Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới (Hà Nội) là bệnh viện lớn, có nhiều giường bệnh cho người bị AIDS. Gần đây, có nhiều trường hợp người nhiễm HIV/AIDS đến bệnh viện xin được điều trị. Lại có những trường hợp người của một số gia đình có người nhiễm HIV hoặc tử vong do AIDS đã cuống quýt tìm mua thuốc về chữa bệnh vì lo sợ mình cũng lây nhiễm, cho dù bản thân chưa hề xét nghiệm. Như vậy sẽ rất nguy hiểm cho bệnh nhân và chính những người sống trong cùng mái nhà.
Giáo sư Bác sĩ Nguyễn Đức Hiền, Viện trưởng Viện lâm sàng các bệnh nhiệt đới cho biết: Trong vòng 5 năm đến 10 năm, người nhiễm HIV vẫn sống khỏe mạnh, nhìn bề ngoài không phát hiện được. Đây là “tảng băng chìm” trong số người bị nhiễm HIV/AIDS. Gần đây 50% số người được phát hiện nhiễm HIV là do vào bệnh viện khám và điều trị do những triệu chứng sốt, ho kéo dài...
Tuy nhiên, giai đoạn nhiễm HIV thì chưa cần phải điều trị mà họ cần phải đến bác sĩ tư vấn để có cuộc sống điều độ trong ăn uống, sinh hoạt, thể thao... HIV tấn công tế bào CD4, bởi vậy trước khi điều trị phải đo CD4 để biết họ đang ở giai đoạn nào của nhiễm HIV/AIDS; từ đó mới có các biện pháp can thiệp. Khi bệnh nhân có mức CD4 trên 500TB/mm3, sức khỏe vẫn bình thường. Khi CD4 dưới mức 500TB/mm3 là ở giai đọan tiền AIDS - bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng ho, sốt, nấm, zona nên cần có can thiệp của y tế. Khi CD4 dưới 200 TB/mm3, bệnh nhân sẽ bị mắc rất nhiều chứng bệnh nhiễm trùng cơ hội, lúc này bệnh nhân cần phải được điều trị bằng thuốc đặc hiệu, nếu không sẽ tử vong trong vòng 1 đến 2 năm.
Trong những năm qua, Nhà nước đã cấp hàng chục tỷ đồng cho điều trị AIDS. Các tỉnh đã được cấp một số thuốc nhất định và cán bộ y tế được tập huấn về điều trị. Việc điều trị AIDS phải đúng quy trình, theo đúng phác đồ và do cán bộ y tế trực tiếp theo dõi thì tình trạng sức khỏe của bệnh nhân mới được đảm bảo lâu dài.
Hiện nay đã có khoảng 20 loại thuốc điều trị AIDS với 4 nhóm thuốc: thuốc ức chế men sao chép ngược Nucleoside (NRTI); thuốc ức chế men sao chép ngược Non nucleoside (NNRTI); thuốc ức chế men Protease(P1) và thuốc ức chế hòa màng. Tháng 3-2005, Bộ Y tế đã đưa ra phác đồ điều trị AIDS. Bệnh nhân phải tuân thủ điều trị theo phác đồ, theo đúng các loại thuốc đúng chỉ định của bác sĩ.
Mục đích của việc điều trị là cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Khi lượng virút giảm, sự phá hủy tế bào cũng giảm đi, người nhiễm HIV ít bị mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, họ sẽ tiếp tục sống và làm việc có ích cho cuộc sống. Điều trị HIV cũng là cách để phòng bệnh. Lượng virút trong máu, trong dịch giảm, nếu chẳng may người bên cạnh có tiếp xúc với dịch hoặc máu của người nhiễm HIV thì nguy cơ phơi nhiễm HIV cũng sẽ thấp.
Trước khi điều trị, bệnh nhân AIDS cần có những xét nghiệm cơ bản: xét nghiệm HIV (nếu trước đó chưa có xét nghiệm khẳng định); công thức máu (gồm cả số lượng lympho toàn phần); xét nghiệm viêm gan B, C, chức năng gan, thận, xét nghiệm xem có thai hay không, định lượng CD4, chụp phim phổi và soi đờm, kiểm tra xem có tiền sử bệnh lý thần kinh không. Bệnh nhân phải điều trị các bệnh đồng nhiễm với HIV/AIDS như lao, viêm gan... thì mới chuyển sang điều trị AIDS. Không được điều trị nhiều loại thuốc cùng một lúc, sẽ gây nhiễm độc. Phụ nữ có thai, bệnh nhân tâm thần có phác đồ điều trị riêng.
Bản thân người bệnh cũng phải được tập huấn về ý nghĩa, cách dùng thuốc, tuân thủ các quy định trong điều trị. Bệnh nhân chỉ quên uống thuốc 2 ngày thì thuốc cũng không còn tác dụng và sẽ gây ra kháng thuốc. Cho nên bệnh nhân phải có sự hiểu biết về tình trạng bệnh của mình, có nhu cầu điều trị thực sự, có đời sống ổn định, có tiền sử tuân thủ điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội, đến khám đều đặn hoặc tham dự các khóa đào tạo. Vai trò của người thân trong gia đình cũng có tác động rất lớn, họ là người thường xuyên nhắc nhở bệnh nhân uống thuốc đều đặn và tuân thủ những hướng dẫn của bác sĩ điều trị.
|