Nếu bạn lo lắng thì đến viên huyết học trung ương test elisa thế hệ thứ 4
III. Chẩn đoán nhiễm HIV
Theo quyết định số 1418/2000/QĐ-BYT ngày 4 tháng 5 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Y tế áp dụng cho chẩn đoán các trường hợp nhiễm HIV: Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách III khi mẫu đó dương tính cả 3 lần xét nghiệm bằng 3 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.
Có hai phương pháp xét nghiệm HIV chính:
+) Phương pháp gián tiếp phát hiện sự hiện diện của kháng thể kháng HIV bao gồm
- Kỹ thuật ELISA cho phép phát hiện kháng thể kháng HIV sau khi bị nhiễm từ 1 đến 3 tháng. Độ nhạy và độ đặc hiệu là trên 99%.
Tuy nhiên hiện nay, các sinh phẩm ELISA ngày càng được hoàn thiện, sử dụng các kháng nguyên có epitop tạo ra các kháng thể sớm và có các loại kháng nguyên cho phép phát hiện kháng thể kháng virus HIV-1 và HIV-2 và virus HIV nhóm O
Hiện tại ở Viện Huyết học – Truyền máu TW đang sử dụng sinh phẩm ELISA thế hệ thứ tư để xét nghiệm cho bệnh nhân và người cho máu. Đây là loại sinh phẩm đang được sử dụng ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới cho phép phát hiện cả kháng thể và kháng nguyên p24, do đó rút ngắn được giai đoạn cửa sổ xuống 11 đến 38 ngày.
- Kỹ thuật ngưng kết hạt vi lượng (Serodia): Đây là kỹ thuật tương đối đơn giản có độ đặc hiệu cao và tỉ lệ dương tính giả tương đối thấp
- Kỹ thuật test nhanh (Determine) là kỹ thuật có độ nhạy và độ đặc hiệu là 96% và 99%
- Kỹ thuật Western blot: Đây là xét nghiệm khẳng định có độ đặc hiệu rất cao.
+) Phương pháp trực tiếp phát hiện các kháng nguyên virus, các axit nucleic hoặc phân lập virus.
- Kỹ thuật sinh học phân tử để phát hiện RNA của virus (PCR): Đây là kỹ thuật có độ nhạy cao.
- Kỹ thuật phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào.