UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH AN GIANG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số: 18 /KH-UB Long Xuyên, ngày 13 tháng 5 năm 2005
Kế hoạch hành động
thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS
đến năm 2010 của tỉnh An Giang
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Tình hình HIV/AIDS trên thế giới:
Tính đến cuối năm 2004, theo UNAIDS (Chương trình phòng chống AIDS - Liên hiệp quốc) và WHO (Tổ chức y tế thế giới) công bố có khoảng 39,4 triệu người nhiễm HIV/AIDS đang còn sống; 4,9 triệu ngưòi nhiễm mới, và đã có 3,1 triệu nguời chết vì AIDS trong năm 2004, đưa tổng số người nhiễm HIV/AIDS từ đầu trận dịch cho đến nay là khoảng 70 triệu người. Tại nhiều nước đang phát triển, phần lớn các trường hợp mới nhiễm là ở lứa tuổi thanh niên, trong năm 2004, lứa tuổi này chiếm 67% tổng số trường hợp nhiễm mới trong năm, khoảng 1/3 trong tổng số những người đang bị nhiễm HIV/AIDS ở độ tuổi 15 – 24, phần lớn họ không biết mình đang mang virut HIV, cũng theo UNAIDS và WHO, mỗi ngày có 14.000 trường hợp nhiễm HIV mới và 95% các trường hợp này là ở các nước đang phát triển.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS đến cuối năm 2004 trên thế giới (Theo NAIDS/WHO)
Các trường hợp nhiễm mới năm 2004
|
Tổng số
|
4,9 triệu
|
Người lớn
|
4,3 triệu
|
Trẻ em <15 tuổi
|
640.000
|
Tử vong 2004
|
Tổng số
|
3,1 triệu
|
Tử vong luỹ tích
|
30 triệu
|
Luỹ tích các trường hợp nhiễm HIV/AIDS còn sống đến 2004
|
Tổng số
|
39,4 triệu
|
2/ Tình hình HIV/AIDS tại Việt Nam:
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990 và cho đến ngày 31/12/2004 toàn quốc đã phát hiện được 76.180 ca, trong đó có 11.659 trường hợp tiến triển thành AIDS và 6550 trường hợp tử vong do AIDS. Theo ước tính, thông thường lấy số thực phát hiện nhân hệ số 3 thì tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS trong năm 2003 của Việt Nam ước tính là 0,23% dân số; một số tỉnh tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS tính trên 100.000 dân đặc biệt cao như Quảng Ninh: 580; Hải Phòng: 338; TPHCM: 250; Bà Rịa Vũng Tàu: 236; An Giang: 184; Hà Nội : 181…
Có thể chia diễn biến dịch HIV/AIDS ở Việt Nam thành 3 thời kỳ:
- Từ 1990 - 1993: dịch tập trung ở một số tỉnh với số nhiễm HIV phát hiện dưới 1.500 ca mỗi năm.
- Từ 1994 - 1998: dịch lan ra toàn quốc với số nhiễm HIV phát hiện hằng năm dưới 5.000 ca.
- Từ 1999 - 2002: số nhiễm HIV phát hiện trên 10.000 trường hợp mỗi năm và dịch có xu hướng lan rộng đến các xã phường.
Giám sát trọng điểm HIV cho thấy: tỉ lệ nhiễm HIV có chiều hướng tiếp tục gia tăng trong nhóm đối tượng có nguy cơ cao như người nghiện chích ma tuý, người hành nghề mãi dâm; đồng thời có biểu hiện gia tăng trong các nhóm đối tượng được coi là không có nguy cơ cao. Dịch HIV/AIDS tại Việt Nam có liên quan mật thiết với tình trạng tiêm chích ma tuý và mại dâm.
DỰ BÁO TÌNH HÌNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 - 2010:
Theo kết quả ước tính dự báo tiến hành năm 2001 (phối hợp giữa Bộ Y tế, Tổ chức y tế thế giới, chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về phòng chống HIV/AIDS), vào năm 2005 sẽ có khoảng 197.500 trường hợp nhiễm HIV. Dự báo vào năm 2010 sẽ có khoảng 350.970 trường hợp nhiễm HIV, trung bình mỗi năm sẽ có thêm khoảng 20.000 – 30.000 người nhiễm mới.
Dự báo tình hình nhiễm HIV và tử vong do AIDS giai đoạn 2005 – 2010
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
HIV
|
197.500
|
207.375
|
256.185
|
284.277
|
315.568
|
350.970
|
AIDS
|
48.864
|
59.400
|
70.941
|
83.516
|
97.175
|
112.227
|
Tử vong
|
44.102
|
54.132
|
65.171
|
77.228
|
90.346
|
104.701
|
3/ Tình hình nhiễm HIV/AIDS ở An Giang:
Tại An Giang các trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 5 năm 1993 tại thành phố Long Xuyên trên 4 gái mại dâm, trong đó có 3 người trở về từ Campuchia, sau đó phát hiện các trường hợp khác cũng trên gái mại dâm, đa số đều trở về từ Campuchia. Ngay từ đầu, theo các chuyên gia về HIV/AIDS của Liên hiệp quốc, mô hình lây lan HIV tại An Giang là qua đường tình dục khác giới, khác với mô hình lây lan HIV xãy ra tại thời kỳ đó ở Việt Nam là qua đường tiêm chích ma túy, và như vậy ở thời kỳ những năm 1990 có 2 hình thái lây lan xãy ra cùng một lúc: hình thái lây lan qua đường tiêm chích xãy ra ở các tỉnh miền Đông Nam bộ, miền Trung và TP Hồ chí Minh; hình thái lây lan qua đường tình dục xãy ra ở các tỉnh phía Nam như: Cần Thơ, An Giang… Dịch HIV/AIDS tại An Giang có thể chia làm 3 giai đoạn:
· 1993-1996: số ca nhiễm mới tăng gấp đôi mỗi năm ở số hàng chục.
