LÂY TRUYỀN HIV-1 QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC:
THÔNG TIN MỚI TỪ HỘI NGHỊ VỀ RETROVIRUS VÀ
NHIỄM TRÙNG CƠ HỘI LẦN THỨ 10.
Giới thiệu
Lây truyền HIV qua đường tình dục vẫn tiếp tục là đường lây truyền số một ở hầu hết các nước trên thế giới. Vì thế, nó vẫn còn là lĩnh vực quan trọng trong nghiên cứu HIV. Đối với những người quan tâm đặc biệt đến vấn đề này thì Hội Nghị lần thứ 10 về Retrovirus và các nhiễm trùng cơ hội ở Boston Massachusetts có rất nhiều những bài tóm lược có liên quan, gồm cả lý thuyết và những quan niệm mới được chấp nhận có liên quan đến lây truyền HIV-1 qua đường tình dục.
Gia tăng suất độ HIV và giang mai ở Hoa Kỳ
Bác sĩ Valdiserii thuộc Trung Tâm Kiểm Sóat và Ngăn Ngừa Bệnh Tật Hoa Kỳ (CDC) ở Atlanta, Georgia đã nhận định lại những cứ liệu liên quan đến hiện trạng bệnh dịch ở Hoa Kỳ. Khoảng từ 850.000 đến 950.000 người nhiễm HIV và AIDS. Các dữ liệu cho thấy tần suất nhiễm HIV ổn định trong suốt những thập niên 90, khoảng 40.000 người bị nhiễm mới mỗi năm, đã giảm so với 150.000 trường hợp nhiễm mới hàng năm vào những năm giữa thập niên 80. Tuy nhiên, Valdiserii đã lo lắng về tần suất nhiễm HIV gia tăng hiện nay.
Ngòai ra, các nghiên cứu về việc bùng nổ giang mai hiện nay có liên quan đến quan hệ tình dục (QHTD) đồng tính nam ở các thành phố như Miami, New York, và Los Angeles cho thấy từ 43% - 59% bệnh nhân nam bị nhiễm giang mai có HIV(+), nhiều người đang được chăm sóc vì bệnh HIV.
Mối quan ngại ở đây là những người có thể truyền hoặc nhiễm giang mai đều cũng có thể liên quan đến những hành vi có thể lây truyền hoặc nhiễm HIV. Rõ ràng rằng, dữ liệu này ghi nhận sự cần thiết phải kiểm tra sức khỏe tình dục thường quy cho người HIV(+), cần thiết cho bản thân sức khỏe của họ và cho cả khả năng ngăn ngừa sự lan rộng của HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
Vai trò của Internet đối với việc lây truyền qua đường tình dục và hoạt động can thiệp
Trong những năm 1970 và 1980, phòng tắm và nhà trọ có liên quan đến hành vi tình dục có nguy cơ cao. Trong hội nghị này, Chaisson và cộng sự thuộc trường đại học John Hopkins ở Baltimore, Maryland đã công nhận Internet là một “điểm đến” mới để gặp gỡ và thỏa thuận QHTD. Ngòai ra, họ thấy có mối liên quan đáng kể giữa cuộc gặp gỡ bạn tình trên mạng và việc QHTD qua đường hậu môn không được bảo vệ, đặc biệt đối với những người đàn ông HIV(+).
Trong nghiên cứu trên mạng, họ thu nhận được 2.934 nam giới qua phòng chat internet trong trang web của nhóm đồng tính luyến ái nam.Những người này hòan toàn nặc danh, 60 mục trên mạng hỏi về hành vi tình dục, thuốc và rượu sử dụng trong khoảng thời gian 6 tháng gần đây. Hầu hết (80%) khai nhận chỉ QHTD với nam, 19% với nam và cả với nữ, và <1% chỉ quan hệ với nữ. 46% ở độ tuổi từ 18-29 tuổi; 46% ở tuổi 30 – 49 và 8% ở tuổi trên 50. Hầu hết đều là đàn ông da trắng (85%) và trình độ tối thiểu là trung học (87%); 7,6% có HIV(+). 27% người có trên 100 bạn tình, 6% thông báo có trên 10 bạn tình trong vòng 30 ngày qua. Hầu hết (84%) đàn ông gặp bạn tình trên mạng và họ gần như thích QHTD qua đường hậu môn không bảo vệ hơn những người quan hệ với bạn tình qua những đường khác (64% so với 58%, P=0.02, chi-square test). Trong số những người này, những người gặp bạn tình trên mạng, số đàn ông HIV(+) thích quan hệ qua đường hậu môn không bảo vệ cao hơn nhóm đàn ông HIV(-) (OR=1.5, P=0.03).
Trong số 10 người được chẩn đoán giang mai trong vòng 6 tháng, 9 người gặp bạn tình trên mạng và 4 bị nhiễm HIV (+).
