Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


2 Trang<12
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline morningstar  
#21 Đã gửi : 14/01/2010 lúc 04:44:31(UTC)
morningstar

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 29-12-2009(UTC)
Bài viết: 6
Đến từ: hcm

Cảm ơn Quỷ_Kiếm_Sầu vì bài thơ rất hay, rất ý nghĩa, sâu sắc!

Offline nirvana_sg  
#22 Đã gửi : 14/01/2010 lúc 05:47:36(UTC)
nirvana_sg

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 03-03-2009(UTC)
Bài viết: 153

Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Mình cũng làm trong một cơ quan có kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm. Có xn máu, nhưng ko có tét HIV. Còn bạn mình làm xn bên 175 thì cũng nói xn HIV là bắt buộc với một số ngành đặc thù khi mà mình chuẩn bị xin vào làm hay khi người ta tuyển vào làm thì bắt buộc phải có xn HIV thôi. Chứ đa số cơ quan và DN đều không đăng ký xn HIV cho nhân viên khi khám tổng quát. Mà mỗi xn của mỗi loại bệnh có một công thức test khác nhau nên không phải cứ xn máu là đều liên quan đến xn HIV đâu. Mà khi xn tổng quát, vẫn có thể cho người khác xn thay mình chứ người ta làm cũng sơ sài lắm, chẳng ai biết đâu. Có mấy lần minh đi khám, tới xn máu là không khám nữa. Kết quả đi khám tổng quát người ta vẫn gửi về bình thường, chẳng có gì cả. Mà nếu mình vẫn xn máu thì kết quả xn người ta sẽ bỏ trong phong bì dán kín và gửi về cho riêng mình hoặc nếu gửi cho bộ phận tổng hợp của cơ quan thì bộ phận đó cũng đưa phong bì thông tin xn cho mình chứ không có quyền mở ra xem thông tin mà. Cũng có một lần, mình đem người nhà mình đi khám bệnh và xn ở Columbia Gia Định. Vì người nhà mình bận nên mình đi lấy kết quả khám bệnh, các bênh khác thì được chứ kết quả xn người ta không cho lấy mà phải tự chính người xn lên lấy. Nói vậy để mọi người hiểu là kq xn HIV người ta bảo mật thông tin kĩ càng lắm, chứ không tiết lộ lung tung cho người ngoài đâu.
Đó là những gì mình biết và đã trãi qua. Viết ra cho bạn tham khảo và có thể yên tâm phần nào thôi. Hy vọng bạn cũng sẽ không gặp trở ngại trong vấn đề khám sức khỏe của cơ quan nhé.
Chúc sức khỏe.

Thân,

Offline sala  
#23 Đã gửi : 14/01/2010 lúc 07:33:11(UTC)
sala

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm:
Gia nhập: 31-12-2009(UTC)
Bài viết: 108
Woman

các anh có thể nói rõ hơn không những ngành nghề nào bắt buột xét nghiệm HIV
Offline Quỷ_Kiếm_Sầu  
#24 Đã gửi : 14/01/2010 lúc 01:36:04(UTC)
Quỷ_Kiếm_Sầu

Danh hiệu: Member

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 18-06-2008(UTC)
Bài viết: 66

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 16 lần trong 13 bài viết


Một số quy định mới đáng chú ý của Luật Phòng, chống HIV/AIDS
Thứ Năm, 21/12/2006 - 7:51 AM
Ngày 29-6-2006, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)- sau đây gọi tắt là Luật Phòng, chống HIV/AIDS. Luật này sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2007. Xin giới thiệu những điểm mới đáng chú ý của Luật này.

 

Lần đầu tiên, các quy định về phòng, chống HIV/AIDS được ban hành dưới hình thức văn bản luật, đáp ứng toàn diện và đầy đủ hơn nữa yêu cầu cấp thiết của công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình hiện nay. So với Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV/AIDS), Luật đã bổ sung một số nội dung mới đáng chú ý sau đây:

1. Bổ sung giải thích một số từ ngữ trong Luật nhằm bảo đảm nhận thức và thi hành thống nhất, chính xác các quy định của Luật này: Điều 2 của Luật gồm có 15 khoản quy định về 15 khái niệm được sử dụng trong văn bản Luật cần được hiểu đầy đủ, chính xác và thống nhất trong Luật.

Đáng chú ý là một số thuật ngữ hiện đang được sử dụng nhiều trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS nhưng chưa được "pháp lý hóa", chẳng hạn như kỳ thị với người nhiễm HIV; phân biệt đối xử với người nhiễm HIV; nhóm giáo dục đồng đẳng; nhóm người di biến động; các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV...

2. Quy định về chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS: Luật quy định nghiêm cấm nhiều hành vi cụ thể trực tiếp liên quan đến kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Đây là một nội dung đáng lưu ý nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế phòng chống HIV/AIDS hiện nay khi mà vấn đề kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS, gia đình và những người liên quan đến họ đang là một trong những khó khăn, thách thức mang tính xã hội cần phải giải quyết nhằm từng bước giảm thiểu ảnh hưởng của HIV/AIDS đối với xã hội. Điều 8 của Luật (các khoản 3, 4, 5, 6, 7, 9, 10) nêu cụ thể, rõ ràng những hành vi biểu hiện sự kỳ thị, phân biệt đối xử điển hình cần phải nghiêm cấm. Điều 14 - phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc - quy định rõ về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tuyên truyền chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV tại nơi làm việc và thực hiện các quy định về chống kỳ thị và phân biệt đối xử đối với họ.

Khoản 2 của Điều này còn quy định cụ thể những hành vi mà người sử dụng lao động không được làm vì đó là những hành vi thể hiện sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV. Quy định về chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS hoàn toàn phù hợp và tương thích với luật pháp quốc tế về phòng chống HIV/AIDS và phù hợp với truyền thống đạo đức của người Việt Nam.

3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV/AIDS: Mặc dù Pháp lệnh năm 1995 cũng có quy định về quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV nhưng chưa cụ thể, rõ ràng. Luật mới ban hành dành hẳn một điều (Điều 4) quy định rất đầy đủ và cụ thể về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người nhiễm HIV/AIDS.

Dưới giác độ luật pháp thì người nhiễm HIV/AIDS có đầy đủ các quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Tuy nhiên, việc quy định trong Luật về vấn đề này nhằm khẳng định một lần nữa các quyền của họ, đặc biệt là những quyền dễ bị xâm phạm vì lý do bị nhiễm HIV, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.

Bên cạnh đó một điểm cần lưu ý là bên cạnh quy định các quyền, Luật cũng khẳng định nghĩa vụ của người nhiễm HIV với bản thân, gia đình, cộng đồng xã hội. Điều này rất quan trọng bởi nó tạo nên sự bình đẳng và công bằng về mặt luật pháp trong việc giải quyết mối liên hệ giữa những người nhiễm HIV và cộng đồng xã hội.

Đây là điểm rất tiến bộ của Luật vì thậm chí luật pháp quốc tế cũng chỉ chú trọng đề cập đến các quyền của người nhiễm HIV mà thôi...

4. Quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng và minh bạch hơn về vấn đề xét nghiệm phát hiện HIV: Luật dành hẳn một mục (mục 2 - từ Điều 26 đến Điều 30) của Chương III "Các biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế trong phòng, chống HIV/AIDS" để quy định cụ thể về tư vấn và xét nghiệm HIV. Các quy định này là cơ sở pháp lý để tiến hành việc xét nghiệm phát hiện HIV trong những trường hợp tự nguyện và những trường hợp bắt buộc.

Về nguyên tắc, việc xét nghiệm phát hiện HIV được tiến hành trên cơ sở tự nguyện với sự hỗ trợ tích cực của tư vấn trước và sau xét nghiệm. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan nhà nước (Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan điều tra) hoặc phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm hoặc xuất phát từ yêu cầu chẩn đoán và điều trị bệnh trong một số trường hợp cần thiết hoặc do yêu cầu đặc thù một số nghề trước khi tuyển dụng thì cần tiến hành xét nghiệm bắt buộc (Điều 28).

Luật cũng quy định cụ thể hơn nhiều so với quy định của Pháp lệnh năm 1995 về vấn đề thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính, về cơ sở xét nghiệm HIV đủ điều kiện khẳng định các trường hợp HIV dương tính.

Các quy định này cũng có tác dụng to lớn trong việc bảo đảm bí mật riêng tư của người nhiễm HIV và góp phần tích cực chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.

5. Quy định cụ thể hơn về quản lý, chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS: So với Pháp lệnh năm 1995 thì Luật Phòng, chống HIV/AIDS mới ban hành không chỉ quy định về vấn đề điều trị mà còn quy định cả về vấn đề quản lý và chăm sóc đối với họ.

Các quy định này được bổ sung trên cơ sở yêu cầu của thực tiễn công tác phòng chống HIV/AIDS hiện nay ở nước ta. Đây là vấn đề thực tế đặt ra đòi hỏi sự quan tâm và tham gia của cả cộng đồng xã hội vì số lượng người nhiễm HIV/AIDS đã lên đến con số hàng trăm nghìn người.

