Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


3 Trang123>
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline SUCSONG@  
#1 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 07:51:31(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

<table cellspacing="0" cellpadding="4" width="100%" border="0"> <tbody> <tr> <td align="left" colspan="2"><span class="pHeadline0" id="dnn_ctr402_NewsDetail_lblHeadline"><font color="#008000" size="5">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; Chết vẫn không lìa (Phần một)</font></span></td></tr> <tr> <td align="left" colspan="2"><span class="tDatePosted" id="dnn_ctr402_NewsDetail_lblDatePosted"></span></td></tr> <tr> <td valign="top" colspan="2"> <table cellspacing="0" cellpadding="0" border="0"> <tbody> <tr> <td></td> <td valign="top" align="left"><span class="pSummary0" id="dnn_ctr402_NewsDetail_lblSummary">Đã lâu lắm chưa có ai dám thuê căn biệt thự ấy. Chẳng phải vì giá thuê cao hay vị thế xấu nếu không muốn nói là ngược lại. Biệt thự Sơn Cúc nằm đơn độc ở cuối con dốc đưa lên một đỉnh đồi, khá thích hợp cho những ai thích sống khép kín, ngại tiếp xúc đám đông. Hai bên dốc ấy dầy đặc những cây dã quỳ mà nhiều người biết là thức ăn yêu thích của bọn nai.</span></td></tr> <tr> <td colspan="2"><br /> <div class="pContent" style="PADDING-RIGHT: 2px; PADDING-LEFT: 2px; PADDING-BOTTOM: 1px; VERTICAL-ALIGN: 2px; PADDING-TOP: 2px; TEXT-ALIGN: justify" align="left"><span class="pContent0" id="dnn_ctr402_NewsDetail_lblContent"> <p align="center"><img height="151" src="http://www.nguoidaibieu.com.vn/Portals/0/Van-nghe/05-Chet-van-14807%20300.jpg" width="360" border="0" /></p> <p align="justify">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Mùa mưa hoa nở vàng đường, xen vào những cụm lá xanh sáng mướt trên nền đất đỏ nâu. Mùa khô cây trụi lá lẫn hoa, đất cũng trắng bạc đi. Mà cả hai mùa đều trông hoang lạnh và buồn vì ít thấy bóng con người vãng lai. Dân trong vùng kể biệt thự là món quà của một ông tướng tặng cho Thủy Miên, cô con gái độc nhất, để làm của hồi môn. Cô yêu hoa, mơ có khoảng đất riêng để trồng hoa, nhưng chưa kịp lớn để có thể rời khu nội trú Domain de Marie về sống với chàng trai mà cha mẹ đã định phận cho cô thì cô chết thảm trong một tai nạn kì bí ở thác Đam Mê mà ông tướng cho đến trước khi chết trên xứ người vẫn không chịu tin đó là sự trả thù từ một nhóm “làm ăn” của một bà tướng khác. Một người bà con của ông tìm cách sang chuyển tên ngôi biệt thự qua cho mình để làm quà cưới cho Thái Hoa, cháu của một quan thượng thư triều đại cuối cùng. Họ về đó trước ngày cưới. Hoa cứ nghe tiếng kêu từ con suối nhỏ sau nhà “trả lại nhà ta” nên từ chối món quà, từ chối luôn cuộc hôn nhân chỉ một ngày trước lễ cưới. Thoát cuộc hôn nhân đó, Thái Hoa cuối đời bỗng trở thành một nữ doanh nhân khá thành đạt, người chồng hụt lại không ổn định tâm thần. Căn biệt thự sang tay nhiều chủ. Gần như hạnh phúc gia đình của những ai từng đến đó ở đều có những rạn nứt suýt đưa đến đổ vỡ nếu họ không nhanh tay bán ngôi biệt thự đi. Điều trùng hợp đó bổ sung những thêm thắt của dân địa phương đưa đến chuyện biệt thự Sơn Cúc có thời gian gần như hoang phế.&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Trước khi Quốc gặp người chủ để nói chuyện về hợp đồng thuê mướn, anh đã nghe được những chuyện này khá đầy đủ, thậm chí có phần tưởng tượng thêm của chủ lẫn khách của quán Cây Hồng. Khi vợ chồng Quốc về biệt thự Sơn Cúc ở rồi, đám người nhiều chuyện đó mới thấy những câu chuyện mang nặng tính khủng bố, đe dọa của họ chẳng ảnh hưởng chút nào tới cặp vợ chồng ngoan cố này. Thông thường, khi tung tin tức thật lẫn hư cấu thêm cho khách mới, đám chủ nhà cũng có khoái cảm thâu nạp thông tin ngược lại từ họ. Quốc không nói nhiều về vợ chồng mình, chỉ buông lửng lơ: “Vợ tôi là người có một không hai, và là lẽ sống của đời tôi”.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Ngày hai vợ chồng mới dọn nhà tới, người vợ ra quán mua thức ăn tối cho hai vợ chồng mang về vì không nấu kịp, bên cạnh một nhan sắc đằm thắm như loại rượu ngọt ngấm chậm, say lâu, mọi người còn thấy người vợ có giọng nói êm ngọt dịu dàng khác hẳn với lối nói lạnh lùng, nhát gừng của chồng; một giọng nói mà ai cũng thấy, sau một ngày làm việc mệt nhọc về, chỉ cần có người thủ thỉ những lời êm ái như vậy thì bao nhiêu phiền muộn ắt hẳn cũng sẽ tiêu tan ngay. Hèn chi người chồng cứ khẳng định vợ mình là lẽ sống, và là vưu vật không có cái thứ hai trên cõi đời này. Năm Dao, chủ quán Cây Hồng có cơ hội quan sát kỹ hai vợ chồng nhất, còn cho thông tin, chồng là loại có tròng mắt màu đen, tinh khôn, tỉnh táo; trong khi đó vợ một màu nâu biếc trong ánh nhìn, loại màu mắt của những người mộng mơ, dễ tin, nếu không muốn nói là dễ bị gạt. Hiện họ chỉ biết chồng tên Quốc, còn vợ thì họ chưa dám hỏi tên, chỉ tạm gọi đó&nbsp; là chị Quốc, theo tên chồng.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Một điều chắc chắn là hai vợ chồng chưa có con. Có trẻ thì dễ biết lắm, sống kín đáo cách mấy cũng phải thấy thấp thoáng sự có mặt của chúng qua các nhu cầu mua sắm. Họ có chiếc xe hơi, thường là chồng lái đi làm xa từ sáng sớm, chiều tối về. Cũng có khi chồng dùng chiếc xe hai bánh, nhường xe cho vợ đi chợ. Họ thường đi chợ một ngày cho cả tuần. Họ ăn uống khá đạm bạc, mọi nhu cầu mua sắm khác cũng không tiêu tốn nhiều. Có vẻ thu nhập chính trong gia đình chỉ do người chồng, chị Quốc là một người nội trợ đúng nghĩa. Chị sống và chiều theo mọi sở thích của chồng. Tự tay trồng những khóm hoa lạ cho chồng, làm cỏ, xén cây cũng lúc thúc một mình làm, thi thoảng lắm, ví như có một cơn bão đi qua, chị mới phải thuê mướn thêm người ngoài đến phụ một tay dọn vườn hoa sau cơn bão. Tay làm vườn không có ý dò hỏi, nhưng tình cờ qua trao đổi, hắn biết được người chồng làm ở Viện Hạt Nhân cách đó cả mấy chục cây số. Một chi tiết hắn biết nữa là Quốc thích ăn bánh căn, một loại bánh của vùng Nam Trung Bộ, đổ trong khuôn như bánh khọt nhưng không bỏ nước dừa và ăn với nước cá kho hay nước mắm đâm tùy thích. Hắn cũng được chị Quốc mời ăn thử những chiếc bánh nóng đầu tiên của chị đổ thử. Chị có vẻ buồn lo khi hôm đó chồng đi làm về trễ, chỉ bởi vì lý do bánh ấy ăn nóng mới ngon.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Nhưng chị ta đổ bánh có... ngon như nhan sắc của chị không? - Một trong những thực khách ở quán Cây Hồng hỏi.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Bánh mặn mòi vì có mùi cá mắm. Tui chỉ biết là giọng bà chủ ngọt như chén chè đậu ván nước mà chị cho tui ăn tráng miệng trước chồng.&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Tay Quốc này có phước dữ. Đã có vợ đẹp còn biết nấu ăn ngon.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Bẵng đi một thời gian, không thấy Quốc lái xe hơi đi làm. Có người còn nói chiếc xe hơi đã bán. Thật ra thì chiếc xe vẫn còn đó, thỉnh thoảng mới được dùng. Chiếc hai bánh thì được dùng nhiều hơn. Chẳng hiểu Quốc quen biết với ai trong ban giám hiệu Trung tâm Anh văn mà anh được mời dạy cho một trong các lớp đêm mới mở cho tiện giờ những ai vừa học vừa làm. Có mấy người tới quán Cây Hồng để hỏi thăm thêm về tông tích của thầy Việt Quốc. Qua trao đổi, Năm Dao có thể kết luận sơ là Quốc được khá nhiều học viên nữ lẫn nam “thầm yêu, trộm nhớ”, bởi những người tò mò về đời riêng của Quốc luôn tuyên bố là chị vợ của Quốc mới là người có phước. Họ chỉ than phiền về Quốc một điều độc nhất: thầy có vẻ yêu cô quá, lúc nào cũng ca ngợi cô. Yêu tới độ gần như chưa bao giờ nhận lời đi uống nước riêng với học viên. Học viên xin tới nhà chơi cũng lắc đầu, vợ tôi cần yên tĩnh để sáng tác.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Năm Dao à lên thú vị khi biết chi tiết này. Hóa ra người đẹp đó là một người sáng tác. Nhưng sáng tác gì? Văn thơ, nhạc, họa? Quốc chưa nói rõ mà học viên cũng chưa dám hỏi thêm. Tụi nó không dám hỏi thì mình hỏi. Năm Dao chờ cho tới ngày Quốc ghé vô cây xăng gần quán Cây Hồng đổ xăng thì Dao làm như tình cờ đi ngang xin mồi thuốc.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Xin lỗi anh, tôi không hút thuốc, và càng không hút&nbsp; thuốc ngay cây xăng đang đổ như vầy.<br />Đùa với thầy chút thôi, tại đang quá ái mộ cô, đang định nhờ thầy về xin giùm cho con gái lớn của tui một chữ ký.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cô ấy có xem tranh của vợ tôi à? Nam có bao giờ triển lãm đâu, chỉ tặng cho bạn bè và đôi khi nhận tiền tượng trưng thôi, gọi là để mua lại sơn dầu.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Hình như cô đâu chỉ có vẽ tranh? Năm Dao dò thêm.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Nhưng loại truyện của Nam thì tuổi trẻ không ưa, tuổi già không thích. Ngó bà xã tôi hiền như vậy chớ đọc truyện của Nam nhức đầu lắm.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Khi viết cô cũng ký tên Nam sao?<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Ký ngắc nghéo là Hường Trâm. Đố anh biết tại sao?<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Chắc cổ thích màu hường và các loại trâm cài, tại thấy cổ có mấy cây kẹp tóc màu hồng.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Anh biết nói lái không? Hường Trâm là Trầm Hương. Mà Trầm Hương với cái tên thiệt Kỳ Nam của cổ là bà con cùng họ gỗ quý.