Nghiên cứu này đã xác nhận những điều mà nhiều nhà lâm sàng đã gặp trong công việc hàng ngày của họ. Một ghi nhận đáng lưu ý là khả năng tiếp nhận những bệnh nhân qua Internet có thể cho cơ hội quý báu để sử dụng phương tiện này nhằm cung cấp nhanh chóng những thông tin về tình dục an toàn.
Phân nhóm huyết thanh HIV (HIV serosorting)
Mặc dù nhìn chung có sự gia tăng về tỷ suất mới nhiễm và tần suất hiện nhiễm HIV trong nhiều thành phố ở Mỹ, một số nhà nghiên cứu thấy rằng một vài thành phố có tỷ suất mới nhiễm HIV tương đối ổn định, cho dù các trường hợp QHTD không an toàn có gia tăng. Mc Connell và Grant ở viện Gladstone về Virút và Miễn dịch học tại San Francisco, California, đã đưa ra khái niệm “HIV serosorting” để giải thích về những khám phá này. Với khái niệm này, những người HIV(+) thích có QHTD không được bảo vệ với những ngưỡi cũng có HIV(+) hơn là quan hệ với những người HIV(-) hoặc không có chẩn đoán huyết thanh học HIV.
Nghiên cứu này là một phân tích dưới nhóm của một nghiên cứu về bội nhiễm trùng đang được thực hiện ở San Francisco. Dữ liệu từ 43 người nhiễm HIV-1 được dùng trong phân tích này. Nội dung bảng câu hỏi gồm đặc điểm mô tả mỗi bạn tình trong 3 tháng qua, tình trạng huyết thanh chẩn đoán và kiểu QHTD. Hầu hết những người tham gia nghiên cứu đều chỉ có một bạn tình. Dù có ghi nhận như vậy nhưng 65,1% thông báo có thêm ít nhất 1 bạn tình trong 3 tháng qua, trung bình là 6,3 người. Đa số (85,7%) người tham gia nghiên cứu có QHTD qua đường hậu môn với ít nhất một bạn tình khác mà không bảo vệ. Ngoài ra, 53,6% có ít nhất một bạn tình có huyết thanh chẩn đoán (-) hoặc không biết chẩn đoán huyết thanh học.
Trong một phân tích về mạng lưới tình dục, các nhà nghiên cứu ghi nhận 176 mối quan hệ có liên quan ít nhất với một người tham gia nghiên cứu bị nhiễm HIV-1. 15,3% mối quan hệ liên quan với những bạn tình HIV(-); 36,4% liên quan đến những bạn tình có huyết thanh chẩn đoán (+) và 48,3% liên quan đến những bạn tình không có chẩn đoán huyết thanh học.
Trong một kết quả về mức độ serosorting, việc giao hợp qua đường hậu môn không bảo vệ đã được thông báo bởi một bạn tình của một người tham gia nghiên cứu có huyết thanh HIV (+) mà người này nằm trong 7,4% số người có QHTD với người có tình trạng huyết thanh HIV không tương đồng, ngược lại, QHTD qua hậu môn không được bảo vệ được ghi nhận ở 90,6% số bạn tình có tình trạng huyết thanh tương đồng. Trong số những người không biết tình trạng huyết thanh, 34,1% có liên quan đến giao hợp qua đường hậu môn không được bảo vệ. Vai trò của serosorting trong bội nhiễm HIV vẫn còn được nghiên cứu.
Một trong những mối quan tâm là những người HIV(+) giao hợp không bảo vệ với những bạn tình chưa được chẩn đoán huyết thanh học chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy một thực tế là người ta không thể cho rằng những người HIV(+) sẽ cẩn thận đề phòng trong sinh họat tình dục và rằng mọi người cần phải xem tất cả những bạn tình đều có thể có HIV(+).
Bằng chứng đầu tiên của việc lây truyền qua đường tình dục từ những người mang HIV không tiến triển bệnh trong một thời gian dài
Trong thời đại trị liệu kháng retrovirus có hoạt tính cao (HAART), người ta cảm thấy trong số những người HIV(+), khả năng lây truyền HIV qua đường tình dục sẽ được giảm thiểu đáng kể trong trường hợp không định lượng tải lượng virút trong máu. Tác giả đã tán thành với quan điểm này nhưng với cảnh báo rằng ít nhất là không gia tăng hành vi tình dục có nguy cơ cao hoặc mắc phải các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục, vì có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của HAART vốn làm giảm sự lây nhiễm HIV. Một bài báo cáo được giới thiệu tại hội nghị thêm vào bằng chứng rằng những người nhiễm HIV luôn bất chấp lượng virút trong máu.