Luật bổ sung quy định về hệ thống chăm sóc người nhiễm HIV với vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, của UBND các cấp với sự tham gia của các tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức từ thiện. Sự tham gia chủ động của người nhiễm HIV và gia đình họ, sự hỗ trợ của cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong quản lý, chăm sóc điều trị người nhiễm HIV.

Đặc biệt, Luật có quy định về vấn đề bảo hiểm y tế đối với người nhiễm HIV. Đây là quy định rất mới thể hiện bản chất nhân đạo của Nhà nước đối với nạn nhân của căn bệnh thế kỷ.

Từ nay, những người đang tham gia bảo hiểm y tế mà bị nhiễm HIV sẽ được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi phí khám bệnh, chữa bệnh và quy định này đã làm giảm gánh nặng to lớn về tài chính đè lên vai của những người nhiễm HIV và gia đình họ, mở ra nhiều cơ hội cho họ tiếp cận với thuốc kháng HIV.

Luật bổ sung quy định về vấn đề chăm sóc trẻ em nhiễm HIV/AIDS: Đây là vấn đề thực tế đang đặt ra đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội. Bên cạnh việc quy định cung cấp thuốc kháng HIV miễn phí tại Điều 39 cho trẻ em phù hợp với tinh thần của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004. Luật còn quy định rõ "Trẻ em nhiễm HIV bị bỏ rơi... được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước" (khoản 2 Điều 41).

Luật cũng quy định về vấn đề tiếp cận với thuốc kháng HIV: Quy định này thể hiện Nhà nước Việt Nam quan tâm thật sự đến những người nhiễm HIV/AIDS thể hiện qua chính sách pháp lý của mình nhằm tạo mọi điều kiện để người nhiễm HIV/AIDS có được nhiều cơ hội tiếp cận với thuốc kháng HIV. Đặc biệt, đối với những người bị phơi nhiễm với HIV; bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, người bị nhiễm HIV do rủi ro của kỹ thuật y tế; phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai; trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV thì được Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định những đối tượng được ưu tiên tiếp cận với thuốc HIV tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS, đó là trẻ em từ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi; người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng chống HIV/AIDS; người nhiễm HIV có hoàn cảnh khó khăn....

6. Bổ sung quy định về tư vấn trong phòng; chống HIV/AIDS: Ngoài quy định về tư vấn trước và sau xét nghiệm phát hiện HIV, Luật còn quy định về hoạt động tư vấn về phòng chống HIV/AIDS nói chung. Đây là quy định mới, rất quan trọng song không được quy định trong Pháp lệnh năm 1995 và là biện pháp có tác dụng to lớn và hiệu quả rất cao hiện nay trong hoạt động phòng; chống HIV/AIDS.

7. Bổ sung quy định về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV : Vấn đề này được đề cập trực tiếp tại các điều 2, 3, 10, 11 và 21. Đây là các quy định hoàn toàn mới được quy định trong Luật so với Pháp lệnh năm 1995. Các quy định này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển khai thống nhất, đồng bộ và rộng khắp các biện pháp can thiệp giảm tác hại như phân phát bao cao-su, trao đổi bơm kim tiêm sạch, sử dụng thuốc điều trị cai nghiện thay thế các thuốc gây nghiện dạng thuốc phiện... đồng thời giải quyết vấn đề "xung đột pháp luật" trong mối liên hệ với các quy định hiện hành về phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm.

8. Bỏ một số quy định trong Pháp lệnh năm 1995 do  không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thực tế phòng, chống HIV/AIDS hiện nay: Các quy định về xét nghiệm HIV bắt buộc khi khám sức khỏe định kỳ (Điều 17 Pháp lệnh); quy định về khai báo bị nhiễm HIV/AIDS đối với người nước ngoài nhập cảnh (Điều 19 Pháp lệnh); quy định về bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp cho người quản lý chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS (Điều 21 Pháp lệnh); quy định về ngành nghề người nhiễm HIV/AIDS không được làm (Điều 22 Pháp lệnh) đã được bỏ, không quy định trong Luật Phòng, chống HIV/AIDS mới ban hành.

