.

Nhưng có lẽ giả thuyết có khá nhiều
người ủng hộ và dễ chấp nhận hơn cả là HIV có thể tồn tại trong một bộ
lạc sống cách biệt với nền văn minh của nhân loại. Nhưng do thế giới
ngày càng có nhiều sự thay đổi về cục diện kinh tế, xã hội như du lịch
phát triển, quan điểm sống thay đổi, giải phóng tình dục... nên đã là
nguyên nhân làm lan tràn HIV trên toàn thế giới. Dù rằng hiện nay có
bằng chứng rõ ràng chứng minh HIV gây ra AIDS, nhưng cho đến nay vẫn còn có người cứ nhất định không thừa nhận mối liên hệ này.

Cho nên, để tìm ra nguồn gốc của AIDS,
cần phải truy tìm nguồn gốc cấu tạo của HIV, và bằng cách nào, khi nào
và từ đâu mà HIV lần đầu tiên bắt đầu gây bệnh cho người chứ không chỉ
dựa vào những giả thuyết còn nhiều nghi vấn. Việc nghiên cứu cấu tạo vi
rus HIV đã giúp các nhà khoa học đạt được những thành công như thế nào
trong việc chữa trị căn bệnh thế kỉ? Báo Pháp luật & Xã hội sẽ chuyển thông tin tới bạn đọc vào các số báo sau.

Kỳ 2: Nghiên cứu virus HIV để tìm ra thuốc đặc trị

(PL&XH) - Để tìm ra phương
thuốc điều trị HIV thì phải hiểu rõ loại virus nguy hiểm này, trên cơ sở đó mới có được phác đồ điều trị hữu hiệu nhất.

Các nhà khoa học trên thế giới đã tích cực nghiên cứu những điểm cơ bản về HIV để kiếm tìm ra loại thuốc đặc trị nó…

Đặc tính

HIV thuộc nhóm Lentivirus, và giống như
mọi virus thuộc tuýp này, nó sẽ tấn công hệ miễn dịch của con người.
Lentivirus lại thuộc vào 1 nhóm virus lớn hơn gọi là Retrovirus.
Lentivirus có nghĩa là virus chậm cần có nhiều thời gian để gây ra tác
dụng có hại cho cơ thể. Nhóm virus này gặp ở nhiều loài động vật khác
nhau như: mèo, cừu, ngựa và trâu bò... Tuy nhiên, tuýp Lentivirus mà các
nhà khoa học quan tâm khi nghiên cứu nguồn gốc của HIV lại là SIV (Simian Immunodeficiency Virus), một loại virus gây bệnh ở loài khỉ.

HIV là 1 virus có tính thay đổi cao, đột
biến dễ dàng. Điều này có nghĩa là ngay trong cơ thể của  người bị
nhiễm cũng có nhiều chủng HIV khác nhau. Dựa trên những điểm tương tự về
di truyền, ta có thể phân loại vô số các chủng virus khác nhau đó thành từng tuýp, nhóm và phân tuýp. Có 2 tuýp HIV là: HIV-1 và HIV-2.

Cả 2 tuýp này đều có thể lây truyền qua
quan hệ tình dục, qua đường máu, và từ mẹ sang con. Cả 2 tuýp này dường
như đều gây bệnh cảnh lâm sàng AIDS khá giống nhau nên rất khó để mà
phân biệt. Tuy nhiên, HIV-2 lại không dễ lây như HIV-1, và thời gian kể từ lúc mới bắt đầu nhiễm cho đến khi xuất hiện bệnh thường dài hơn.

Nhưng trên toàn thế giới hiện nay, HIV-1
chính là nhóm gây đại dịch  AIDS, và khi nói nhiễm HIV mà không kèm
theo tuýp, tức là đang nói tới HIV-1. Trên thực tế HIV-2 rất ít gặp, chủ
yếu loại này thường khu trú tại Tây Phi, ít  khi thấy ở nơi khác. HIV-2
có 8 nhóm phụ, từ A đến H. Các chủng HIV-1 có thể được phân thành 3
nhóm như sau:  nhóm "M" (major, nghĩa là nhóm chính), nhóm "O" (outlier,
nhóm ngoài rìa) và nhóm "N" (new, nhóm mới hoặc non- M  non- O). Chính 3
nhóm này đại diện cho 3 đợt du nhập riêng rẽ của virus SIV  gây suy giảm hệ miễn dịch của khỉ sang người.