Mikhail và cộng sự đã trình bày những dữ liệu về sự lây truyền từ một người không tiến triển bệnh trong thời gian dài có lượng tế bào CD4+ và CD8+ cao sang hai người khác, cả 2 người này đều tiến triển đến giai đoạn AIDS. Điều này đã tạo sự ngạc nhiên vì nó chưa được thông báo trước đó. Trong nghiên cứu này, 15 dòng phân tử vô tính từ trường hợp trên và của 2 người nhận đã được tạo ra và so sánh với nhiều lọai khác nhau. Mặc dù các phân tích về dòng vô tính này chứng minh cho mối quan hệ về dịch tễ học, nhưng có những khác biệt quan trọng trong số các gen gp41, tat, và nef giữa người cho và những người nhận. Các tác giả tin những thay đổi này xảy ra như là hậu quả của những áp lực có chọn lọc gây ra bởi chủ thể và có thể dẫn đến tiến trình được quan sát ở 2 người nhận. Các biến thể về virút lây truyền qua 2 cá thể này chỉ là những biến thể nhỏ trong những trường hợp được liệt kê, và nó được lây truyền cho dù lượng virút trong máu không thể xác định được.
Tóm lại, những người nhiễm HIV loại này vẫn luôn còn lây truyền cho những người khác. Ngoài ra, người ta không thể cho rằng một virút gây bệnh cảnh nhẹ cho một cá thể này cũng sẽ gây một bệnh cảnh tương tự cho một cá thể khác.
Nguy cơ lây nhiễm qua QHTD ở những cặp vợ chồng Uganda có huyết thanh không tương đồng.
Một người có lượng virút chưa thể định lượng được có thể lây truyền virút thì phải chăng một người chứa một lượng lớn virút thì khả năng lây truyền cao hơn? Điều này là có thể và được chứng minh qua một số nghiên cứu:
Wawer và cộng sự ở Đại học Columbia-New York đã cung cấp thêm bằng chứng cho tranh luận này bằng việc cố gắng tính tóan mối nguy cơ QHTD của HIV với việc liên quan đến giai đoạn bệnh ở những trường hợp nhiễm HIV trong nghiên cứu. Nhóm này tập trung vào những cặp vợ chồng có huyết thanh không tương hợp thuộc một phần trong nghiên cứu Rakai ở Uganda. Các trường hợp này được phân thành nhiễm cấp, nhiễm mạn hoặc giai đoạn AIDS tiến triển với tình trạng lâm sàng còn nghèo nàn. Tổng cộng thu nhận được 240 cặp bạn tình một vợ một chồng và theo dõi khoảng cách thời gian mỗi 10 tháng. Tỷ lệ lây nhiễm HIV qua hành vi giao phối được xếp theo giai đoạn nhiễm trùng, xuất hiện các triệu chứng và lượng virút.
Trong số 240 cặp vợ chồng, 72 (30%) bị nhiễm do bạn tình sau khoảng thời gian trên 4 năm. Tỷ lệ lây truyền HIV qua hành vi giao phối là cao nhất trong khoảng thời gian 5 tháng sau khi chuyển đổi huyết thanh và được ước tính là 0,0081/ mỗi lần giao phối. Điều này giảm còn 0,0016/ lần giao phối trong suốt thời kỳ mhiễm trùng mạn tính và gia tăng trở lại 0,0043/lần giao phối trong giai đoạn trước khi chết. Một trong những chú ý là các triệu chứng lâm sàng đã không tiên lượng được khả năng lây truyền lây truyền qua đường tình dục ở bất kỳ giai đoạn nào. Ngược lại, lượng virút trong những trường hợp này là yếu tố tiên liệu mạnh nhất cho sự lây nhiễm ở mỗi giai đoạn bệnh.
Lượng virút trung bình cho mỗi nhóm nghiên cứu trên là dữ liệu không được trình bày trong bài tóm lược. Tuy nhiên, lượng virút trung bình của các cặp bạn tình hiện ở giai đoạn nhiễm trùng với số lượng thấp đáng ngạc nhiên là 13.200 bản sao/ml. Con số này thấp rất nhiều so với những báo cáo khác về lượng virút ở những người nhiễm HIV ban đầu (trước khi bắt đầu có sự chuyển đổi huyết thanh). Các tác giả tán đồng với quan điểm cho rằng những người trong giai đoạn nhiễm HIV ban đầu có thể gây ra một số lượng bất cân xứng trong các trường hợp nhiễm HIV mới.
(Còn tiếp)
LÝ QUỐC THỊNH
Theo Stephen Taylor. MD, MRCP. PhD. 10 th Conference on retroviruses và Opportunistic infections/HIV Transmission and Prevention
Nguồn: http://www.pasteur-hcm.org.vn/anpham/laytruyen_hiv.htm
Sửa bởi quản trị viên 29/03/2010 lúc 10:19:24(UTC)
| Lý do: Chưa rõ