Nguồn gốc của HIV
HIV (Human Insuffisance Virus) là virus gây hội chứng suy giảm miễn
dịch ở người. HIV có dạng hình cầu, kích thước rất nhỏ (100-120 nm),
không nhìn thấy được bằng kính hiển vi thông thường mà phải dùng kính
hiển vi điện tử có độ phóng đại hàng chục ngàn lần. Virus chỉ có thể
tăng trưởng và sinh sản bên trong tế bào sống, HIV có ái tính đặc biệt
với các tế bào của hệ thống miễn dịch: lympho T giúp đỡ (T4), đại thực
bào, tế bào đơn nhân và một số tế bào có thụ thể tương tự T4 như tế bào
thần kinh, da và niêm mạc, hạch lympho,...nên khi xâm nhập cơ thể, chúng
liền bám dính vào màng tế bào rồi bắt đầu xâm nhập vào trong,
chúng"cướp quyền chỉ huy" và dùng các cấu trúc sẵn có của tế bào như
phương tiện để sản xuất ra nhiều HIV khác, cho đến khi tế bào bị hư hoàn
toàn và chết đi, lúc đó sẽ phóng thích những siêu vi mới sinh sản; các
HIV này lại chui vào các tế bào khác phá hoại tiếp, cứ dần dần như thế,
hệ miễn dịch bị tiêu diệt lần hồi, cuối cùng suy kiệt, không còn đủ sức
chống lại tác nhân gây bệnh xâm nhập, gọi là giai đoạn AIDS và người
bệnh sẽ chết ở giai đoạn này.
Hiện nay, người nhiễm HIV được chia làm 4 thời kỳ :
- Thời kỳ cửa sổ (phơi nhiễm):Thời kỳ này rất dễ lây lan cho người
khác vì số lượng virus trong máu rất cao, nhưng chưa có kháng thể. Người
bệnh thường bị sốt, viêm họng, nổi hạch, nhức đầu, khó chịu, phát ban.
Do không có triệu chứng đặc hiệu nên thầy thuốc thường hay chuẩn đoán
chung là nhiễm siêu vi. Vì vậy, nếu sau khi quan hệ tình dục không an
toàn (hay một sự cố nào gây nghi ngờ nhiễm HIV), nạn nhân cần xét nghiệm
máu (kỹ thuật PCR) tìm ARN của HIV. Kháng thể kháng HIV xuất hiện trong
máu muộn hơn, sau 6 tuần (thông thường là 3 tháng) mới xét nghiệm tìm
kháng thể.
- Thời kỳ nhiễm không triệu chứng: Số lượng tế bào T4 giảm, nhưng
lượng T4 không giống nhau ở mỗi người và sự giảm lượng T4 cũng không tỉ
lệ thuận với mức độ nặng của bệnh. Lượng kháng nguyên tăng lên phản ánh
sự nhân lên của virus mà hệ thống miễn dịch của cơ thể không khống chế
được.
- Thời kỳ nhiễm có triệu chứng, giai đoạn sớm: Việc chuyển giai đoạn
thể hiện qua các triệu chứng: sốt, vã mồ hôi về đêm, tiêu chảy mãn (do
HIV xâm nhập tế bào ở niêm mạc ruột), nổi hạch và đau đầu. Có thể có
sarcome Kaposi xuất hiện sớm. Bắt đầu mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội
như: nhiễm nấm Candida albicans ở niêm mạc miệng, nhiễm khuẩn hô hấp,
viêm nha chu.
- Thời kỳ nhiễm có triệu chứng, giai đoạn muộn: Số lượng tế bào T4
ngày càng giảm thì khả năng mắc bẹnh cơ hội ngày càng tăng. Khi T4 còn
200 tế bào/ml máu thì dễ bị viêm phổi và viêm màng não do Toxoplasma
gondii, khi còn 100 tế bào/ml máu thì dễ bị nhiễm nhiều loại:
Mycobacterium tuberculosis, nấm Candida albicans ở thực quản, viêm phổi
do Herpes virus.
Các biểu hiện của AIDS bao gồm: Nhiễm trùng cơ hội, suy kiệt cơ thể,
sarcome Kaposi, u lympho, bệnh về não, viêm chất trắng, viêm phổi kẽ mô
lympho. HIV, một retrovirus, có liên hệ chặt chẽ với các virus gây suy giảm miễn dịch ở khỉ (SIV, simian immunodeficiency virus). SIV là các lentivirus,
cũng như HIV, đang gây nội dịch ở nhiều loài khỉ tại Châu Phi, tuy
nhiên phần lớn chúng không có triệu chứng. Hầu hết các nhà khoa học tin
rằng một hoặc nhiều SIV lây truyền từ sinh vật khác sang loài người vào
khoảng đầu thế kỉ 20. Khảo sát tiến hành năm 1999 tại Đại học Alabama
nhận thấy rằng HIV-1 rất giống SIV tinh tinh (SIVcpz). Nguồn gốc động
vật, thời gian và địa điểm chính xác của sự lây truyền (hoặc thật sự đã
có bao nhiêu lây truyền) hiện vẫn chưa rõ và là đề tài cho các cuộc khảo
sát và tranh luận. Cũng có thể cả người và tinh tinh nhiễm từ một nguồn
thứ ba.
Giả thuyết lây truyền tự nhiên
cho rằng SIV được truyền sang người do sự tiếp xúc tự nhiên giữa loài
người và loài khỉ. Một giả thuyết, được gọi là "người thợ săn bị thương"
(cut hunter), giải thích bằng sự lây truyền từ máu sang máu khi
người đi săn bị thương va chạm vào khỉ cũng bị thương. Một đường khác là
việc tiêu thụ thịt sống, được coi là lây truyền theo đường miệng.