Nhóm O dường như chỉ khu trú tại vùng
Tây Phi, còn nhóm N cực  kỳ   hiếm gặp, chỉ mới được phát hiện vào năm
1998 tại Cameroon. Có trên 90%   các trường hợp nhiễm HIV-1 đều thuộc
nhóm M. Trong HIV-1 nhóm M, có ít nhất là 9 phân tuýp (subtype hoặc
clade). Những phân tuýp đó được gọi lần lượt là A, B, C, D, F, G, H, J
và K. Đôi khi 2 virus thuộc 2 phân tuýp khác nhau cùng hiện diện trong
tế bào của người nhiễm và chúng hoà trộn các chất liệu di truyền để tạo
thành 1 virus lai (được gọi là hybrid) mới. Đây là 1tiến trình tương tự 
như sinh sản hữu tính, cho nên đôi khi còn được gọi là sự giao phối của
virus (viral sex). Nhiều loại virus thuộc chủng mới này không sống sót
lâu được, nhưng những chủng nào gây nhiễm được cho người khác sẽ được gọi là CRFs (các thể tái tổ hợp lưu thông).

Lấy ví dụ CRF A/B là sự kết hợp của các
phân  tuýp A và B. Hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện có đến 30 CRF.
Việc sắp xếp các chủng HIV thành các  phân tuýp và CRF là 1 chủ đề khá
rối rắm và các  định nghĩa phân loại thường phải thay đổi khi có những
phát hiện mới. Một số nhà khoa học cứ gọi A1, A2, A3, F1 và F2 là phân tuýp mặc dù nhiều người   coi A và F mới đúng là phân tuýp.

CRF A/E được coi là do sự lai tạo giữa
phân tuýp A và 1 phân tuýp "gốc"  là E. Tuy nhiên, chưa ai thấy được
phân tuýp E ở dạng riêng rẽ. Lại còn rối rắm hơn, khi nhiều người vẫn cứ
coi CRF A/E là phân tuýp E (trên thực tế phải gọi  là CRF01_AE mới
đúng). Một virus được phân lập tại Cyprus lúc đầu được xếp   vào nhóm
phụ mới I , sau đó được phân loại lại là một thể kết hợp của A/G/I. 
Hiện nay, virus này được coi là đại diện cho 1 CRF phức tạp gồm những
phân nhóm A, G, H, K và những vùng không phân loại đựơc. Thành ra tên gọi I  không còn được sử dụng nữa.

Phân bố các phân tuýp và CRF của HIV-1

Các phân  tuýp HIV -1 và CRF đựơc phân
bố không đều trên thế giới,  trong đó các phân typ B và C phân bố rộng
rãi nhất. Phân tuýp C chủ yếu gặp tại miền đông và  nam châu Phi, Ấn độ
và Nepal. Phân chủng này gây ra các vụ dịch HIV nặng  nề nhất và khoảng một  nửa các trừơng hợp nhiễm hiện nay là do phân chủng này.

Về mặt lịch sử, phân tuýp B là phân tuýp
CRF thừơng gặp nhất tại châu Âu, châu Mỹ, Nhật , và châu Úc. Tình hình
này có thay đổi chút ít, bởi vì hiện nay ít nhất 25 % những trường hợp
mới nhiễm tại châu Âu là do các phân tuýp mới khác. Phân bố các phân
tuýp HIV-1 M theo vùng địa lý. Phân tuýp A và CRF A/G nổi trội tại Tây
Phi và Trung Phi, phân tuýp A cũng đóng vai trò chủ đạo gây vụ dịch tại Nga.

Phân tuýp D nói chung chỉ khu trú tại
Đông phi và Trung Phi; A/E phổ biến tại Đông nam Á , nhưng vốn có nguồn
gốc từ Trung Phi; F đựơc tìm thấy tại Trung Phi, Nam Mỹ  và  Đông Âu ; G
và A/G đựơc ghi nhận tại Tây Phi và đông Phi và tại Trung Âu .Phân nhóm
H chỉ tìm thấy tại Trung Phi ; J chỉ có tại Trung Mỹ; và K chỉ có tại Cộng hoà Dân chủ Congo và Cameroon.