Pháp luật Việt Nam


Rút gươm chém xuống nước, nước càng chảy mạnh
Nâng chén tiêu sầu,càng sầu thêm
...
Offline Quỷ_Kiếm_Sầu  
#25 Đã gửi : 14/01/2010 lúc 01:37:42(UTC)
Quỷ_Kiếm_Sầu

Danh hiệu: Member

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 18-06-2008(UTC)
Bài viết: 66

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 16 lần trong 13 bài viết


CHÍNH PHỦ

________

Số: 108/2007/NĐ-CP

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

__________________________

Hà Nội, ngày 26  tháng 6 năm 2007

 

NGHỊ ĐỊNH

Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống

nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch

mắc phải ở người (HIV/AIDS)

____

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 29 tháng 6 năm 2006;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

1. Nghị định này quy định chi tiết thi hành khoản 2 Điều 21, khoản 2 Điều 23, khoản 3 Điều 28, khoản 4 Điều 39 và khoản 5 Điều 41 của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) về:

a) Thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV;

b) Quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV;

c) Chế độ chăm sóc trẻ em nhiễm HIV bị bỏ rơi, người nhiễm HIV không nơi nương tựa, không còn khả năng lao động và việc thành lập cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV ngoài công lập;

d) Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội;

đ) Danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.

2. Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

1. Nhân viên tiếp cận cộng đồng là những người trực tiếp tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV được cấp thẻ theo quy định của pháp luật, bao gồm tuyên truyền viên đồng đẳng và những người tình nguyện khác.

2. Tuyên truyền viên đồng đẳng là người tự nguyện thực hiện công tác tuyên truyền, vận động và giúp đỡ cho các đối tượng có cùng cảnh ngộ, lối sống như mình hiểu và thực hiện các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS.

3. Bơm kim tiêm sạch là dụng cụ tiêm chích vô trùng chỉ dùng một lần và sau đó không dùng lại nữa.

4. Nghiện chất dạng thuốc phiện là nghiện thuốc phiện và những chất tự nhiên, bán tổng hợp hoặc tổng hợp có tác dụng dược lý giống như thuốc phiện.

5. Điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế là việc kết hợp sử dụng thuốc thuộc nhóm có chứa một số chất dạng thuốc phiện được tổng hợp để thay thế cho nghiện các chất dạng thuốc phiện cùng với các giải pháp tâm lý, xã hội làm cho người nghiện giảm việc sử dụng các chất dạng thuốc phiện mà không gây nhiễm độc tâm thần, không gây tăng liều và các tác động khác.

6. Thuốc kháng HIV là thuốc đặc hiệu dùng cho người nhiễm HIV hoặc bị phơi nhiễm với HIV để hạn chế sự phát triển của vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người hoặc dự phòng lây nhiễm HIV và không phải là thuốc điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội ở người nhiễm HIV.

Điều 3. Những hành vi bị nghiêm cấm

1. Ngăn cản thực hiện các chương trình, dự án trong việc triển khai các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.

2. Lợi dụng thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV để môi giới hoặc tổ chức thực hiện các hoạt động mại dâm, buôn bán ma tuý.

3. Bán ra thị trường bơm kim tiêm, bao cao su, thuốc điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện và thuốc kháng HIV đã được quy định là cung cấp miễn phí.

Chương II

CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP GIẢM TÁC HẠI

 TRONG DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV

Điều 4. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV

1. Cung cấp và hướng dẫn sử dụng bao cao su.

2. Cung cấp và hướng dẫn sử dụng bơm kim tiêm sạch.

3. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

Điều 5. Đối tượng áp dụng các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV

Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV được triển khai trong các nhóm đối tượng sau:

1. Người mua dâm, bán dâm;

2. Người nghiện chất dạng thuốc phiện;

3. Người nhiễm HIV;

4. Người có quan hệ tình dục đồng giới; 

5. Người thuộc nhóm người di biến động;

6. Người có quan hệ tình dục với các đối tượng quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.

Điều 6. Thẩm quyền quyết định triển khai các biện ph�p can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV

1. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV được thực hiện thông qua các chương trình, dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này phê duyệt.

2. Thẩm quyền phê duyệt các chương trình, dự án từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc các nguồn khác được quy định như sau:

a) Bộ trưởng Bộ Y tế chịu trách nhiệm phê duyệt các chương trình, dự án có quy mô hoạt động từ hai tỉnh trở lên;

b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có chức năng liên quan đến phòng, chống HIV/AIDS chịu trách nhiệm phê duyệt các chương trình, dự án có quy mô hoạt động trong phạm vi thuộc thẩm quyền quản lý của mình;

c) Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm phê duyệt các chương trình, dự án có quy mô hoạt động trong phạm vi địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của mình.

