Rất
nhiều trẻ nhiễm HIV đã và đang bị xã hội kỳ thị từ môi trường sống cho
tới quyền vui chơi, quyền đến trường học tập. Từ thực tế này, đã có
nhiều ý kiến xuất phát từ sự thương cảm có, sự ác tâm có, cho rằng nên
hạn chế quyền làm mẹ của những người phụ nữ nhiễm HIV, để giảm số lượng
trẻ lây nhiễm HIV từ mẹ, tránh cho chúng một nỗi khổ từ trong trứng
nước, cũng như tránh cho xã hội gánh nặng lo lắng.
Quan điểm này cần được nhìn nhận thế nào dưới góc độ pháp luật?.
Bố mẹ nhiễm "H", vẫn sinh con khỏe mạnh
Đã là phụ nữ, ai cũng khao khát được
làm mẹ. Đó không những là thiên chức mà còn là quyền của mỗi người phụ
nữ. Phụ nữ nhiễm HIV cũng vậy. Hai vợ chồng của một tuyên truyền viên
đồng đẳng thuộc nhóm “Vì ngày mai tươi sáng” ở Hà Nội đều nhiễm
HIV. Nhưng trong họ vẫn cháy bỏng mơ ước về một đứa con khỏe mạnh.
Họ biết rằng tỉ lệ lây truyền HIV từ
mẹ sang con là 30% và tinh trùng của người bố có thể được lọc rửa để có
thể sinh được em bé khỏe mạnh. Thế nhưng, khi họ đến nhiều bệnh viện để
đề đạt nguyện vọng này thì đều bị từ chối. Để thực hiện ước mơ của mình
họ đã quyết định chơi “canh bạc” số phận, tự có con như những cặp vợ
chồng bình thường khác. Và, may mắn đã mỉm cười khi đứa con họ sinh ra
hoàn toàn khỏe mạnh, không nhiễm HIV.
Còn nhớ, năm 2005, khi Ủy ban Phòng
chống HIV/AIDS TPHCM thực hiện chương trình Phòng lây truyền HIV từ mẹ
sang con, đã thắp lên ngọn lửa hy vọng được làm mẹ cho rất nhiều người
phụ nữ, hay những cặp vợ chồng nhiễm HIV. Vì nếu đã được dự phòng thì tỷ
lệ lây truyền giảm xuống còn từ 5-7%.
Nhiều người phụ nữ nhiễm HIV khi biết
mình có thai đã định đến bệnh viện để bỏ con vì không muốn con khổ như
mình. Nhưng sau khi được biết đến chương trình Phòng lây truyền HIV từ
mẹ sang con đã bật khóc vì sung sướng.
“Sau khi được chúng tôi tư vấn,
khoảng 98% phụ nữ có HIV đến khám thai tại bệnh viện quyết định giữ lại
thai nhi” – PGS.TS Vũ Thị Nhung, bác sĩ phụ trách chương trình Phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con tại Bệnh viện Hùng Vương - TPHCM, cho biết.
Nói như vậy để thấy rằng, dù bị nhiễm HIV họ vẫn mong muốn được làm mẹ
như những người phụ nữ khác.
Không có sự phân biệt về mặt pháp lý
Hẳn rằng nhiều người chưa quên vụ kỳ
thị trẻ em nhiễm HIV đến trường diễn ra tại trường THCS Yên Bài A, xã
Yên Bài, Ba Vì Hà Nội. Những đứa trẻ nhiễm HIV ở Trung tâm Lao động Xã
hội số 2 đã bị các phụ huynh quây bắt, ngăn chặn như tội phạm để không
cho chúng vào lớp học chung với con em mình.
Hiệu trưởng nhà trường cũng cho rằng
khi xảy ra hiện tượng hai cháu chạy từ hai phía va vào nhau, cả hai cùng
chấn thương, chảy máu, “nếu một trong hai cháu nhiễm HIV thì quả là
nguy hiểm!”. Hay một vị ĐBQH khẳng định rằng sẽ không cho cháu mình học
trường có trẻ nhiễm HIV.
Trong khi đó, số trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS nói chung và bản thân trẻ nhiễm HIV nói riêng đang có chiều
hướng tăng. Từ thực tế này, đã có ý kiến cho rằng nên chăng hạn chế
quyền làm mẹ của những người phụ nữ nhiễm HIV, để giảm số lượng trẻ lây
nhiễm HIV từ mẹ, tránh cho chúng một nỗi khổ từ trong trứng nước, cũng
như tránh cho xã hội gánh nặng lo lắng?.
Khi quan điểm trên được đưa ra, về
mặt xã hội đã tạo ra nhiều luồng tranh luận về tính nhân văn, quyền con
người của nó. Riêng về góc độ pháp luật, quan điểm này bị coi là trái
với những điều luật định, theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, Khoa Pháp luật
Dân sự, ĐH Luật Hà Nội.
Cụ thể, Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 không cấm phụ nữ nhiễm HIV kết hôn thì việc ngăn cấm họ sinh con
là hoàn toàn không hợp tình, hợp lý. Luật Phòng chống HIV/AIDS cũng có
nhiều quy định đảm bảo quyền làm mẹ của phụ nữ nhiễm HIV như: phụ nữ
nhiễm HIV được tạo điều kiện tiếp cận các biện pháp dự phòng lây nhiễm
HIV từ mẹ sang con; phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai cho con bú
được tư vấn về phòng chống HIV/AIDS; cơ sở y tế có trách nhiệm theo dõi,
điều trị và thực hiện các biện pháp nhằm giảm sự lây nhiễm HIV từ mẹ
sang con…
Như vậy, việc người phụ nữ nhiễm HIV
mang thai và sinh con là quyền được nhà nước và xã hội thừa nhận, bảo
vệ. Nhà nước, với các cách thức khác nhau sẽ hạn chế đến mức tối đa việc
lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nhằm đảm bảo cho người phụ nữ nhiễm HIV
không chỉ thực hiện quyền mang thai, sinh con, mà còn có thể thực hiện
quyền nuôi con lâu dài.
Về vấn đề thực hiện quyền nuôi con
lâu dài, theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, người mẹ nhiễm HIV khi ly hôn vẫn
có quyền được nuôi con như những người phụ nữ khác. Tuy nhiên, hiện nay,
vì pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể vấn về này nên mỗi Tòa án có cách
giải quyết khác nhau.
Có tòa xử theo hướng để người cha
không nhiễm HIV nuôi để tránh nguy cơ phơi nhiễm cho đứa trẻ. Nhưng
thường ở những trường hợp này, người mẹ sẽ bị chia cắt với con mình vĩnh
viễn bởi bản thân người bố và gia đình bên nội sẽ ngăn cấm sự thăm nom
của người mẹ.
Có tòa lại xử theo hướng phải tùy
từng trường hợp để xem xét người phụ nữ nhiễm HIV vì nguyên nhân gì, tư
cách phẩm chất ra sao, khả năng tài chính thế nào rồi mới quyết định
giao con hay không. Quan điểm này được đánh giá là có tình có lý hơn.
Tuy nhiên, để hình thành một cách thống nhất, vẫn cần hướng dẫn cụ thể,
bởi đó chính là phương thức hữu hiệu giúp cho người phụ nữ với tư cách
là người mẹ bị nhiễm HIV có mục đích sống rõ ràng và có ý nghĩa nhất.