Hiện nay, HIV được chấp nhận là hậu duệ 
của SIV bởi vì một số chủng  SIV có cấu trúc di truyền rất giống với
HIV-1 và HIV-2. HIV-2 tương ứng với  SIVsm, là 1 chủng của SIV được tìm
thấy ở loài khỉ mặt xanh (sooty mangabey), đây là một loài khỉ  bản địa
vùng tây Phi. Còn typ HIV-1, có "độc lực" mạnh hơn, gây đại dịch nhiều
hơn. Mãi cho đến năm 1999, mới xác định  được đối tác gần gũi nhất của
HIV-1 là SIVcpz, là SIV tìm thấy ở loài tinh tinh (chimpanzee). Tuy
nhiên, chủng virus này vẫn còn có một số khác biệt với HIV ở nhiều điểm quan trọng.

Như vậy, có thể thấy rằng việc phân tích
cấu trúc cũng như sự phức tạp trong phân loại virus HIV đã chứng tỏ một
điều rằng sẽ không dễ dàng để tìm được loại thuốc đặc trị cho căn bệnh
thế kỷ. Có thể khẳng định rằng đây là một trong những loại virus "khó
trị" nhất trong lịch sử nhân loại, nhưng điều đó không có nghĩa là không có hy vọng cho những người chót mang trong mình loại virus quái ác này…

Kỳ 3: Những thành công đầu tiên

(PL&XH) - Hầu hết mọi loại
bệnh, con người đều có thể tìm ra được thuốc chữa. Riêng trường hợp bị
lây nhiễm HIV thì vô cùng khó khăn, người ta đã tốn nhiều công sức và tiền của để tìm ra phương thuốc đặc trị căn bệnh này.

Đã có tín hiệu lạc quan khi một nhóm các
nhà khoa học quốc tế phát hiện ra một mấu chốt quan trọng để chế ra loại thuốc có khả năng diệt được virus HIV…

 

Phương pháp chữa trị và tương lai HIV

Dựa trên sự khám phá và phân tích cấu
tạo vi rút HIV, các nhà nghiên cứu đã có cơ hội tìm ra được phương pháp
để điều trị bệnh nhân bị nhiễm HIV. Một số phương pháp điều trị từ trước
đến nay đã được phổ biến trên toàn cầu như sử dụng các loại thuốc do
các nhà khoa học đã nghiên cứu ra và chế biến thành loại thuốc chữa trị,
phục hồi và duy trì các chức năng miễn dịch của cơ thể, đồng thời cải
thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên những phương pháp trên
mới chỉ dừng ở mức độ ngăn cản vi rút sản sinh và kéo dài được tuổi thọ của bệnh nhân.

Loại thuốc đầu tiên được chế vào năm
1987 là AZT (Zidovudine), tạm dịch là một loại thuốc ngăn chặn tác dụng
của men transcriptase sao chép đảo nghịch. Theo các tài liệu nghiên cứu
cho biết, HIV là loại vi rút tự tái tạo bằng cách sao chép bản thân cơ
thể của nó lên nhiều lần. Chính vì vậy mà các loại thuốc được chế ra với
mục đích ngăn chặn sự sao chép này đồng thời ngăn cản sự tổng hợp DNA
để làm đứt đoạn chuỗi DNA mà vi rút HIV sử dụng để sao chép bản thân.
Năm 1994, các nhà nghiên cứu cho hay, loại thuốc AZT này có thể làm giảm 2/3 trẻ em sơ sinh lây nhiễm HIV từ mẹ.

Có hai loại thuốc dùng để ngăn cản men
sao chép đảo nghịch (Reverse Transcriptase): Loại thứ nhất là thuốc ngăn
cản men sao chép đảo nghịch Nucleoside (Nucleoside/Nucleotide Reverse
Transcriptase Inhibitors - NRTIs) dùng để ngăn chặn sự tổng hợp DNA và
làm đứt đoạn chuỗi DNA mà vi rút sử dụng để sao chép bản thân. Loại thứ
hai là thuốc ngăn chặn men sao chép bản thân phi Nucleoside (Non -
nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitors - NNRTIs) dùng để giữ chặt
men sao chép đảo nghịch làm cho vi rút không thể thực hiện chức năng sao
chép lại bản thân. Ngoài ra, còn một loại thuốc khác dùng để chữa trị
HIV gọi là ngăn cản men Protease (Protease Inhibitors) được sản xuất vào
năm 1995, có tác dụng ngăn chặn vi khuẩn mà HIV cần để tái tạo ra các thành phần cấu tạo của vi rút (tạm gọi là sao chép bản thân).