3. Thẩm quyền phê duyệt các chương trình, dự án từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức.

Điều 7. Quyền và trách nhiệm của nhân viên tiếp cận cộng đồng khi thực hiện các chương trình, dự án can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV

1. Nhân viên tiếp cận cộng đồng khi thực hiện các chương trình, dự án can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV có các quyền sau:

a) Được hưởng các chế độ, phụ cấp từ các chương trình, dự án can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV;

b) Không bị coi là vi phạm pháp luật khi thực hiện việc phân phát bao cao su, bơm kim tiêm sạch, điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế cho các đối tượng quy định tại Điều 5 Nghị định này.

2. Nhân viên tiếp cận cộng đồng khi thực hiện các chương trình, dự án can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV có trách nhiệm:

a) Thông báo với Ủy ban nhân dân và công an cấp xã trước khi triển khai thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trên địa bàn;

b) Sử dụng thẻ khi thực hiện nhiệm vụ đúng với phạm vi trách nhiệm được phân công.

3. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn tiêu chuẩn của người được cấp thẻ; mẫu thẻ; việc cấp, phát, quản lý và sử dụng thẻ thống nhất trong cả nước khi tham gia chương trình, dự án về thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.

Điều 8. Cung cấp, hướng dẫn sử dụng bao cao su

1. Bao cao su được các chương trình, dự án cung cấp miễn phí hoặc bán trợ giá cho các đối tượng quy định tại Điều 5 Nghị định này thông qua các nhân viên tiếp cận cộng đồng đã được cấp thẻ hoặc qua mạng lưới các điểm cung cấp bao cao su quy định tại khoản 3 Điều này.

2. Bao cao su cung cấp miễn phí quy định tại khoản 1 Điều này phải được in rõ trên bao bì hoặc nhãn phụ dòng chữ "Cung cấp miễn phí, không được bán".

3. Người phụ trách các chương trình, dự án có quyền:

a) Phát triển mạng lưới các điểm cung cấp bao cao su miễn phí, đặt các máy bán bao cao su tự động, bố trí các điểm bán lẻ bao cao su tại các địa điểm vui chơi, giải trí, bến tàu, bến xe, nhà ga, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ lưu trú khác;

b) Đẩy mạnh hoạt động cung cấp bao cao su miễn phí, bán bao cao su đã được trợ giá cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng.

4. Người phụ trách các chương trình, dự án có trách nhiệm:

a) Hướng dẫn sử dụng bao cao su đúng cách;

b) Thông báo với Ủy ban nhân dân và công an cấp xã trước khi triển khai thực hiện việc cung cấp và hướng dẫn sử dụng bao cao su.

5. Người phụ trách các địa điểm vui chơi, giải trí, bến tàu, bến xe, nhà ga, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ lưu trú khác có trách nhiệm phối hợp với các chương trình, dự án trong việc cung cấp bao cao su miễn phí hoặc đặt máy bán bao cao su tự động tại cơ sở của mình.

6. Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan công an cùng cấp có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình, dự án hoạt động, phát triển mạng lưới các điểm cung cấp bao cao su trên địa bàn theo thẩm quyền quản lý.

Điều 9. Cung cấp và hướng dẫn sử dụng bơm kim tiêm sạch 

1. Bơm kim tiêm sạch được các chương trình, dự án cung cấp miễn phí cho người nghiện chích ma túy thông qua các nhân viên tiếp cận cộng đồng đã được cấp thẻ hoặc qua mạng lưới các điểm cung cấp bơm kim tiêm sạch quy định tại khoản 5 Điều này.

2. Bơm kim tiêm quy định tại khoản 1 Điều này phải được in rõ trên bao bì hoặc nhãn phụ dòng chữ "Cung cấp miễn phí, không được bán".

3. Nhân viên tiếp cận cộng đồng khi phân phát bơm kim tiêm sạch cho người nghiện chích ma túy có nhiệm vụ:

a) Hướng dẫn việc thực hành sử dụng bơm kim tiêm an toàn;

b) Phân phát đúng số lượng bơm kim tiêm sạch đã được chương trình, dự án cấp, đồng thời thu gom các bơm kim tiêm đã qua sử dụng vào hộp cứng an toàn và chuyển về địa điểm quy định để tiêu hủy theo quy định của pháp luật về xử lý chất thải.

4. Người nghiện chích ma tuý có trách nhiệm thu gom bơm kim tiêm đã qua sử dụng để trao lại cho nhân viên tiếp cận cộng đồng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều này.