· 1997-2001: Số ca nhiễm mới tăng hàng năm tính số hàng trăm.
2002–2004: Tuy số phát hiện HIV hàng năm trên số ngàn trường hợp nhưng sự chênh lệch không đáng kể, tốc độ lan truyền có vẽ chựng lại.
Trong năm 2004, tỉnh An Giang đã phát hiện 963 người có virút HIV, 435 ca chuyển sang giai đoạn AIDS, tử vong 393 ca; luỹ tích từ năm 1993 đến cuối năm 2004 là: 5.858 người có virút HIV, 2.635 ca chuyển sang giai đoạn AIDS, tử vong 2.192 người; Hiện nay, tỉ lệ lưu hành tại tỉnh ước tính khoảng 0,48% dân số, nếu lấy số trưòng hợp AIDS hiện có nhân lên trung bình 7, ước tính tại AG có khoảng 15.000 truờng hợp HIV.
Dịch HIV/AIDS không còn khu trú ở nhóm có hành vi nguy cơ cao mà đã lan rộng ra ở cộng đồng, cụ thể có 99% xã phường trong tỉnh có người nhiễm, nhiều đối tượng khác cũng đã nhiễm HIV/AIDS như: học sinh, sinh viên, công chức, lực lượng vũ trang, bà mẹ mang thai, và nhất là nông dân, trong số nông dân, nữ chiếm 28%. Ngoài ra, từ những năm 2000, số người nghiện chích ma tuý bị nhiễm HIV tăng rõ rệt (26 -33 %, qua giám sát trọng điểm các năm tại An Giang). Tình hình này cho thấy tỉnh An Giang hiện đang có 2 hình thái lây lan HIV cùng một lúc là lây lan qua đường tình dục và qua đường tiêm chích (ma tuý); Số trẻ em dưới 13 tuổi có HIV trong năm 2004 phát hiện được là 33 trẻ, luỹ tích là 150.
Qua theo dõi, tình hình dịch HIV/AIDS hiện đang diễn biến hết sức phức tạp tại Thị xã Châu Đốc, Châu Phú và Chợ Mới. Ở các nơi này nhất là Châu Đốc, tình hình dịch kết hợp với tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn nghiện ma tuý dễ dẫn đến dịch HIV lan rộng rất khó kiểm soát. Châu Phú và Chợ Mới là 2 nơi có tỉ lệ bà mẹ mang thai bị nhiễm HIV trên 1% (theo UNAIDS, nơi nào có tỉ lệ nhiễm HIV ở bà mẹ mang thai > 1% là nơi đó dịch đã lan rộng).
Để hoạt động phòng chống HIV/AIDS đạt hiệu quả, khống chế sự lây lan của đại dịch, giảm tác động của HIV/AIDS tới sự phát triển kinh tế – xã hội, Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế xây dựng Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Nội dung chiến lược dựa trên các tuyên bố chung của LHQ, tuyên bố thượng đỉnh của khoá họp đặc biệt của LHQ về HIV/AIDS năm 2001 (UNGASS), các cam kết của Chính phủ Việt Nam và đường lối của nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, phát triển kinh tế – xã hội, bao gồm các định hướng, các ưu tiên và các giải pháp phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2004 – 2010 và tầm nhìn 2020.
Nhằm cụ thể hoá chiến lược của Quốc gia, căn cứ vào đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh An Giang đến năm 2010 như sau:
PHẦN II. MỘT SỐ KẾT QUẢ PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS CỦA TỈNH
1. Về tổ chức, chỉ đạo:
1.1./ Về tổ chức:
- Thành lập Ủy ban phòng chống HIV/AIDS từ năm 1996.
- Các ban ngành, đoàn thể, địa phương đã thành lập Ban Phòng chống HIV/AIDS dựa vào mô hình của UBPC HIV/AIDS tỉnh.
- Từ năm 2001, tỉnh thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm.
1.2./ Về chỉ đạo:
- Ban cán sự Đảng - Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành Công văn số 139/CV-BCS ký ngày 19/01/2004 chỉ đạo về phòng chống HIV/AIDS trong tỉnh.
- Đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 2005.
2. Thông tin tuyên truyền, giáo dục truyền thông:
Hoạt động thông tin giáo dục truyền thông rất được quan tâm chú ý ngay từ những năm chưa phát hiện trường hợp HIV nào tại An Giang, với sự tham gia của tất cả ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng nhân dân và cơ quan truyền thông đại chúng. Công tác truyền thông được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú về nội dung, vì vậy đã nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức và kỹ năng phòng chống HIV/AIDS.
Hàng triệu tờ rơi, tờ gấp đã được in ấn phát hành rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, học sinh, sinh viên. Tất cả các huyện, thị đều có những cụm panô tuyên truyền ở các trục lộ nhiều người qua lại. Hàng trăm ngàn tờ áp phích được in và dán tại các khu đông dân. Báo, đài thường xuyên đưa tin và tuyên truyền về HIV/AIDS. Hàng trăm ngàn người đã tham gia các cuộc meeting tuần hành kêu gọi mọi người tham gia phòng và chống HIV /AIDS.