Trong tương lai, Tiến sĩ Anderson (đứng
đầu một nhóm nghiên cứu độc lập) tin tưởng rằng sẽ sản xuất được một
loại vắc xin có thể phòng bệnh được nhưng ông không chắc nó sẽ có hiệu
quả 100%. Thay vào đó, ông hy vọng rằng sẽ có biện pháp điều trị tốt
hơn, ông nói: "Điều mà tôi mong muốn là khả năng chữa trị triệt để và ý
tôi muốn nói là việc điều trị sẽ rất tốt khi mà chúng ta có thể ngăn
chặn được sự sinh sôi nảy nở bằng chất kiềm chế vi rút (antiretrovirals)
và tìm ra những loại vi rút ngấm ngầm ẩn mình trong các tế bào để hủy diệt hoặc kiểm soát chúng".

Nỗ lực loại trừ HIV

Thời gian gần đây một nhóm các nhà
nghiên cứu đến từ Australia đã công bố một công trình nghiên cứu mới, đó
là tăng cường khả năng phản hồi của hệ miễn dịch trên cơ thể người.
Người đứng đầu nhóm nghiên cứu này là Giáo sư Marc Pellegrini thuộc Viện
Nghiên cứu Walter & Eliza cho biết, họ đã thành công trong việc
chữa trị một số hội chứng lây nhiễm giống HIV trên cơ thể chuột với việc tăng chức năng của các tế bào sống vào hệ miễn dịch.

Mặc dù tất cả mới chỉ là công bố sơ khai
như thế, còn bản nghiên cứu không công bố chi tiết. Nhưng Giáo sư Marc
Pellegrini cho hay: "Các loại virus điển hình như HIV và viêm gan B
& C lấn áp hệ miễn dịch, dẫn đến hình thành bệnh lây nhiễm mãn tính
tồn tại lâu và không thể chữa khỏi. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực chữa trị,
virus vẫn không bị tác động nhiều bởi khả năng phản hồi lâu dài của hệ
miễn dịch vì cơ thể đã bị virus tàn phá và hệ miễn dịch nói chung, tế
bào T nói riêng đã không còn khả năng chiến đấu chống lại virus. Một số
người đã nghĩ ra cụm từ "miễn dịch mỏi" để giải thích hiện tượng này. Vì
vậy, qua nghiên cứu, chúng tôi đã phát hiện ra một số cơ chế gây nên
tình trạng miễn dịch mỏi và tiến hành kiểm soát các gene gốc để xác định
liệu chúng tôi có thể tăng cường khả năng phản hồi của hệ miễn dịch để chống chọi với căn bệnh hay không."

Công tác nghiên cứu tập trung vào
Interleukin-7 (IL-7), một chất tự nhiên kích thích phản ứng miễn dịch.
Pellegrini cho biết thêm: "Chúng tôi nhận thấy rằng IL-7 đã tăng cường
khả năng phản hồi của hệ miễn dịch một cách rất hoàn hảo. Động vật mắc bệnh có thể tự tiêu diệt virus mà không bị tổn thương quá nhiều về mô".

Các cuộc điều tra tiếp theo còn cho
thấy, ở mức độ phân tử, IL-7 đã "tắt" một gene được gọi là SOCS-3 và với
việc vô hiệu hóa SOCS-3, con chuột có thể duy trì kích thích phản hồi
miễn dịch để chống chọi với virus. Nhà nghiên cứu Preston nói thêm:
"Chìa khóa thành công đối với chúng tôi là việc xác định được rằng gene SOCS-3 chỉ có thể bị "tắt" đi khi nó nằm bên trong tế bào T.

