Xét nghiệm định lượng virus là gì
Xét nghiệm định lượng virus cho biết lượng virus có trong 1 mẫu máu.
Sau khi nhiễm virus, lượng virus tăng lên rất cao, tuy nhiên, sau đó cơ thể chiến đấu chống lại virus và lượng virus giảm xuống ở mức rất thấp. Sau một thời gian, thường là một vài năm, lượng virus lại tăng lên. Tốc độ này thường rất cao (khoảng 50.000 - 200.000 bản sao/µL) vào thời điểm chỉ số CD4 còn 200 tế bào/mm3.
Xét nghiệm định lượng virus được dùng sau khi bắt đầu điều trị để kiểm tra xem thuốc có tác dụng không.
Nếu điều trị ARV giảm nồng độ virus xuống mức <50. bản sao/µL, có thể điều trị trong nhiều năm.
Các xét nghiệm này được nhiều quốc gia dùng nhưng lại rất khó thực hiện ở nhiều quốc gia khác.
Ở một số quốc gia, xét nghiệm định lượng virus và CD4 đắt tiền hơn thuốc điều trị. Các nghiên cứu mới đang xem xét việc phát minh các loại xét nghiệm mới vừa hiệu nghiệm lại có giá cả không quá cao hoặc không quá khó thực hiện.
Ngay cả khi bạn không được tiếp cận các xét nghiệm này, bạn hiểu được CD4 và nồng độ virus thay đổi như thế nào cũng tạo được sự khác biệt.
Hai xét nghiệm này thông báo cho các bác sĩ 95% những gì họ cần biết về sự nguy hiểm của HIV đối với sức khỏe của bạn và mức độ hiệu quả của điều trị bạn đang sử dụng.
Phác đồ điều trị phối hợp lẽ ra có thể chưa được phát minh hoặc hiểu nếu không có xét nghiệm định lượng virus. Đây là một kỹ thuật mới được phát hiện như một công cụ nghiên cứu trong những năm 1990.
Xét nghiệm định lượng virus cho thấy nhiễm HIV không bao giờ trong trạng thái ổn định (không hoạt động). Đây là một loại nhiễm virus tiến triển luôn ở thể hoạt động.
Có 3 loại xét nghiệm định lượng virus:
- PCR - phản ứng chuỗi polymerase (được viết là PCR RNA)
- bDNA - DNA nhánh
- NASBA
Các xét nghiệm này nhân một mẫu virus nhỏ lên nhiều lần để dễ đếm. Tuy nhiên điều này có nghĩa là các kết quả cá nhân từ bất kể một xét nghiệm nào cũng không chính xác tuyệt đối và sai số có thể 3 lần (hoặc lớn hơn hoặc nhỏ hơn) con số thực tế.
Do vậy, nếu kết quả định lượng virus của bạn là 30.000bản sao/µL, kết quả thực tế có thể là một giá trị ở giữa khoảng 10.000 và 90.000 bản sao/µL.
Cũng như với kết quả xét nghiệm CD4, điều quan trọng là xem xét xu hướng của các kết quả trong một vài xét nghiệm để có một bức tranh về sự thay đổi.
- Không bao giờ được quyết định điều trị nếu chỉ dựa trên một kết quả xét nghiệm duy nhất
- Các xét nghiệm khác nhau cũng có độ nhạy ở mức tổi thiểu
- Ví dụ các xét nghiệm đầu tiên năm 1995 chỉ có thể định lượng được nồng độ tối thiểu 10.000 bản sao/µL. Cho đến những năm 1996-1997, các xét nghiệm mới trong giai đoạn này có thể định lượng nồng độ tối thiểu 400-500 bản sao/µL.
- Từ năm 1998 các xét nghiệm được sử dụng thông thường nhất định lượng đựơc nồng độ > 50 bản sao/µL mặc dù một số xét nghiệm được dùng để nghiên cứu có độ nhạy hơn (>5 bản sao/µL).