3. Phối hợp liên ngành:
Các Sở, ban ngành, đoàn thể xã hội đều có tổ chức Ban phòng chống HIV/AIDS tại cơ sở của mình. Các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Liên hiệp Phụ nữ, hoạt động rất đều tay tại tất cả tuyến cơ sở của mình với nhiều loại hình hoạt động phong phú như Chương trình đưa trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS trở lại trường học; Hội Nông dân có các loại hình câu lạc bộ thanh niên nông thôn; Mặt trận tổ quốc với các chương trình lồng ghép Gia đình văn hoá, khóm ấp văn hoá không có tệ nạn xã hội; Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với nhiều câu lạc bộ sinh hoạt; ngành Giáo dục - Đào tạo đưa chương trình phòng chống HIV/AIDS vào sinh hoạt trong các lớp ngoại khoá và chiến dịch hè, các đội xung kích Hội chữ thập đỏ… tất cả hoạt động sôi nổi góp phần làm tăng sự hiểu biết và phòng ngừa trong các tầng lớp nhân dân về HIV /AIDS .
4.Các hoạt động chuyên môn kỹ thuật:
4.1/ Công tác giám sát HIV/AIDS:
Từ năm 1994, Trung tâm Y tế dự phòng AG đã thực hiện được các xét nghiệm HIV, đến tháng 06/94 phòng xét nghiệm đã được trang bị hoàn chỉnh.
Năm 1996, có thêm 6 huyện thị được trang bị xét nghiệm sàng lọc hoàn chỉnh, tập trung tại các huyện thị vùng biên giới.
Năm 1994, An Giang tham gia chương trình Giám sát trọng điểm đầu tiên của quốc gia với 7 tỉnh thành khác và duy trì cho tới ngày hôm nay.
Số liệu thống kê báo cáo trong giám sát thụ động được cập nhật khá tốt và kịp thời. Năm 2002 triển khai Giám sát hành vi trong nhóm đối tượng đích.
Các giám sát trên đã góp phần lớn cho việc hoạch định đường lối và kế hoạch phòng chống HIV /AIDS.
4.2/ Công tác an toàn truyền máu:
Từ năm 1994 đã thực hiện xét nghiệm HIV trên người cho máu tại các bệnh viện tỉnh. Đến năm 1997 thực hiện xét nghiệm HIV 100% các túi đựng máu trước khi truyền máu cho người cần tiếp máu tại tất cả các cơ sở có lấy máu và truyền máu trong tỉnh.
4.3/ Công tác điều trị cho bệnh nhân AIDS:
An Giang không có trung tâm điều trị AIDS riêng biệt, các bệnh nhân nằm ở chuyên khoa nào sẽ do khoa phòng đó phụ trách, kể cả tuyến huyện, thị.
Số bệnh nhân nằm viện ngày càng tăng, đa số các trường hợp HIV được phát hiện trong thời gian qua là do xét nghiệm bệnh nhân nằm viện điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội ở giai đoạn AIDS. Riêng trong năm 2003, đã có 708 lượt bệnh nhân được điều trị tại các bệnh viện trong tỉnh.
4.4/ Công tác dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con:
Đến cuối tháng 12/2004 đã phát hiện 37 bà mẹ mang thai bị nhiễm HIV, trong số này chỉ có 3 bà mẹ được khám phát hiện kịp thời và được cho uống thuốc kháng virut phòng lây nhiễm HIV sang cho thai nhi, các trường hợp còn lại phát hiện trong quá trình chuyển dạ chưa kịp cho thuốc kháng virut.
Qua giám sát trọng điểm 2003 cho thấy tỉ lệ bà mẹ mang thai ở thành thị nhiễm HIV là 0,3% trong khi tỉ lệ này ở nông thôn là 0,8%, cao gấp 2,5 lần so với bà mẹ ở vùng thành thị.
4.5/ Công tác phòng , chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Công tác này được quan tâm từ rất sớm, từ năm 1997, đã tổ chức các lớp tập huấn các phác đồ điều trị mới của Tổ chức y tế thế giới và đưa chương trình phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI) vào hoạt động trọng tâm của ngành Y tế. Số người mắc bệnh LTQĐTD tăng hằng năm, và nhất là nhóm đối tượng GMD được khám và điều trị ngày càng cao. Trong năm 2004 đã điều trị cho 18.562 trường hợp nhiễm khuẩn lây qua đường sinh dục
4.6/ Công tác quản lý, chăm sóc, tư vấn người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng:
An Giang là tỉnh đầu tiên tham gia thí điểm thực hiện việc quản lý, chăm sóc, tư vấn người nhiễm HIV tại cộng đồng do Bộ Y tế thí điểm. Hiện đang quản lý khoảng từ 60 – 70% số người nhiễm HIV/AIDS có địa chỉ. Ngoài ra, từ năm 1999 thực hiện tầm soát bệnh Lao cho những người nhiễm HIV/AIDS hằng năm qua xét nghiệm đàm và chụp hình phổi, qua đó phát hiện khoảng 19 – 30 % người nhiễm có triệu chứng lao phổi, và kịp thời điều trị lao cho những người này.
Các ban ngành, tổ chức chính trị - xã hội có những chương trình hỗ trợ vốn, hỗ trợ việc làm cho người nhiễm HIV/AIDS nghèo khó.
Công tác chăm sóc, tư vấn, hỗ trợ được thực hiện góp phần làm giảm sự phân biệt đối xử và kỳ thị người nhiễm HIV/AIDS.
4.7/ Hợp tác quốc tế:
Tranh thủ sự hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng, góp phần lớn cho nguồn lực, kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm cho công tác PC AIDS của tỉnh nhà.
