Hiệu quả quản lý sau cai nghiện tại TP.HCM: Bước đầu đã khống chế được dịch HIV/AIDS
Nhờ cai nghiện tập trung, tỷ lệ nhiễm HIV trong các trung tâm cai nghiện giảm 20%.
uốc hội đang xem xét hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết 16 của QH khóa trước về thí điểm tổ chức quản lý dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện tại TP.HCM và một số tỉnh, thành khác. Một số đại biểu băn khoăn về hiệu quả của việc thực hiện đề án này trước khi xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống ma túy. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Lê Trường Giang - Phó Giám đốc Sở Y tế, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM (UBPC AIDS) - về hiệu quả của việc thực hiện đề án trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS.
Người nhiễm HIV giảm rõ rệt
. Thưa ông, từ khi TP thực hiện thí điểm quản lý sau cai nghiện, tỷ lệ lây nhiễm HIV tại TP có giảm không?
+ Việc TP tập trung hơn 30.000 người nghiện ma túy vào các trung tâm cai nghiện (trong đó hơn 64% nhiễm HIV) đã làm giảm nhanh tổng số người nhiễm trong cộng đồng. Đồng thời, số người nhiễm HIV mới trong nhóm người nghiện ma túy (còn ở cộng đồng) cũng giảm rõ rệt. Bước đầu, TP đã khống chế và làm giảm dịch HIV/AIDS. Cụ thể, tỷ lệ nhiễm HIV trên nhóm tiêm chích ma túy tăng đến 82,5% vào năm 2002, sau đó giảm nhanh từ năm 2003 và chỉ còn 45,5% vào năm 2006. Tỷ lệ nhiễm HIV cũng giảm dần từ năm 2003 ở các nhóm đối tượng khác.
. Nhưng việc tập trung một nhóm người có tỷ lệ nhiễm HIV cao vào trong các trung tâm cai nghiện rất dễ làm bùng phát dịch HIV trong các trung tâm?
+ Nguy cơ này là có nhưng ngay từ đầu TP đã triển khai phòng chống một cách quyết liệt. Các học viên được khám sức khỏe định kỳ hàng năm, được chụp hình phổi, xét nghiệm đàm ít nhất một lần/năm để điều trị. Những bệnh nhân lao trong thời kỳ điều trị tấn công được ở riêng trong khu cách ly. Chúng tôi xây dựng một đội ngũ giáo dục viên đồng đẳng với trên 1.500 người được chọn từ những học viên tích cực nhằm hỗ trợ giáo dục viên truyền đạt kiến thức và kỹ năng cần thiết cho người sau cai. Nhờ vậy, dịch lao và dịch HIV/AIDS đã được khống chế trong tất cả các trung tâm.
Từ năm 2005, 20 phòng tham vấn xét nghiệm HIV tự nguyện trong các trung tâm được thành lập và đã tham vấn, xét nghiệm cho các học viên. Ngoài ra, mỗi trung tâm đều có phòng y tế có đủ cán bộ y tế, trang thiết bị và thuốc chữa bệnh, tương đương một phòng khám đa khoa khu vực. Từ năm 2005, chúng tôi đã triển khai chương trình điều trị AIDS bằng thuốc đặc trị (ARV) miễn phí cho học viên tại trung tâm Phú Văn, Nhị Xuân và Trường 4.
Được chăm sóc tốt hơn ở ngoài cộng đồng
. Theo báo cáo của Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội, từ năm 2003 đến năm 2006, trong số người nghiện ma túy được tập trung có hơn 7.300 học viên chết. Đó là con số quá cao, thưa ông?
+ Số người chết như vậy là quá nhiều so với người bình thường. Nhưng cần nhớ, đối với quần thể người nghiện ma túy nhiễm HIV và nhiều dịch bệnh nguy hiểm khác như lao, viêm gan siêu vi B, C... thì số này không nhiều.
Ở nước ta, người nhiễm HIV chủ yếu là người nghiện có thể trạng kém, hệ miễn dịch yếu nên thời gian trung bình chuyển sang AIDS là năm năm và thời gian sống của bệnh nhân AIDS chỉ khoảng một năm. Do đó, với một quần thể người nhiễm HIV không đổi, chỉ sau sáu năm thì toàn thể quần thể đó sẽ chết hết. Như vậy, ước tính số người chết do AIDS tại các trung tâm cai nghiện từ năm 2003 đến 2006 phải là trên 7.800 người. Thế nhưng tổng số người chết (do AIDS và cả những nguyên nhân khác) trong các trung tâm chỉ khoảng trên 7.300 người. Số người chết thấp như vậy là do người nghiện ma túy trong các trung tâm được chăm sóc tốt hơn khi họ ở ngoài cộng đồng.
. Khi các đối tượng này tái hòa nhập cộng đồng, làm sao có thể kiểm soát và tiếp tục điều trị cho họ?
+ Khi người sau cai tái hòa nhập cộng đồng, chúng tôi chuyển hồ sơ sức khỏe từng người về các trung tâm tham vấn và hỗ trợ tại cộng đồng quận, huyện để họ tiếp tục được chăm sóc, điều trị. TP đã xây dựng được hàng chục phòng khám ngoại trú dành cho người nhiễm, trong đó có 21 phòng khám đã triển khai chữa trị AIDS bằng thuốc ARV.
Đến cuối năm 2007, TP đã cấp thẻ xác nhận tình trạng nhiễm HIV cho gần 23.000 người, trong đó hơn 9.600 bệnh nhân AIDS được xét chọn điều trị bằng thuốc ARV. Các đối tượng này không chỉ là người TP mà còn có người của các tỉnh, thành khác, tất cả đều được chăm sóc, điều trị miễn phí.
. Xin cảm ơn ông.
Các tổ chức quốc tế hỗ trợ hàng chục tỷ đồng
Theo ông Lê Trường Giang, qua hiệu quả của các hoạt động phòng chống HIV tại TP.HCM, các tổ chức quốc tế đã dần nhận thức được tính nhân bản của chương trình cai nghiện tập trung để chăm sóc, chữa trị, giúp người nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Nhiều tổ chức đã hỗ trợ TP không chỉ trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS mà cả trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục, hỗ trợ cho người nghiện ma túy. Có thể kể đến những tổ chức như Chương trình hỗ trợ phòng chống AIDS khẩn cấp của tổng thống Mỹ, Trung tâm phòng chống và kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC), Tổ chức sức khỏe gia đình quốc tế (FHI), Tổ chức Thầy thuốc thế giới của Pháp (MdM), Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ toàn cầu, Ngân hàng thế giới, Quỹ Clinton Foundation... Riêng trong năm 2007, UBPC AIDS TP đã tiếp nhận hơn 60 tỷ đồng viện trợ, chưa tính thuốc ARV và các hiện vật khác.
|