&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Vậy cô xuất bản được mấy cuốn rồi thầy?<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Chưa xuất bản cuốn nào. Hy vọng hè tới, mới ra cuốn đầu.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Rồi Quốc trở lại vẻ lạnh lùng thường thấy, xin lỗi kiếu đi. Nhưng thông tin do Năm Dao mạnh dạn hỏi thẳng người đàn ông này thì thu được khá nhiều. Vậy là chị Quốc tên thật là Kỳ Nam, vẽ tranh chỉ lấy lại tiền mua dầu, hè này in cuốn sách với tên tác giả là Hường Trâm. Chờ sách in ra đi, thế nào chuyện hạnh phúc hay đau đớn đời riêng gì đó trong đó chứa hết. Kinh nghiệm nhiều độc giả cho biết, đàn bà ưa lấy đời họ hay đời bạn bè bỏ trong tác phẩm của họ. Như bà Hồ Xuân Hương đó, bà đã chém cha cái kiếp lấy chồng chung, chẳng phải&nbsp; xuất phát từ chuyện bà bị làm thiếp mãn kiếp chớ không được lên hàng thê như những người đàn bà bất tài khác sao? Từ câu suy diễn đó của Năm Dao, có người đoán thêm, không chừng nàng Kỳ Nam này là vợ bé? Có vậy nên thầy chẳng thích cho ai đến nhà, và gần như chưa ai thấy được cảnh hai vợ chồng sóng đôi âu yếm đi ra ngoài với nhau một lượt.&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Trong lúc chờ mùa hè đến, các học viên vẫn tiếp tục thọ giáo và tiếp tục say mê thầy Việt Quốc. Một trong những điểm lợi học viên có được là nhờ mê thầy mà họ học sinh ngữ mau tiến bộ hơn so với khi học với những thầy cô khác. Thầy Việt Quốc có vẻ như một người đã đi và đọc nhiều, nên gần như chuyện gì thầy cũng biết, ít gì thì cũng nhiều hơn những thầy lẫn trò của vùng đất có nhiều cây hoa cúc núi này. Thầy kể chuyện Phi châu, về đỉnh núi Kilimanjaro trong truyện của Hemingway mà thầy đã ghé đến; chuyện Hồ Quý Ly đã cho giết dân của cả ba làng gần thành nhà Hồ ngoài Thanh Hóa chỉ vì họ đói quá mà dám làm thịt đến voi của ông; chuyện ở Nhật có tục lệ cõng mẹ cha lên núi bỏ nếu ông bà sống lâu quá cháu con không nuôi nổi, nếu ngày đó có tuyết rơi càng là đại phước vì cha mẹ sẽ mau đi; chuyện ở Quảng Trị cũng có một làng cha mẹ cũng sống thọ và cũng nghèo như vậy, và lạ lùng thay trong làng ấy xuất hiện khá nhiều văn tài; chuyện nhà tù vùng Nam California có ghi ba thứ tiếng: Anh, Mễ, Việt vì thường số tù nhân người Việt trong đó chiếm khoảng một phần ba. Thầy còn kể thêm, cho đến bây giờ bọn các nước khác vẫn sợ kiểu đánh tàn bạo một cách lạnh lùng, tận lực cho đến nạn nhân hay đối thủ “đứt bóng” luôn của các băng đảng Việt, đến độ họ truyền tụng nhau thành ngữ go Vietnamese để chỉ về cách chém giết nhau một cách ruthless của các băng đảng Việt Nam. Một học viên giơ tay hỏi vậy dịch mấy chữ, go Vietnamese, ruthless này sao thầy? Thầy Việt Quốc lại yêu cầu tụi nó xóa đi, coi như thầy chưa nhắc tới. Tụi nó tự dịch lấy là “chơi kiểu Việt Nam” cũng như tự dịch ruthless là “không hề thương xót ”.