An Giang đã có những hợp tác với các trường đại học Hawaii, Trung tâm kiểm soát bệnh của Hoa Kỳ, các tổ chức như Ngân hàng phát triển Châu Á, DFID, WHO, Quỹ toàn cầu, Pathfinder International, Trung tâm kiểm soát bệnh của bang British Columbia (Canada)… Tổng cộng hiện đang có 9 dự án hổ trợ của Quốc tế đang được thực hiện thông qua Bộ Y tế hoặc song phương với tỉnh.
4.8/ Kinh phí hoạt động:
Kinh phí cho hoạt động chủ yếu là từ nguồn kinh phí uỷ quyền, hằng năm khoảng 1 tỉ đồng. Ngân sách địa phương cấp mỗi năm 200 triệu. Nguồn ngân sách này phần lớn dành cho hoạt động Y tế, giáo dục truyền thông, chăm sóc và an toàn truyền máu, và cho các huyện thị và các đoàn thể, ban ngành. Cấp huyện và ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội hầu như không có đóng góp cho hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại địa phương, đơn vị của mình.
Phần III. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC
1. Tổng quát:
Với sự quan tâm và hỗ trợ rất lớn của Đảng bộ và UBND tỉnh, với nổ lực của các ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính - trị xã hội, công tác phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai trên tất cả các mặt như thông tin, giáo dục, truyền thông, các hoạt động đồng đẳng và cộng tác viên, các hoạt động chuyên môn kỹ thuật…tuy nhiên dịch HIV /AIDS tại An Giang vẩn còn nhiều diển biến rất phức tạp, trong đó nguy cơ lây lan qua đường biên giới là một thực tế khách quan được chứng minh, các tệ nạn xã hội nhất là việc sử dụng ma tuý ngày càng cao, buông thả trong quan hệ tình dục ở giới trẻ là những yếu tố nguy cơ cao cho dịch phát triển.
2. Về mặt khách quan:
2.1/ Bản chất sinh học của nhiễm HIV là dịch bệnh do virut gây ra nhưng có các đặc điểm sinh bệnh học rất đặc biệt. Đa dạng về đường lây truyền, thời gian ủ bệnh kéo dài có thể tới 15 năm , tính né tránh miển dịch và khả năng biến dị của virut rất lớn; chưa có vắc xin phòng bệnh, không có thuốc điều trị đặc hiệu đã làm cho công tác phòng và chống HIV /AIDS thêm khó khăn.
2.2/ Theo những nghiên cứu dịch tễ học, hình thái lây truyền HIV ở An Giang lúc đầu những năm 1993 – 1995 chủ yếu là lây lan qua đường tình dục, nhưng các khảo sát dịch tễ về sau cho thấy lây lan qua đường tiêm chích (ma tuý) là một vấn đề trầm trọng (# 30 – 40 % người nghiện chích ma tuý bị nhiễm HIV), hơn nữa một số gái mại dâm (GMD) đang sử dụng ma tuý và người nghiện ma tuý vẫn quan hệ tình dục với GMD nhưng sử dụng bao cao su thấp. Đây là những nguyên nhân chính và trực tiếp làm lan truyền HIV/AIDS ở Việt Nam và An Giang hiện nay.
2.3/ An Giang là tỉnh có đường biên giới dài 98 Km với Campuchia, một số đông GMD hoạt động tại nước này là người Việt Nam, bên kia biên giới hoạt động mại dâm và các tệ nạn xã hội khác diển ra công khai; một số đường dây vận chuyển ma tuý lợi dụng địa hình đường biên giới nhiều con đường phức tạp, đã tuồn ma tuý vào Việt Nam và đã cố tình gây nghiện ở một số người để hoạt động cho họ; buôn bán tiểu ngạch và cả chính ngạch ngày càng phát triển kéo theo một số đông người
tham gia đến trao đổi buôn bán, người di dân tự do ngày càng nhiều, kể cả các lao động thời vụ, du lịch phát triển…
2.4/ Bước đầu đã thấy ảnh hưởng của việc phân hoá giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, dân trí còn thấp, ảnh hưởng lối sống phương tây qua phim ảnh…là những yếu tố góp phần làm lây lan dịch HIV/AIDS, đồng thời cũng gây ra nhiều khó khăn cho công cuộc phòng chống HIV/AIDS.
2.5/ Đa số bệnh nhân AIDS là người nghèo, một số không nơi nương tựa , một số bị bỏ rơi khi người nhà biết bị nhiễm nên bệnh viện trở nên là nơi điều trị và đồng thời phải nuôi dưỡng bệnh nhân, thậm chí khi qua đời, bệnh viện phải lo mai táng thay cho gia đình. Việc chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS thật sự là một gánh nặng cho bệnh viện, làm quá tãi thêm công việc của thầy thuốc.
3. Về mặt chủ quan:
3.1/ Trong quản lý, chỉ đạo công tác phòng, chống AIDS:
- Sự chỉ đạo công tác PC HIV/AIDS của chính quyền ở một số địa phương chưa thật sự được coi trọng, một bộ phận không nhỏ đội ngũ lãnh đạo ở các cấp cơ sở và bộ phận dân cư nhận thức chưa đầy đủ về công tác phòng, chống HIV/AIDS.
- Hệ thống pháp luật về phòng và chống HIV/AIDS tuy được đánh giá là khá đầy đủ nhưng có một số qui định chậm được sửa đổi, bổ sung dẫn tới giảm hiệu lực khi triển khai, thực hiện.
- Dịch HIV/AIDS gắn liền với các loại tệ nạn xã hội đặc biệt là ma tuý, mại dâm đã làm tăng sự phân biệt, đối xử với người nhiễm HIV/AIDS, điều này làm cho công tác dự phòng và chăm sóc nguời nhiễm HIV/AIDS gặp rất nhiều trở ngại.