Nó cho phép các phản ứng miễn dịch gia
tăng số lượng tế bào T kháng virus và kích thích miễn dịch vừa đủ để
tiêu diệt virus mà không cần kích hoạt cả một bộ máy miễn dịch đồ sộ".
Theo như các nhà nghiên cứu cho biết nếu phương pháp này thành công, nó
sẽ là tiền đề để người ta chế tạo ra thuốc chữa các căn bệnh hiểm nghèo
như bệnh lao, viêm gan và quan trọng nhất, căn bệnh thế kỷ HIV. Đây có
thể được coi như là một sự đột phá vĩ đại của y học trong nhiều năm trở lại đây…

Kỳ 4: Người nhiễm HIV đầu tiên được chữa khỏi

(PL&XH) - Các bác sĩ Đức vừa
đưa ra một tuyên bố rất gây sốc là họ đã "xoá sạch" virus HIV trên cơ thể một bệnh nhân ung thư nhiễm AIDS, nhờ kỹ thuật ghép tuỷ xương.

Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học
hàng đầu trên thế giới đã ngày đêm nghiên cứu nhằm tìm ra một loại
"kháng sinh" hữu hiệu nhất để "chống chọi" lại với HIV, nhiều lúc tưởng
như những nỗ lực của họ đi vào ngõ cụt thì những tia hy vọng cuối đường hầm lại được thắp lên…

 

Nhờ kĩ thuật ghép tuỷ xương

Các bác sĩ Đức vừa đưa ra một tuyên bố
rất gây sốc là họ đã "xoá sạch" virus HIV trên cơ thể một bệnh nhân ung
thư nhiễm AIDS, nhờ kỹ thuật ghép tuỷ xương. Tuyên bố này là cực kỳ ấn
tượng trong lĩnh vực mà khái niệm "chữa khỏi" vẫn là xa xỉ lâu nay. Theo
tờ "torontosun" cho hay, bệnh nhân này vừa nhiễm HIV, vừa mắc bệnh ung
thư máu, đã được ghép tuỷ xương vào năm 2007 từ một người hiến (người
này mang một đột biến gene có khả năng tạo cho bệnh nhân sự miễn nhiễm tự nhiên với virus).

Gần 4 năm sau ca ghép tuỷ, bệnh nhân đã
hoàn toàn hết sạch virus HIV trong cơ thể, và không còn khả năng nó ẩn
nấp ở đâu đó - Thomas Schneider từ Bệnh viện Charité ở Berlin và cộng sự
cho biết. "Kết quả của chúng tôi nhấn mạnh rằng bệnh nhân này đã được chữa khỏi HIV" - nhóm nghiên cứu viết trên tạp chí Blood.

Tuy nhiên, công trình này vấp phải sự
phản đối mạnh mẽ của các nhà nghiên cứu về AIDS. Theo họ, nó "không thực
tế và có thể giết người", bởi kỹ thuật này sẽ phải phá huỷ tuỷ xương
của chính người bệnh (bản thân nó là một quy trình đau đớn), sau đó cấy
tuỷ của một người khác với máu và hệ miễn dịch gần giống như thế, đồng
thời cần nhiều tháng để phục hồi. "Nó có thể chữa khỏi, nhưng bạn sẽ
không thể biết chắc chắn hoàn toàn cho đến khi người bệnh chết và trải
qua kỹ thuật phân tích PCR các mô tử thi", tiến sĩ Robert Gallo từ Viện
Virus học người tại Đại học Maryland, cho biết. Một số chuyên gia khác
thì cho rằng mặc dù kết quả này là hứa hẹn, song nó không đại diện cho
một liệu pháp chữa trị tiềm năng cho mọi bệnh nhân, là do giá quá đắt, và phải tìm được người hiến phù hợp.

 

Tính hiệu quả trong việc điều trị AIDS

Khi có được thông tin này một niềm hy
vọng mới về việc điều trị căn bệnh thế kỷ AIDS lại được dấy lên. Nhưng
theo lời giải thích của Bệnh viện Charité thì đây là "một trường hợp
đáng chú ý" nhưng "hy hữu", không nên hy vọng quá nhiều vì ca bệnh trên
có thể chỉ là một sự may mắn. "Đây là trường hợp đáng chú ý trong công
tác nghiên cứu"- nhận định của Giáo sư Rodolf Tauber trong một bản tin.
"Tuy nhiên, những hứa hẹn sẽ chữa lành cho hàng triệu bệnh nhân nhiễm
HIV là không đáng tin" - Giáo sư cho biết thêm. Được biết mỗi năm có 2
triệu người mới được chẩn đoán nhiễm HIV, và tổng cộng virus HIV đã lây lan cho 33 triệu người trên toàn thế giới.