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Dù thầy tuyên bố công khai có chuyện gì cứ chờ giờ lên lớp mà hỏi, không đi uống nước bên ngoài, không tiếp học viên ở nhà, nhưng thầy đâu có cấm gặp cô. Nên có nhiều cô ái mộ thầy quá, cũng tìm cách canh khi thầy không có nhà để tìm cách gặp riêng cô. Mà các cô đi ít thì cũng ngại lộ chuyện... quá mê thầy, nên thường rủ rê đám con trai theo. Như đợt đó biết thầy có việc đi xa, một mình. Canh vài ngày sau, chúng nó đến giật dây chuông ngôi biệt thự mang cùng nó lời nguyền phân ly với tên một loài hoa xứ núi. Đích thân Kỳ Nam, nữ họa sĩ, kiêm văn sĩ, kiêm vợ của người thầy mà chúng nó ái mộ, bước ra mở cửa. Ngay từ giây phút đầu tiên, nụ cười mê hồn của cô Kỳ Nam đã như một làn điện mạnh đánh thẳng vào những trái tim bé nhỏ của bọn con trai. Ngược hẳn với thầy, cô hiếu khách bất ngờ khi đưa tụi nó đi xem tranh cô vẽ. Bức tranh lớn cuối phòng là tấm tranh có lẽ chụp từ bức ảnh thật, Kỳ Nam đứng trong vòng tay ôm của chồng, sau lưng họ là thác Đam Mê. Ngọc, một cô học viên yêu sâu nặng thầy Quốc trong một mối tình ảo do cô tự vẽ ra, chợt buột miệng:&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cô có nghe chuyện cô chủ đầu tiên của biệt thự Sơn Cúc này chết ở ngọn thác đó không?<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cô Kỳ Nam cười kỳ bí:<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Đừng tin những người nào nói cô Thủy Miên đó bị sảy chân. Cổ bị xô vào lòng thác.<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cả đám xúm lại, nhao nhao:<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cô nghe tin từ đâu vậy? Từ ông Năm Dao phải không?<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cô Nam múc cho mỗi đứa một chén chè:<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Nhà này mỗi ngày đều có ba loại chè khác nhau. Hôm nay cô chọn trôi nước, hạt sen và táo xọn. Dùng đi rồi cô kể cho nghe, chính Thủy Miên về đây thăm nhà kể cho cô nghe, người ta chết trẻ lại là trinh nữ nên không nói oan cho ai đâu.&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Cả đám nhìn nhau, không đứa nào dám đụng muỗng vô chè, rồi kiếm cớ biến đi. Đêm đó có đứa về nằm mơ thấy cô Kỳ Nam, khi cô nhoẻn miệng cười, hệt như đóa mẫu đơn trong vườn nhà cô chuyển từ mãn khai sang hàm tiếu, nó kể lại cho bạn bè nghe rằng bây giờ mới nhớ, bên má của cô cũng có một chút đồng tiền duyên dáng y như thầy. Sau đó, thầy Quốc đi dạy lại, có ý phiền chuyện học viên tới thăm khi không có thầy ở nhà, thầy cho biết, phần cô sau khi khách rời nhà cũng trằn trọc chuyện riêng ngưng sáng tác mất mấy ngày. Tụi nó lại đoán già đoán non chuyện riêng đó chắc là chuyện thầy cô không có con lẫn bà con thân thích, sống cô quạnh đời riêng ở một thị trấn miền núi hoang vắng con người. Có đứa cãi, lỡ họ thích vậy thì sao? Bằng cớ là thầy không thích gặp riêng ai, không muốn cho mình tới chơi. Đứa cãi lại, thầy là vậy nhưng cô lại trái ý đó thì sao, ví dụ như mỗi ngày cô làm ba món chè khác nhau đâu phải chỉ cho chồng ăn mà còn mong có khách đến để trổ tài nữ công gia chánh.