5. Các chương trình, dự án được phép phát triển mạng lưới các điểm cung cấp bơm kim tiêm sạch cố định hoặc di động tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS, Trung tâm y tế dự phòng cấp tỉnh và cấp huyện, các nhà thuốc, các phòng tư vấn, xét nghiệm tự nguyện và các địa điểm thích hợp khác.

6. Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan công an cùng cấp có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình, dự án hoạt động, phát triển mạng lưới các điểm cung cấp bơm kim tiêm sạch trên địa bàn theo thẩm quyền quản lý.

Điều 10. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

1. Việc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế chỉ được thực hiện tại các cơ sở y tế có đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực và được Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ định thông qua các chương trình, dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định này. Không áp dụng biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế tại các cơ sở chữa bệnh được thành lập theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.

2. Việc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế chỉ được thực hiện khi người nghiện các chất dạng thuốc phiện tự nguyện và cam kết bằng văn bản về tuân thủ phác đồ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Trường hợp người nghiện các chất dạng thuốc phiện dưới 16 tuổi thì cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó phải tự nguyện và cam kết bằng văn bản về tuân thủ phác đồ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

3. Thuốc thay thế sử dụng trong việc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện phải được Bộ Y tế cấp số đăng ký lưu hành.

4. Khi người nghiện các chất dạng thuốc phiện dùng thuốc thay thế phải có sự giám sát của nhân viên y tế.

5. Trong quá trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người nghiện các chất dạng thuốc phiện không bị đưa vào cơ sở chữa bệnh được thành lập theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, trừ trường hợp sử dụng ma tuý trái phép.

6. Chỉ các bác sĩ, y sĩ đã qua tập huấn về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế và được các cơ sở y tế quy định tại khoản 1 Điều này phân công mới được quyền kê đơn thuốc thay thế cho người nghiện các chất dạng thuốc phiện khi người đó có tên trong danh sách điều trị của chương trình, dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

7. Thuốc thay thế sử dụng trong việc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý thuốc gây nghiện và thuốc hướng tâm thần.

8. Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn điều kiện cụ thể đối với cơ sở y tế được chỉ định điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; quy trình, phác đồ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

Điều 11. Kiểm tra, giám sát các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV

1. Nội dung kiểm tra, giám sát:

a) Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định của pháp luật và quy định của chương trình, dự án trong quá trình triển khai các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV của nhân viên tiếp cận cộng đồng;

b) Kiểm tra, giám sát hoạt động thực tế của nhân viên tiếp cận cộng đồng của các chương trình, dự án về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV;

c) Kiểm tra, giám sát việc triển khai các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV của các chương trình, dự án theo các nội dung đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

2. Trách nhiệm kiểm tra, giám sát:

a) Người đứng đầu chương trình, dự án và người trực tiếp phụ trách các nhân viên tiếp cận cộng đồng có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV của nhân viên tiếp cận cộng đồng. Trường hợp phát hiện nhân viên tiếp cận cộng đồng không tuân thủ các quy định của chương trình, dự án hoặc có hành vi vi phạm pháp luật phải lập tức đình chỉ hoạt động của nhân viên đó, thu hồi thẻ và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật;

b) Đơn vị đầu mối về phòng, chống HIV/AIDS tuyến tỉnh có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan công an, cơ quan phòng, chống tệ nạn xã hội kiểm tra, giám sát hoạt động của các chương trình, dự án về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV trên địa bàn tỉnh. Trường hợp phát hiện chương trình, dự án không tuân thủ đúng theo nội dung đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc không đủ năng lực quản lý hoạt động của các nhân viên tiếp cận cộng đồng phải báo cáo ngay Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ Y tế - đơn vị đã phê duyệt chương trình, dự án đó để có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.

Chương III

QUẢN LÝ, PHÂN PHỐI, SỬ DỤNG

THUỐC KHÁNG HIV

Điều 12. Quản lý thuốc kháng HIV

1. Thuốc kháng HIV sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu trước khi lưu hành phải có số đăng ký lưu hành do Bộ Y tế cấp.

2. Thuốc kháng HIV thuộc danh mục thuốc thiết yếu, danh mục thuốc phải kê đơn và bán thuốc theo đơn do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.

3. Thuốc kháng HIV mua từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc do các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ được cung cấp miễn phí cho người nhiễm HIV quy định tại Điều 39 của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).

Điều 13 . Phân phối thuốc kháng HIV miễn phí

1. Thuốc kháng HIV được mua từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc do các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ do Bộ Y tế thống nhất phân phối trong phạm vi cả nước.

2. Hàng năm, Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt kế hoạch phân phối thuốc kháng HIV quy định tại khoản 1 Điều này, kể cả thuốc kháng HIV sử dụng để điều trị dự phòng cho người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.