Bệnh nhân được xét nghiệm dương tính HIV
này là một người Mỹ, 42 tuổi, sống tại Berlin. Anh phải trải qua cuộc
phẫu thuật ghép tuỷ để chữa bệnh bạch cầu đã hành hạ anh suốt 3 năm qua.
Bác sĩ Gero Huetter, một thành viên trong nhóm điều trị, nói rằng khi
ông chuẩn bị chữa bệnh máu trắng cho bệnh nhân này bằng liệu pháp ghép
tuỷ xương, ông chợt nhớ ra rằng có những người mang một đột biến gen mà dường như nó giúp họ kháng lại việc nhiễm HIV.

Đột biến này đã được các nhà khoa học
biết đến nhưng đến nay vẫn chưa giải thích được: Trường hợp đặc biệt
này, đột biến cơ quan thụ cảm CCR-5 của virus, chỉ hiện diện ở 1-3% dân
số châu Âu và gần như hình thành ở những người này khả năng miễn dịch
với virus HIV. "Tôi đọc được điều này một cách tình cờ năm 1996. Tôi vẫn
nhớ và nghĩ rằng nó có thể có tác dụng" - bác sĩ Gero Huetter cho biết.
Và trong số 80 người tình nguyện, ông đã tìm được 1 người có đột biến phù hợp đó.

Nhóm các nhà huyết học tại Berlin do
Giáo sư Eckhard Thiel chịu trách nhiệm chữa trị cho bệnh nhân đã chọn
người hiến tuỷ đặc biệt này "với hy vọng sau khi ghép tuỷ, virus HIV
cũng sẽ biến mất". Trước ca phẫu thuật, bệnh nhân được trị liệu bằng
thuốc và phóng xạ mạnh để giết chết các tế bào tuỷ xương đã nhiễm bệnh,
và làm bất hoạt hệ miễn dịch, đồng thời ngừng dùng thuốc chữa AIDS để ngăn các chất diệt khuẩn có thể gây ra phản ứng thải hồi.

Theo lời tóm tắt của nhóm giáo sư Thiel
vào ngày 12-11-2010: "Thông thường, ngưng điều trị chống virus ARN trong
vài tuần sẽ làm phát triển bệnh AIDS. Nhưng cho đến nay, hơn 20 tháng
sau thành công của ca phẫu thuật ghép tuỷ, vẫn không phát hiện được virus HIV nào trên cơ thể người bệnh".

Trường hợp này được nêu trên nhật báo Mỹ
Wall Street Journal và được giật tít lớn vào ngày 12-11-2010 trên tờ
Bild, một tờ báo nổi tiếng của Đức, nhưng vẫn chưa phải là mục tiêu của
các công bố khoa học. "Không nên đặt quá nhiều hy vọng vào liệu pháp
này" - bác sĩ Gero Huetter xác nhận trong cuộc họp báo ngày 12-11-2010 -
"Phương thức này không phù hợp với việc điều trị cho bệnh nhân nhiễm
HIV hiện nay cũng như trong tương lai. Tuy nhiên, trường hợp bệnh nhân
đặc biệt này lại chỉ ra vai trò mấu chốt của gen CCR-5 trong việc truyền
bệnh HIV và trong việc phát triển bệnh" - ông nhấn mạnh như vậy đồng
thời chỉ rõ rằng việc điều trị HIV trong trường hợp bệnh nhân này chỉ là
"một tác dụng phụ" của giải pháp trị liệu được định ra để chữa cho người bị bạch cầu.

Thật vậy, nếu chỉ nhìn về mặt thời gian
thì 20 tháng vẫn chưa nói lên được điều gì cả. Nếu tính từ thời điểm một
tế bào bị nhiễm trùng cho tới khi phát hiện ra nó đã phải mất vài năm.
Do đó, thời gian 2 năm là quá ngắn để có thể đưa ra kết luận cuối cùng.
Song, nếu được thừa nhận, khám phá này cho thấy giải pháp trị liệu bằng
gen một ngày nào đó sẽ có thể giúp điều trị được cho những người dương tính HIV…

Kỳ cuối: Sẽ không còn là căn bệnh thế kỷ?