&nbsp;<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;Hôm bế giảng khóa học, trường làm tiệc lớn chia tay nhau trước hè, có viết thiệp mời thầy Việt Quốc và cô Kỳ Nam. Thầy cho biết cô sẽ mang thức ăn tới góp chung vui, nhưng phải cho thầy biết chính xác khoảng người đến dự để không ai thiếu phần. Thiệp ghi bảy giờ, cô đà tới lúc năm giờ, đem theo cả cái lò điện để nấu nước nhưng cho nóng. Món cô đãi mọi người hôm đó là món Mì Quảng, nhưng nấu theo kiểu vùng biển mà cô khoe đã sống qua, khác xa kiểu Mì Quảng của ngay gốc xuất phát của nó là vùng Quảng Nam. Cô chỉ cho Ngọc cách xếp mọi thứ vào tô rồi bày thịt, tôm, vịt, giò, rau húng, giá hành trụng, chan nước vô ra sao, rồi cô về trang điểm thay đồ. Ngọc thầm nghĩ, may mà cô chưa trang điểm còn đẹp vầy, cô thêm phấn son vô nữa khối người mê đừng nói gì thầy Việt của tụi nó. Ngọc cũng hỏi về cuốn truyện sắp phát hành của cô. Cô hứa sẽ ký tặng cho Ngọc một cuốn nhưng có nói trước là hơi khó đọc. Thầy Việt đến khá đúng giờ nhưng chưa đi cùng cô. Thầy nói cô phải chỉnh gấp bản thảo một chút theo yêu cầu của nhà xuất bản rồi sẽ tới sau hoặc không đến nếu không sửa kịp. Thầy hãnh diện ra mặt khi ai cũng khen nức nở tài nấu mì Quảng của cô. Nhiều nhân vật quan trọng của vùng cố đến dự chỉ để ngó mặt cô. Mãi đến khi tiệc gần tàn cô Kỳ Nam mới lót tót tới. Cô xin lỗi vì công việc đột xuất nên đến quá trễ, nhiều người đợi không được đã về. Ngay cả chồng cô cũng về rồi vì thầy Quốc bị Ngọc quýnh quáng làm văng nước nhưng mì Quảng vào bộ đồ màu xám tối của thầy. Những người ở đến cuối tiệc thấy không uổng công chờ. Xuất hiện trong đêm, Kỳ Nam càng diễm lệ hơn. Tóc bới cao, ngó cô sang trọng mà vẫn không mất chất trong sáng, ngây thơ bởi đôi mắt mở to. Cô bận chiếc áo dài màu than đen bằng một loại tơ lạ. Cổ đeo chiếc vòng trúc uốn màu ngà, miếng đồng gắn giữa là tượng Phật Quan Âm bằng đá nâu. Điều cần nói là một mùi hương lạ vương khắp bước chân Kỳ Nam lướt đi. Người nói đó chỉ là mùi cỏ về đêm, sau cơn mưa. Người cho đó là mùi hoa trên đỉnh núi pha trong hương nước suối trên nguồn. Chỉ có Ngọc thấy giống mùi nước hoa có tên Mata-Hari mà anh họ nó mang về từ Đức. Nhưng mùi gì đi nữa, cô Kỳ Nam cũng đã hứa sẽ cho nó sách của cô trong kỳ xuất bản đầu tiên; và cô cũng không xóa được chút nào tình yêu của Ngọc dành cho thầy Việt Quốc thậm chí còn tăng lên gấp đôi. Nó cũng mới khám phá thêm một điểm mới trong nó: nó yêu cả hai vợ chồng.</p> <p align="right"><strong><em>Nguyễn Thị Minh Ngọc</em></strong><br /></p></span></div></td></tr></tbody></table></td></tr></tbody></table>
Quảng cáo
Offline SUCSONG@  
#2 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 07:52:49(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Chết vẫn không lìa (Phần cuối)

Cuốn sách của Kỳ Nam qua tên Hường Trâm không được mọi người đón nhận nồng nhiệt như Ngọc mong ước. Người cao thì chê Hường Trâm để lẫn vào nhiều đoạn bình dân, người thấp cho rằng có quá nhiều đoạn nhân vật của Hường Trâm như khùng (hay chính tác giả khùng?) chen vào câu chuyện đơn giản những ý tưởng tên tuổi nào đó trên trời dưới đất, thậm chí tin xe cán chó, voi điên, bão lụt các miền, cầu gãy, học sinh trôi, bồ câu bị thảm sát nhưng dàn cảnh như một màn tự sát tập thể cũng nhét vô.