3. Quy trình phân phối thuốc kháng HIV:

a) Thuốc kháng HIV được chuyển từ nhà cung cấp đến các doanh nghiệp dược có đủ điều kiện về bảo quản và phân phối thuốc do Bộ Y tế chỉ định;

b) Hàng tháng hoặc hàng quý, doanh nghiệp dược điều chuyển trực tiếp thuốc kháng HIV cho các cơ sở y tế điều trị người nhiễm HIV theo kế hoạch đã được phê duyệt quy định tại khoản 2 Điều này.

4. Bộ Y tế, Sở Y tế và đơn vị đầu mối về phòng, chống HIV/AIDS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc phân phối và sử dụng thuốc kháng HIV. 

5. Hàng tháng, các cơ sở y tế điều trị người nhiễm HIV có trách nhiệm báo cáo số lượng thuốc kháng HIV đã sử dụng, đối tượng và phác đồ điều trị, số lượng thuốc kháng HIV còn tồn kho cho Sở Y tế và đơn vị đầu mối về phòng, chống HIV/AIDS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời báo cáo Bộ Y tế để tổng hợp và xử lý.

6. Đối với thuốc kháng HIV sử dụng để điều trị dự phòng cho người bị phơi nhiễm với HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, các đơn vị đầu mối về phòng, chống HIV/AIDS tuyến tỉnh phải dự trữ một cơ số thuốc theo kế hoạch quy định tại khoản 2 Điều này để sử dụng khẩn cấp khi có trường hợp bị phơi nhiễm với HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp xảy ra trên địa bàn quản lý.

Điều 14. Cung ứng thuốc kháng HIV

1. Các cơ sở bán buôn thuốc, bán lẻ thuốc được quyền cung ứng thuốc kháng HIV đã được cấp số đăng ký lưu hành.

2. Các cơ sở bán lẻ thuốc chỉ được bán thuốc kháng HIV đã được cấp số đăng ký lưu hành cho người nhiễm HIV, người bị phơi nhiễm với HIV theo đơn của bác sĩ điều trị quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định này.

Điều 15. Kê đơn, sử dụng thuốc kháng HIV

1. Chỉ các bác sĩ đã qua đào tạo, tập huấn về điều trị HIV/AIDS theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế mới được phép kê đơn thuốc kháng HIV cho người nhiễm HIV, người bị phơi nhiễm với HIV.

2. Bác sĩ khi kê đơn thuốc kháng HIV phải tuân thủ quy trình và phác đồ điều trị HIV/AIDS do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.

3. Người nhiễm HIV, người bị phơi nhiễm với HIV phải thực hiện theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ khi sử dụng thuốc kháng HIV.

Chương IV

CHĂM SÓC NGƯỜI NHIỄM HIV

Mục 1

CHĂM SÓC NGƯỜI NHIỄM HIV

TẠI CƠ SỞ BẢO TRỢ XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC

Điều 16. Đối tượng nhiễm HIV được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước và chế độ chăm sóc người nhiễm HIV tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước

Việc tiếp nhận người nhiễm HIV vào cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước và chế độ chăm sóc người nhiễm HIV tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước  thực hiện theo quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.

Mục 2

CHĂM SÓC NGƯỜI NHIỄM HIV

TẠI CƠ SỞ BẢO TRỢ XÃ HỘI NGOÀI CÔNG LẬP

Điều 17. Thành lập cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập

1. Cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập do các tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ, tổ chức nhân đạo và các tổ chức khác thành lập để chăm sóc, nuôi dưỡng người nhiễm HIV.

2. Việc thành lập và hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Điều 18. Chế độ chăm sóc người nhiễm HIV tại cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập

Cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập phải tự bảo đảm kinh phí để nuôi dưỡng, trợ cấp sinh hoạt phí, hỗ trợ điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội mắc phải do HIV gây nên, hỗ trợ mai táng phí cho người nhiễm HIV tối thiểu như các chế độ quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.

Chương V

 LỒNG GHÉP  HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS

VỚI CÁC CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

VÀ DANH MỤC MỘT SỐ NGHỀ PHẢI XÉT NGHIỆM HIV

TRƯỚC KHI TUYỂN DỤNG

Điều 19. Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội

1. Khi xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp, nhất thiết phải lồng ghép các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS theo các nguyên tắc sau:

a) Quy định chỉ tiêu và các hoạt động cụ thể về phòng, chống HIV/AIDS đối với Ủy ban nhân dân các cấp và các Bộ, ngành trực tiếp tham gia vào hoạt động phòng, chống HIV/AIDS hoặc phân tích tác động của chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS của các Bộ, ngành không trực tiếp tham gia vào hoạt động phòng, chống HIV/AIDS;

b) Quy định nguồn kinh phí để thực hiện các hoạt động cụ thể về phòng, chống HIV/AIDS;

c) Quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc phối hợp với cơ quan y tế đầu mối về phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn để thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS.