(PL&XH) - Mặc dù bước đột
phá trên cần nhiều thời gian để có thể đưa ra các luận chứng khoa học
xác thực, tuy nhiên đây có thể được coi là chương mới trong cuộc chiến chống HIV và AIDS trên thế giới…

Các nhà khoa học Mỹ, Australia, Đức… đều
có những công bố khả quan về việc họ có nhiều phát hiện mang tính đột
phá trong nghiên cứu các loại thuốc điều trị HIV/AIDS, theo đó các bệnh nhân đang đứng trước cơ hội lớn có thể thoát khỏi "căn bệnh thế kỷ" này…

 

Giải mã được cơ chế kháng thuốc của virus HIV

Các nhà khoa học thuộc Đại học Rutgers
(Mỹ) vừa phát hiện một loại virus HIV-1 bị đột biến có thể phát huy tác
dụng chống lại AZT (một loại thuốc phòng chống bệnh AIDS được sử dụng
phổ biến hiện nay). Trên cơ sở phát hiện này các nhà khoa học đã giải mã
được cơ chế kháng thuốc ở cấp độ nguyên tử của những virus bị đột biến.
Thuốc AZT là phương pháp duy nhất trong điều trị bệnh AIDS hiện nay,
đặc biệt AZT phát huy vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn virus HIV lây truyền từ mẹ sang con.

Vào khoảng 10 năm trước, trải qua nhiều
thí nghiệm, các nhà khoa học đã suy đoán được rằng sẽ có sự xuất hiện
của một loại virus HIV-1 kháng thuốc AZT. Các nhà khoa học đã tiến hành
phân tích cơ chế chi tiết ở cấp độ nguyên tử đối với vi rút HIV-1 bị đột
biến kháng thuốc AZT trên cơ sở áp dụng kỹ thuật nhiễu xạ X-quang. Kết
quả cho thấy virus HIV-1 không những ngăn chặn tác dụng của thuốc AZT,
mà còn triệt tiêu thuốc AZT. Virus HIV-1 đã sử dụng phân tử ATP trong tế bào để triệt tiêu thuốc AZT sau đó thực hiện sự phiên mã ngược.

Trên thực tế điều trị các tình nguyện
viên có mang HIV, đã có nhiều trường hợp không chỉ kháng thuốc mà còn bị
"sốc" khi sử dụng thuốc điều trị, nhưng những trường hợp như vậy rất
hiếm gặp. Có thể nói rằng HIV là một loại virus "thông minh", bởi nó
luôn biết cách biến đổi để chống lại các loại biệt dược "mạnh" được các
nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, việc phát hiện được cơ chế kháng
thuốc của HIV đã có một ý nghĩa rất quan trọng giúp các nhà khoa học lý
giải tại sao công tác điều trị chống bệnh AIDS lại không phát huy tác
dụng, và qua đó từng bước nghiên cứu phương pháp điều trị bệnh AIDS hiệu
quả hơn. Nhưng vấn đề đặt ra là không chỉ có HIV kháng thuốc mà những
loại thuốc đang được sử dụng để điều trị căn bệnh này có thực sự phù hợp và có chăng những phản ứng phụ "tiêu cực" đối với người sử dụng…

Hy vọng của bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS trở thành hiện thực?

Nhóm các nhà khoa học thuộc Viện nghiên
cứu virus Burnet, tiểu bang Melbourne, Australia đã khám phá ra "bức
tranh" rõ nét nhất về cách thức virus HIV duy trì sự sống trong cơ thể
con người và đây được coi là chìa khoá mới trong chữa trị thành công căn
bệnh thế kỷ nguy hiểm này. Thông tin trên, được đăng tải trên nhật báo
Người  Australia, cho thấy rõ cách thức virus HIV ẩn náu bất động trong
cơ thể người dưới dạng các tế bào tiếp nhận các phương pháp điều trị.
Tuy nhiên các virus này có thể "sống lại" bất kỳ lúc nào khi quá trình
điều trị tạm ngừng và gây ra nhiều khó khăn đối với bất kỳ biện pháp điều trị HIV sau đó.

Giáo sư Sharon Lewin, Khoa nghiên cứu
các bệnh truyền nhiễm thuộc Viện Nghiên cứu Burnet, cho biết: "Một khi
HIV đi vào các tế bào, chúng có thể rơi vào trạng thái ngủ đông. Tuy
nhiên, các loại tế bào này đã âm thầm bị tấn công, dù không xuất hiện
triệu chứng lâm sàng rõ ràng khi người nhiễm HIV sử dụng các loại thuốc điều trị và tăng cường hệ miễn dịch."

