Tư Vấn HIV
»
Vòng tay cộng đồng !
»
Thêm một góc nhìn
»
Đọc báo giùm bạn (Tin tức khắp nơi - CAND - ANTG - VNCA...)
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 16-07-2012(UTC) Bài viết: 109 Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 23 bài viết
|
Bài diễn văn khác thường
Tuanvietnam.net
Tác giả: Cao Huy Hóa
Bài đã được xuất bản.: 28/07/2012 05:00 GMT+7
Thế nhưng thật lạ, bài phát biểu của David McCullough Jr, dài khoảng 12 phút, lại gây chấn động trên dư luận báo chí và trên các diễn
đàn mạng ở Mỹ, kể cả các báo giấy và báo mạng nổi tiếng.
Bài diễn văn mà tôi sẽ đề cập không phải là diễn văn của một nhà lãnh đạo lớn, hay của nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, cũng không phải của một nhà văn hóa, khoa học, giáo dục có uy tín... mà là một bài phát biểu của một giáo viên tại một trường trung học phổ thông của nước Mỹ. Đó là thầy giáo David McCullough Jr dạy môn tiếng Anh, phát biểu trong buổi lễ tốt nghiệp trung học của các học sinh trường công lập Wellesley, một trường nổi tiếng thuộc bang Massachusetts
(Mỹ).
Trước các em học sinh chuẩn bị vào trường đại học hoặc các trường đào tạo ngành nghề đa dạng, trong một buổi lễ tốt nghiệp đánh dấu khởi đầu chặng đường trưởng thành, thầy giáo David McCullough Jr rất kiệm lời khen trò, khen trường, không vẽ vời tương lai, mà trái lại, kéo các em về nhận thức về cuộc đời thực, khả năng thực, và đã phát biểu một câu
chấn động: "You are not special, you are not exceptional" (Các em không phải là đặc biệt, các em không phải là xuất chúng). Thế nhưng thật lạ, bài phát biểu của David McCullough Jr, dài khoảng 12 phút, lại gây chấn động trên dư luận báo chí và trên các diễn đàn mạng ở Mỹ, kể cả
các báo giấy và báo mạng nổi tiếng.
Không có gì đặc biệt, vậy không lẽ học sinh của trường tiếng tăm như thế chỉ là bình thường? Không lẽ thành tích vẻ vang của trường là chẳng
có gì đáng kể? Special (đặc biệt) theo thầy là gì?
Thầy cho rằng, thành tích của các em chủ yếu là do được nhà trường và cha mẹ chăm sóc quá mức: "Các em đã được nâng niu, nuông chiều, bảo hộ, bao bọc kỹ lưỡng. Vâng, người lớn đã ôm, hôn các em, cho ăn, lau miệng, lau mông, uốn nắn, huấn luyện, dạy kèm, lắng nghe các em, khuyên bảo, khuyến khích, an ủi và nâng các em lên. Các em được động viên, tán tỉnh, dỗ dành và nài nỉ. Các em được ăn mừng, được xem như cục cưng. Và chắc chắn, thầy cô giáo phải có mặt trong các sân chơi của các em, trong những buổi hòa nhạc, và những hội chợ khoa học của học sinh. Bây giờ, các em chinh phục trường trung học... và, hiển nhiên, ở đây tất cả chúng tôi đã góp mặt để chung vui vì các em, vì tự hào với cộng đồng tốt đẹp
này."
"Nhưng các em đừng giữ lấy ý tưởng các em là đặc biệt, bởi vì các em không là như thế."
Thầy giáo diễn giả khuyên các em đừng biến mình thành nhân vật trung tâm, vì, ngay cả "hành tinh của chúng ta không phải là tâm của thái dương hệ, thái dương hệ không phải là tâm của dải thiên hà, và dải thiên hà không là tâm của vũ trụ; vì thế các em không thể là tâm của cái gì
hết [cử tọa vỗ tay]
Ngay cả tỉ phú bậc nhất Donald Trump cũng thế thôi."
Thường thường người nào có đặc biệt là có danh hiệu. Nhưng danh hiệu không phải luôn luôn đi với thành công thực sự. "Các em thấy đấy, nếu mọi người đều đặc biệt, thì không ai là đặc biệt. Nếu mọi người đều có danh hiệu, danh hiệu trở nên vô nghĩa. Người Mỹ chúng ta, thật tệ hại, trở nên thích phong tước hơn là sự thành đạt chân thực. Chúng ta xem danh hiệu như là đích - và vui vẻ thỏa hiệp hạ tiêu chuẩn, hay bỏ qua thực tế, khi chúng ta mong đó là cách nhanh nhất, và chỉ có cách đó, để
kiếm chác cái gì hòng bẩy chúng ta lên địa vị tốt trong xã hội".
Danh hiệu chẳng là gì khi so sánh với niềm vui gặt hái thành quả. Thầy Cullough ví von: "Leo lên đỉnh núi không phải là cắm lá cờ của các em, mà là ôm ấp thử thách, vui hưởng khí trời và thỏa thích ngắm cảnh. Leo lên núi để các em thấy được thế giới, chứ không phải để thế giới
thấy các em".
Ông không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đọc: "Hãy đọc... đọc mọi lúc... đọc như là vấn đề có tính nguyên tắc, như là vấn đề của tính
tự trọng. Đọc như là nguyên liệu nuôi dưỡng đời sống."
Phần cuối của bài diễn văn là những lời khuyên của một nhà giáo đối với học trò của mình, đó là những ý tưởng cao đẹp và gần gũi mà bất cứ ai làm nghề đi dạy chắc là tâm đắc với vị đồng nghiệp bên trời Mỹ xa xôi: "Trước khi các em tung bay bốn phương trời, tôi mong mỏi các em làm những gì mình thích và đã tin ở tính quan trọng của nó. Không nên buồn phiền với công việc mà bạn tin tưởng. Hãy chống lại sự dễ dãi, sự hào nhoáng của chủ nghĩa vật chất, sự vô cảm làm tê liệt tinh thần của tính
tự mãn. Hãy xứng đáng với những lợi thế của mình".
"Phát triển và bảo vệ sự nhạy bén đạo đức và chứng tỏ nghị lực áp dụng nó. Hãy mơ ước lớn. Làm việc hăng. Suy nghĩ cho chính mình. Yêu những gì mình yêu, yêu những người mình yêu, một cách hết mình. Và làm như thế, không chần chờ, hãy tranh thủ từng giây phút... Đừng chờ đợi cảm hứng hay say mê tìm đến các em. Hãy đứng dậy, đi ra ngoài, khám phá,
tự mình tìm cảm hứng, và chộp lấy với hai tay".

|
Thầy giáo David McCullough Jr
|
"Cuộc sống trọn vẹn, cuộc sống đặc biệt, cuộc sống thích đáng, là một thành tựu, không phải là cái gì sẽ rơi vào trong tay các em như kiểu các em là con người dễ thương hay được mẹ đặt hàng từ nhà cung cấp. Các em cần ghi nhận rằng cha mình cực nhọc để đảm bảo quyền sống chính đáng của các em, tự do và theo đuổi hạnh phúc - "theo đuổi" là một động từ hành động, là từ bỏ thì giờ để nằm xem những thứ con vẹt vớ vẩn trên
YouTube".
Kết thúc bài diễn văn, ông trải lòng vì lý tưởng cao đẹp của cuộc sống: "Quyết tâm hành xử tự do và ý nghĩ sáng tạo, độc lập không chỉ vì được thỏa mãn từ những phẩm chất đó, mà bởi vì lợi ích cho người khác, phần còn lại của 6,8 tỉ dân - và những ai theo đuổi những phẩm chất đó. Rồi các em sẽ khám phá sự thật lớn lao và kỳ lạ của kinh nghiệm sống, đó là lòng vị tha là cái gì tốt nhất mà các em làm vì các em. Nỗi niềm hân
hoan về cuộc sống chỉ đến với nhận thức rằng các em không là đặc biệt".
* * *
Đây quả thật là bài diễn văn khác thường vì lời lẽ không theo dạng thức của một bài diễn văn ghi nhận thành tích và khích lệ học sinh khi các em vừa tốt nghiệp trung học và khởi đầu chặng đường học tập mới, một
dạng thức phổ biến ở mọi nơi.
Ngoài thông điệp: "Các em không là đặc biệt" đã gây chấn động trong dư luận, nhưng đồng thời được phần lớn những bình luận trên mạng tán đồng, thì những lời khuyên thiết tha học sinh làm việc, sáng tạo, dám ước mơ và thực hiện ước mơ, vui vì thành công thực sự chứ không nhằm mục đích đạt danh hiệu, sống vì lợi ích của mọi người, tôi cảm nhận toàn bộ những ý tưởng của người thầy giáo của một trường trung học bên Mỹ thật
đẹp và loáng thoáng gì đó của vô ngã vị tha.
Trong thế giới phẳng ngày nay, mọi quan tâm đến cuộc sống đều trở thành đại đồng, huống hồ là những vấn đề về giáo dục và xã hội. Ông thầy Cullough không xa lạ với thầy cô giáo Việt Nam, những học sinh tốt nghiệp trường trung học nổi tiếng Wellesley bên Mỹ vẫn gần gũi với học sinh trường chuyên ở các đô thị lớn của nước ta, và những săn sóc tỉ mỉ chu đáo của những vị cha mẹ dành cho những cậu ấm cô chiêu với ước vọng con mình sau này có chỗ đứng đàng hoàng trong xã hội, thì cũng giống như sự đầu tư tốn kém như thuê thầy, chạy trường, cho con phương tiện đầy đủ của một bộ phận cha mẹ có điều kiện; nhưng nếu thông điệp "Các em không là đặc biệt" phát đi ở Việt Nam thì không gây chấn động như ở Mỹ,
vì ... đúng là không có gì đặc biệt!
Thế nhưng, sự đặc biệt ở chỗ khác, mà may mắn thay, xã hội ta vẫn còn phổ biến: Ấy là có những học sinh xuất thân từ con nhà nghèo, biết thân phận mình đặc biệt khó, nên ra sức khắc phục hoàn cảnh, và đã học hành đến nơi đến chốn, trong đó có những em đi học xa, tự kiếm sống hoặc bố mẹ theo con, bỏ quê vào thành phố kiếm tiền nuôi mình ăn học đỗ đạt. Có lẽ thành phần này thấy "thấm thía" bài diễn văn của thầy Cullough, và
cũng tâm đắc với bà mẹ Liz Gumbiner với những dòng tâm huyết nêu trên.
Tất nhiên, con cái thành đạt nhờ gốc cha mẹ giàu, thì gia đình và xã hội được nhờ, và không ai nghĩ chỉ có con nhà nghèo thành đạt thì mới
giàu ý chí và hoài bão phụng sự cho đời.
Còn chuyện người lớn đuổi theo danh hiệu, mà thầy Cullough cảnh báo học trò mình, thì xem ra quen thuộc với xã hội ta, vì bệnh thành tích phổ biến quá, ở mọi ngành mọi nơi, và các thầy cô giáo và học sinh cũng đã chịu nhiều đau khổ vì bệnh này. Tuy thế xem chừng bệnh này lâu ngày thành quen, ai cũng phải chung sống với nó. Có như thế mới có xấp xỉ 100% tốt nghiệp trung học, lớp nào cũng phần lớn là học sinh giỏi và khá, mới có hiện tượng thầy cô giáo quá ngần ngại khi cho trò dưới điểm trung bình dầu trò không làm bài được chút gì, và bằng cấp đại học thì
chẳng có gì khó khăn miễn sao vào được đại học, công lập hay tư thục.
Trong tình hình như vậy, nhiều tiếng nói cũng như hành động từ lương tâm, từ đạo đức trong sáng, từ nghề nhà giáo thanh cao cần phải được thể hiện, sao cho ánh sáng của chính trực soi vào miền tăm tối của hư ảo, giả dối. Những người chính trực vẫn không đơn độc, và vẫn có rất nhiều người giữ được nhân cách để sống và làm việc một cách đàng hoàng. Và nói cho cùng, ai ai cũng phải tự giáo dục và được giáo dục trong một đất
nước lấy chính trực làm ngọn cờ.
Thứ bậc Việt Nam trên bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu
Việt Nam, LB Nga ra tuyên bố chung
Chính sách ưu đãi cựu TNXP: “Phải công bằng, không sai sót”
"Văn hóa thấp đi nhưng người Hà Nội rất tự tin"
Chứa mại dâm, tú ông lãnh án tù
Đông Á, Thái Bình Dương chống viêm gan siêu vi B
Cả làng ăn cắp điện
|
 1 người cảm ơn Xuân cho bài viết.
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-07-2012(UTC) Bài viết: 52 Đến từ: Miền Trung
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 9 lần trong 7 bài viết
|
Hải Phòng: Đưa 3 liệt sỹ từ Trường Sa về quê hương mai táng
|
19:50
| 30/07/2012
|
|
Ngày 30/7, thi hài 3 liệt sỹ Hoàng Đặng Hùng (sinh năm 1984), Phạm Văn Thế (sinh năm 1980) và Đỗ Khánh Hưng (sinh năm 1978) đã được địa phương và
gia đình đưa về quê an táng.
Hôm nay căn nhà nhỏ của gia đình Trung Tá Hoàng Đức Tuấn trong khu tập thể Đổng Quốc Bình (quận Ngô Quyền, Hải Phòng) đông hơn mọi khi bởi người thân, xóm giềng đến thắp nén hương cho đồng chí Hoàng Đặng Hùng. Sau hơn 8 năm từ ngày hy sinh, hôm nay Trung tá Hoàng Đức Tuấn mới đưa được người con trai về đoàn tụ với gia đình. Nhìn di ảnh con trai trong làn khói nhang nghi ngút, người trung tá vốn đã quá dạn dày sương gió Hoàng
Đức Tuấn không ngăn được dòng nước mắt ngậm ngùi.
Được biết, đồng chí Hoàng Đặng Hùng sinh ra trong gia đình có truyền thống quân đội. Ông, bác và bố mẹ của đồng chí Hùng đều là sĩ quan quân đội. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, đồng chí Hùng đi bộ đội và làm nhiệm vụ tại đảo Đá Lớn (Trường Sa). Ngày 25/7/2004, không quản sóng lớn, đồng chí Hùng quyết tâm cứu tàu và bất ngờ bị cơn lốc xoáy nhấn chìm xuống biển sâu. Mấy ngày sau, đồng đội mới tìm được thi thể của Hùng. Đồng chí Hoàng Đặng Hùng hi sinh khi mới 20 tuổi và cấp hàm hạ sĩ, khẩu đội
trưởng.
Cùng về quê hương trên chuyến tàu từ Trường Sa với liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng còn hai liệt sĩ là đồng chí Đỗ Khánh Hưng và Phạm Văn Thế. Liệt sĩ Hưng hi sinh ngày 16/1/2005 khi đang làm nhiệm tại đảo Sơn Ca. Lúc đó, đồng chí Hưng mới 25 tuổi và cấp bậc hạ sĩ, chiến sĩ ra-đa. Đồng chí Hưng được gia đình chuyển về an nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ Vĩnh Hòa (Nha
Trang, Khánh Hòa).
Đồng chí Phạm Văn Thế, quê ở huyện Vũ Thư, Thái Bình. Đồng chí Thế hi sinh ngày 7/9/2006 khi đang làm nhiệm vụ ở đảo Trường Sa. Lúc hi sinh, đồng chí Phạm Văn Thế 28 tuổi, cấp bậc trung úy và là trợ lí hậu cần. Khi trung úy Phạm Văn Thế lên đường ra quần đảo Trường sa làm nhiệm vụ thì
người vợ mới cưới của anh đang mang thai đứa con đầu.
Cả ba liệt sĩ Phạm Văn Thế, Đỗ Khánh Hưng và Hoàng Đặng Hùng đều an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ địa phương và được chính quyền, đoàn thể tổ chức
lễ truy điệu trọng thể tại quê hương./.
|
(Theo TTXVN) |
Chủ tịch nước kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Liên bang Nga
Những bước tiến mới trong điều trị HIV
Quy định quảng cáo khám chữa bệnh, thuốc, sữa, mỹ phẩm...
Đạo đức và văn hóa tự thân
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-07-2012(UTC) Bài viết: 52 Đến từ: Miền Trung
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 9 lần trong 7 bài viết
|
Nét mới - Lễ hội đường phố
(vothuat.binhdinh.gov.vn) - Nằm trong chương trình của Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ IV- Bình Định 2012, Lễ hội đường phố bắt đầu lúc 20 giờ ngày 2.8 tại đại lộ Nguyễn Tất Thành là nét mới độc đáo tại Liên hoan
lần này…
www.youtube.com%2Fwatch%3Fv%3DiEOOaxbd-5s&ei=B3oZUJaOCsWsiAfq54GQAg&usg=AFQjCNHFGIdxqCUlTratnnZNDqu-cabnaQ&cad=rja">> Nhạc võ Tây Sơn Bình Định - YouTube
Một tiết mục biểu diễn võ tại buổi tổng duyệt chương trình Lễ hội đường phố. Ảnh: Văn Lưu
Chương Lễ hội đường phố đã huy động hơn 1.000 diễn viên, võ sinh tham gia bằng việc bố trí “24 cụm” để thể hiện 5 chương gồm: “Miền đất võ thuật”; “Vùng trời thơ văn”; “Nghĩa khí Tây Sơn”; “Đồng vọng non
sông” và cuối cùng là “Vòng tay bè bạn”.
Lễ hội đường phố của Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ IV được bắt đầu bằng đoàn 3 rồng vàng, tượng trưng cho 3 vua triều Tây Sơn: vua Thái Đức, vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh. Tiếp đó là màn biểu diễn của các đoàn võ thuật tay không và roi. Roi là loại binh khí được sử dụng khá rộng rãi, không chỉ nổi tiếng ở đất Thuận Truyền - Tây Sơn. Đất võ nổi tiếng những đường roi bí truyền: “Đâm so đũa”, “Roi đánh nghịch”, “Phá vây”… Sau cụm võ sinh múa roi sẽ đến các cụm gồm: đoàn biểu diễn võ thuật với long đao của VĐV nam; đoàn biểu diễn võ thuật với côn lửa của VĐV nữ. Nét chủ đạo của bài côn lửa là từ nền tảng các bài: “Roi Thái sơn”, roi “Hắc đảnh ô sơn”, roi “Tam thâu tùy
hành pháp”.
Sau khi thưởng thức màn biểu diễn võ thuật đẹp mắt, người xem sẽ “dịu lòng” với chương II mang tên “Vùng trời thơ văn”. Mở đầu cho chương này là đoàn diễu hành của các thiếu nữ dự thi Người đẹp quốc tế võ cổ truyền Việt Nam. Đây vừa là nét đẹp truyền thống, vừa là “chất thơ” của Liên hoan Võ cổ truyền. Sau đoàn diễu hành của những người đẹp sẽ đến đoàn diễu hành với trang phục và mặt nạ tuồng. Cụm này sẽ thể hiện Bình Định đã được mệnh danh là “cái nôi” tuồng hát bội bởi từ vùng đất này đã sản sinh ra những bậc thầy sáng tác, biểu diễn và hát bội đã thành nghệ thuật đặc sắc, là vốn quý trong kho tàng văn hóa, nghệ
thuật đất nước.