Khi xét nghiệm định lượng nồng độ virus đầu tiên được phát minh, nhiều bác sĩ nghĩ rằng sẽ không thể đo lường được sự tiến triển của một bệnh ở cấp độ cá thể.
Các nhiễm khuẩn khác có thể tác động lên lượng virus.
Các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục như herpes, lậu và giang mai làm tăng lượng HIV trong dịch sinh dục (tinh dịch và dịch âm đạo).
Nhiễm các virus như cúm có thể làm tăng lượng virus trong khi nhiễm HIV đang hoạt động.
Đáp ứng đối với một số vaccine có thể làm tăng lượng virus tạm thời
Mặc dù chúng ta định lượng virus trong máu, nhưng đó chỉ là một “nơi trú ngụ”của cơ thể, trong khi có nhiều nơi quan trọng khác trong cơ thể có rào cản làm hạn chế cả HIV và thuốc điều trị HIV di chuyển tự do.
Các nơi này đôi khi được gọi là các “nơi ẩn náu”.
Các “nơi ẩn náu” này gồm đường sinh dục, dịch não tuỷ là dịch lưu thông quanh não và cột sống; não cũng là một trong những “nơi ẩn náu”.
HIV có thể phát triển rất khác nhau trong các “nơi ẩn náu” này. Một số thuốc có thể thâm nhập vào những nơi này tốt hơn các thuốc khác.
Sự kháng thuốc có thể khác nhau giữa các “nơi ẩn náu” - nó thường phát triển ở một “nơi ẩn náu” nhưng có thể di chuyển sang các nơi khác. Nồng độ virus ở từng “nơi ẩn náu” có thể không giống ở nơi khác.
Điều này làm cho HIV trở thành một loại bệnh vô cùng phức tạp - mặc dù trong thực tế, vì máu được dùng cho hầu hết các xét nghiệm, nên bạn khó có thể biết chính xác điều gì đang xảy ra trong từng “nơi ẩn náu”.
Khi không điều trị
Khi không dùng ARV, chỉ số CD4 quan trọng hơn lượng virus.
Xét nghiệm nồng độ virus vẫn có ích, tuy nhiên kết quả xét nghịêm không quan trọng đối với việc dự đoán nguy cơ các nhiễm khuẩn hoặc khi nào bạn nên bắt đầu điều trị.
Có thể có một loại trừ nếu nồng độ virus của bạn rất cao. Nếu nồng độ virus >100.000 bản sao/µL hoặc có thể > 500.000, điều này được xem như một lý do bắt đầu điều trị khi CD4 >200.
Khi đang điều trị
Nếu bạn đang điều trị ARV, các xét nghiệm định lượng virus có thể quan trọng hơn xét nghiệm chỉ số CD4, vì khi đang điều trị, chỉ số CD4 của bạn có thể đang tăng lên.
Lượng virus của bạn khi đang điều trị là một chỉ số tốt để biết được bạn cần điều trị trong bao lâu. Đôi khi xét nghiệm định lượng virus được dùng để kiểm tra sự tuân thủ điều trị.
Nếu nồng độ virus giảm xuống còn 50 bản sao/µL, có thể điều trị trong nhiều năm.
Ở mức virus thấp như vậy, hiện tượng kháng thuốc thường chỉ xuất hiện nếu bạn uống thuốc muộn hoặc quên uống.
Nếu lượng virus giảm, nhưng chỉ xuống tới mức như 500 bản sao/µL, lúc này đã có đủ lượng HIV sản sinh mỗi ngày để phát triển sự kháng thuốc điều trị phối hợp.
Nếu bạn không xét nghiệm định lượng virus, bác sĩ của bạn sẽ điều trị trên cơ sở xét nghiệm CD4 hoặc triệu chứng lâm sàng.
Lượng virus ở trẻ em cao hơn người lớn khi không điều trị ARV, tuy nhiên rất cần điều trị cho trẻ em để giảm lượng virus xuống <50 bản sao/µL.