Nhiều cuộc nghiên cứu đã đưa đến giả thuyết là lúc đầu HIV lan rộng ở Tây Phi,
nhưng có thể có vài nguồn xuất phát khác, tương ứng với các chủng khác
nhau của HIV (HIV-1 và HIV-2). Mẫu dịch đầu tiên ở người được biết có
chứa virus này được lấy vào năm 1959 từ một thuỷ thủ Anh, người này rõ ràng đã nhiễm bệnh ở vùng ngày nay là Cộng hoà Dân chủ Congo. Các mẫu khác gồm các mẫu từ một người đàn ông Mỹ chết năm 1969 và từ một thuỷ thủ Na Uy vào năm 1976. Cái chết do AIDS ở Tây phương được ghi nhận sớm nhất là của BS. Grethe Rask, một nhà phẫu thuật Đan Mạch đã làm việc ở Congo trong đầu thập niên 1970.
Người ta tin rằng HIV được lan rộng qua các hoạt động tình dục, có thể bao gồm giới mại dâm,
trong các vùng đô thị đang phát triển nhanh chóng của Châu Phi. Khi
những người nhiễm virus - nhưng chưa có triệu chứng - di chuyển, virus
này lan từ thành phố này sang thành phố khác; hơn thế nữa, các khách
hàng không đã mang virus này tới các lục địa khác.
Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết cho rằng HIV có thể đã được
tạo ra bởi chương trình chủng ngừa bại liệt bằng đường uống (oral polio vaccination, OPV) của Liên Hiệp Quốc vào cuối thập niên 1950. Giả thuyết OPV AIDS
biện luận rằng việc dùng các bộ phận cơ thể của khỉ và tinh tinh để bào
chế vắc-xin, như là vắc-xin bại liệt, đã cung cấp một cơ chế khả dĩ để
đưa SIV vào con người, nhất là khi xét đến sự kiện vắc-xin được áp dụng
cho một triệu người, nhiều người trong số đó là các trẻ sơ sinh với hệ
miễn dịch còn yếu. Quan điểm này chiếm một thiểu số rất nhỏ trong cộng
đồng nghiên cứu HIV.
Hung thủ gây nên bệnh AIDS là virus Human immunodeficiency virus, gọi
tắt là HIV. Độc tố bệnh này vô cùng nhỏ, đầu mũi kim có thể chứa được
mười sáu nghìn con. Mặc dù nhỏ như thế nhưng nó lại có sức sát thương
rất mạnh đối với hệ thống miễn dịch của con người và cuối cùng phá tan
hệ thống miễn dịch. Quá trình này được diễn ra như thế nào?
Độc tố bệnh AIDS thông qua hành vi giới tính không an toàn của con
người hoặc kim tiêm bị ô nhiễm mà đi vào tĩnh mạch, thâm nhập vào cơ
thể. Mục tiêu đầu tiên mà nó công kích là tế bào lympho T có tính bổ trợ
(T - helper cell).
Tế bào lympho T có tính bổ trợ đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Nó là chất làm hài hòa, có thể
truyền tín hiệu hóa học để kích thích cơ thể sản sinh ra kháng thể
chuyên dụng chống lại vi khuẩn xâm nhập. Nó còn có thể khống chế sự phát
triển của mấy loại tế bào khác trong hệ thống miễn dịch.
Những hạt độc tố bệnh AIDS sau khi xâm nhập vào cơ thể sẽ cùng với
nucleoxit và axit nucleic hợp thành RNA. Trên RNA mang đầy đủ thông tin
di truyền của hạt độc tố bệnh. Sự kết hợp này có tính chuyên nhất rất
mạnh, giống như một chìa khóa chỉ có thể mở được một ổ khóa, phối hợp
rất nghiêm ngặt với nhau. Một khi độc tố kết hợp với thụ thể thì điều
đáng sợ sẽ xảy ra. Độc tố bệnh cho RNA xâm nhập vào trong tế bào lympho T
có tính bổ trợ, thông qua men ghi nhớ chuyển RNA thành DNA, hợp lại vào
trong DNA của tế bào lympho T. Độc tố bệnh DNA sau khi đi vào tế bào
lympho T sẽ nằm im ở đó, có thể nằm im trong một thời gian dài. Nhưng
vào một dịp nào đó, khi hệ thống miễn dịch của cơ thể được kích hoạt để
chống lại loại vi khuẩn nào đó mới xâm nhập, tế bào lympho T đã bị cảm
nhiễm bèn sinh sôi nảy nở, từ đó mà sản sinh ra vô số hạt độc tố bệnh
AIDS. Những hạt độc tố này sẽ được giải phóng ra khỏi các tế bào lympho
T. Một mặt, chúng giết chết một lượng lớn tế bào T, làm cho phòng tuyến
thứ nhất của hệ thống miễn dịch tan rã; mặt khác, nó tiếp tục công kích
các loại tế bào khác của hệ thống miễn dịch, cuối cùng phá hủy triệt để
hệ thống này, khiến cho cơ thể mất đi khả năng miễn dịch.
Trong thực tế, bệnh AIDS có tên gọi chính thức là "chứng thiếu miễn
dịch tổng hợp". Chính vì nó có thể phá hủy hệ thống miễn dịch của cơ thể
cho nên mới có tên gọi như thế.
Mình nghe mọi người nói hễ chích<xì ke> là bị HIV cho dù xài riêng
kim chích không dùng chung cũng bị có đúng không mọi người ? câu hỏi hoang tưởng.