Tiếp đến là đoàn diễu hành của các tiên nữ “Ghềnh Ráng tiên sa” với hình ảnh của các địa danh thắng cảnh của Bình Định; đoàn diễu hành của các thi sĩ với bút nghiên và những phiến thơ có in những áng thơ hay. Những bậc tài tử văn chương Đào Duy Từ, Đào Tấn, Xuân Diệu, Quách Tấn, Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…, là người Bình Định hoặc sống và thành danh ở Bình Định, vẫn mãi là niềm ngưỡng mộ của các thế hệ về bút nghiên thi phú. Người ta thường dùng chữ “trời văn” đi kèm với “đất
võ” khi nhắc tới Bình Định là vậy.
Nếu ở chương I và chương II, người xem được thưởng thức các màn biểu diễn võ đặc sắc và trải lòng với những áng thơ hay, những thiếu nữ sắc nước hương trời thì chương III giúp người xem ôn lại thời oanh liệt và những chiến công hiển hách của ba anh em nhà Tây Sơn được tái hiện qua chương “Nghĩa khí Tây Sơn” gồm các cụm diễu hành: Đoàn trống trận Tây Sơn với 39 cờ có thêu chữ “Nghĩa khí Tây Sơn”. Trong tiếng trống vang dội là sự xuất hiện của đoàn xa giá 32 người rước bức chiếu lên ngôi của vua Quang Trung, tiếp đến là đoàn bộ binh của Tây Sơn với các chiến binh cầm binh khí khác nhau và đoàn nữ binh Tây Sơn với 50 nữ binh múa bài “Song phượng kiếm” nổi tiếng của Bùi Thị Xuân. Cụm cuối cùng sẽ là
đoàn thủy binh của Tây Sơn.
Ở chương IV và chương V mang tên “Đồng vọng non sông” và “Vòng tay bè bạn” với sự tham gia của các nghệ sĩ và diễn viên Trường múa TP Hồ Chí Minh (thể hiện cho trận chiến đánh thành Gia Định); đoàn nghệ sĩ, diễn viên Đoàn Nghệ thuật tổng hợp tỉnh Tiền Giang tái hiện trận Rạch Gầm - Xoài Mút, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, làm nên chiến thắng vang dội
của quân Tây Sơn…
AN NGUYÊN
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 17-07-2012(UTC) Bài viết: 54 Đến từ: Tp. Hà Nội
Được cảm ơn: 14 lần trong 12 bài viết
|
Lặng lẽ tăng viện phí
TT - Tính đến ngày 1-8, có một số bệnh viện đã thực hiện việc tăng viện phí mới. Dù Bộ Y tế yêu cầu phải công bố rộng rãi nhưng có không ít bệnh viện tỏ ra rất “kín đáo” khi triển khai thực hiện
viện phí mới.
 |
Mặc dù áp dụng viện phí tăng nhưng bệnh nhân vẫn phải nằm chiếu mà chưa có cải thiện gì (ảnh chụp tại Bệnh viện K, một trong năm bệnh viện trung ương đầu tiên áp dụng viện phí mới) - Ảnh:
VIỆT DŨNG |
Hầu hết các bệnh viện đã tăng viện phí đều chưa kịp chuẩn bị đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất. Thực tế cho thấy chất lượng
dịch vụ vẫn không thay đổi dù viện phí tăng hơn trước rất nhiều.
“Cố gắng cải thiện từng bước...”
"Sao mấy ông nhà nước tăng giá là làm “cái rẹt”, hổng cho dân hay biết?"
|
Hôm qua, các bệnh viện trực thuộc Sở Y tế Cần Thơ đã đồng loạt tăng viện phí mới theo mức giá được Hội đồng nhân dân TP thông qua vào kỳ họp tháng 7 vừa qua.
Ngày đầu tiên thu theo giá viện phí mới ở Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ, đa số bệnh nhân đều nói không hề hay biết về việc bệnh viện tăng giá. Chỉ đến khi đóng tiền thấy cao quá mới hỏi lại thì được giải thích là tăng giá. Bà La Thị Xinh (quận Ô Môn, Cần Thơ) đang chờ khám bệnh bao tử nói: “Tui chuẩn bị sẵn 3.000 đồng trên tay để đóng tiền mua phiếu khám nhưng cô bán phiếu kêu đóng 14.000 đồng. Sao mấy ông nhà
nước tăng giá là làm “cái rẹt”, hổng cho dân hay biết?”.
Theo quan sát, tại khu vực khoa khám và các khoa phòng khác của Bệnh viện đa khoa TP Cần Thơ, chỉ thấy ghi vỏn vẹn tấm bảng: khám bệnh 14.000 đồng và khám dịch vụ 40.000 đồng rất nhỏ phía trên ô bán phiếu khám bệnh, các nơi khác không hề thấy thông tin về việc tăng giá. Trong khi đó chưa thấy bệnh viện có những chuyển biến rõ rệt, nhưng ở khu vực khám bệnh, phát thuốc, thu tiền thì thái độ của nhân viên
bệnh viện có vẻ hòa nhã hơn, ít tiếng cáu gắt la lối người bệnh...
Bác sĩ Lê Quang Võ - giám đốc Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ - cho biết: “Chúng tôi cũng rất lo khi tăng viện phí. Chắc chắn khi tăng giá tất nhiên người bệnh phải đòi hỏi về chất lượng tương xứng. Chúng tôi sẽ cố gắng cải thiện từng bước, từ thái độ phục vụ, vệ sinh khoa phòng, sau một thời gian nữa mới cải thiện điều kiện cơ sở vật chất...”. Bác sĩ Lê Quang Võ còn khẳng định: “Ngày đầu tiên thu viện phí
mới diễn ra thuận lợi và chưa nghe người bệnh phản ảnh gì nhiều”.
Vẫn kêu quá tải
Tính đến ngày 1-8, Bệnh viện K (Hà Nội) đã qua 10 ngày thực hiện viện phí mới. Tuy nhiên, ở khoa xạ trị 3, bệnh nhân vẫn nằm ghép hai người/giường. Ông Nguyễn Văn Khiêm (ở Phú Thọ, điều trị tại bệnh viện này hai tháng nay) cho biết không thấy có bất kỳ thay đổi nào
về chất lượng dịch vụ của bệnh viện.
Ông Khiêm cũng nói không được thông báo về việc bệnh viện bắt đầu thực hiện viện phí mới. Tại khu phòng khám Bệnh viện K, bảng thu viện phí vẫn được giữ nguyên như cũ, trong khi bệnh viện đã áp dụng giá mới từ ngày 20-7. Khi được hỏi bệnh nhân nào cũng tỏ ra... ngơ ngác về chuyện bệnh viện đã áp dụng biểu giá mới, với mức giá tăng nhiều
so với trước đây.
Giải thích về giá phòng, giường bệnh tăng nhưng chất lượng dịch vụ không tăng như nhận xét của bệnh nhân, ông Bùi Công Toàn - phó giám đốc Bệnh viện K - cho rằng việc quá tải bệnh nhân ở Bệnh viện K
hiện nay là không thể tránh khỏi.
Tương tự, khoa khám bệnh của Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) cũng rất đông bệnh nhân trong sáng 1-8. Khu nhà khám bệnh đang trong thời gian sửa chữa, nâng cấp nên đây đó vẫn còn gạch vụn, bụi cát, tường xây thô, nhà vệ sinh tối và nồng mùi hôi. Tuy áp dụng viện phí mới đã nửa tháng nhưng Bệnh viện Bạch Mai vẫn chưa công bố công khai
bảng giá mới.
Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Ngọc Hiền cho biết bảng giá mới đang trong quá trình in ấn, dự kiến tuần sau mới xong. Nửa tháng qua, bệnh viện vẫn giữ bảng giá mới trong... máy tính của các
bộ phận liên quan.
Theo ông Nguyễn Ngọc Hiền, để cải thiện chất lượng dịch vụ sau khi thực hiện viện phí mới, bệnh viện đã chi 20 tỉ đồng để nâng cấp khu khám bệnh, tăng gấp đôi số buồng khám (từ 30 buồng trước đây lên 60 buồng), nhưng phải một tháng nữa mới xong. Vì vậy, dù viện phí mới đã tăng từ ngày 16-7 đến nay nhưng các điều kiện được đặt ra trong viện phí mới như đủ chỗ ngồi cho bệnh nhân, người nhà, khu khám bệnh có quạt
mát, mái che... vẫn còn phải đợi.
Ông Hiền cũng nói bệnh viện vừa đầu tư 30 tỉ đồng để nâng cấp điều kiện điều trị cho bệnh nhân như lắp điều hòa nhiệt độ khu phòng sinh, phòng mổ, khoa hồi sức tích cực, buồng bệnh cấp cứu, mua
thêm máy thở, giường bệnh, máy theo dõi bệnh nhân...
Ông Hiền cho rằng số lượng bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Bạch Mai tăng quá nhanh, dù rất nỗ lực, thời gian chờ khám và lấy kết quả cho một bệnh nhân vẫn kéo dài khoảng sáu giờ, thậm chí có người phải chờ từ sáng đến tối nếu thời gian xét nghiệm dài. “Như vậy là đã
giảm hai giờ chờ đợi so với trước đây” - ông Hiền nói.
 |
Bệnh nhân phải nằm điều trị ở cả khu vực hành lang khoa thần kinh, Bệnh viện Việt - Đức (Hà Nội) tối 1-8 - Ảnh: nguyễn khánh |
Nhiều nơi đưa ra mức thu rất cao
Trao đổi với Tuổi Trẻ, phó tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội VN Nguyễn Minh Thảo nói đang góp ý cho văn bản của Bộ Y tế gửi các bệnh viện trực thuộc và sở y tế địa phương, yêu cầu việc xây dựng cơ cấu viện phí mới đảm bảo hai yếu tố: nhanh và đúng. Theo ông Thảo, có yêu cầu này là do những sai sót trong xây dựng cơ cấu viện phí thời gian
qua.
Theo ông Thảo, hiện nay tổ thẩm định viện phí do Bộ Y tế làm nòng cốt, Bảo hiểm xã hội VN và Bộ Tài chính tham gia đang thẩm định cơ cấu viện phí của bệnh viện tuyến T.Ư. Đã có những bệnh viện đề nghị viện phí vượt khung, thậm chí gấp đôi khung (khung viện phí cho phép công khám bệnh là 20.000 đồng/lượt ở tuyến T.Ư, bệnh viện đề xuất
43.000 đồng).
“Tổ thẩm định sẽ xem xét kỹ, nhưng tối đa là trong khung chứ không thể vượt khung. Các địa phương đã duyệt viện phí cao, Bảo hiểm xã hội VN đang chuẩn bị có báo cáo gửi hội đồng quản lý quỹ và liên bộ để yêu cầu địa phương thuyết minh cơ cấu viện phí, các trường hợp thuyết minh không được nhưng đã áp dụng mức giá mới thì bảo hiểm sẽ
đề nghị tính lại và thu hồi chi phí chênh lệch” - ông Thảo quả quyết.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội VN, hiện có năm địa phương đã thông qua mức viện phí trên 90% khung, bao gồm Long An (90%), Ninh Thuận (98%), Đồng Tháp (93%), Cao Bằng (93%) và Khánh Hòa (95%), còn hai địa phương có dự định tiếp tục giữ cơ cấu viện phí mức cao là
Sơn La và Lào Cai.
LAN ANH - QUỲNH LIÊN - T.LŨY
“Ăn nhiều trả nhiều, ăn ít trả ít”
Ông Nguyễn Minh Thảo - phó tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội VN, cho biết: “Trước đây tỉnh Lào Cai dự định áp dụng 100% khung của liên bộ Y tế - Tài chính, sau này Tỉnh ủy yêu cầu xây dựng lại thì Sở
Tài chính và Sở Y tế vẫn giữ quan điểm, tiếp tục dự định áp 95% khung.
Trong cơ cấu viện phí mới ở Lào Cai có tính tiêu hao điện năng cho một lần khám lên đến 0,7kWh. Một lần khám dùng gì đến 0,7kWh điện, phòng khám của tỉnh thì chỉ có bóng đèn và cái quạt, không
có thiết bị gì”.
Theo ông Thảo, nếu làm đúng khung giá Bộ Y tế xây dựng, các tỉnh phải có đủ trang thiết bị y tế, đảm bảo điều kiện trang thiết bị cho buồng bệnh, khu điều trị, ví dụ như tiêu hao điện năng cho một lần khám Bộ Y tế xây dựng 1,34kWh điện, nhưng yêu cầu phòng khám phải có
máy sưởi, điều hòa, thiết bị khám bệnh...
“Như là khi đi đặt cỗ, bữa cỗ 12 món, 200.000 đồng/người dùng, nhưng mình chỉ có sáu món thôi thì giá phải giảm đi một
nửa. Lẽ đời ăn nhiều trả nhiều, ăn ít trả ít” - ông Thảo ví von.
|
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 16-07-2012(UTC) Bài viết: 109 Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 23 bài viết
|
Công điện của Thủ tướng Chính phủ:
Tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả
7:00 PM, 03/08/2012
(Chinhphu.vn) - Hôm nay (3/8), Thủ tướng Chính phủ có công điện yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo 127 Trung ương, các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại
và hàng giả.
 |
Tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả - Ảnh minh họa
|
Thời gian gần đây hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng không có giấy tờ hợp pháp bằng nhiều phương thức thủ đoạn phức tạp gia tăng, đang tiềm ẩn nguy cơ cao về lây lan các dịch bệnh, gây thất thu
ngân sách, tác động xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Để ngăn chặn kịp thời, hiệu quả tình trạng trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì phối hợp với Ban Chỉ đạo 127 Trung ương, các Bộ, ngành liên quan phân công người có trách nhiệm, có năng lực trực tiếp chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường lực lượng, phương tiện kiểm tra thường xuyên, liên tục nhất là các địa bàn trọng điểm bảo đảm kiểm soát, phát hiện, xử lý kịp thời mọi hành vi buôn lậu, mua bán hàng cấm, đặc biệt là các mặt hàng xăng dầu, gia cầm, thực phẩm động vật hang dã, vận chuyển hàng nhập khẩu không thực hiện các thủ tục theo đúng quy định.
Đồng thời, bố trí lực lượng bảo đảm quản lý kiểm soát tốt nhất hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa tại các khu vực cửa khẩu, đường mòn, lối mở, cánh gà cửa khẩu, khu vực tập kết hàng hóa gần biên giới, khu vực chợ đầu mối, nơi tập kết hàng nhập lậu, các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường biển.
Xử lý tập thể, cá nhân nếu để xảy ra buôn lậu tại địa bàn, đơn vị, lĩnh vực phụ trách
Trưởng Ban Chỉ đạo 127 Trung ương chỉ đạo và yêu cầu Ban Chỉ đạo 127 các tỉnh, thành phố trước hết là Ban Chỉ đạo 127 các tỉnh có biên giới quy định và phân công cụ thể trách nhiệm của người đứng đầu từng cơ quan, đơn vị có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát, ngăn chặn buôn lậu nhất là địa phương, địa bàn có cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại phải tổ chức và thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát phát hiện kịp thời mọi hoạt động buôn lậu, buôn bán, vận chuyển hàng hóa nhập khẩu không có giấy tờ hợp pháp. Đồng thời có biện pháp hoặc kiến nghị xử lý cụ thể đối với tập thể, cá nhân nếu để xảy ra buôn lậu tại địa bàn, đơn vị, lĩnh vực phụ trách.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng chức năng và Công an các địa phương phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan kịp thời ngăn chặn, phát hiện các tổ chức, cá nhân có hành vi buôn lậu, gian lận thương mại nhất là các đường dây ổ nhóm buôn lậu để xây dựng chuyên án, đấu tranh, điều tra, làm rõ xử lý kịp thời.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường kiểm soát chặt chẽ và kiểm dịch thú y đối với sản phẩm là động vật, gia cầm nhập khẩu; có biện pháp hữu hiệu quản lý các chất kích thích tăng trưởng sử dụng trong chăn nuôi bảo
đảm yêu cầu về an toàn, vệ sinh thực phẩm.
Các cơ quan thông tấn báo chí phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng phản ánh kịp thời, khách quan tình hình buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại; tiêu cực, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân không
tham gia, không tiếp tay cho các hành vi vi phạm.
Phương Hiển
www.thesaigontimes.vn%2FHome%2Ftaichinh%2Fbaohiem%2F80817%2FILO-keu-goi-cai-cach-che-do-huu-tri.html" class="usg-AFQjCNEojzCcAFD1wgfUVoKiYJE_GD8EVA did-3b154c4e5b5bbef5 article _tracked" target="_blank">ILO kêu gọi cải cách chế độ hưu trí
Hội nghị Campuchia-Lào-Việt Nam về tam giác phát triển
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công
Sinh viên Mùa hè xanh và Kỳ nghỉ hồng ra quân tình nguyện tại Lào
111 thí sinh đạt giải tại hội thi Tin học trẻ toàn quốc
Bạc Liêu: Lốc xoáy cực mạnh gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản
MB24 nhử "con mồi" bằng cấp bậc và "hoa hồng"
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-07-2012(UTC) Bài viết: 52 Đến từ: Miền Trung
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 9 lần trong 7 bài viết
|
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982: Cơ sở pháp lý quốc tế để
bảo vệ chủ quyền và quyền lợi của Việt Nam trên Biển Đông
Thứ Tư, 01/08/2012, 22:18 (GMT+7)
QĐND - Sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9 năm đàm phán, ngày 10-12-1982, Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982), (tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea), hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica.
Sau Hiến chương LHQ, Công ước Luật Biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước Luật Biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16-11-1994. Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật, Công ước Luật Biển 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Công ước Luật Biển 1982 thực sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi Công ước không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hóa các quy định mang tính tập quán. Công ước Luật Biển 1982 thể hiện sự thỏa hiệp mang tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển… Công ước không chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi các quốc gia phải tham gia cả gói, có nghĩa là việc phê chuẩn hoặc tham gia Công ước đòi hỏi quốc gia phải có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.
Công ước Luật Biển 1982 đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; Chế độ pháp lý đối với biển cả và Vùng-di sản chung của loài người; Các quy định hàng hải và hàng không; Việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật; Vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; Việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển; Quy chế hoạt động của cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban ranh giới ngoài thềm lục địa, tòa án Luật Biển quốc tế, hội nghị các quốc gia thành viên Công ước…
Tính đến nay, đã có 162 nước phê chuẩn và tham gia Công ước Luật Biển 1982 (Thái Lan là quốc gia thứ 162 gia nhập ngày 15-5-2011).
Một số nội dung quan trọng đã được quy định trong Công ước Luật Biển 1982 như:
1. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý. Tuy vậy, chủ quyền này không phải là tuyệt đối vì tàu thuyền nước ngoài được phép "đi qua vô hại" trong vùng lãnh hải. Tàu thuyền và máy bay được phép "đi quá cảnh" qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế.
2. Ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (ĐQKT) và thềm lục địa được xác định dựa trên các quy tắc áp dụng cho lãnh thổ đất liền. Quốc gia có biên giới với eo biển có thể điều tiết lưu thông hàng hải và các khía cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông.
3. Quốc gia quần đảo, được tạo thành bởi nhóm hoặc các nhóm đảo liên quan gần gũi và những vùng nước tiếp liền, sẽ có chủ quyền đối với vùng biển nằm trong các đường thẳng được vẽ bởi các điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên trong các đảo được gọi là vùng nước quần đảo và các quốc gia này có thể thiết lập các đường đi lại cho tàu thuyền và hàng không, trong đó các quốc gia khác có thể được hưởng quyền qua lại các quần đảo bằng các tuyến đường biển đã định.
4. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng ĐQKT rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không và tự do đặt dây cáp ngầm và đường ống.
5. Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng ĐQKT của quốc gia ven biển trong cùng khu vực hoặc tiểu khu vực; các loài di cư như cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt.
6. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy biển của quốc gia) trong việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Thềm lục địa có thể kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển và có thể kéo dài không quá 350 hải lý trong những điều kiện cụ thể. Quốc gia ven biển chia sẻ với cộng đồng quốc tế phần lợi tức thu được do khai thác tài nguyên từ bất cứ khu vực nào trong thềm lục địa của quốc gia đó khi nó kéo dài quá 200 hải lý. Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong Công ước Luật Biển 1982) sẽ có ý kiến đối với quốc gia liên quan về ranh giới ngoài của thềm lục địa khi nó kéo dài quá 200 hải lý.
7. Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển.
8. Các quốc gia có chung biên giới với biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc quản lý tài nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển. Các quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để kiềm chế những sự ô nhiễm đó.
9. Tất cả các nghiên cứu khoa học trong vùng ĐQKT và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tuy vậy, hầu như trong tất cả mọi trường hợp, quốc gia ven biển có trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được tiến hành vì mục đích hòa bình và đã thực hiện một số yêu cầu chi tiết. Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện "công bằng và hợp lý" có tính đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp.
10. Các quốc gia thành viên phải giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được trình lên Tòa án quốc tế về Luật Biển (được thành lập theo Công ước), trình lên Tòa án công lý quốc tế hoặc trọng tài. Tòa án có quyền tài phán riêng biệt đối với những tranh chấp liên quan đến khai thác ở đáy biển.
Sau khi Công ước Luật Biển 1982 ra đời và có hiệu lực, các quốc gia ven biển đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với những vùng biển được mở rộng theo quy định của Công ước. Quy chế pháp lý đối với lãnh hải đã trở thành biện pháp giải tỏa cho các yêu sách xung đột giữa các quốc gia với nhau. Lưu thông hàng hải qua vùng lãnh hải và các dải hẹp giờ đây dựa trên các nguyên tắc pháp lý. Các quốc gia ven biển đã tận dụng các điều khoản lợi thế cho phép mở rộng vùng ĐQKT ra tới 200 hải lý dọc theo bờ biển. Các quốc gia không có biển được quyền tiếp xúc với biển hoặc từ biển cũng được quy định một cách rõ ràng. Quyền được tiến hành các nghiên cứu khoa học biển giờ đây được dựa trên các nguyên tắc mà không thể vì lý do gì để từ chối. Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương đã thành lập năm 1994, đang thực hiện chức năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động dưới biển sâu ngoài vùng thuộc quyền tài phán quốc gia, nhằm điều hành việc khai thác và bảo tồn các nguồn tài nguyên của biển. Tòa án Luật Biển quốc tế cũng đã được thành lập năm 1996 và có quyền lực để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển phát sinh từ việc áp dụng hay hiểu biết về Công ước.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, phần XI của Công ước Luật Biển 1982 liên quan đến quy chế pháp lý đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia (Công ước gọi chung là "Vùng"), đặc biệt là việc khai thác các quặng nằm sâu dưới đáy đại dương, đã làm dấy lên nhiều lo ngại từ các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ. Để đạt được sự tham gia rộng rãi hơn của các nước đối với Công ước, Tổng thư ký LHQ đã chủ động tiến hành một loạt các cuộc tham vấn không chính thức giữa các quốc gia để giải quyết các lo ngại này. Sự tham vấn đã kết thúc bằng việc các nước đạt được thỏa thuận vào tháng 7-1994, gọi là "Thỏa thuận liên quan đến việc thực hiện phần XI của Công ước Luật Biển 1982". Thỏa thuận này được coi là một bộ phận của Công ước và đã mở đường cho tất cả các nước tham gia ký hoặc phê chuẩn để trở thành thành viên của Công ước.
Sau khi Công ước Luật Biển 1982 được thông qua ngày 30-4-1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước tại Montego Bay. Ngày 23-6-1994, Quốc hội nước ta đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: "Bằng việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển 1982, nước CHXHCN Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển". Quốc hội khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng ĐQKT và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của Nhà nước ta là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Đông trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven Biển Đông đối với vùng ĐQKT và thềm lục địa; Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Tham gia Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam là quốc gia ven biển, được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng ĐQKT rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng gần một triệu ki-lô-mét vuông, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền.
Công ước Luật Biển 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, được thừa nhận và luôn được viện dẫn trong cuộc đấu tranh cam go, phức tạp để bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa, các quyền và lợi ích chính đáng của nước ta trên biển. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hòa bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý của Trung Quốc đối với cái gọi là "đường lưỡi bò" chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Công ước Luật Biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý chung cho việc phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông như Cam-pu-chia, Thái Lan, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a… góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo môi trường ổn định, hòa bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông.
Sau 30 năm kể từ khi ra đời, không thể phủ nhận tầm quan trọng và vị trí pháp lý của Công ước Luật Biển 1982 trong đời sống luật pháp quốc tế. Tại Hội nghị lần thứ 22 các quốc gia thành viên của Công ước, tổ chức tại Niu Y-oóc tháng 6-2012, một lần nữa Công ước được khẳng định là thành tựu của nhân loại bởi những quy định của nó là kết quả của sự hợp tác-đấu tranh-xây dựng nhiều năm giữa các quốc gia trên thế giới với các chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, quan điểm luật pháp… khác nhau; là sự thỏa hiệp giữa các quốc gia vì một nhận thức chung đối với tầm quan trọng sống còn của biển và đại dương đối với sự phát triển của nhân loại. Khi trở thành thành viên của Công ước, các quốc gia có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ các quy định trong Công ước, không có ngoại lệ và không có bảo lưu. Do đó, không thể có quốc gia nào, khi tham gia sân chơi luật pháp chung này, lại chỉ viện dẫn và áp dụng những quy định trong Công ước có lợi cho quốc gia mình, hoặc không tuân thủ, thậm chí phủ nhận, những quy định không có lợi cho quốc gia mình.
MINH TRUNG
Giúp bạn bè hiểu đúng Việt Nam
Bế mạc Đại hội Quốc tế ngữ toàn cầu lần thứ 97
Hai trận bão lớn tràn vào Trung Quốc
|
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 16-07-2012(UTC) Bài viết: 109 Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 23 bài viết
|
Những mốc lớn trong quan hệ Việt Nam- Triều Tiên
Cập nhật lúc: 8:47 AM, 06/08/2012
(VOV) - Triều Tiên là một trong những nước thiết lập mối quan hệ ngoại giao sớm nhất với Việt Nam (31/1/1950).
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Hội nghị nhân dân tối cao Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Yong
Nam thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 5-7/8.
Đây là chuyến thăm lần thứ hai của Chủ tịch Kim Yong Nam sau chuyến thăm chính thức Việt Nam tháng 7/2011. Trước đó, vào tháng 1/1998, Chủ tịch Kim Yong Nam đã từng thăm Việt Nam trên cương vị
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Triều Tiên.
Hai nước Việt Nam và Triều Tiên có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, mối quan hệ tốt đẹp đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kim Nhật Thành dày công xây dựng, được thử thách qua những
thăng trầm của lịch sử.
 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kim Nhật Thành tại khu nghỉ Hồ Tây (11/1964)
|
Triều Tiên là một trong những nước thiết lập mối quan hệ ngoại giao sớm nhất với Việt Nam (31/1/1950). Hai nước cũng thường xuyên duy trì quan hệ tốt đẹp thông qua các chuyến thăm hữu nghị của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước như: Các chuyến thăm Triều Tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh (8-12/7/1957); Thủ tướng Phạm Văn Đồng (6/1961); Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công dự Quốc khánh Triều Tiên và trao Huân chương Sao vàng cho Chủ tịch Kim Nhật Thành (9/9/1988); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (16-18/10/2007); Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công An Lê Hồng Anh (13 -16/4/2011); Thứ trưởng Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh (15-20/8/2011); Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng
Ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân (18-21/10/2011)...
Nước bạn cũng có các chuyến thăm Việt Nam quan trọng của lãnh đạo và nhân sự cấp cao Triều Tiên như các chuyến thăm của Thủ tướng Kim Nhật Thành (27/11-3/12/1958); Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Hội nghị nhân dân tối cao Kim Yong Nam (7/2001); Thủ tướng nội các Triều Tiên Kim Yong Il (10/2007); Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng Kim Yong Il (8-10/2010 và 9-13/6/2012)...
Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Triều Tiên còn khiêm tốn, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Triều Tiên trong năm 2009 đạt gần 16,5 triệu USD. Năm 2010 theo đường trực tiếp và gián tiếp, Việt Nam đã xuất khẩu trên 16 triệu USD và năm 2011 là 18 triệu USD. Các mặt
hàng Việt Nam xuất khẩu sang Triều Tiên chủ yếu là hàng tiêu dùng.
Năm 2008, trong chuyến thăm Triều Tiên của Thứ trưởng Bộ Công thương Bùi Xuân Khu, hai bên đã ký 5 MOU về hợp tác khai khoáng và trao đổi kỹ thuật liên quan. Các đoàn chuyên gia ngành dầu khí, nông
nghiệp hai bên cũng đã qua lại thăm và học tập kinh nghiệm của nhau.
Hai bên tiếp tục duy trì cơ chế họp Ủy ban Liên Chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, trong đó, phía Việt Nam do thứ trưởng Bộ Công thương và phía Triều Tiên do Thứ trưởng Bộ Ngoại thương làm Trưởng Phân ban mỗi bên. Dự kiến, hai bên sẽ tổ chức kỳ họp
thứ 8 tại Bình Nhưỡng vào khoảng cuối tháng 8/2012.
Hai nước đã ký nhiều Hiệp định quan trọng như: Hiệp định hợp tác văn hoá (11/1957), Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật (10/1958), Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và CHDCND Triều Tiên (1961), Hiệp định thương mại và hàng hải
(12/1962),
Về lĩnh vực văn hóa- giáo dục, Việt Nam-Triều Tiên chú trọng ngay từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ những năm 1960 - đầu 1970, Triều Tiên đã giúp Việt Nam đào tạo hàng trăm sinh
viên.
Hàng năm, Bộ Văn hóa của Việt Nam đều cử đoàn nghệ thuật sang Triều Tiên dự Liên hoan nghệ thuật mùa xuân tháng 4 tổ chức tại Thủ đô Bình Nhưỡng. Năm 2012, đoàn nghệ thuật của Việt Nam đã giành 4
giải bạc tại liên hoan.
Hai bên đã ký Thỏa thuận hợp tác thể dục thể thao (9/2011); Kế hoạch hợp tác về Văn hóa giai đoạn 2012-2014 (4/2012).
Vừa qua, Bảo tàng Cách mạng Triều Tiên và Bảo tàng Hồ Chí Minh đã phối hợp tổ chức triển lãm ảnh về đất nước, con người Triều Tiên tại Bảo tàng Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch
Kim Nhật Thành.
Năm 2011, hai bên đã phối hợp tổ chức triển lãm ảnh về “Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt
xuất” tại Triều Tiên.
Chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Chủ tịch Kim Yong Nam lần này nhằm khẳng định mong muốn củng cố tăng cường hữu nghị hợp tác truyền thống giữa Triều Tiên và Việt Nam đồng thời thúc đẩy
hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực.../.
|
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 16-07-2012(UTC) Bài viết: 109 Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 23 bài viết
|
Hướng tới Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh và rộng mở
|
15:52
| 06/08/2012
|
|
(ĐCSVN) - Nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh có bài viết nhìn lại quá trình phát triển của Hiệp hội và chặng đường 17 năm tham gia tích cực, chủ động
của Việt Nam. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết này.
 |
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh
|
45 năm trước, tại Băng Cốc, ngày 8/8/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã tuyên bố ra đời, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra một giai đoạn hợp tác mới của các nước Đông Nam Á, là tiền đề quan trọng cho tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN ngày hôm nay. Ngay từ khi thành lập, ASEAN đã đặt mục tiêu cao cả ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa, tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước thành viên, cũng như thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu
vực.
Ảnh trong ngày
ASEAN - 45 năm hướng tới một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng đồng
Từ 5 quốc gia Đông Nam Á đầu tiên đặt bút ký vào bản Tuyên bố Băng Cốc, ngày nay Hiệp hội đã gồm 10 nước, bao trùm hầu hết khu vực Đông Nam Á với diện tích 4,5 triệu km2. Các nước ASEAN có dân số khoảng trên 600 triệu người, với nền văn hóa hết sức đa dạng, phong phú, và đặc sắc. ASEAN đang là một khu vực kinh tế năng động và phát triển cao. Trong bối cảnh kinh tế thế giới liên tục suy giảm, các nền kinh tế ASEAN vẫn đạt tốc độ tăng trưởng dương, bình quân trên 5%/năm và ổn định, với tổng GDP
cả khối đạt 3,2 nghìn tỉ đô-la Mỹ .
Khi ASEAN mới thành lập, đã có không ít hoài nghi về tính khả thi của tổ chức mới ra đời này sau những nỗ lực không thành nhằm thiết lập các khuôn khổ hợp tác khu vực trước đó, cùng với những mục tiêu tham vọng đặt ra trong Tuyên bố Băng Cốc (đặt trong bối cảnh lịch sử lúc đó). Trải qua 45 năm chung tay nỗ lực, các quốc gia trong khu vực đã từng bước vượt qua các rào cản của lịch sử và những khác biệt, cùng chung tay đẩy mạnh hợp tác, tăng cường liên kết dưới một mái nhà ASEAN, cùng phấn đấu vì các mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác, phát triển. Ngày nay, ASEAN đã khẳng định mình, không chỉ trở thành một thực thể chính trị-kinh tế quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, mà đang mở rộng và phát huy vai trò ở cả khu vực
châu Á-Thái Bình Dương, với uy tín và ảnh hưởng trên toàn cầu.
Lịch sử phát triển của ASEAN đã trải qua 4 dấu mốc quan trọng đánh dấu các bước phát triển lớn của cộng đồng ASEAN. Giai đoạn hình thành và khẳng định tính đúng đắn và sự cần thiết của Hiệp hội diễn ra từ năm 1967 tới giữa những năm 70 của thế kỷ 20. Sự phát triển của mối quan hệ khăng khít giữa các quốc gia thành viên đã đưa tới sự kiện quan trọng: ngày 24/2/1976, tại Bali, Indonesia, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) hay còn gọi là Hiệp ước Bali, đã ra đời với mục tiêu thúc đẩy hòa bình vĩnh viễn, tình hữu nghị và hợp tác lâu bền giữa nhân dân các nước thành viên, góp phần tăng cường sức mạnh, tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ hơn giữa các nước Đông Nam Á. Với sự tham gia của Việt Nam tiếp theo là Lào, Mi-an-ma, và sau đó là Campuchia, lần đầu tiên trong lịch sử Đông Nam Á sự đối đầu đã chính thức chấm dứt, mở ra thời kỳ mới của hòa bình, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở một nền hòa bình vững chắc cùng với ý nguyện chung tay xây dựng một cộng đồng phồn thịnh, tháng 12/1997, tại Hội nghị Cấp cao không chính thức tại Kua-la Lăm-pơ, nhân kỷ niệm 30 năm thành lập, ASEAN đã thông qua văn kiện Tầm nhìn ASEAN tới 2020 với mục tiêu tổng quát đưa Hiệp hội trở thành “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng các dân tộc đùm bọc lẫn nhau”. Tầm nhìn ASEAN 2020 là văn kiện quan trọng đặt nền tảng cho ý tưởng xây dựng Cộng đồng ASEAN ở những năm sau đó. Ý tưởng về một cộng đồng đã ra đời và trở thành quyết tâm không gì lay chuyển nổi của các quốc gia nhỏ bé muốn gắn kết với nhau thành một khối thống nhất hùng mạnh vì mục tiêu xây dựng một nền hòa bình mãi mãi, mang lại phồn thịnh cho khu vực, vì hạnh phúc của nhân dân. Tháng 11/2007 tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13 ở Xinh-ga-po, Hiến chương ASEAN, văn kiện quan trọng hàng đầu của Hiệp hội, đã được ký kết tạo khuôn khổ pháp lý và
thể chế hỗ trợ ASEAN gia tăng liên kết khu vực và xây dựng cộng đồng.
45 năm qua, khát vọng hòa bình và phát triển luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài hoạt động của các nước thành viên Hiệp hội. Đoàn kết, hợp tác cùng phát triển luôn luôn là xu thế chủ đạo, là chất keo kết dính chặt chẽ quan hệ giữa các quốc gia trong Hiệp hội. Ngày nay, hợp tác và liên kết ASEAN đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với những bước chuyển mạnh mẽ về chất, hướng đến mục tiêu trở thành một cộng đồng gắn kết về chính trị, vững mạnh về kinh tế và đùm bọc, chia sẻ lẫn nhau giữa các quốc gia vào năm 2015. Trong tiến trình đó, người dân các nước ASEAN, đối tượng trung tâm mà Cộng đồng ASEAN hướng tới, sẽ được sống trong môi trường hòa bình, ổn định và hòa hợp; được tạo điều kiện phát triển bền vững và thịnh vượng trong một không gian kinh tế mở, có khả năng cạnh tranh cao; được tiếp cận với các dịch vụ và phúc lợi xã hội toàn diện, với các giá trị và bản sắc văn hóa đặc sắc được gìn giữ và tôn trọng. Cùng với việc đẩy mạnh triển khai các Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN và thu hẹp khoảng cách phát triển, ASEAN đang nỗ lực thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền, giữa các quốc gia trong Hiệp hội, bảo đảm cả 10 quốc gia thành viên đều cùng đến đích hình thành cộng đồng
như mục tiêu đã đề ra.
Khu vực liên kết mở với vai trò trung tâm của ASEAN
ASEAN đã trở thành hạt nhân thu hút và gắn kết sự tham gia của gần 20 Đối tác, trong đó có các cường quốc và trung tâm lớn trên thế giới vào các tiến trình đối thoại và hợp tác ở khu vực do chính ASEAN khởi xướng và giữ vai trò chủ đạo. Quan hệ đối thoại theo khuôn khổ ASEAN+1 được ASEAN thiết lập với 10 Đối tác gồm: Ôx-trây-lia, Ca-na-đa, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Hàn Quốc, Niu Di-lân, Nga, Mỹ, Liên Hợp Quốc và 1 Đối tác theo lĩnh vực là Pa-kix-tan, trong đó nhiều Đối tác đã xây dựng quan hệ với ASEAN ngay từ những ngày đầu mới thành lập vào những năm 1970. Thông qua các quan hệ này, ASEAN đã tranh thủ được sự ủng hộ và hỗ trợ đáng kể của các Đối tác cho nỗ lực đẩy mạnh hợp tác và tăng cường liên kết khu vực của Hiệp hội cũng như cùng chung tay
giải quyết các vấn đề chung tác động đến khu vực.