2. Các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp chỉ được phê duyệt khi đã đáp ứng các nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 20. Danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng

1. Danh mục nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng:

a) Thành viên tổ lái theo quy định tại Điều 72 của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam;

b) Nghề đặc biệt thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng.

2. Khi đã tuyển dụng mà phát hiện người lao động nhiễm HIV, người sử dụng lao động phải thực hiện đúng các quy định tại Điều 14 của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).

3. Căn cứ vào diễn biến của dịch HIV/AIDS trong từng thời kỳ cụ thể, Bộ trưởng Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng, thống nhất trình Thủ tướng Chính phủ quyết định sửa đổi, bổ sung danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.

Chương VI

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 21. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. 

Bãi bỏ Nghị định số 34/CP ngày 01 tháng 6 năm 1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).

Điều 22. Hướng dẫn thi hành

Bộ trưởng Bộ Y tế chịu trách nhiệm hướng dẫn chi tiết và triển khai thi hành Nghị định này./.



 

TM. CHÍNH PHỦ

 THỦ TƯỚNG

ã ký)

Nguyễn Tấn Dũng


Rút gươm chém xuống nước, nước càng chảy mạnh
Nâng chén tiêu sầu,càng sầu thêm
...
Offline hanminh  
#26 Đã gửi : 15/01/2010 lúc 10:04:45(UTC)
hanminh

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm:
Gia nhập: 07-01-2010(UTC)
Bài viết: 47

Công nhận muốn cống hiến cho XH cũng khổ thật.

Không làm thì k có tiền chữa trị mà đi làm thì lo lắng.

Anh morningstar cố lên nha. big green

Biết đâu sau này ra trường anh em mình lại được làm việc cùng nhau.


Goodluck All.
HAPPY NEW YEAR
Offline anonymous  
#27 Đã gửi : 05/03/2010 lúc 04:59:24(UTC)
anonymous

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 23-02-2007(UTC)
Bài viết: 88

Mình không biết thế nào nhưng hiện tại mình cũng đang làm cho 1 Bank khá lớn ở Việt Nam - Hàng năm cũng có khám định kỳ 6 tháng . Nhưng khám tổng quát và có xn nhưng là Viên Gan ! Còn khi lấy máu làm gì nữa ko thì ko biết - Nhưng khám tổng quát thì bạn biết rối khám cho lấy có thôi ...
Offline hyvong06  
#28 Đã gửi : 29/07/2010 lúc 11:11:46(UTC)
hyvong06

Danh hiệu: Member

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 05-03-2009(UTC)
Bài viết: 17
Đến từ: Office

Cảm ơn: 18 lần
Được cảm ơn: 11 lần trong 5 bài viết
morningstar đã viết:
Quả thực mình lập ra topic này chỉ với mục đích duy nhất là tìm hiểu xem các bạn có cùng hoàn cảnh và mong muốn giống mình thì các bạn có giải pháp nào hay không để mình học theo, vậy thôi, không hề có ý gì khác.
Vậy, nếu topic đã không đạt được mục đích của nó thì nhờ mod close giúp. Cảm ơn nhiều!

Morningstar à, trường hợp của bạn giống mình. Cơ quan mình cũng khám SK định kỳ hàng năm nhưng mình trốn và không khám lần nào, họ không biết và cũng chẳng sao.

Chỉ có điều, mình cũng sợ đó là sau này họ bắt buộc.

Nếu bắt buộc XN HIV, mình sẽ mang luật HIV ra và nhờ ACE trên DD tư vấn, can thiệp. Hì

Đối với bạn, nếu trong ngành tài chính, ngân hàng mà không thoát được cảnh XN, bạn thử vào ngành giáo dục xem. Bởi theo mình, cho đến thời điểm này ngành GD vẫn có nhiều người có HIV đang công tác (họ công khai có H)

Còn nếu bạn không muốn làm trong các ngành khác, với năng lực của bạn, tại sao không thành lập công ty, trung tâm gì đó. Mình tự làm chủ, hoặc kết hợp với một số thành viên khác cùng làm…

Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (7)
2 Trang<12
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.