Tần suất xét nghiệm định lượng virus chưa được khuyến cáo rõ ràng. Hướng dẫn của Anh và Mỹ khuyến cáo nên xét nghiệm định lượng virus 3-6 tháng một lần khi không điều trị và 3 tháng một lần khi đang điều trị. Họ còn khuyến cáo xét nghiệm định lượng virus 1 tháng sau khi bắt đầu điều trị hoặc sau bất kể thay đổi nào trong phác đồ điều trị.
Không điều trị HIV, mỗi ngày người nhiễm HIV sản sinh ra hàng tỷ bản sao HIV mới. Trong khi tự sao chép, virus mắc vô số lỗi nhỏ. Các lỗi này được gọi là đột biến.
Khi không điều trị, không có lý do gì để có đột biến đặc biệt nào vì chúng thường không khỏe bằng HIV thể (“tuýp”) hoang dại nguyên bản.
Tuy nhiên, khi điều trị, một số đột biến nảy sinh sẽ không chịu ảnh hưởng của các loại thuốc bạn đang dùng. Sự đột biến mang tính kháng cự này sẽ tiếp tục sản sinh và cuối cùng là trở thành một HIV chính của bạn. Kể từ đó, cơ thể bạn sẽ kháng lại mạnh hơn các loại thuốc điều trị này và các thuốc khác. Hiện tượng này gọi là kháng thuốc chéo.
Lượng virus càng cao khi bạn điều trị, nguy cơ kháng thuốc của cơ thể bạn càng cao. Đây là lý do tại sao giảm nồng virus xuống mức thấp nhất trong thời gian nhanh nhất có thể là rất quan trọng, lý tưởng nhất là xuống <50 bản sao/µL
Kháng thuốc và tuân thủ điều trị có liên quan mật thiết với nhau. Nếu bạn quên uống thuốc, hoặc uống muộn, uống một hoặc tất cả thuốc, bạn sẽ có nguy cơ bị kháng thuốc. Lý do của hiện tượng này là nồng độ thuốc ở dưới mức an toàn tối thiểu trong giai đoạn này.
Tương tác thuốc cũng có thể ảnh hưởng đến nồng độ thuốc ARV.
ARV có thể tương tác với một số ma túy, thuốc bổ sung và thảo dược.
Bạn luôn nhớ thông báo cho bác sĩ điều trị của bạn và dược sĩ về bất kỳ loại thuốc, ma túy hay điều trị nào bạn đang dùng.
Để đảm bảo bạn dùng đúng lượng thuốc cần thiết, điều quan trọng là tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy định đặc biệt về sử dụng thuốc (dùng thuốc sau hoặc trước khi ăn).
Đột biến xảy ra khi nồng độ thuốc trong cơ thể bạn thấp có thể làm mất tác dụng của thuốc. Do đó, tuân thủ điều trị là vô cùng quan trọng.
Mặc dù CD4 và lượng virus hoàn toàn khác nhau, nhưng hình thái của đồ thị biểu diễn kết quả định lượng virus và CD4 luôn liên quan chặt chẽ với nhau.
- Nhìn chung khi lượng virus thấp thì chỉ số CD4 cao.
- Tương tự, khi chỉ số CD4 thấp, lượng virus cao.
Một vài tuần sau khi bị nhiễm, khi lượng HIV tăng vọt lên rất cao, chỉ số CD4 giảm đi. Sau đó, khi hệ miễn dịch đưa lượng virus trở về mức thấp, chỉ số CD4 lại tăng lên. Đôi khi có sự chậm trễ giữa sự thay đổi của lượng virus và CD4:
- sau khi bắt đầu điều trị, lượng virus hạ xuống rất nhanh, tuy nhiên phải mất một vài tháng sau, CD4 mới bắt đầu tăng lên
- Nếu điều trị thất bại và lượng virus lại tăng lên, chỉ số CD4 có thể vẫn tiếp tục tăng trong một khoảng thời gian nhất định, mặc dù khi lượng virus đã cao hơn, chỉ số CD4 mới bắt đầu giảm.