Bên cạnh đó, ASEAN cũng khởi xướng và chủ trì nhiều khuôn khổ và cơ chế hợp tác khu vực quan trọng như ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS - với các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia, Niu Di-lân, Nga và Mỹ), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF - với 27 đối tác). Các diễn đàn này, với sự tham gia của các Đối tác lớn và nhỏ, trong và ngoài khu vực, mỗi cơ chế có những đặc thù riêng, đã tạo thành mạng lưới đan xen nằm trong một cấu trúc khu vực mở, với ASEAN ở vị trí trung tâm, cùng hướng đến mục tiêu chung là thúc đẩy đối thoại, hợp tác vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. Trong khi ASEAN+3 tập trung nhiều hơn vào hợp tác kinh tế, thương mại, tài chính, do lịch sử hình thành cơ chế này xuất phát từ nhu cầu khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính khu vực những năm 1997-1998, thì Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), là khuôn khổ mới đi vào hoạt động từ 2005, nhưng đã phát huy vai trò quan trọng là diễn đàn mở để các Nhà Lãnh đạo trong khu vực cùng trao đổi cởi mở và thẳng thắn về các vấn đề mang tầm chiến lược, bao gồm cả hợp tác chính trị-an ninh, kinh tế-thương mại cũng như ứng phó với các thách thức đang nổi lên như thiên tai, dịch
bệnh…
Trong quan hệ với các Đối tác bên ngoài, ASEAN luôn thể hiện là một thực thể với tiếng nói chung, đồng thời, đóng vai trò định hướng, dẫn dắt các nội dung thảo luận và các ưu tiên hợp tác tại các diễn đàn khu vực do ASEAN khởi xướng kể trên. Vai trò trung tâm của ASEAN luôn được các Đối tác tôn trọng và đánh giá cao, bởi ASEAN đã phát huy tích cực hình ảnh “người trung gian trung thực”, nỗ lực điều hòa, gắn kết và cân bằng các mối lợi ích đan xen ở khu vực. Tại các diễn đàn đa phương liên khu vực và toàn cầu như ASEM, APEC, Liên Hợp Quốc cũng như ở các nước Đối tác, người ta luôn nhìn thấy hình ảnh một ASEAN gắn bó chặt chẽ, cùng phấn đấu cho hòa bình, hợp tác, phát triển và các giá
trị chung của nhân loại.
Vai trò trung tâm của ASEAN trong tăng cường hợp tác an ninh vì hòa bình và ổn định trong khu vực
Xây dựng môi trường khu vực hòa bình và ổn định vì phát triển và phồn vinh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nước Đông Nam Á vốn là những quốc gia nhỏ bé chịu nhiều đau khổ bởi khác biệt và bất đồng, bởi tranh chấp và xung đột, bởi chia cắt và chiến tranh. Chính vì vậy, đóng góp cho mục tiêu này không chỉ được khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng khác nhau của ASEAN, mà còn được thể hiện thông qua các sáng kiến đa dạng, phong phú và mang tính lâu dài. Một trong những sáng kiến đó là ASEAN đã
thành lập và dẫn dắt Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) năm 1994.
Với tiêu chí đóng góp hiệu quả cho hợp tác vì hòa bình và ổn định trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, thường xuyên trao đổi sâu về tình hình an ninh khu vực và quốc tế cùng các biện pháp xây dựng lòng tin đa dạng, phong phú và hiệu quả, ARF đã không ngừng phát triển kể cả về số lượng thành viên lẫn chất lượng hợp tác. Đến nay, 27 nước tham gia đã thúc đẩy tiến trình ARF phát triển mạnh cả về qui mô lẫn nội dung hợp tác, trở thành diễn đàn hàng đầu về an ninh trong khu vực, được toàn thế giới quan tâm và theo dõi. Trên thực tế, Diễn đàn ARF hàng năm đã là điểm hẹn của các quan chức ngoại giao và quốc phòng trong khu vực, là nơi các nước trao đổi cởi mở và thẳng thắn về các vấn đề an ninh, kể cả những
thách thức đang nổi lên.
Không chỉ dừng lại ở trao đổi chung chung, với quyết tâm phát triển qua ba giai đoạn, chủ yếu xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và xây dựng các cách tiếp cận chung để giải quyết xung đột, những nội dung hợp tác của Diễn đàn đã và đang được thúc đẩy sâu và rộng hơn, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, từ phòng chống thiên tai tới chống phổ biến vũ khí sát thương hàng loạt và giải trừ
quân bị.
Những thành công trên đây của ARF chính là dựa trên các nguyên tắc hoạt động của ASEAN. Đó chính là đồng thuận, tiệm tiến, không can thiệp. Đó cũng chính là phương cách làm việc của ASEAN, luôn do ASEAN làm Chủ tịch, luôn do ASEAN xây dựng nghị sự. Chuyển sang giai đoạn phát triển mới, ngoại giao phòng ngừa, với ASEAN ở vị trí trung tâm, ARF đang không ngừng phát triển, không ngừng vươn lên, vừa củng cố vị trí là diễn đàn hàng đầu trao đổi về an ninh trong khu vực vừa đóng góp hiệu quả cho xây dựng môi trường khu vực hòa bình, ổn định vì hợp
tác và phát triển của các dân tộc.
Nhiều năm qua, hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải trên biển nói chung và trong khu vực Biển Đông nói riêng luôn là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nước trong và ngoài khu vực. Biển Đông đã trở thành một chủ đề trao đổi trong nhiều khuôn khổ của ASEAN và khu vực. Từ những trao đổi tản mát, ngày nay các nước trong và ngoài khu vực thường xuyên đề cập tới tình hình Biển Đông tại nhiều diễn đàn khác nhau, nhất là những diễn đàn do ASEAN
thành lập và dẫn dắt.
Trong nội dung này, một lần nữa, ASEAN đã thể hiện được vai trò trung tâm của mình. Từ 1992 đến nay, ASEAN đã có nhiều Tuyên bố khác nhau về tình hình Biển Đông. Năm 2002, ASEAN đã cùng Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông vừa được thông qua gần đây đã thể hiện quan tâm chung và cách tiếp cận chủ đạo của Hiệp hội đối với các vấn đề trên Biển Đông, đồng thời cũng cho thấy khả năng của ASEAN trong xây dựng đồng thuận, thúc đẩy đối thoại và hợp tác về tất cả các
nội dung trao đổi trong khu vực.
Nhận thức chung của ASEAN về Biển Đông là luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc 1982 (UNCLOS 1982) cần phải được tôn trọng và thực hiện đầy đủ. Đồng thời, các nguyên tắc của khu vực, nhất là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng phải luôn được đề cao, tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để. Hiện nay, ASEAN đã sẵn sàng và mong muốn trao đổi, thỏa thuận, tiến tới ký kết một Bộ quy tắc ứng xử (COC)
với Trung Quốc để đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực.
ASEAN đoàn kết xây dựng Cộng đồng
Trong quá trình tăng cường liên kết và đẩy mạnh hợp tác, ASEAN tiếp tục phát huy chủ trương giải quyết mọi khác biệt trên tinh thần “Phương cách ASEAN” đề cao đoàn kết, tham vấn và đồng thuận. Một vấn đề xảy ra ở khu vực, dù có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các nước thành viên, vẫn luôn được cả 10 nước cùng quan tâm, trao đổi để tìm ra giải pháp chung. Thực tế cho thấy, ngoài vấn đề Biển Đông, các vấn đề từ an ninh truyền thống của các khu vực khác cũng như tại châu Á, cho đến các vấn đề an ninh phi truyền thống như phát triển bền vững, bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn nước sông Mê Công, giảm ô nhiễm khói mù xuyên biên giới… đã trở thành chủ đề được cả Hiệp hội cùng chia sẻ, đề ra hướng giải quyết
phù hợp.
Tình đoàn kết ASEAN còn được thể hiện trong tình huống một nước hay giữa một vài thành viên với nhau có khó khăn, cả khối cùng tham gia hỗ trợ tích cực theo tinh thần xây dựng và đoàn kết ASEAN nhưng
vẫn tôn trọng nguyên tắc cơ bản là không can thiệp.
Để hướng tới một cộng đồng liên kết chặt chẽ và toàn diện vào năm 2015, ngoài những nỗ lực xây dựng cộng đồng an ninh vững mạnh, ASEAN đang nỗ lực hơn nữa trong việc hoàn thành đầy đủ và có trách nhiệm các cam kết khu vực, xây dựng Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN. Những biện pháp kinh tế sẽ được thực hiện quyết liệt hơn nữa như mở cửa thị trường và thuận lợi hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư theo khuôn khổ các Hiệp định Thương mại và Hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định Thương mại và Dịch vụ ASEAN (AFAS), Hiệp định Đầu tư ASEAN (ACIA); đẩy mạnh hoàn thiện các khung chính sách nhằm đưa ASEAN trở thành khu vực kinh tế có sức cạnh tranh; thúc đẩy phát triển cân bằng, bền vững và thu hẹp khoảng cách phát triển; triển khai hiệu quả các thỏa thuận Khu vực Mậu dịch Tự do (FTAs)/Đối tác Kinh tế Toàn diện (CEP) đã ký với các Đối tác, đưa nền kinh tế ASEAN hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Theo đó, chính phủ các nước thành viên ASEAN sẽ tiếp tục tiến hành các biện pháp chính sách cần thiết để doanh nghiệp và người dân có thể tận dụng tối đa các cơ hội và tiềm năng do Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và các khuôn khổ liên kết kinh tế khu vực đem lại. Theo ước tính, không gian kinh tế
Đông Á sẽ chiếm 1/3 tổng dân số thế giới và 1/4 tổng GDP toàn cầu.
Để hiện thực hóa mục tiêu về một Cộng đồng ASEAN lấy người dân làm trung tâm, các nước thành viên cũng cần dành quan tâm và nguồn lực lớn hơn cho các nỗ lực bảo đảm và nâng cao chất lượng cuộc sống của hơn 600 triệu người dân trong khu vực. Theo đó, các mục tiêu mà Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN đã đề ra như hợp tác phát triển con người, thúc đẩy phúc lợi và bảo trợ xã hội, đảm bảo công bằng xã hội và các quyền lợi chính đáng của người dân, phát triển môi trường bền vững và đề cao bản sắc ASEAN sẽ cần được đẩy mạnh cả ở cấp độ khu vực cũng như lồng ghép trong các chương trình phát triển quốc gia của mỗi nước. Các tầng lớp xã hội cần được khuyến khích tham gia tích cực và đóng góp xây dựng vào tiến trình liên kết khu vực của ASEAN, đồng thời, các Chính phủ cần nỗ lực hơn nữa để đưa các lợi ích thiết thực từ Cộng đồng ASEAN trực tiếp đến với người
dân.
Có thể nói, 45 năm gắn bó và liên kết chặt chẽ đã giúp tạo nên một lợi thế và sức mạnh không thể phủ nhận của ASEAN, tạo tiền đề vững vàng để ASEAN đạt tới những bước phát triển xa hơn, mà trước mắt là
trở thành một cộng đồng gắn kết và vững mạnh vào năm 2015.
Chặng đường 17 năm Việt Nam trong ASEAN
Trong 17 năm đồng hành cùng ASEAN, Việt Nam luôn chủ trương đóng góp một cách tích cực, có trách nhiệm nhằm xây dựng một ASEAN vững mạnh, đoàn kết và liên kết chặt chẽ vì hòa bình, ổn định và phát triển chung ở khu vực cũng như lợi ích của mỗi quốc gia thành viên. Những dấu ấn quan trọng mà Việt Nam đóng góp cho ASEAN được ghi nhận như hiện thực hóa ý tưởng mở rộng ASEAN-10; tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN-6 và thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (1998) giúp ASEAN vượt qua giai đoạn khó khăn của khủng hoảng tài chính khu vực; hoàn thành tốt đẹp nhiệm kỳ Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN nhiệm kỳ 2000-2001 và gần đây nhất là đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010. Nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN năm 2010 của Việt Nam đã để lại dấu ấn đậm nét về một nước Chủ tịch tích cực, chủ động và đầy trách nhiệm, đã đề xuất và cùng các nước thành viên trong Hiệp hội đề ra những định hướng quan trọng giúp đẩy mạnh hành động hướng đến Cộng đồng ASEAN và nâng tầm quan hệ đối ngoại, đề cao vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực… Những thành quả tốt đẹp mà ASEAN đạt được trong năm 2010 sẽ là điểm nhấn khó phai mờ trong hành trình gắn bó của chúng ta với ASEAN, nhất là trong giai đoạn lịch sử
trước ngưỡng cửa hình thành cộng đồng của Hiệp hội.
17 năm đồng hành với các nước trong ASEAN, Việt Nam đã nhận được nhiều sự hợp tác, trợ giúp của các nước thành viên cũng như của toàn khối, và cũng tự mình học được nhiều kinh nghiệm quý báu của các nước ASEAN. Thông qua đó, chúng ta đã mở rộng và thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác và tin cậy với các nước láng giềng trong khu vực, tạo dựng được môi trường hòa bình và ổn định có ý nghĩa chiến lược đối với các mục tiêu an ninh và phát triển của đất nước. Hợp tác kinh tế-thương mại với các nước ASEAN đã
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Tính đến năm 2010, thương mại hai chiều đạt 26,7 tỉ đô-la, chiếm 1/5 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và tăng gấp 3 lần so với tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam với bên ngoài giai đoạn trước 1995 khi Việt Nam chưa gia nhập ASEAN. Hiện các nhà đầu tư từ ASEAN đang triển khai 1449 dự án tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký tích lũy đạt 44 tỉ đô-la. ASEAN đã trở thành đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của Việt Nam,
với tốc độ tăng trưởng thương mại bình quân 15-16%/năm.
Tương lai phát triển của Việt Nam sẽ gắn bó chặt chẽ với khu vực, với ASEAN và các quốc gia láng giềng trong ASEAN. Lãnh đạo cấp cao của chúng ta đã nhiều lần khẳng định hợp tác ASEAN sẽ là một trong những trụ cột quan trọng trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã chỉ rõ Việt Nam sẽ “cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu
vực châu Á-Thái Bình Dương”.
Cùng ASEAN hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng
Chặng đường từ nay đến mốc hình thành Cộng đồng ASEAN chỉ còn hơn hai năm, nhưng khối lượng công việc trước mắt vẫn còn khá lớn, trong đó một phần ba trong tổng số 800 đầu việc đề ra trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN cần được tiếp tục hoàn tất. Bối cảnh khu vực và quốc tế đang biến chuyển không ngừng cũng đặt ra cho ASEAN những câu hỏi lớn làm thế nào để giữ vững vai trò trung tâm của Hiệp hội ở khu vực, điều hòa và cân bằng lợi ích đan xen của các nước, ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức và các vấn đề nảy sinh. Trên chặng đường phát triển mới của Hiệp
hội, Việt Nam sẽ nỗ lực đóng góp cho ASEAN trên các trọng tâm lớn sau:
- Thứ nhất, tiếp tục củng cố và tăng cường đoàn kết ASEAN, giữ vững các định hướng chủ đạo và mục tiêu đã đề ra, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội; đảm bảo tính thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN trong định hướng các tiến trình hợp tác khu vực cũng như xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế thuộc quan tâm và lợi ích chung; tích cực phối hợp lập trường và tạo tiếng nói thống nhất của ASEAN tại các diễn đàn đa phương và
quốc tế.
- Thứ hai, thúc đẩy cam kết và hành động chung nhằm thực hiện đầy đủ, đúng hạn các phần việc còn lại trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đẩy mạnh kết nối ASEAN và phát triển đồng đều, bền vững trong Hiệp hội; cùng các nước thành viên tiến hành các bước chuẩn bị cần thiết để Cộng đồng ASEAN đi vào hiện thực theo đúng kế hoạch vào năm 2015, trong đó, đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, quảng bá rộng rãi, nâng cao ý thức cộng đồng và tình đoàn kết giữa người
dân các nước.
- Thứ ba, tiếp tục củng cố và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để hợp tác cùng phát triển; thúc đẩy đối thoại và xây dựng lòng tin, bao gồm cả các nỗ lực hình thành và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử; kiên trì cùng các nước tham gia ký kết DOC tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh những quy tắc ứng xử được ghi trong DOC, triệt để tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển Liên hợp quốc 1982, cùng ASEAN sớm bàn thảo với Trung Quốc một Bộ quy tắc ứng xử
(COC).
- Thứ tư, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN, không ngừng mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác toàn diện, cùng có lợi giữa ASEAN với các Đối tác; nâng cao chất lượng và hiệu quả của các tiến trình hợp tác khu vực hiện có như ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF, ADMM+…; tạo điều kiện và khuyến khích các Đối tác cùng tham gia đóng góp tích cực hơn nữa vào các nỗ lực chung nhằm duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực, ứng phó hiệu quả với các thách thức đặt ra, đồng thời thiết thực hỗ trợ ASEAN tăng cường liên kết và kết nối. Chủ động và tích cực cùng các nước thành viên đưa ASEAN đến đích xây dựng thành công Cộng đồng vào năm 2015, cũng như tạo những bước khởi đầu thuận lợi cho Cộng đồng ASEAN, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no và thịnh vượng
cho người dân các quốc gia trong khu vực./.
|
Phạm Bình Minh
|
Việt Nam- Hàn Quốc chính thức đàm phán FTA
Kinh tế, thương mại, đầu tư sẽ tiếp tục là trọng tâm và động lực của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Đoàn đại biểu cấp cao Quân đội nhân dân Lào
Khai mạc Đại hội thanh niên quốc tế ngữ thế giới lần thứ 68 tại Hà Nội
Hoành tráng lễ khai mạc HKPĐ toàn quốc lần thứ VIII-2012
Hướng đến năm học mới - thành công mới
Đoàn Trung Quốc trở lại vị trí dẫn đầu Olympic 2012
  
|
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 16-07-2012(UTC) Bài viết: 109 Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 23 bài viết
|
(VAVA) - Ngày 10/7, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã tổ chức họp báo thông báo và
phát động Chương trình Nhắn tin từ thiện "Nỗi đau da cam" năm 2012.
Mục đích của việc phát động chương trình nhắn tin từ thiện năm nay là tiếp tục khơi dậy tình cảm “thương người như thể thương thân”, huy động nguồn lực chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, thực hiện dự án xây dựng các trung tâm nuôi dưỡng, phục hồi chức năng và dạy nghề cho nạn nhân, xây dựng nhà tình nghĩa,
cấp học bổng, trợ giúp tìm việc làm cho nạn nhân và con em nạn nhân.
Năm 2011, nhân kỷ niệm 50 năm thảm hoạ da cam ở Việt Nam, Hội cũng đã phát động chương trình nhắn tin ủng hộ nạn nhân chất độc da cam và đã thu được 7.360.603.166 đồng. Số tiền trên đã được sử dụng tập trung cho việc hỗ trợ một số tỉnh hội xây dựng trung tâm nuôi dưỡng bán trú nạn nhân chất độc da cam.
Sau đây là Lời kêu gọi của Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hãy tích cực ủng hộ Chương trình nhắn tin từ thiện "Nỗi đau da cam2012" ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam:
Lời kêu gọi
Năm 2011, nhân kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam, hưởng ứng phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam phối hợp với Cổng thông tin nhân đạo quốc gia 1400 đã thực hiện chương trình
nhắn tin từ thiện “Nỗi đau da cam”. Kết quả thu được là 7.360.603.166 đồng. Thực tế cho thấy đây là cách làm phù hợp, tiện lợi, hiệu quả cao, ý nghĩa xã hội lớn.
Để tiếp tục khơi dậy tình cảm “thương người như thể thương thân”, huy động nguồn lực chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, thực hiện dự án xây dựng các trung tâm nuôi dưỡng, phục hồi chức năng và dạy nghề cho nạn nhân, xây dựng nhà tình nghĩa, cấp học bổng, trợ giúp tìm việc làm cho nạn nhân và con em nạn nhân, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam tổ chức chương trình nhắn tin từ thiện chung tay xoa dịu “Nỗi đau da cam” năm 2012. Thời gian: từ 00h00 ngày 10/7/2012 đến 24h00 ngày 04/9/2012. Đây là một hoạt động có ý nghĩa chính trị – xã hội cao, mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc, thiết thực góp phần giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam.