- Mặc dù An Giang đã có văn bản chỉ đạo của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh về phòng và chống HIV/AIDS, trong đó có nói đến giảm tác hại trong nhóm hoạt động mại dâm và nghiện chích ma tuý qua việc thực hiện 100% bao cao su và trao đổi bơm kim tiêm, nhưng việc này chưa nhận được sự quan tâm và ủng hộ đầy đủ của các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội.
- Bộ máy tổ chức phòng, chống HIV/AIDS còn mỏng về lực lượng, đa số còn kiêm nhiệm, trình độ cán bộ còn thấp, lại thường xuyên bị thay đổi.
3.2/ Trong thông tin giáo dục truyền thông
- Thông tin chưa phủ khắp, chưa đi dến hết vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, chưa tiếp cận được đến tất cả các nhóm đối tượng nguy cơ cao.
- Hoạt động truyền thông còn mang tính hình thức, đi theo lối mòn nên tác dụng làm thay đổi hành vi, chống phân biệt đối xủ còn ở mức hạn chế.
- Công tác tuyên truyền , giáo dục pháp luật trong phòng, chống HIV/AIDS chưa được triển khai thường xuyên, nhiều cấp lãnh đạo kể cả các cán bộ làm công tác phòng và chống HIV/AIDS cũng không được cập nhật các thông tin, các qui định về phòng chống HIV/AIDS phần nào làm hạn chế hiệu quả chương trình.
3.3/ Trong hoạt động chuyên môn kỹ thuật:
- Chỉ mới có 3 cơ sở có khả năng làm xét nghiệm ELISA và chỉ có 6 đơn vị huyện thị được trang bị đầy đủ để làm xét nghiệm nhanh.
- Hệ thống xét nghiệm tư vấn tự nguyện được triển khai tại 7 huyện thị nhưng chưa phát huy được hết công suất, hiệu quả.
- Công tác giám sát còn thụ động, chưa có các nghiên cứu sâu, chưa đánh giá chính xác được hiệu quả chương trình phòng, chống HIV /AIDS.
- Công tác an toàn trong truyền máu: Hiện đã thực hiện 100% chai ( bịt ) máu trước khi truyền, nhưng ở các huyện thị còn ở mức xét nghiệm nhanh, chỉ có bệnh viện tỉnh tách thành phần máu bằng máy ly tâm lạnh.
- Công tác điều trị: cho đến nay An Giang chưa điều trị một trường hợp nào với thuốc kháng virut, hiện tại chỉ có thể đáp ứng và điều trị dự phòng cho tất cả những trường hợp bị phơi nhiễm cho các cán bộ Y tế, cán bộ các trại xã hội và cán bộ Công An, chưa ghi nhận có trường hợp nào bị nhiễm HIV từ các đối tượng này.
- Các cán bộ phục vụ chăm sóc người nhiễm HIV và những cán bộ quản giáo các trại xã hội, trại giam (là những ngành nghề có nguy cơ lây nhiễm cao nhất) chưa có chính sách thoả đáng nếu vô tình bị nhiễm HIV khi thi hành nhiệm vụ.
- Giáo dục giới tính chưa thực hiện trong chương trình phổ thông, về phòng chống HIV/AIDS ở lứa tuổi vị thành niên còn nhiều hạn chế, chưa lồng ghép với các chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
- Tình trạng các cháu bị bỏ rơi vì nhiễm HIV/AIDS đã trở nên báo động, một phần lớn được đưa vào các trung tâm cô nhi. Đây là một vấn đề cần quan tâm và góp sức của xã hội, tạo điều kiện cho các cháu được hưỡng quyền lợi của mình.
- Công tác phòng, chống nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STI): Tỉnh đã lồng ghép chương trình STI với chương trình HIV/AIDS từ những năm 1997, tuy nhiên việc điều trị chưa thật đều, một phần vì thiếu thuốc, một phần sự quan tâm của cán bộ y tế chưa đúng mức, chưa nhận thức được mối liên quan giữa STI với dịch HIV/AIDS.
- Công tác quản lý, chăm sóc và tư vấn người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng: Cho đến nay những người nhiễm HIV /AIDS còn đang sống, có địa chỉ rõ ràng được cán bộ y tế định kỳ mỗi tháng đến thăm một lần và ghi nhận tình trạng sức khoẻ của họ. Tuy nhiên tỉ lệ này vẫn còn thấp, khoảng 60 -65% trên số người nhiễm HIV được phát hiện.
- Vấn đề quản lý, chăm sóc và tư vấn người nhiễm HIV/AIDS tại các trại 06 – 06, trong trại giam, phát sinh nhiều vấn đề, và đa số người nhiễm không được thông báo khi còn ở trong trại, chỉ khi ra trại họ mới được thông báo, và khi đó rất nhiều người không trở về nhà khi biết tình trạng HIV/AIDS của mình.
- Vấn đề phân biệt đối xử, kỳ thị trong xã hội vẫn còn cao, làm cho người nhiễm HIV/AIDS còn nhiều mặc cảm, trốn tránh, ngại tiếp xúc với xã hội, và đôi khi có những hành động quá khích.
- Các hỗ trợ xã hội của cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức, vừa qua chỉ mới dừng ở mảng chăm sóc hơn là hỗ trợ.
3.4/ Kinh phí:
Các huyện, thị, thành phố; Sở, ban ngành, tổ chức đoàn thể hầu như chưa có đầu tư kinh phí cho phòng, chống HIV/AIDS ở ngành, địa phương mình.
PHẦN IV. KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS ĐẾN NĂM 2010 CỦA Tỉnh AN GIANG
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO:
1. HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm hoạ đối với sức khoẻ, tính mạng của con người và tương lai nòi giống dân tộc. HIV/AIDS tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế, văn hoá, trật tự và an toàn xã hội của quốc gia. Do đó, phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài của các ngành, các cấp uỷ Đảng và chính quyền, cần phải tăng cường phối hợp liên ngành và đẩy mạnh việc huy động toàn xã hội tham gia.
2. Đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS là đầu tư góp phần tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước mang lại hiệu quả kinh tế - xã hôi trực tiếp và gián tiếp. Nhà nước bảo đảm việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến năm 2010 và sau 2010 phù hợp với khả năng và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
3. Chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS, tăng cường trách nhiệm của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và của người nhiễm HIV/AIDS với gia đình, xã hội.
4. An Giang cùng với quốc gia cam kết thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS đã ký kết, thực hiện. Bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế và với các đối tác tài trợ cho An Giang.
5. Tăng cường hợp tác song phương, mở rộng hợp tác quốc tế với nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới trong phòng, chống HIV /AIDS.
6. Các hoạt động ưu tiên trong thời gian tới :
- Tăng cường thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi; phối hợp với các chương trình khác để ngăn ngừa, giảm thiểu lây nhiễm HIV/AIDS;
- Đẩy mạnh các biện pháp giảm thiểu tác hại;
- Tăng cường tư vấn, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV /AIDS;
- Tăng cường năng lực quản lý, theo dõi, giám sát và đánh giá chương trình
II. MỤC TIÊU:
1. Mục tiêu chung:
Khống chế tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,45% vào năm 2010 và giảm sau năm 2010, giảm tác hại của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế – xã hội.
2. Mục tiêu cụ thể:
2.1/ Tất cả các xã, phường - huyện, thị, thành phố, đơn vị trong cả tỉnh đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trở thành một trong các mục tiêu của chương trình phát triển kinh tế – xã hội tại các địa phương và đơn vị.
2.2/ Nâng cao nhận thức cho 80% người dân ở nông thôn và miền núi, 100% người dân thành thị hiểu biết đúng và biết cách dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS; 100% tiêm chích an toàn và sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục có nguy cơ.
2.3/ Khống chế lây nhiễm HIV/AIDS từ nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng thông qua việc triển khai đồng bộ các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại: thực hiện các biện pháp can thiệp đối với tất cả các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS; 100% tiêm chích an toàn và sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục có nguy cơ.
2.4/ Bảo đảm người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị thích hợp (chương trình Quản lý, Chăm sóc, Tư vấn tại cộng đồng: QCT): 90% người lớn nhiễm HIV/AIDS, 100% bà mẹ mang thai nhiễm HIV/AIDS, 100% trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng do HIV/AIDS được quản lý, điều trị, chăm sóc và tư vấn thích hợp, 70% bệnh nhân AIDS được điều trị bằng thuốc đặc hiệu.
2.5/ Hoàn thiện hệ thống quản lý, theo dõi, giám sát, đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS: tỉnh có khả năng tự đánh giá và tự dự báo về diễn biến của nhiễm HIV/AIDS ở địa phương, 100% xét nghiệm HIV tuân thủ quy định tư vấn xét nghiệm tự nguyện .
2.6/ Ngăn chặn lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế: bảo đảm 100% các đơn vị máu và chế phẩm máu được sàng lọc HIV trước khi truyền ở tất cả các huyện thị có lấy máu và truyền máu; 100% cơ sở y tế thực hiện đúng quy định về vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
A. Nhóm giải pháp xã hội:
1.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS:
1.1/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS
- Các cấp ủy Đảng thường xuyên chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện phòng, chống HIV/AIDS theo tinh thần chỉ đạo của Ban cán sự Đảng - UBND tỉnh tại Công văn số 139/CV-BCS ngày 19/01/2004; Đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS vào các Văn kiện, Nghị quyết, nội dung thảo luận ở các kỳ Đại hội, kỳ họp chi bộ.
- Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động đội ngũ lãnh đạo và các đảng viên, phát huy tính chủ động của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
1.2/ Tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với công cuộc phòng, chống HIV/AIDS:
- Hội đồng nhân dân các cấp căn cứ Nghị quyết số 21/2004/NQ.HĐND7 của HĐND tỉnh khoá VII đã được thông qua tại kỳ họp lần thứ ba vào ngày 09/12/2004 mà xây dựng Nghị quyết về hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại địa phương mình; Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của các đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS.
- Định kỳ hằng năm công tác phòng, chống HIV/AIDS phải được báo cáo trong các cuộc họp của HĐND các cấp. Hoạt động phòng, chống HIV/AIDS phải được cụ thể hoá trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
1.3/ Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp trong tổ chức thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS:
UBND các cấp thường xuyên chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS, đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS trở thành mục tiêu ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, trong chưong trình kế hoạch năm của ngành, điạ phương mình. Lồng ghép công tác phòng, chống HIV/AIDS vào các chương trình xoá đói giảm nghèo; ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; bảo đảm đầu tư thích hợp về kinh phí, nhân lực, vật lực và tăng cường về tổ chức bộ máy cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
2. Các giải pháp về phối hợp liên ngành và huy động cộng đồng:
2.1/ Phối hợp liên ngành:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phòng, chống HIV/AIDS mang tính liên ngành, toàn diện, đặc biệt chú trọng việc lồng ghép có hiệu quả với các chương trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS; huy động mọi tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo điều hành các hoạt động liên ngành trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các Sở, ngành trong công tác phòng, chống HIV /AIDS. Các Sở, ngành chủ động đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS vào kế hoạch hoạt động hằng năm .
- Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các tổ chức thành viên tăng cường vận động toàn dân tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS. Phát huy vai trò, tính chủ động của Mặt trận Tổ quốc VN và các đoàn thể trong việc vận động người dân tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS. Gắn công tác phòng, chống HIV/AIDS vào phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Phát huy vai trò của tổ trưởng dân phố, các chức sắc tôn giáo, người cao tuổi làm nòng cốt cho việc vận động người dân tham gia.
- Xã hội hoá công tác phòng, chống HIV/AIDS, huy động nhiều hơn nữa sự tham gia của tất cả các đoàn thể, cộng đồng và các cá nhân trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS .
2.2/ Huy động cộng đồng:
- Khuyến khích các tổ chức tôn giáo, các tổ chúc xã hội, từ thiện, tổ chức phi chính phủ, các nhóm cộng đồng, kể cả bản thân người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ tham gia công tác phòng chống HIV/AIDS; giáo dục sự thương yêu, đùm bọc, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, bản sắc văn hoá dân tộc của người VN trong chăm sóc, hỗ trợ người có nguy cơ bị nhiễm HIV và người nhiễm HIV/AIDS.
- Lồng ghép các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS vào các phong trào quần chúng, các hoạt động thể dục thể thao, văn hoá, văn nghệ tại cộng đồng, các lớp tập huấn, các cuộc nói chuyện. Tăng cường tính chủ động của cộng đồng, tổ chức các diễn đàn kêu gọi sự cam kết tham gia của cộng đồng. Phát huy tính tích cực, chủ động tham gia của cộng đồng trong các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
- Phát động phong trào thi đua noi gương người tốt, việc tốt, có chính sách động viên, khen thưởng kịp thời các tổ chức quần chúng, cá nhân lập thành tích xuất sắc trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS.
- Nâng cao trách nhiệm từng thành viên trong gia đình về hoạt động phòng, chống HIV/AIDS thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, tư vấn các chuẩn mực đạo đức gia đình, phong tục , tập quán tốt đẹp, duy trì nếp sống văn hoá lành mạnh.
- Giáo dục quyền bình đẳng của người nhiễm HIV/AIDS cũng như quyền của từng cá nhân trong cộng đồng về trách nhiệm và áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV, đồng thời trở thành người cộng tác tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS.
- Tăng cường sự hiểu biết và bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ để họ tham gia tích cực vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Tạo mọi điều kiện cho phụ nữ tham gia học tập, trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng sống.
2.3/ Huy động doanh nghiệp tham gia phòng, chống HIV/AIDS:
- Vận động các doanh nghiệp, các hội nghề nghiệp, các tổ chức tư nhân tham gia tích cực vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Quy định cụ thể về triển khai các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS tại nơi làm việc. Vận động đóng góp các nguồn lực của các tổ chức doanh nghiệp cho công tác phòng, chống HIV/AIDS tại nơi làm việc, bảo đảm sức khoẻ cho người lao động.
- Kêu gọi các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế thu nhận và đào tạo các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm, hoặc bị ảnh hưởng do HIV/AIDS được vào làm việc.
- Nghiêm cấm các doanh nghiệp sa thải người nhiễm HIV/AIDS. Không được xem xét song hành vấn đề nhiễm HIV của người lao động với việc tuyển dụng, tăng lương hay bổ nhiệm họ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo.
- Các doanh nghiệp có nhiệm vụ cung cấp thông tin phòng, chống HIV/AIDS cho cán bộ, công nhân của đơn vị để biết.
- Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ theo quy định để thông qua đó khám, phát hiện và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ.
B. Nhóm giải pháp kỹ thuật:
Thực hiện tốt giám sát trọng điểm, giám sát hành vi và xét nghiệm phát hiện; an toàn truyền máu và các chế phẩm máu; an toàn trong các dịch vụ y tế và các dịch vụ xã hội có liên quan đến máu ; điều trị và chăm sóc HIV/AIDS thông qua các chương trình, dự án đã và đang thực hiện với sự tài trợ của quốc tế và quốc gia.
1. Chưong trình thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS:
- Thông tin theo chiều sâu và rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Đa dạng hoá hình thức với các phòng tư vấn tự nguyện xét nghiệm, câu lạc bộ, nhóm bạn giúp bạn, qua các nhóm giáo dục viên đồng đẳng.
2. Chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS:
- Chương trình 100% bao cao su ở tất cả các điểm vui chơi, giải trí, nhà hàng, khách sạn, nhà trọ…
- Chương trình sử dụng chất thay thế.
- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm, dịch vụ làm sạch bơm kim tiêm…
3. Chương trình can thiệp chăm sóc hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS:
- Chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại gia đình.
- Giáo dục, hướng dẫn người nhiễm và gia đình biết cách chăm sóc và phòng lây truyền trong gia đình.
- Điều trị các nhiễm trùng cơ hội, tiến tới điều trị bằng các thuốc kháng vi rút
- Phòng ngừa các nhiễm trùng cơ hội
- Lồng ghép với chương trình chống Lao
- Hỗ trợ tâm lý
4. Chương trình giám sát HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá chương trình:
- Thực hiện giám sát trọng điểm HIV/AIDS/STI.
- Giám sát hành vi.
- Theo dõi thu thập thông tin thụ động qua báo cáo.
- Lượng giá các hoạt động.