"Một khi người bệnh dừng thuốc điều trị
HIV, các loại virus này có thể "tỉnh dậy" và tiếp tục phá hủy cơ thể
người bệnh," giáo sư Lewin nhấn mạnh. Chính vì vậy, theo giáo sư, việc
nắm bắt rõ cơ chế trên có thể cho phép phát triển những cách thức chữa
trị mới, khoanh vùng các khu vực đã bị nhiễm HIV. Tuy nhiên, vẫn còn một
ẩn số liên quan tới luận giải khoa học trên khi các nhà nghiên cứu trên
thế giới đã đặt ra câu hỏi làm thế nào để virus HIV có thể đi vào các
tế bào dạng CD4 trong cơ thể bệnh nhân và chúng có thể tồn tại trong đó nhiều năm bất chấp quá trình điều trị HIV lâu dài tới như vậy.

Câu trả lời đó là quá trình hình thành
tổ hợp protein, khoa học gọi là chemokines, có thể định hướng các tế bào
đang "nghỉ ngơi" thông qua đường máu và đi vào các tấm chứa thành phần
bạch huyết và quá trình này có thể "mở cửa" cho phép các virus HIV tấn công vào cơ thể, hình thành quá trình lây nhiễm âm ỉ, ngấm ngầm.

Theo đánh giá, việc phát hiện ra cơ chế
sinh tồn của HIV sẽ giúp các nhà khoa học sớm tìm ra các biện pháp chữa
trị hiệu quả đối với căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, đồng thời với phát hiện
trên sẽ cho phép ngăn chặn kịp thời virus HIV từ khi chúng "manh nha" ý
định lọt vào cơ thể và lan truyền âm ỉ qua các tế bào. Mặc dù bước đột
phá trên cần nhiều thời gian để có thể đưa ra các luận chứng khoa học
xác thực, tuy nhiên đây có thể được coi là chương mới trong cuộc chiến chống HIV và AIDS trên thế giới…

Theo như các nhà khoa học của Anh công
bố, họ đã phát triển được một dạng tinh thể giúp họ nhìn được cấu trúc
của một enzyme gọi là integrase (có trong những loại virus như HIV) và
là mục tiêu điều trị của một số loại thuốc chữa HIV/AIDS mới nhất hiện
nay. Với việc biết được cấu trúc của integrase, các nhà nghiên cứu có
thể hiểu được toàn bộ cơ chế hoạt động của những loại thuốc ức chế
integrase, cách thức cải tiến những loại thuốc này cũng như cách ngăn chặn sự kháng thuốc ngày càng tăng của virus HIV.

Ông Peter Cherepanov - tác giả nghiên
cứu công trình này (thuộc Trường Đại học Imperial của Anh) cho biết, một
số loại thuốc mới điều trị HIV như Isentress của hãng Merck&Co và
Elvitegravir của hãng Gilead Science, có cơ chế hoạt động là ngăn cản
integrase, song các nhà khoa học hiện vẫn chưa biết được chính xác tác
dụng cũng như cách cải tiến những loại thuốc này. Loại tinh thể nói trên
được các nhà nghiên cứu phát triển nhờ phiên bản của integrase mượn từ
các loại virus khác có cấu trúc tương tự HIV. Các nhà nghiên cứu đã tiến
hành hơn 40.000 cuộc thử nghiệm để có thể cho ra một tinh thể có chất lượng cao đủ cho phép họ nhìn được cấu trúc 3 chiều của integrase.

Họ cũng đã thử nghiệm các loại thuốc của
Merck và Gilead trên các tinh thể này và lần đầu tiên được chứng kiến
hai loại thuốc này cô lại và phong tỏa integrase ra sao. Theo số liệu
của Liên hợp quốc, kể từ khi dịch HIV/AIDS bùng phát đến nay đã có gần
60 triệu người trên thế giới bị nhiễm HIV và 25 triệu người đã tử vong.
Hiện nay, vẫn chưa có vaccine phòng ngừa cũng như cách chữa trị dứt điểm
căn bệnh này, nhưng liên tục có những phát hiện mới gần đây của các nhà
khoa học đã mang đến nhiều hơn những niềm hy vọng cho các bệnh nhân HIV vào một ngày không xa, AIDS sẽ không còn là căn bệnh "thế kỷ".

Quảng cáo
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.