Nhân dịp này, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam thiết tha kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hãy tích cực ủng hộ Chương trình bằng hành động cụ thể.
Hãy soạn tin DACAM gửi 1409 ! Mỗi tin nhắn quý vị đã ủng hộ cho nạn nhân 18.000 đồng.
Hơn 3 triệu nạn nhân da cam Việt Nam cần lắm những tấm lòng nhân ái!
CHỦ TỊCH HỘI
Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh
|
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 17-07-2012(UTC) Bài viết: 54 Đến từ: Tp. Hà Nội
Được cảm ơn: 14 lần trong 12 bài viết
|
VEA.GOV.VN - 2/8/2012 2:25:27 PM
Đất ngập nước (ĐNN) ở Việt Nam có diện tích khoảng 10 triệu ha, phân bố trên tất cả 8 vùng sinh thái. Trong đó hai vùng là đồng bằng sông Cửu
Long và châu thổ sông Hồng có diện tích ĐNN lớn nhất.
Đặt vấn đề
Các hệ sinh thái (HST) - ĐNN trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng không những có vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, mà còn có chức năng vô cùng quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, vui chơi giải trí phục vụ đời sống xã hội hiện tại và tương lai. Các HST ĐNN của Việt Nam cũng là nơi tích lũy đa dạng sinh học (ĐDSH) cao có tiềm năng lớn để sản xuất và cung cấp các nguồn năng lượng xanh, sạch, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Đồng thời, sự phong phú của các loài động vật, thực vật còn có vai trò rất quan trọng về tinh thần và văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt đối với cộng đồng có cuộc sống dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu (BĐKH). ĐDSH ở vùng biển và vùng ĐNN nội địa không chỉ là vấn đề cốt lõi trong sinh kế hướng tới sự thịnh vượng, mà còn được xem như là vật chỉ thị cho chất lượng môi trường nước, chất lượng rừng, chất lượng ổ
sinh thái bị biến đổi trong bối cảnh BĐKH hiện nay.
1. Sự phong phú về nguồn tài nguyên ĐDSH trong các HST ĐNN ở Việt Nam
1.1. Đặc trưng HST ĐNN ở Việt Nam rất đa dạng:
- Các vùng có các HST hoàn toàn nước ngọt như sông, suối, hồ, ao, ruộng lúa, thủy vực ngầm trong
hang đá, trảng cỏ ngập nước theo mùa.
- HST vùng nước lợ: đầm lầy, kênh rạch, đầm lầy than bùn, cửa sông.
- HST vùng biển, ven bờ, đảo trên vùng biển như: rừng ngập mặn, bãi triều, vũng - vịnh... Việt Nam có trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó nhiều đảo có diện tích lớn như Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Sơn Trà, Lý Sơn, Hoàng
Sa, Trường Sa, Phú Quý, Phú Quốc, Côn Đảo...
HST ĐNN vùng biển đảo và vùng nội địa được đánh giá có tính ĐDSH cao bởi sự cấu trúc thành phần các loài thực vật, động vật. Chính từng loại thảm thục vật có đặc tính thích ứng riêng vói môi trường nước ngọt, nước lợ và nước mặn, để hình thành nên những dải rừng ven suối, ven sông, ven hồ và ven biển như rừng ngập mặn. Ví dụ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có những khu rừng đước, vẹt, mắm đã từng có diện tích lớn hàng 100 nghìn ha với những cây thân gỗ cao từ 15 - 20 m, và có đường kính 30 - 40 cm với cành, tán lá xum xuê... là môi trường sống thuận lợi cho một số loài động vật thích nghi với môi trường ĐNN như: dơi ngựa lớn, dơi ngựa Thái Lan, các loài khỉ, voọc, sóc, lợn rừng, rái cá và các loài chim, các loài bò sát (cá sấu, kỳ đà, trăn, rắn, rùa).... Dưới tán lá rừng của HST: ĐNN chứa đựng một nguồn tài nguyên thực vật, động vật phong phú là mắt xích quan trọng trong chuỗi quan hệ dinh dưỡng của HST là nguồn cung cấp thức ăn và là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật hoang dã. Trong đó có các sân chim lớn ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng
bằng sông Hồng (30 sân chim).
Kết quả của các công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế cho đến nay đã thống kê sơ bộ có khoảng 12.115 loài thủy sinh vật phân bố ở môi trường biển, môi trường nước lợ và các vùng nước nội địa cùng với hơn 300 loài động vật có xương sống chuyên sống trong môi trường nước, hoặc có chu kỳ sống thích nghi liên quan với các HST ĐNN. Chẳng hạn, thú có 47 loài thuộc 11 họ, 4 bộ; chim có 170 - 180 loài thuộc 42 họ nằm trong 20 bộ; bò sát có 35 loài thuộc 6 họ và hầu hết 162 loài lưỡng cư thường sống và phát triển trong môi trường ĐNN. Trong số này đã ghi nhận 60 loài thuộc diện có nguy cơ bị đe dọa có tên trong Sách đỏ Việt Nam năm 2007 như rái cá lông mượt, rái cá vuốt bé, mèo cá, hươu đầm lầy, voọc bạc, voọc mông trắng, voọc đầu vàng, dơi ngựa lớn, bò biển, cá ông chuông, cá heo, sếu cổ trụi, vạc hoa... Đây là nguồn gen tự nhiên có giá trị bảo tồn cao đang hiện hữu trong các HST ĐNN ở Việt Nam, là nguồn tài nguyên vô cùng quý, là sinh kế sản xuất
sinh học trong môi trường nước.
Tục ngữ có câu "Đất lành chim đậu", các vùng ĐNN Việt Nam từ xa xưa đã hình thành nên nhiều sân chim. Đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng có khoảng hơn 30 sân chim, trong đó phải kể đến các sân chim lớn nhất như: Cà Mau, Bạc Liêu (40 ha), Đầm Dơi (120 ha), Cái Nước (13 ha), Tràm Chim hơn 5.000 ha; sân chim Chi Lăng Nam - Hải Dương (8,3 ha), sân chim Ngọc Nhị - Ba Vì - Hà Nội (4 ha)... Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có ý nghĩa to lớn về khoa học, văn hóa giáo dục và phục vụ du lịch sinh thái, mang lại lọi ích về kinh tế và xã hội. Trong các loài chim làm tổ ở rừng tràm thì loài già đẫy Java có số lượng rất ít, là loài quý hiếm không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với khu vực ASEAN và thế giới. Nhưng hiện nay, Việt Nam chỉ gặp chúng làm tổ ở Vườn quốc gia U Minh, Cà Mau; Loài sếu đầu đỏ cũng là loài chim vô cùng quý ở Đông Nam Á đã xuất hiện và thích nghi với môi trường ở Vườn quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp; Vạc hoa chỉ gặp ở hồ Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - khu Ramsar vừa được công nhận năm 2011; Cò thìa cũng chỉ có ở khu Ramsar Xuân Thủy, tỉnh Nam Định... Nhờ sự định cư và phát triển của các loài sinh vật quý, hiếm, độc đáo này đã là một
nguyên nhân thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế ngày càng đông.
2. Tác động tiềm ẩn của BĐKH đối với ĐDSH trong các HST ĐNN Việt Nam
HST ĐNN là hệ rất nhạy cảm bải sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của tự nhiên và con người, trong khi HST ĐNN của Việt Nam ở một số vùng được xác định quan trọng ở tầm quốc gia và quốc tế như các khu Ramsar ở Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định), Bàu sấu (Đồng Nai), Tràm Chim (Đồng Tháp), khu hồ Ba Bể (Bắc Kạn). Đó là nơi nhằm bảo tồn HST, là nơi cư trú của các loài thực vật, động vật có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn các nguồn gen quý tự nhiên tạo nên sự ĐDSH cao của hệ. Đặc biệt là nơi sinh sống và phát triển của các loài chim có cuộc sống gắn với môi trường nước, nơi dừng chân của các loài chim di cư từ các nước trên thế giói, trong khi BĐKH, thời tiết cực đoan xảy ra ngày càng rõ cùng với tình trạng ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng, hiện tượng chặt phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản cũng như phương thức chuyển đổi sử dụng tốt, nuôi tôm trên cát cho các mục lích kinh tế khác đã và sẽ gây tác lộng xấu đến nơi cư trú của các loài lặc biệt các rạn san hô, cỏ biển, các loài thú biển, chim các loại. Các loài sóc, khỉ, voọc, các loài dơi như dơi ngựa chỉ phân bố ở các tỉnh phía Nam, tập trung nhất là ở Vườn quốc gia U Minh, tại các sân chim Ngọc Hiển, Cái Nước (Cà Mau), dơi, khỉ, sóc và các loài chim nước có tập tính di chuyển nhiều để kiếm ăn và tìm nơi làm tổ. Các loài chim thường chỉ làm tổ trên các cành cây còn các loài dơi ngựa lớn, dơi ngựa Thái Lan và các loài sóc là những động vật sống phụ thuộc vào các tảng rừng và thân cây gỗ để kiếm ăn và nghỉ ngơi. Trong trường hợp có sự tác động của BĐKH, các khu rừng ngập mặn sẽ bị chia cắt, phân mảnh thì khả năng tuyệt chủng của các loài voọc, khỉ, chim, dơi, sóc đỏ, sóc côn đảo, voọc bạc, sếu đầu đỏ, già đẩy... là rất cao, đây là những loài động vật rất nhạy cảm khi yếu tố môi trường và các HST bị thay đổi. Các nhà khoa học cảnh báo rằng, nếu không có giải pháp phù hợp để ngăn chặn, tạo thích ứng kịp thời thì với tình trạng BĐKH hiện nay thì chỉ đến giữa thế kỷ 21 này sẽ có khoảng 1/3
các loài động vật trên thế giới bị đe dọa tuyệt chủng.
Theo các kịch bản dự báo về BĐKH, nhiệt độ trái đất nóng lên, mực nước biển sẽ dâng từ 75 cm đến 1 m vào năm 2100 thì có khoảng 20 đến 30% diện tích vùng thấp đồng bằng sông Cửu Long và 11% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng bị ngập và sẽ có khoảng 78 sinh cảnh tự nhiên quan trọng, trong đó có 36 khu bảo tồn thiên nhiên, 8 vườn quốc gia và 11 khu dự trữ thiên nhiên kể cả các khu Ramsar sẽ bị ảnh hưởng. Có nghĩa là thành phần các loài thực vật, động vật hoang dã nêu ở trên sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp như mất nơi sống, hoặc mất nguồn dinh dưỡng. Chẳng hạn các loài voọc, khỉ, dơi ngựa, các loài sóc, các loài chim ở vùng ĐNN chỉ sống và làm tổ trên các cành cây. Nguồn thức ăn chủ yếu là quả, lá, côn trùng, nhưng khi thời tiết thay đổi, nắng mưa bất thường làm biến động nguồn thức ăn nơi ở sẽ là mối nguy cho sự tồn tại phát
triển của các loài.
3. Đề xuất một số giải pháp ngăn ngừa, thích ứng đối với các loài sinh vật trong bối cảnh BĐKH
- Cần có dự báo cụ thể trên cơ sở khoa học các vùng sẽ bị ảnh hưởng nặng (khoanh trên bản đồ) để có
biện pháp ngăn ngừa, thích ứng khi có khí hậu cực đoan xảy ra.
- Bảo vệ hiệu quả các rạn san hô, thảm cỏ biển những khu rừng ngập mặn còn sót lại hiện nay. Đồng thời, trồng gia cố, chăm sóc bảo vệ diện tích rừng ngập mặn đã được trồng trong những năm gần đây. Đó là nơi sông, trú ẩn của các loài thực, động vật hoang dã, đặc biệt các loài quý, hiếm, các loài có giá trị kinh tế. Quá trình thích ứng của các loài có sự đan xen chặt chẽ của quá
trình thích nghi - tiến hóa của loài và môi trường sống.
- Kiểm soát thường xuyên để kịp thời loại trừ có hiệu quả các loài sinh vật ngoại lai xâm hại (cây mai dương, ốc bươu vàng, rùa tai đỏ) trong HST ĐNN vì loài ngoại lai sẽ xâm chiếm môi trường sống của các loài bản địa, đẩy lùi loài bản địa ra
khỏi khu sinh cư.
- Bảo đảm nguồn nước sạch, lưu thông chống ô nhiễm nguồn nước tại các khu ĐNN của vườn quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên, khu Ramsar trong các vùng miền của đất nước.
- Bảo vệ và trồng thật nhiều cây ven các sông, suối lớn, hồ lớn bằng các loài thực vật ưa ẩm, chịu được các điều kiện thay đổi về độ mặn, tạo hành lang xanh vững chắc để ngăn ngừa và làm nơi thích ứng cho cuộc sống của các loài khi thời
tiết thay đổi thất thường.
Triển khai các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ theo dõi kiểm kê và giám sát sự diễn biến của ĐDSH : thảm cỏ, các rạn san hô, các loài chim, voọc, khỉ, sóc, dơi, các loài thủy sinh vật và các khu
rừng ngập mặn dưới tác động của BĐKH qua từng thời kỳ.
- Xây dựng các tiêu chí hướng dẫn cộng đồng địa phương sử dụng khôn khéo các loài có giá trị kinh tế ở HST ĐNN ở các địa phương.
- Xây dựng một số mô hình phát triển nền kinh tế xanh thích ứng với BĐKH cũng như mô hình bảo vệ rừng ngập mặn, rừng cộng đồng và một số loài động vật biển - đảo
hoang dã (chim, dơi, sóc, voọc, thú biển...).
- Cần có chính sách phù hợp giúp cộng đồng địa phương phát triển nền kinh tế xanh nhằm góp phần cải thiện đời sống tinh thần và vật chất bằng các nguồn tài nguyên vùng ĐNN ở các địa phương (du lịch sinh thái bền vững), nuôi trồng các
loài thủy hải sản có giá trị kinh tế.
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp, Bộ, cộng đồng về vai trò, chức năng quan trọng của HST ĐNN đối với cuộc sống hiện tại và tương lai. Có cơ chế phối hợp đồng bộ các cấp, các ngành có liên quan từ Trung ương đến địa
phương.
Kết luận
HST ĐNN ở Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nguồn tài nguyên ĐDSH, cuộc sống hiện tại và tương lai, sử dụng khôn khéo để duy trì sự bền vững các HST ĐNN là một vấn đề mang tính chất tổng hợp. Với phương châm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế vì lợi ích của cộng đồng phải dựa trên những luận cứ khoa học nghiên cứu về đặc điểm của hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo. Các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương cần phải có chủ trương gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường đồng thời củng cố nâng cao năng lực sẵn có của các HST ĐNN ở Việt Nam. Cộng đồng 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ Việt Nam hãy suy nghĩ và hành động thiết thực để bảo vệ và phát huy những tiềm năng ĐDSH trong các HST ĐNN góp phần ngăn ngừa, ứng phó với hiện tượng BĐKH ở Việt Nam. Đây cũng là hành động thiết thực hưởng ứng Ngày Môi trường
thế giới 5/6/2012.
TẢI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam, 2007. Sách đỏ Việt Nam phần Động vật, NXB Khoa học Tự nhiên & Công nghệ VN.
2. Đặng Huy Huỳnh, 1992. Quản lý và bảo vệ sự ĐDSH ở HST - RNM của Đồng bằng Sông cửu Long - Báo
cáo khoa học - Hội thảo Khoa học Quốc gia UBKHNN, Bộ GD&ĐT.
3. Lê Diên Dực, Hoàng Văn Thắng, 1992. Một số kết quả nghiên cứu bước đầu về chim di cư Khu bảo vệ Xuân Thủy Báo cáo Khoa học Hội thảo Khoa học Quốc gia, UBKHNN, Bộ
GD&ĐT.
4. Mai Đình Yên, 2009. Sơ bộ phân tích tác động của biến đối khí hậu đến ĐDSH và hệ sinh thái cửa sông Hằng.
5.Đặng Huy Huỳnh, 1987. Vấn đề khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật ở đồng bằng sông cửu Long Tạp chí KHKT thành phố Hồ Chí
Minh.
GS.TSKH. Đặng Huy Huỳnh - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật; KS. Nguyễn Minh Đức - Đại học Thủy Lợi. (TCMT 05/2012)
Bộ TNMT tổ chức kỷ niệm 10 năm thành lập và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh
Các nhà khoa học tìm cách sản xuất năng lượng xanh từ năng lượng sóng đại dương
Kinh tế>Nông thôn mới >>Thị trường
ĐBSCL: Nóng bỏng trước vụ mía mới
... Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thành Long, Chủ tịch Hiệp hội mía đường Việt Nam và
đại diện các nhà nhà máy đường trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định thời gian vào vụ cần phải cân nhắc kỹ đảm bảo lợi ích hài hòa giữa bà con nông dân và các doanh nghiệp vì nếu các nhà máy đường vào vụ ép sớm, nông dân thu hoạch
mía non thì cả nông dân và các nhà máy đường đều hoạt động không có hiệu quả.
Về giá mía, ông Nhơn yêu cầu Hiệp hội mía đường cần tính toán lại thật kỹ, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp vì hiện nay giá thành sản xuất
mía tại Hậu Giang cao nhất cả nước, gần 900 đồng/kg. Nếu các nhà máy đường thu
mua với giá 900 đồng/kg thì nông dân sẽ không có lãi...
(ĐBSCL: Ngày 20-8 vào vụ mía mới - Các nhà máy đường ở ĐBSCL vào vụ ép mới từ 20/8... Sớm vậy à? tính toán kỹ hơn một xíu nữa thử xem thế nào. )
|
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 03-06-2012(UTC) Bài viết: 391  Đến từ: NGÕ CỤT Thanks: 154 times Được cảm ơn: 92 lần trong 66 bài viết
|
Kẻ tử thủ dùng hung khí 'tẩm' máu nhiễm HIV
VnExpress.net – Thứ hai, ngày 06 tháng tám năm 2012
"em nhiễm HIV rồi, không thiết sống nữa. Ai vào em đâm chết người đó". Suốt 9 giờ tử thủ, Bình lấy mảnh kính cứa thân thể chảy máu, bôi vào đá
xanh và cây xăm gạo để tấn công cảnh sát.
>> Cạm bẫy khi nữ sinh làm người mẫu ảnh
>> Lại xảy ra cướp tiệm vàng táo tợn tại TP. HCM
Ngày 6/8, trao đổi với VnExpress, Ban chuyên án đánh vào "sào huyệt" của Nguyễn Thanh Bình (41 tuổi, chủ quán cà phê Cội Nguồn) cho biết, suốt 9 giờ thuyết phục Bình là khoảng thời gian “cân não” với sự manh động của gã nghiện ma tuý đã nhiễm HIV. Bình không dễ dàng buông
tay chịu trói mà quyết tử thủ bằng nhiều trò ma mãnh.
 |
Bình đập vỡ kính, cứa vào cơ thể mình rồi lấy máu "tẩm" vào hung khí chống trả cảnh sát. Ảnh: Nguyệt Triều
|
Sáng 5/8, Phòng Cảnh sát phòng chống ma tuý Công an tỉnh Bình Dương phối hợp với Đội Phòng chống ma tuý Công an thị xã Thuận An cùng các hiệp sĩ SBC đã tung lực lượng chốt chặn theo dõi mọi động tĩnh diễn ra
tại quán cà phê Cội Nguồn.