5. Chương trình tiếp cận thuốc điều trị HIV/AIDS:
- Bước đầu tiếp cận thuốc điều trị cho bệnh nhân bằng thuốc kháng vi rút HIV qua nguồn quốc gia và tài trợ từ hợp tác quốc tế.
- Điều trị tích cực các ca nhập viện.
6. Chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con:
- Triển khai rộng khắp phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện cho bà mẹ mang thai.
- Điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
- Điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con bằng thuốc kháng vi rút.
7. Chương trình quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục: Phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STD) tập trung vào nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao như gái mại dâm, bạn tình…
8. Chương trình an toàn truyền máu:
- Sàng lọc 100% chai máu trước khi sử dụng.
- Phát triển truyền máu từng phần và tự thân
- Vận động hiến máu nhân đạo đủ yêu cầu
9. Chương trình tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế:
- Đào tạo, đào tạo lại liên tục nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác phòng chống AIDS.
- Nâng cao năng lực cho nhóm giáo dục viên đồng đẳng.
- Tranh thủ tối đa và duy trì hợp tác quốc tế.
C. Kinh phí:
Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, dụng cụ, tài liệu cho các hoạt động cần thiết của công tác phòng, chống HIV/AIDS; quản lý, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí huy động được phục vụ cho chương trình hành động phòng, chống HIV/AIDS.
UBND tỉnh đảm bảo nguồn kinh phí tỉnh hỗ trợ hàng năm; ngoài ra, chính quyền cấp huyện, xã; các Sở, ban ngành, đoàn thể, tổ chức, doanh nghiệp…cần chủ động tính toán bố trí kinh phí cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS tại địa phương, đơn vị của mình.
Phân cấp và phân phối kinh phí về cho các địa phương nhằm bảo đảm tính chủ động của địa phương trong việc triển khai thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Dự kiến nhu cầu ngân sách phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 như sau:
Năm
|
Kinh phí ủy quyền ( triệu )
|
Ngân sách tỉnh ( triệu )
|
2005
|
1.500
|
200
|
2006
|
1.650
|
220
|
2007
|
1.815
|
242
|
2008
|
1.996
|
266
|
2009
|
2.196
|
293
|
2010
|
2.415
|
322
|
Cộng
|
11.572
|
1.543
|
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Từ nay đến năm 2010, tập trung chỉ đạo lấy xã, phường; khóm, ấp làm trọng điểm cho việc triển khai thực hiện các giải pháp của kế hoạch hành động với nhiệm vụ cụ thể của các ngành, các cấp như sau:
1. Ban chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm chịu trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh trực tiếp chỉ đạo, triển khai thực hiện các nội dung của kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến 2010 trên địa bàn tỉnh.
2. Sở Y tế chịu trách nhiệm phối hợp với các thành viên của Ban chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm và các cơ quan có liên quan tổ chức chỉ đạo, triển khai, hướng dẫn các nội dung của chiến lược trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đồng thời, chỉ đạo các Phòng Y tế, Trung tâm y tế huyện, thị, thành phố tham mưu giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong chiến lược trên địa bàn mình phụ trách; theo dõi, giám sát việc thực hiện; tổ chức sơ, tổng kết và báo cáo kết quả thực hiện về tỉnh.
3. Sở Văn hoá – Thông tin chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và Uỷ ban nhân dân huyện, thị, thành phố chỉ đạo cơ quan thông tin các cấp đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông; Tập trung đưa thông tin đến người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn, các nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao.
4. Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, cơ quan, Mặt trận tổ quốc, Ủy ban nhân dân huyện, thị, thành phố tổ chức triển khai chương trình giáo dục kiến thức và huấn luyện kỹ năng phòng, chống HIV/AIDS vào chương trình đào tạo của trường Đại hoc, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, giáo dục dạy nghề và phổ thông trung học phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng.
5. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với ngành y tế triển khai phòng, chống HIV/AIDS tại các trường, trại thuộc sở quản lý, thực hiện công tác giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong các trường trại.
6. Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính chịu trách nhiệm bố trí và cấp phát kịp thời kinh phí cho các hoạt động của chương trình phòng, chống HIV/AIDS theo kế hoạch ngân sách đã được Bộ Tài chính, Bộ Y tế và UBND tỉnh phê duyệt hàng năm.
7. Các cơ quan truyền thông đại chúng như: Đài Phát thanh - truyền hình, Báo An Giang, Thông tấn xã Việt Nam tại An Giang chỉ đạo các đài PTTH địa phương đưa các thông tin về dự phòng, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS thành nội dung thường xuyên của chương trình phát sóng. Xây dựng các chuyên mục, chuyên đề về phòng, chống HIV/AIDS, chủ động đầu tư kinh phí cho việc xây dựng và phát sóng các chương trình về phòng, chống HIV/AIDS.
8. Ban chỉ đạo phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm các cấp triển khai kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS theo chức năng, nhiệm vụ được giao và theo đặc thù của đơn vị mình, đầu tư ngân sách cho công tác này.
9. Đề nghị Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt nam tỉnh huy động các thành viên của Mặt trận tích cực tham gia thực hiện kế hoạch hành động này trong phạm vi hoạt động của mình.
TM. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
KT. CHỦ TỊCH
Nơi nhận:
- Bộ Y tế;
- TT: TU, HĐND, UBND tỉnh;
- Các Sở, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh; BCĐ PC AIDS, MT, MD tỉnh;
- UBND huyện, thị, TP;
- Lãnh đạo VP, P.VH-XH, TH, NC
- Lưu VT
|
PHÓ CHỦ TỊCH