Khi Huỳnh Hoàng Hiếu (20 tuổi, ngụ TP Thủ Dầu Một) vừa mua ma tuý trở ra thì bị các trinh sát ập đến bắt, hai đàn em cảnh giới cho Bình cũng nhanh chóng bị khống chế. Tuy nhiên, Bình đã kịp chạy lên phòng ở lầu một, dùng nhiều hung khí quyết tử thủ. Khi cảnh sát tiếp cận, hắn tỏ vẻ bất cần đời. "em nhiễm HIV rồi, không thiết sống nữa. Ai vào em đâm chết người đó, nhiễm si-da ráng chịu", Bình gào lên khi lực lượng chức
năng cố gắng thuyết phục đầu hàng.
Thiếu uý Lê Văn Tiến, trinh sát đội phòng chống ma tuý Công an thị xã Thuận An cho biết, trong suốt thời gian tử thủ, Bình đập vỡ kính, cứa vào cơ thể chảy máu rồi ném về phía cảnh sát. Hắn cũng lấy đá xanh (đã chuẩn bị sẵn trong phòng) chà vào máu của mình để chống trả. Khi hết đá và kính để ném, Bình dùng cả bình xịt hơi cay hay tiếp tục tẩm máu vào
cây xăm gạo nhọn hoắt đâm lia lịa mỗi khi thấy trinh sát tiếp cận.
Hết la hét, Bình giở "chiêu" ăn vạ khi liên tục dí cây xăm gạo vào cổ doạ sẽ tự tử nếu cảnh sát không rút lui. Anh ta còn đưa ra nhiều yêu sách, lúc thì đòi gặp cha mẹ, lúc đòi gặp Viện trưởng VKSND, khi thì yêu cầu phải đích thân Giám đốc Công an tỉnh Bình Dương đến thương
thuyết...
Không thể kéo dài thời gian, lực lượng chức năng nhận được lệnh phải bắt bằng được kẻ buôn ma tuý manh động này. Một lượng hơi cay vừa đủ được xịt vào trong phòng khiến Bình choáng váng nhưng vẫn cố chống trả. Các chiến sĩ phải dùng khiên che chắn mới không bị cây xăm gạo dính đầy máu của anh ta đâm trúng người. Bình bị khống chế ngay sau đó và được
đưa đến bệnh viện điều trị.
Theo điều tra, Bình quê ở Hải Phòng nhưng thường trú tại phường 1, quận Tân Bình, TP HCM. Nhiều năm nay anh ta nghiện ngập ma tuý rồi chuyển sang mua bán để kiếm tiền "đi mây về gió". Các trinh sát cho
biết, họ đã mất nhiều tháng ròng theo dõi Bình và đồng bọn.
 |
Trinh sát tìm cách tiếp cận Bình. Ảnh: Nguyệt Triều
|
Để bán ma tuý, hắn lôi ruột điếu thuốc lá ra, bỏ heroin vào rồi lại nhét thuốc trở lại. Khi bán, Bình lấy thuốc vờ đốt chút ít rồi trao cho khách để lấy tiền. Các con nghiện nhanh chóng dập tắt thuốc, bình thản mang đi mà không để lại dấu hiệu nghi ngờ nào. Sau nhiều tháng theo dõi và đấu tranh với những kẻ nghiện, cảnh sát mới phát hiện thủ đoạn của
Bình.
Ngoài ra, Bình rất cẩn trọng trong việc bán ma tuý khi luôn cắt cử hai đàn em "chốt" tại cổng chính quán cà phê và cổng căn nhà. Phải lọt qua 2 lần cửa này, "khách" mới lên được lầu một, nơi Bình giao dịch ma tuý. Hắn cũng luôn tuân thủ nguyên tắc "bất di bất dịch" là chỉ bán cho khách quen. Dù người lạ đến mua giá cao hắn nhất quyết không bán. Không ít lần các trinh sát nhập vai làm người đang “đói thuốc”, nài nỉ Bình
bán hàng trắng nhưng đều thất bại.
Hiện Bình đã bị bắt giam để làm rõ hành vi Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý và Chống người thi hành công vụ. Khi kiểm tra ví của Bình, cơ quan chức năng phát hiện giấy xét nghiệm của Viện Pasteur TP HCM hồi tháng 2 với kết quả dương tính HIV. Quá trình bắt giữ Bình, nhiều trinh sát đã bị thương nhưng rất may không phải do Bình dùng vũ
khí có dính máu gây ra.
Nguyệt Triều
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-07-2012(UTC) Bài viết: 52 Đến từ: Miền Trung
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 9 lần trong 7 bài viết
|
Hoạt động mại dâm diễn biến phức tạp
(Tin tức) - Hiện nay, ước tính trên cả nước có khoảng 30.000 người bán dâm. Hoạt động mại dâm đang diễn biến phức tạp với nhiều phương thức hoạt động ngày
càng tinh vi.
Biến tướng
Bà Lê Thị Hà, Phó Cục trưởng Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cho biết: Phương thức hoạt động mại dâm hiện nay rất đa dạng với nhiều hình thức biến tướng; cụ thể như mại dâm tập trung ở các tụ điểm công cộng, trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ trá hình, thông qua môi giới điều hành, mại dâm theo tour du lịch và sử dụng
internet, phương tiện thông tin liên lạc để tiếp thị…
Hoạt động mại dâm với nhiều phương thức trá hình tinh vi. Ảnh: ctv
|
Đặc biệt, hoạt động mại dâm thông qua môi giới điều hành, hình thành các tổ chức hoạt động với quy mô lớn có xu hướng gia tăng và xuất hiện một số đối tượng là người nước ngoài vào Việt Nam hùn vốn thành lập các nhà hàng, khách sạn, karaoke, vũ trường chuyên phục vụ cho người nước ngoài ở các khu chế xuất, khu công nghiệp nhưng thực chất là tổ chức hoạt động
mại dâm như ở Bình Dương, Đồng Nai, TP HCM.
Hoạt động mại dâm theo hình thức “gái gọi” không thông qua môi giới hay sự điều hành của chủ đường dây, chủ nhà hàng, khách sạn cũng có chiều hướng gia tăng. Với hình thức này, gái mại dâm liên kết với nhau hình thành nhóm tự hoạt động, móc nối với các hướng dẫn viên du lịch để cung cấp gái mại dâm cho khách du lịch hoặc móc nối các đường dây hoạt động mại
dâm liên tỉnh để hoạt động.
Bên cạnh đó, tình trạng lừa gạt, cưỡng ép phụ nữ tham gia bán dâm, lừa bán phụ nữ qua biên giới bán dâm, làm nô lệ tình dục xuất hiện ngày càng nhiều. Đặc biệt, tại một số tỉnh, thành còn xuất hiện nhiều đường dây
cưỡng ép học sinh tham gia bán dâm.
Hiện nay, ở hầu hết các tỉnh, thành phố đều có hoạt động mại dâm. Các đối tượng hoạt động mại dâm thường hình thành các tụ điểm nhỏ gắn với cơ sở kinh doanh dịch vụ. Hoạt động này diễn ra phức tạp, nhất là ở các thành
phố lớn như: Hà Nội, TP.HCM, Vũng Tàu, Cần Thơ, Nha Trang.
Tại các tuyến biên giới với Trung Quốc, tình hình mua bán người vì mục đích mại dâm và bắt cóc trẻ em diễn ra rất nghiêm trọng. Trong 6 tháng đầu năm 2012, Bộ đội Biên phòng đã bắt giữ, xử lý 133 vụ với 158 đối tượng, giải cứu 177 nạn nhân trong đó có 16 trẻ em. Tuyến biên giới Tây Nam giáp với Campuchia có khoảng 200 phụ nữ Việt Nam liên quan đến hoạt động
mại dâm ở 47 casino, 35 trường gà bên phía Campuchia.
Hoạt động mại dâm không chỉ xảy ra ở khu vực thành thị, các khu du lịch, nghỉ mát mà còn xảy ra ở cả vùng nông thôn, miền núi. Gần đây, lực lượng chức năng đã phát hiện, triệt phá một số vụ mại dâm ở các huyện thuộc
tỉnh Kon Tum, Đắk Nông, Lào Cai, Bắc Giang…
Bà Hà cho rằng, tình hình mại dâm ngày càng diễn biến phức tạp là do công tác quản lý gặp phải nhiều hạn chế, khó khăn. Thiếu cơ chế phối hợp trong phòng chống mại dâm ở địa bàn giáp ranh cấp tỉnh, quốc gia. Công tác quản lý, cấp phép cho hoạt động kinh doanh dịch vụ còn chồng chéo dẫn đến thiếu hiệu quả trong phòng, chống mại dâm. Thiếu cán bộ chuyên trách về phòng, chống mại dâm ở cấp cơ sở và khó triển khai lực lượng cộng tác viên vì phụ cấp quá thấp. Chính sách, chế độ hỗ trợ tái hòa
nhập cộng đồng cho người bán dâm thiếu và ở mức thấp.
Cần chế tài xử lý đồng bộ
Để hạn chế tình trạng này, bà Lê Thị Hà cho biết: Năm 2012, Trung ương đã bố trí kinh phí hỗ trợ 41/63 địa phương triển khai Chương trình hành động quốc gia, phòng chống mại dâm giai đoạn 2011-2015, với tổng số tiền là 25 tỉ đồng. Theo đó, các địa phương đã sử dụng 30% tổng số kinh phí hỗ trợ vào các hoạt động tuyên truyền, điều tra, truy quét, phá ổ nhóm mại dâm… Đã giáo dục, chữa trị cho 1.440 người bán dâm. Có 50 tỉnh, thành phố đã xây dựng mô hình thí điểm về phòng chống mại dâm và hỗ trợ
người bán dâm tái hòa nhập cộng đồng.
Theo ông Nguyễn Ngọc Thạch, Chi cục Trưởng Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội TP Hồ Chí Minh: Hoạt động mại dâm ngày càng diễn biến phức tạp với những biến tướng, trá hình tinh vi. Tuy nhiên, các quy định mới ban hành lại quá chặt chẽ và không phù hợp với thực tế tại các đô thị lớn. Do đó, Chi cục Phòng chống tệ nạn TP Hồ Chí Minh đã kiến nghị điều chỉnh bổ sung Pháp lệnh phòng chống mại dâm và hệ thống hóa các văn bản pháp luật để đảm bảo tính đồng bộ chặt chẽ, tránh chồng chéo trong công tác
phòng chống mại dâm.
Cụ thể, bổ sung quy định xử lý các hành vi chứa chấp, sử dụng các hành vi khiêu dâm, kích dục làm phương thức kinh doanh tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ. Quy định xử lý mại dâm đồng tính và sớm có văn bản hướng dẫn xử lí đối tượng bán dâm khi quy định không đưa người bán dâm vào các cơ sở chữa bệnh theo Luật Xử lí vi phạm hành chính có hiệu lực. Ngoài ra, tăng cường các chế định và có biện pháp xử lý các vi phạm trên các trang web và blog cá nhân và các hình thức chào hàng môi giới mại dâm trên internet; đẩy mạnh kiểm duyệt và xử lý kiên quyết các đối tượng sản xuất, lưu hành các ấn phẩm phim ảnh có nội dung đồi trụy, độc hại làm
tha hóa thông tin, cổ xúy ăn chơi trụy lạc, kích thích tệ nạn mại dâm.
Hoàng Tuyết-Mạnh Minh
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 18-07-2012(UTC) Bài viết: 83 Đến từ: Tây Nguyên
Cảm ơn: 9 lần Được cảm ơn: 26 lần trong 17 bài viết
|
Tôi đang huân tập
GN - 08/08/2012 09:00 (GMT+7)
 |
Bạn ơi,
Tôi đang huân tập một đức tính: Hễ có ai chửi tôi, nhục mạ, bôi nhọ tôi… tôi sẽ nhẫn nhục không trả lời. Nếu buộc phải trả lời tôi sẽ dùng lời lẽ ôn hòa, không dùng lời thô tục, hung dữ… để trình bày rõ sự việc, để mọi người được biết… mà không
làm tổn thương đến người đang công kích hay thù hận tôi. Đức Phật dạy rằng “Muôn
loài chúng sinh đều bình đẳng”. Nếu con hổ có thể gầm, con sư tử có thể rống… thì con chim cũng có thể hát ca, con suối có thể reo, thậm chí loài côn trùng nhỏ bé cũng có quyền cất lên tiếng nỉ non giữa canh khuya. Ai cũng có quyền cất lên tiếng nói mà không một ai có quyền ngăn cản miễn sao tiếng nói đó
không làm tổn hại tới người khác, không làm xáo trộn sự an vui của cộng đồng.
Tôi đang huân tập một đức tính: Không coi những phim ảnh, báo chí, video bạo lực bắn giết để giảm bớt những ý nghĩ hung ác, những tư tưởng bất thiện đã từ lâu được nuôi dưỡng, ẩn chứa trong đầu óc tôi… đồng thời gieo trồng những chủng tử lành trong A-lại-da thức. Tôi hiểu rằng khi tôi phóng ra một tin tức gì… với đà tiến bộ vượt bực của kỹ nghệ truyền thông hiện đại, tin tức đó có thể được hằng triệu, hằng tỉ người đọc và tác động ngay tới đầu óc của họ. Tôi nghĩ rằng chuyện cậu sinh viên ban tiến sĩ James Holmes đem đủ các loại súng vào rạp chiếu phim ở Aurora, Colorado bắn giết người xem… như trong ci-nê là hậu quả của phim ảnh
bạo lực Mỹ trong đó có phim Batman. Chuyện Anders Behring Breivik 32 tuổi người Na Uy – nơi được thế giới coi như một quốc gia hiền hòa, thánh thiện, sau khi đánh bom tại một cơ sở chính quyền, đã xách súng tới một hòn đảo nhỏ, thản nhiên bắn giết 69 người, làm bị thương 110 người, năm 2011mà đa số họ đều là thanh niên thiếu nữ đang hồn nhiên vui chơi trong một buổi sinh hoạt picnic ngoài trời, theo tôi, là kết quả của những tin tức, những bài báo, những bài bình luận, những hình ảnh, những video … mang tính khích động, xúi giục, kỳ thị, ghét bỏ, loại trừ. Rồi ngày hôm qua 5/8/2012, một cựu chiến binh da trắng Mỹ đã đem súng vào bắn chết 6 tín đồ đạo Sikh của Ấn Độ đang hành lễ ở một ngôi đền tại Milwaukee, Tiểu bang Wisconsin, rồi sau đó bị cảnh sát bắn chết cũng chì vì ông này theo chủ nghĩa “ White Supremacy”   Da
Trắng Là Ưu Việt) - một tổ chức cực đoan kỳ thị chủng tộc.
Ôi cuộc đời thật vô
thường! Đảo nhỏ xinh tươi Utøya của Na Uy nay bỗng dưng biến thành địa ngục. Rạp ci-nê, thánh đường bỗng biến thành phạm trường
bắn giết. Nghĩ cho cùng, tất cả đều do con người gây tạo ra với nhau.
Vì hiểu rằng hạnh phúc khổ đau trên cõi đời này là do chính con người đem đến cho nhau cho nên muốn những điều ác không xảy ra thì ngay bây giờ chúng ta phải làm điều lành. Cũng giống như để cứu một hồ nước nhiễm ô chúng ta không thể quỳ gối cầu xin mà chinh chúng ta phải ngưng xả rác hoặc ngưng ném những chất độc hại xuống đó, đồng thời đưa vào hồ một dòng nước trong mát. Chân lý muôn đời là không thể diệt trừ bạo lực này bằng một bạo lực khác. Không thể có yên bình nếu con người còn tiếp tục nuôi dưỡng và cổ súy bạo lực, kỳ thị, ghét bỏ, loại trừ.
Bạo lực ngày hôm nay chỉ là kết quả của cái nhân xấu của ngày hôm qua.
Tôi cũng còn đang huân
tập một đức tính: Nhìn vương tôn công tử cũng giống như một kẻ hành khất, cung vàng điện ngọc của vua chúa cũng giống như ngôi nhà tranh vách đất, mối tình của công chúa, hoàng tử chưa chắc đã đẹp hơn mối tình của đôi trai gái ở làng quê, đám cưới của siêu sao, người mẫu chưa chắc đã đẹp hơn đám cưới nghèo ở một thôn bản đìu hiu, ông tỷ phủ thì cũng vậy mà người buôn gánh bán bưng cũng vậy, kẻ tri thức bằng cấp cùng mình chưa chắc đã thiện lương hơn bà già mù chữ, kim cương châu báu cũng giống như sỏi đá ven đường, nữ trang đắt giá cũng giống như vỏ sò vò ốc, quần hàng, áo hiệu cũng giống như lá cây che thân
của con người thời tiền sử…
Huân tập như vậy là tôi
nương theo lời dạy của Đức Phật trong Kinh Viên Giác, “Này thiện nam tử! Tất cả chướng ngại là giác hoàn toàn. Chính niệm hay tà niệm đều là giải thoát. Lập được pháp hay phá pháp đều là Niết Bàn. Trí tuệ ngu si đều là Bát Nhã. Bồ Tát hay ngoại đạo thành tựu các pháp đều là Bồ Đề. Vô minh, chân như không giác cảnh giới (Phật). Giới-Định-Huệ và Dâm-Nộ- Si đều là phẩm hạnh. Chúng sinh và quốc độ đồng một pháp tính. Địa ngục, cung trời đều là Tịnh Độ. Có tính hay không tính đều thành Phật đạo. Tất cả phiền não chính là giải thoát hoàn toàn. Bể tuệ pháp giới soi rõ các tướng cũng như hư không. Đấy gọi là tính Viên Giác
tùy thuận của Như Lai”. (1)
Tuy nhiên trong cuộc huân tập đó, thú thực tôi như người lội dòng nước ngược, như kẻ lên thác xuống ghềnh, như kẻ tự cột mình vào
một dây cao-su, một kẻ bị xiềng xích. Có lúc tôi hiu hiu tự đắc tưởng mình đã “đạt
đạo” nhưng thực thế thì “trôi lăn”.
-Gốc tham-sân-si vẫn còn nguyện vẹn đó.
-Lòng căm thù, ý nghĩ ghét bỏ, kỳ thị, loại trừ có từ
bao đời nay không sao dứt được.
-Sự ngã mạn và “cái tôi” với tuổi đời tưởng như
thu nhỏ lại nhưng thực tế lại phình to ra.
-Tôi vẫn còn nuôi dưỡng, ấp ủ và vuốt ve những thói hư
tật xấu của mình.
-Tôi tự an ủi và biện minh cho những lỗi lầm và lơ là
với việc sám hối.
-Tôi luôn luôn có ý nghĩ cho rằng mình đúng còn người
ta thì sai.
-Tôi vẫn cho rằng mình luôn đứng ở phía chân lý còn kẻ
khác là tà vạy.
-Tôi vẫn nhìn đời bằng con mắt nghi kỵ thay vì cảm
thông, tha thứ.
-Tôi vẫn còn nuôi dưỡng lòng hận thù. Hận thù cả những
kẻ mà tôi chưa hề gặp mặt mà chỉ nghe nói trên truyền hình, báo chí, internet.
-Tôi vẫn thích loan truyền những tin tức xấu, hoặc nói xấu người khác hoặc những bài viết xuyên tạc, chia rẽ, đánh phá mà tôi coi đó
như một khoái cảm, một thành tích.
-Tôi vẫn còn thích thủ đoạn dìm người khác để ngoi lên.
Tôi có ý nghĩ sai lầm là “kẻ khác xấu thì đương nhiên mình tốt”. Tôi đâu
biết rằng kẻ khác xấu nhưng chưa chắc mình đã tốt. Ai có phận của người đó.
-Tôi thường tiết kiệm lời khen vì tôi nghĩ rằng khen
ngợi người khác làm giảm giá trị của mình.
-Tôi bóp méo sự thực khách quan theo tình cảm yêu ghét
của tôi.
-Tôi vẫn có ý nghĩ cho rằng đề cao tinh thần vị tha “chín
bỏ làm mười” là tiêu cực, là yếu hèn. Phải dùng sức mạnh để chiến thắng. Tôi đâu biết rằng có những chuyện mà người ta chém giết nhau đã vài ngàn năm nhưng
có giải quyết được gì đâu.
-Những ai có ý nghĩ khác với tôi, lập tức tôi sân hận
rồi coi đó như kẻ thù và không hề có ý tưởng bao dung.
-Cho dù mái tóc đã điểm sương, “lực bất tòng tâm”
nhưng tham vọng của tôi vẫn to lớn, lớn hơn cả như núi Tu Di. Dù ở tuổi “bất
hoặc” tôi vẫn còn “ham vui” tham gia vào những cuộc bênh-chống, nay bạn mai thù, nay khen mai chê, nay ngưỡng mộ mai hạ bệ. Tôi như
đứa con nít, đúng ra như cái chong chóng quay tít trong dòng đời “vô minh và
vọng động” mà không sao chủ động được. Cuộc sống nội tâm của tôi tưởng êm đềm nhưng thật ra như mặt nước dợn sóng, như khỉ chuyền trên cành, như ngựa phi
trên cánh đồng… hoàn toàn nóng nảy, bất an và vô định.
-Dù thế giới văn minh như thế nhưng tôi vẫn thích chém giết, cổ vũ cho sự chém giết và tỏ vẻ vui mừng khi thấy ngàn vạn tấm bom trút lên đầu đất nước mà tôi căm ghét. Tôi không có tư tưởng yêu chuộng hòa bình. Tôi coi cuộc sống, con người của dân xứ đó như những lon đồ hộp, như món đồ
chơi.
-Tôi vẫn còn say mê tiền bạc, ham thích sự sang cả, phù du, ảo ảnh giống như loài thiêu thân lao vào ánh đèn rồi tan tác vì ánh
điện.
-Nói tóm lại, tôi vẫn là một phàm phu tục tử.
Chính vì thế mà sự huân tập của tôi chỉ là một “hành
giả” rất khiêm tốn, một lữ hành miệt mài trên con đường thiên lý có khi gục ngã giữa đường mà không bao giờ tới đích hay có khi chỉ đi lòng vòng rồi trở lại khởi điểm ban đầu, đâu vẫn hoàn đó trong tiến trình gọi là Luân hồi.
Bạn ơi,
Con người mà chúng ta đang sinh sống, cư xử ngày hôm nay là một tổng hợp của thân thế, giáo dục, rèn luyện, hiểu biết… một tích lũy của di sản đúng-sai, yêu thương-hận thù, hoặc sự cọ sát của lịch sử trong quá khứ rồi từng giây từng phút lại bị tác động bởi hiện tại và môi trường chung
quanh.
Trong một xã hội hay một cộng đồng đầy hận thù và bạo lực, chúng ta có thể bị giết hại nếu chúng ta nói chuyện thương yêu, tha thứ. Trong một công đồng đầy tình nhân ái thì bạo lực cũng có thể không có cơ hội nảy sinh hay lộng hành. Do đó, để có một cuộc sống an lành, chúng ta cần nuôi dưỡng
chủng tử lành rồi cùng lúc xây dựng một cộng đồng, một xã hội an lành.
Bạn ơi,
Tôi chỉ là một phàm phu tục tử xấu xa, đầy tội lỗi, đang cố gắng đi trên con đường thiên lý, có thể không bao giờ tới đích. Nhưng cái đích đó chính là chỗ mong ước và cầu xin hằng ngày của cả tỷ con người trên
hành tinh nhỏ bé này: Đó là sự bình an cho cuộc sống của con người.
Bạn ơi, xin đừng nhân danh bất cứ cái gì để phá hoại cuộc sống an bình của con người.
Đào Văn Bình (California nhân Mùa Vu Lan 2012)
(1) Kinh Viên Giác, bản dịch của Cụ Thích Huyền Cơ (Hà Nội 1951) do Phật Học Viện Quốc Tế (Hoa Kỳ) tái bản năm 1997. Đây là bộ kinh chỉ dạy cho hàng bồ tát thượng thủ. Nghe kinh này tất cả đại
chúng phải nhập chánh định.
|
|
|
|
  Danh hiệu: Thành viên gắn bóNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 16-07-2012(UTC) Bài viết: 109 Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 23 bài viết
|
Nhật Bản tổ chức tưởng niệm 67 năm ngày Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki
|
18:01
| 09/08/2012
|
(ĐCSVN) - Ngày 9/8, tại công viên Hòa Bình ở thành phố Nagasaki đã diễn ra lễ tưởng niệm các nạn nhân thiệt mạng trong vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố này cách đây 67 năm với lời kêu gọi xây dựng một nước Nhật Bản không
còn nỗi lo về hạt nhân.
 |
Tượng đài Hòa bình ở công viên Hòa Bình Nagasaki (Ảnh: AFP)
|
Khoảng 5.600 người, gồm cả những người sống sót và gia đình của các nạn nhân trong vụ ném bom đã tham gia lễ tưởng niệm. Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản John Roos và ông Clifton Truman Daniel - một người cháu trai của cố Tổng thống Mỹ Harry Truman (người đã ra lệnh ném 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật Bản là Hiroshima và Nagasaki trong thế chiến thứ
II) cũng tham gia buổi lễ.
Đây là chuyến thăm Nhật đầu tiên của một thành viên trong gia đình cố Tổng thống Truman và được tài trợ bởi tổ chức Di sản Sadako - tên của một nạn nhân bom nguyên tử đã mất vì bệnh bạch cầu ở độ tuổi 12. Ông Daniel, một cựu nhà báo, tuyên bố ông quyết định đến thăm Hiroshima và Nagasaki vì ông cần biết hậu quả từ quyết định của ông mình. Đây cũng là một phần
trong nỗ lực góp phần tiến đến một thế giới không có vũ khí hạt nhân.
Buổi lễ tưởng niệm được bắt đầu tại công viên Hòa bình Nagasaki với nghi thức đầu tiên là bổ sung tên của những người bị thiệt mạng do tác động của quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống thành phố này từ 67 năm về trước. Đúng như tên gọi của nó, quả bom nguyên tử plutonium có tên "Fat Man" mà máy bay Mỹ ném xuống Nagasaki có sức công phá lớn hơn nhiều so với quả bom “Little Boy” ném xuống thành phố Hiroshima trước đó 3 ngày và làm 74.000 người thiệt mạng. Tuy nhiên, hậu quả nặng nề của vụ việc trên vẫn còn kéo dài tới tận bây giờ. Cứ mỗi năm, lại có nhiều người bị thiệt mạng bởi những di chứng nhiễm phóng xạ trong vụ ném bom ngày
9/8/1945.
Hiện tấm bia tưởng niệm ở công viên Hòa bình Nagasaki khắc tên của tổng số 158.754 người thiệt mạng từ những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp của vụ ném bom nguyên tử do Mỹ thực hiện từ năm 1945, trong đó có 3.305 trường hợp được ghi nhận là thiệt mạng trong năm
ngoái.
Sau đó, vào lúc 11 giờ 02 phút (giờ địa phương), ngày 9/8, tiếng chuông ngân vang tại công viên Hòa bình Nagasaki, đánh dấu một phút mặc niệm thời khắc Mỹ thả quả bom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki của Nhật Bản
vào 67 năm về trước.
Trong bản Tuyên bố Hòa bình nhân sự kiện này, Thị trưởng thành phố Nagasaki,, ông Tomihisa Taue đã nhắc tới thảm họa hạt nhân tại nhà máy điện Fukushima Daiichi hồi năm ngoái. Qua đó, ông kêu gọi chính phủ Nhật Bản cần đặt ra những mục tiêu mới trong chính sách năng lượng để xây dựng một xã hội không còn tồn tại những mối lo ngại về chất phóng xạ. Bên cạnh đó, ông Taue cũng cho rằng, chính phủ Nhật bản cần đưa ra những
biện pháp phù hợp nhằm hoàn tất những chính sách kể trên.
Trong lời phát biểu ngày 9/8, ông Taue còn kêu gọi Nhật Bản đóng vai trò tiên phong trong những nỗ lực nhằm xóa bỏ vũ khí hạt nhân trên phạm vi toàn thế giới. Theo quan điểm của ông Taue, cộng đồng thế giới hiện không chỉ cần cấm việc sử dụng vũ khí hạt nhân mà còn cần hạn chế tất cả các công đoạn phát triển hay triển khai loại vũ khí chết người này nhằm đảm bảo rằng, Nagasaki là thành phố cuối cùng trên thế giới phải hứng chịu tình
cảnh bị tấn công hạt nhân./.
|
T.L (Theo NHK)
Kiều bào chung tay xây dựng đất nước - Bài 1: Tuổi trẻ kiều bào hướng về đất mẹ
40 thí sinh tham gia vòng Chung khảo Cuộc thi Hoa hậu Việt Nam khu vực phía Bắc
Dấu ấn đẹp của Kỳ nữ
Vinh danh các hiệp sĩ giao thông
Đảo Cồn Cỏ - Hòn ngọc xanh đang chuyển mình
Đợi cơm
Triển lãm ảnh nghệ thuật"Cảm xúc Trường Sa"
|
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 18-07-2012(UTC) Bài viết: 83 Đến từ: Tây Nguyên
Cảm ơn: 9 lần Được cảm ơn: 26 lần trong 17 bài viết
|
Khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
|
11:22
| 10/08/2012
|
(ĐCSVN) - Việt Nam có đầy đủ căn cứ khoa học, lịch sử và pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
>> Ra mắt hai cuốn sách mới về biên giới, lãnh thổ
Đó là một luận điểm được nêu trong cuốn sách chuyên khảo “Thềm lục địa trong pháp luật quốc tế” do PGS. TS Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm Luật biển và Hàng hải quốc tế, Chủ nhiệm Bộ môn Luật Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Ths. NCS. Nguyễn Hùng Cường, Giảng viên Bộ môn Luật Quốc tế - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đồng chủ biên, được Cục Thông tin Đối ngoại và Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông (Bộ Thông tin và Truyền thông) vừa giới thiệu và phát hành ngày 7/8/2012 tại Hà
Nội.
 |
PGS. TS Nguyễn Bá Diến trả lời phỏng vấn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (Ảnh: ĐT)
|
Các tác giả cuốn sách nêu trên khẳng định, qua các tài liệu lịch sử, địa lý từ xưa đến nay của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ thực sự một cách hòa bình, công khai, liên tục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự có mặt đều đặn của các đội Hoàng Sa do Nhà nước thành lập trên hai quần đảo đó mỗi năm từ 5 đến 6 tháng để hoàn thành một nhiệm vụ do Nhà nước giao tự nó đã là một bằng chứng đanh thép về việc Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó. Việc chiếm hữu và khai thác đó của Nhà nước Việt Nam không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác, kể cả Trung Quốc. Điều đó càng chứng tỏ từ
lâu, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã là lãnh thổ Việt Nam.
Sự công bố chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa trước 50 quốc gia hội viên thành lập Liên Hợp quốc tại Hội nghị San Francisco năm 1951 chứng tỏ rằng, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia
trên thế giới thừa nhận là thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Chủ biên cuốn sách, PGS. TS Nguyễn Bá Diến cho rằng, “đường lưỡi bò” không thể mang lại cho Trung Quốc quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển nằm phía trong đường này theo quy chế của bất kỳ vùng biển nào, kể cả Vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Công ước Luật Biển 1982. Một đường vạch được thể hiện một cách hết sức mơ hồ, đứt đoạn, tùy tiện, không có tọa độ cụ thể, phi khoa học, trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về hoạch định biên giới (ranh giới) quốc gia và nằm cách xa lục địa Trung Quốc hàng ngàn cây số không thể đáp ứng theo các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Nhiều luật gia, học giả và nhà nghiên cứu nổi tiếng thế giới đều nhận định về yêu sách “đường lưỡi bò” là một yêu sách vô lý, hoàn toàn không có cơ sở khoa học, không có giá trị pháp lý quốc tế và không ai có thể chấp nhận
được.
 |
PGS. TS Nguyễn Bá Diến: Việt Nam có đầy đủ căn cứ khoa học, lịch sử và pháp lý chứng minh
chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Ảnh: ĐT)
|
Theo PGS. TS Nguyễn Bá Diến, xét một cách khách quan và toàn diện, dựa trên những căn cứ pháp lý, lịch sử và chính trị, Bức thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ có mục đích nhằm ủng hộ Trung Quốc chống lại chính sách bao vây trên biển của Mỹ trong eo biển Đài Loan, đe dọa tới nền an ninh quốc gia của Trung Quốc vào thời kỳ đó, hoàn toàn không chứa đựng bất kỳ sự từ bỏ nào chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Nội dung bức thư là một sự cam kết mang tính ngoại giao, một hình thức thường được các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ sử dụng để thể hiện sự đoàn kết về mặt tư tưởng với nhau. Từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam cũng như công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trái lại, các chính quyền của Việt Nam từ trước đến nay đều nhất quán thể hiện lập trường khẳng định chủ quyền của Việt Nam cũng như thực hiện việc quản lý liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ căn cứ khoa học, lịch sử và pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi
của mình đối với hai quần đảo này.
Như vậy, lập luận của phía Trung Quốc là không có căn cứ và giá trị pháp lý, trái với luật pháp quốc tế và quan hệ quốc tế cũng như thực tiễn quan hệ Việt – Trung. Những ai đó mưu toan dùng nội dung bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để biện minh cho ý đồ xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam sẽ không thể ngụy biện dưới ánh sáng của luật pháp và công luận
quốc tế.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam ở thềm lục địa và các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, theo PGS. TS Nguyễn Bá Diến, Việt Nam cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp trên các phương diện, cụ thể như: Nâng cao nhận thức chính trị, xây dựng ý thức làm chủ biển đảo cho mọi tầng lớp nhân dân; bên cạnh các chiến lược quản lý, thăm dò và khai thác thềm lục địa, cần hình thành một hệ thống văn bản pháp luật về thềm lục địa đầy đủ, toàn diện, thống nhất; đồng thời, thành lập cơ quan quản lý chuyên biệt về thềm lục địa. Đầu tư thích đáng về vốn và cơ sở hạ tầng; đào tạo nguồn nhân lực đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong các lĩnh vực biển và thềm lục địa. Bên cạnh đó là các biện pháp về chính trị, ngoại giao; hợp tác quốc tế; an ninh – quốc phòng; xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ biển của Việt Nam; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp
quốc.
Thứ nhất, từ lâu, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự và công khai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khi mà các quần đảo đó chưa thuộc chủ
quyền của bất cứ quốc gia nào.
Thứ hai, từ đó đến nay, trong suốt mấy thế kỷ, ít nhất là từ thế kỷ XVII, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện thật sự và liên tục chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ ba, Nhà nước Việt Nam luôn luôn bảo vệ tích cực các quyền và danh nghĩa của mình trước mọi mưu đồ và hành động xâm phạm tới chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ tư, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế cũng như thực tiễn tài phán
quốc tế.
Thứ năm, những quy định của Công ước Luật Biển của Liên Hợp quốc đã thiết lập nền tảng pháp lý quốc tế nhằm ghi nhận quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Như vậy Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển đã cấp “Sổ đỏ” cho các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam, đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình mà không ai
được quyền xâm phạm.
(Trích cuốn sách “Thềm lục địa trong pháp luật quốc tế”)
|
|
Đức Thái - Trường Quân |
Đảng Cộng sản Việt Nam - Tấm gương để noi theo
Triển lãm “Quan hệ hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ: Đoàn kết, hợp tác và phát triển”
Các hoạt động thiết thực kỷ niệm “Ngày vì nạn nhân chất độc da cam”
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 17-07-2012(UTC) Bài viết: 54 Đến từ: Tp. Hà Nội
Được cảm ơn: 14 lần trong 12 bài viết
|
Tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thận trọng
|
16:55
| 10/08/2012
|
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, sắp tới, sẽ tiến hành đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình ở cấp tỉnh, thành phố và đảng ủy, tổ chức đảng, cơ quan trực thuộc Trung ương. Đồng chí Mai Thế Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã trả lời phỏng
vấn báo chí về những nội dung liên quan đến đợt kiểm điểm này.
* Phóng viên: Xin đồng chí cho biết mục đích, yêu cầu của đợt tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"?
* Đồng chí Mai Thế Dương: Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/1/2012 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 4). Đây là Nghị quyết đặc biệt quan trọng nhằm xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và trong nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị, Kế hoạch và các ban đảng ở
Trung ương cũng đã ban hành các hướng dẫn thực hiện Nghị quyết.
Tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình lần này là một trong các giải pháp để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, củng
cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Vì vậy, việc tổ chức phải chuẩn bị chu đáo, chỉ đạo chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng, làm đến đâu chắc đến đó, bảo đảm đạt kết quả thực chất; tránh làm lướt, hình thức, chiếu lệ; khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang cũng như lợi dụng để "đấu đá", trù dập, vu cáo lẫn nhau với những động cơ không trong sáng; nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình hoặc vu cáo. Phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu, phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp, phê bình đúng đắn. Mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự tự giác, trung thực, xem xét, nhìn lại mình để phát huy ưu điểm, có dũng khí tự thấy rõ khuyết điểm và tự mình sửa chữa; phải thực sự cầu thị, khách quan với ý thức xây dựng trong kiểm điểm, tự phê bình
và phê bình.
Việc tiến hành kiểm điểm với phương châm phòng ngừa, ngăn chặn, "trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ, vì sự trong sạch, vững mạnh của mỗi cá nhân, tổ chức và sự nghiệp chung của Đảng; tự phê bình và phê bình phải vừa giữ đúng nguyên tắc, vừa phải có tính thuyết phục, thường xuyên, liên tục, không chủ quan, nóng vội, đồng thời kiên quyết xử lý những trường hợp cố tình không tự giác nhận và sửa chữa khuyết điểm, những trường hợp cố tình bao che sai phạm, khuyết điểm. Cấp trên gương mẫu kiểm điểm trước để cấp dưới noi theo; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau; cấp ủy viên, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm trước, đảng viên kiểm điểm sau; chỉ đạo kiểm tra, giám sát,
hướng dẫn chặt chẽ.
* Phóng viên: Những nội dung trọng tâm trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với tập thể và cá nhân là gì, thưa đồng chí?
* Đồng chí Mai Thế Dương: Khác với nội dung kiểm điểm hằng năm, nội dung trọng tâm kiểm điểm tự phê
bình và phê bình lần này tập trung vào ba vấn đề trọng tâm, đó là:
Thứ nhất, về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; việc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên, của người đứng đầu về tình trạng cán bộ, đảng
viên suy thoái. Đây là nội dung trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Thứ hai, những hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ, nhất là trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển, bố trí cán bộ; tình trạng một số trường hợp bố trí cán bộ không đúng, ảnh hưởng đến uy
tín cơ quan lãnh đạo, quản lý, sự phát triển của ngành, địa phương.
Thứ ba,
những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện nguyên tắc "tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách"; quyền hạn và trách nhiệm cá nhân trong thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, đặc biệt là của người đứng đầu.
Khi kiểm điểm, các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần tập trung liên hệ, làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm chỉ ra nhiều
năm, nhưng chậm được khắc phục, cụ thể là:
Đối
với tập thể: Đã có những chủ trương, biện pháp gì để lãnh đạo, chỉ đạo tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên; việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; trong phát hiện, đấu tranh ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống đối với tổ chức đảng, đảng viên thuộc cấp mình quản lý; về xây dựng đoàn kết nội bộ; việc xem xét, giải quyết dứt điểm những sai sót, khuyết điểm nổi cộm, những vụ việc tham nhũng,
tiêu cực mà dư luận quan tâm, bức xúc.
Trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, việc thực hiện quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ; công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo cán bộ; tập trung kiểm điểm làm rõ những trường hợp bố trí không đúng ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, cơ quan quản lý, ảnh hưởng
đến sự phát triển của ngành, địa phương.
Kiểm điểm việc thực hiện quy chế làm việc; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; trách nhiệm của tập thể trong thảo luận và ban hành các quyết định của cấp ủy, trong việc đề ra chủ trương phát triển kinh tế - xã hội và công tác cán bộ. Đi sâu kiểm điểm trách nhiệm người đứng đầu trong
việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.
Đối
với cá nhân: Tự giác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình căn cứ vào 3 nội dung Nghị quyết nêu và Quy định về những điều đảng viên không được làm. Cá nhân phải tự giác, trung thực soi xét mình về các mặt: tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; có thái độ, tinh thần như thế nào trong đấu tranh, phê phán các quan điểm, việc làm sai, trái Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng? Đã trung thực trong kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kê khai tài sản chưa? Có để vợ (chồng),
con và người thân lợi dụng chức vụ để trục lợi không?...
* Phóng viên: Xin đồng chí cho biết thời gian qua, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư và thực hiện theo thẩm quyền, kết quả thực hiện Nghị quyết đến đâu? Những điểm cần lưu ý để thực hiện tốt đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI)?
* Đồng chí Mai Thế Dương: Thực hiện theo thẩm quyền và nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, thời gian qua, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã làm tốt công tác chuẩn bị cho
việc kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết:
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức hội nghị toàn thể cán bộ, đảng viên Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương để triển khai quán triệt Nghị quyết và các văn bản của các ban đảng ở Trung ương và của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương về thực hiện Nghị quyết.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương xây dựng, ban hành Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW ngày 15/3/2012 về công tác kiểm tra, giám sát và Kế hoạch số
57-KH/UBKTTW ngày 24/4/2012 về việc thực hiện Nghị quyết.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện theo đúng kế hoạch, bảo đảm chặt chẽ, thận trọng việc chủ trì phối hợp với các ban đảng ở Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư gợi ý kiểm điểm đối với một số ban cán sự đảng, đảng đoàn ở Trung ương, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành và đảng ủy trực thuộc Trung ương, một số đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung
ương quản lý.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện việc góp ý đối với các tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; tổ chức lấy ý kiến của các đồng chí nguyên là Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương các nhiệm kỳ trước, ban cán sự đảng, đảng đoàn ở Trung ương, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành và đảng ủy trực thuộc Trung ương và các vụ, đơn vị trong Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương góp ý cho tập thể và cá nhân
các đồng chí thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã và đang tổ chức thực hiện kiểm tra và
giám sát chuyên đề đối với một số tổ chức đảng và đảng viên.
Những công việc nêu trên, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đều thực hiện với trách nhiệm cao, khẩn trương, kịp thời, bảo đảm đúng yêu cầu và kế hoạch đề
ra.
Để việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình lần này đạt được mục đích, yêu cầu đề ra cần lưu ý những điểm sau đây:
Một là, các tổ chức đảng và từng đảng viên phải thấm nhuần quan điểm tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta; nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm điểm tự phê bình và phê bình; tiến hành theo đúng Chỉ thị, Kế hoạch của Bộ Chính trị, hướng dẫn của các ban đảng ở Trung ương và các kế hoạch thực hiện Nghị quyết của các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp đã đề ra; tạo sự thống nhất cao về ý chí,
quyết tâm, thấy hết trách nhiệm của mình đối với Đảng và dân.
Hai là,
đồng thời với việc phân công trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo trong chuẩn bị và kiểm điểm tự phê bình và phê bình phải gợi ý kiểm điểm các tổ chức đảng, đảng viên có vấn đề một cách cụ thể, chặt chẽ; đặc biệt nêu cao tính tự giác, tình thương yêu đồng chí, đảng viên có chức vụ càng cao càng phải tự giác, gương mẫu và nêu cao dũng khí đấu tranh thẳng thắn,
khách quan để làm tấm gương sáng cho dưới noi theo.
Ba là,
mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên cần soi lại mình, tổ chức mình, gia
đình mình xem cái gì tốt thì phát huy, cái gì thiếu sót, khuyết điểm thì
tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình.
Bốn là,
việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình phải được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỷ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng. Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục cho được tình trạng xuê xoa, nể nang; đồng thời nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác. Điều quan trọng phải thực sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình tổ chức đảng, đảng viên và phải cầu thị, tiếp thu, sửa chữa những đóng góp phê bình đúng
đắn.
Năm là,
trong quá trình thực hiện, nếu có tổ chức đảng, đảng viên nào kiểm điểm
tự phê bình và phê bình không đạt yêu cầu đề ra thì phải kiên quyết bắt
buộc làm lại. Đồng thời biểu dương những tổ chức đảng, đảng viên có cách làm hay, thực hiện tốt để phát huy và nhân rộng; nếu phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm phải tiến hành kiểm tra làm rõ và xử lý
nghiêm minh.
* Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
|
(Theo TTXVN)
Nông sản chuẩn toàn cầu
BCT : Thời điểm nhập muối đã chín muồi
Đánh nhau với cối xay gió!
Vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng
Phiên họp thứ 6 Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương
Ban hành nghị định cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ
Kỳ họp thứ 4 Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
Phá rừng phòng hộ Đông Tiến
Tiếp sức “trị bệnh”
|
Sửa bởi người viết 21/08/2012 lúc 12:52:40(UTC)
| Lý do: Chưa rõ
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-07-2012(UTC) Bài viết: 52 Đến từ: Miền Trung
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 9 lần trong 7 bài viết
|
Cho tôi hỏi quý vị một câu: Lý do tại sao đã hơn 3 năm giam giữ do vi phạm Pháp luật nhưng vẫn chưa đưa ra được một bản án??? Họ có mắc tội, họ nghèo, không có tiền hay dù gì đi nữa thì họ cũng là một con người.
Ngày 29/7/2009, Công an quận Gò Vấp, TP HCM thông báo sau một thời gian lẩn trốn, đối tượng Đặng Trần Hưng (Hưng bake, 34 tuổi, ngụ TP Hà Nội, tạm trú quận Gò Vấp) đã bị bắt tại khách sạn trên
đường Thống Nhất, phường 10, quận Gò Vấp.
Xem tin gốc
CAND
- 39 tháng trước
Tôi rất buồn cách làm việc hưởng lương, lậu của một số vị. Nếu như không thể làm tròn công việc của mình thì nên nghỉ cả đi!
Trần Linh An
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 18-07-2012(UTC) Bài viết: 83 Đến từ: Tây Nguyên
Cảm ơn: 9 lần Được cảm ơn: 26 lần trong 17 bài viết
|
BCĐ xây dựng Đề án lấy phiếu tín nhiệm họp phiên thứ nhất
11:04 AM, 19/08/2012
(Chinhphu.vn) - Sáng 19/8, Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn đã họp phiên thứ nhất.
 |
Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê
chuẩn.
|
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu dự phiên họp.
Phát biểu chỉ đạo phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh, việc xây dựng Đề án quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn là hết sức cần thiết, nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”.
Đồng thời, tham mưu, giúp Quốc hội, Hội đồng nhân dân tìm ra các giải pháp khắc phục những điểm hạn chế, bất cập trong quy trình bỏ phiếu tín nhiệm, góp phần thực hiện quy định của Hiến pháp và luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội
đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Việc xây dựng Đề án cũng phù hợp với yêu cầu đã nêu trong Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trong đó, giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng Quy chế về việc bỏ phiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 vào cuối năm 2012.
Mục tiêu của Đề án nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thay mặt cử tri đánh giá, thể hiện sự tín nhiệm của mình đối với người do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, qua đó, tăng cường trách nhiệm của những người này trước Quốc hội, Hội đồng nhân
dân nói riêng và cử tri cả nước nói chung.
Dự thảo Đề án quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn được thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ, khách quan, công bằng,
công khai, chặt chẽ, thận trọng, có cơ sở pháp lý.
Nguồn TTXVN
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-07-2012(UTC) Bài viết: 52 Đến từ: Miền Trung
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 9 lần trong 7 bài viết
|
Trọng dụng nhân tài, mở rộng quan hệ quốc tế
10:09:47 21/08/2012, cập nhật cách đây 1 giờ
(CAND.COM) - Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Cần quán triệt quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ, đồng thời trên cơ sở đó phải có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi cán bộ, trọng
dụng mọi nhân tài, mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế.
Ngày 20/8, Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai kết luận của Bộ Chính trị về đổi mới công tác cán bộ đã khai mạc tại TP Hồ Chí Minh.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị.
Tham dự Hội nghị có các đồng chí đại diện lãnh đạo và Vụ trưởng, Trưởng ban Tổ chức cán bộ các ban Đảng, cơ quan Đảng ở Trung ương, các Bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị sự nghiệp ở Trung ương;
các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương…
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, nêu rõ: Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận của Bộ Chính trị về đổi mới công tác cán bộ cũng là Hội nghị bàn thảo những công việc cần làm ngay về công tác xây dựng Đảng, góp phần sớm đưa
Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) của Đảng vào cuộc sống.
Đồng chí Tô Huy Rứa đã quán triệt những chủ trương, định hướng về đổi mới công tác cán bộ theo tinh thần Kết luận số 24 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XI) của Đảng; khái quát những kết quả đã đạt được, chỉ rõ những tồn tại, yếu kém trong công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ; phân tích rõ nguyên nhân và 6 nhóm giải pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ song song với việc đổi mới đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ, trong đó có nhiều giải pháp nhằm tập trung đổi mới và nâng cao
chất lượng công tác đánh giá cán bộ…
Đồng chí Tô Huy Rứa đề nghị Hội nghị tập trung thảo luận kỹ về giải pháp thực hiện các chủ trương, định hướng về công tác cán bộ nêu trong Nghị quyết của Trung ương và Kết luận của Bộ Chính trị; cho ý kiến vào các dự thảo bổ sung, sửa đổi quy định, hướng dẫn về quy
hoạch, luân chuyển cán bộ và các đề xuất quan trọng khác.
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh Ban Tổ chức Trung ương, các cấp, ngành, địa phương, từ sau Đại hội XI đến nay đã triển khai rất khẩn trương, khoa học, bài bản một khối lượng công việc lớn và đạt được nhiều kết quả trong việc kiện toàn tổ chức, cán bộ; triển khai thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn tổ chức nhân sự sau bầu cử. Ngành tổ chức của Đảng đã tham gia tích cực, quan trọng vào quá trình
soạn thảo, ban hành, triển khai Nghị quyết Trung ương 4.
Theo chương trình, Hội nghị lần này thảo luận, góp ý kiến vào nhiều vấn đề quan trọng, nhiều vấn đề mới, chưa đủ kinh nghiệm như: tiêu chí đánh giá cán bộ; lấy phiếu tín nhiệm; quy định chức trách của người đứng đầu… Trong quá trình thảo luận những vấn đề này, Tổng Bí thư đề nghị các đại biểu cần quán triệt những quan điểm chung, tư tưởng chỉ đạo về công tác cán bộ để thấy rõ tính toàn diện, tính biện chứng,
khó khăn, phức tạp, nhưng hết sức quan trọng của công tác cán bộ.
Tổng Bí thư nêu rõ: Cần quán triệt quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ, đồng thời trên cơ sở đó phải có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi cán bộ, trọng dụng mọi nhân tài, mở rộng quan hệ
quốc tế, hội nhập quốc tế.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: Công tác cán bộ được tiến hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ vì công tác cán bộ là công tác con người, đánh giá, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật..., là vấn đề liên quan đến tâm lý, đạo đức, danh dự, tình cảm của con người, rất phức tạp. Cho nên càng phải bảo đảm tính dân chủ, lắng nghe rộng rãi, đồng thời phát huy trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu. Đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu nhưng phải đặt trong quan hệ với
tập thể, bảo đảm dân chủ, tránh độc đoán.
Tổng Bí thư khẳng định: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị; trong quá trình thực hiện phải có sự phân cấp, phân công, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Đảng với các cơ quan khác trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò của các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội...; lại phải có giám sát, kiểm tra công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Quản lý cán bộ bao gồm cả bảo vệ cán bộ, bảo vệ phẩm chất chính trị, bảo vệ quan điểm, đạo đức, lối sống, bảo vệ chính trị nội bộ, chống tự diễn biến, tự chuyển
hóa.
Về đánh giá cán bộ, Tổng Bí thư nhấn mạnh: Chúng ta đã từng làm, thời kỳ nào cũng làm, nhưng đây là khâu khó, cần có tiêu chí, tiêu chuẩn, cần có thông tin. Nhưng quan trọng là cái tâm, cái tầm của người đánh giá, phải thực sự là những người trong sạch, công tâm, khách
quan, phải có tầm nhìn mới có thể phát hiện, đánh giá đúng cán bộ.
Tổng Bí thư mong muốn Hội nghị đạt kết quả tốt đẹp; đội ngũ những người làm công tác cán bộ của Đảng sẽ tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, cái tâm trong sáng và tầm cao trí tuệ, để công tác tổ chức, xây dựng Đảng tiếp tục đạt nhiều kết quả to lớn hơn nữa
trong thời gian tới.
Trong 2 ngày làm việc (20 và 21/8) Hội nghị sẽ tập trung thảo luận, đóng góp ý kiến vào các vấn đề: xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh, theo hiệu quả công việc và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân; quy định góp ý, lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; quy định thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong đánh giá, quy hoạch, luân chuyển và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; bổ sung, sửa đổi quy định phân cấp quản lý cán bộ và quy chế bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; bổ sung, sửa đổi hướng dẫn về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý...
PV (theo TTXVN)
Hội chứng chào mừng
Trả giá cho “cuộc đua” mừng đại lễ
Thuốc nội "lép vế" do tâm lý sính ngoại
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 17-07-2012(UTC) Bài viết: 54 Đến từ: Tp. Hà Nội
Được cảm ơn: 14 lần trong 12 bài viết
|
Giá trị của độc lập, tự do

Ngày 2 tháng 9 năm 1945 lịch sử
(VOV) - Thành quả lớn lao nhất, vĩ đại nhất mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đem lại là độc
lập dân tộc, nền tảng của tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi con người.
Qua hàng ngàn năm lịch sử, với bao biến cố thăng trầm, hưng vong, với nghìn năm phong kiến phương Bắc đô hộ, với gần 100 năm thực dân đế quốc phương Tây xâm lược, khát vọng độc lập dân tộc cháy bỏng không ngừng
nghỉ trong tâm can mỗi người dân nước Việt.
Khát vọng dân tộc độc lập, nhân dân tự do là khát vọng ngàn đời. Mỗi khi dân tộc bị đe dọa xâm lăng, mỗi khi đất nước bị
ngoại bang xâm chiếm thì khát vọng đó càng cháy bỏng.
Chỉ kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt dân ta làm nô lệ, biết bao cuộc vận động, biết bao cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang nhằm đánh đuổi thục dân Pháp đã nổ ra. Vì độc lập dân tộc mà nhân dân ta không sợ đầu rơi máu đổ, lớp trước lớp
sau, chân tiếp bước chân.
Không chịu nô lệ, không cam chịu nước mất nhà tan, hàng vạn người con đất Việt biết có thể hy sinh, vẫn không chùn bước, vì phía trước là độc lập dân tộc, là thiêng liêng Tổ quốc, là toàn vẹn
lãnh thổ non sông và tự do cho mỗi con người.
Khát vọng độc lập tự do, hơn ai hết, mỗi người dân Việt Nam càng khát vọng hòa bình. Cầm vũ khí để tự vệ, để chống trả, đánh đuổi kẻ thù chỉ là thế đặng chẳng đừng. Chiến đấu tự vệ để bảo vệ nền độc tự do và toàn vẹn lãnh thổ cũng chỉ vì khát khao hòa bình, muốn
có môi trường hòa bình để lo cơm no áo ấm, đắp xây hạnh phúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, là hiện thân của khát vọng dân tộc độc lập, đất nước tự do, con người
hạnh phúc: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong tình thế muôn vàn khó khăn của giai đoạn trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945, Người tiên liệu: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải dành cho được độc lập dân tộc”.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn mang tên Độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Đó cũng chính là ý chí, là khát vọng của cả dân tộc Việt Nam, từ hàng ngàn năm trước, của hôm nay và mai sau...
Giành độc lập dân tộc là vì nhân dân và cũng do nhân dân. Cũng chính nhân dân dùng máu xương, mồ hôi và trí tuệ bảo vệ nền
độc lập dân tộc, bảo vệ quyền tự do.
Nhớ lại, những ngày cuối năm 1946, thực dân Pháp trở lại gây hấn, định cướp nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời
kêu gọi: “Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước... Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.
Cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến suốt 9 năm trường kỳ với bao hy sinh xương máu, làm nên một trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đặt dấu chấm hết cho cuộc xâm
lược gần 100 năm của thực dân Pháp.
Nhớ lại, những ngày Tổ quốc bước vào cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược cam go khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh một
lần nữa khẳng định chân lý: Không có gì quý hơn độc lập tự do... Cả dân tộc Việt Nam lại kết thành một khối, chiến đấu, hy sinh làm nên “trận Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972 và đại thắng mùa xuân
1975!
Giá trị độc lập tự do thật cao quý và thiêng liêng vì được đổi bằng máu xương, mồ hôi, trí tuệ của bao thế hệ người con nước
Việt, của bạn bè chí cốt gần xa...
Dĩ bất biến ứng vạn biến… Bài học lớn đại đoàn kết dân tộc từ cuộc cách mạng tháng Tám 1945 tiếp thêm nguồn trí tuệ và sức mạnh cho dân tộc ta trên mỗi chặng đường đã qua, chặng đường hôm nay và
chặng đường phía trước.
Từ thực tế lịch sử từ ngàn năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêm nghiệm: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Đoàn kết muôn người để dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đoàn kết muôn người như một để công cuộc đổi mới mau chóng thành công, để giữ vững độc lập, thống nhất và chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ.
Đoàn kết muôn người như một thì không sợ kẻ thù nào gây hấn, xâm lấn!./.
|
|
|
|
Tư Vấn HIV
»
Vòng tay cộng đồng !
»
Thêm một góc nhìn
»
Đọc báo giùm bạn (Tin tức khắp nơi - CAND - ANTG - VNCA...)
Di chuyển
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.
|