      Đó là một câu chuyện có thể kể trong vài dòng nhưng Hường Trâm kéo ra được tới vài trăm trang. Có gì đâu, một anh kế toán trưởng chuyên làm ăn chân chính, khi đổi về xí nghiệp ngành dược đó thấy sổ sách làm ăn dơ quá. Biết trước nói yes hay no với họ đều cũng chết, anh ta chọn một nhà báo có uy tín mà mình tin tưởng để giao hết tài liệu chỉ với một điều kiện, làm chứng giùm là anh vô tội. Không những nhóm lãnh đạo của xí nghiệp đó sập mà nhóm điều hành tỉnh cũng xính vính, bay chức khá nhiều ông theo. Tuy vậy anh kế toán trưởng cũng chỉ giảm được án từ chung thân khổ sai sang thành án hai mươi năm. Anh nhà báo kia không đủ lực để giữ lời hứa nên hoá khùng. Trong lúc người vợ của anh kế toán thì cố xoay nhiều nghề kiếm sống và kiên tâm đợi chồng. Truyện dứt khi anh cựu nhà báo khùng gặp người vợ thoăn thoắt chạy gạo khắp nơi. Chị vợ cho biết đã hóa đá tới đầu gối, nhưng chị vẫn phải dùng đôi chân hóa đá đó để cố nuôi cho vào đại học hai đứa con mơ mộng, một ước sẽ sang Mỹ học ngành đạo diễn phim, một đứa làm luật sư để cãi thí cho những người không đủ tiền đóng án phí.
      Nhóm quán Cây Hồng mang kính hiển vi ra soi cuốn Mãi đến chết mới phân lìa đôi ta để xem có khúc đời nào có vẻ giống đời Quốc và Nam trong đó không. Họ không tin Quốc là anh kế toán, cũng không tin Nam là người vợ đã hóa đá tới đầu gối. Họ đoán già đoán non có thể Quốc hay Nam là tay nhà báo có uy tín nhưng không giữ được lời hứa kia. Không biết được gì hơn cuộc sống của cặp Việt Quốc -Kỳ Nam nầy, họ đành chờ đợi thêm những tác phẩm khác của Hường Trâm vậy.
      Một điều nữa không ai nói ra nhưng trong thâm tâm những người sống trong vùng đó đều có một mong chờ khá ích kỷ, họ đợi ngày bất hạnh, chia lìa sẽ đổ xuống đời cặp này như bao người đã gặp khi đến cư ngụ trong ngôi biệt thự mà họ cho là đã bị nguyền rủa đó, dường như có vậy thì họ mới giữ được uy tín khi đi rêu rao những mẫu thảm kịch của những cặp sống qua trước đó.
      Mùa thu năm sau, khóa mới học với thầy Quốc cũng say mê thầy không kém khóa trước, thậm chí có phần hơn. Trò mê thầy bao nhiêu thì thầy càng vừa như vô tình, vừa cố ý gián tiếp cho mọi người thấy là mình đã yêu vợ biết dường nào. Kỳ Nam thỉnh thoảng đạp xe ghé phố chợ mua sắm. Họ ít dùng xe hơi hơn vì Nam nói với Năm Dao, đang ở nơi có không khí trong lành như vầy, tội gì không đi xe đạp, vừa để hưởng, vừa để đẹp dáng người. Ngày phụ nữ Việt Nam, người ta đọc được trên báo Phụ Nữ Mới những vần thơ ca ngợi “hiền thê Kỳ Nam, người đàn bà vẽ” ký Việt Q. với lời lẽ âu yếm, trân trọng mà các cô vợ đọc lên đều thấy rưng rưng, ước gì chồng yêu mình chỉ bằng một phần của anh chàng Việt Q. đó. Học viên đem vào lớp hỏi phải Việt Q. là thầy không, thầy chỉ trả lời bâng quơ: Hy vọng ngoài vợ tôi ra, hiếm người có tên Kỳ Nam và vẽ được. Sách của người đàn bà viết Hường Trâm không bán được nhưng tranh của người đàn bà vẽ Kỳ Nam vẫn thấy có khách tới chở đi. Thiên Ngà, một phụ nữ giàu có, từng ở ngôi biệt thự này, cho biết mua bức Yêu em vượt chết chỉ vì cảm những vần thơ tặng vợ của Việt Q. Bà hẹn mấy lần đều không gặp được Việt Quốc, chỉ có Kỳ Nam ra tiếp. Với những ai khen bức tranh choán gần hết bức vách thư phòng của bà, bà Ngà rêu rao rằng bà nghi là nàng Kỳ Nam này coi vậy chớ có máu Hoạn Thư, hình như nàng sợ ai thấy chồng mình cũng muốn chiếm hữu ngay nên giấu biến anh chồng không cho khách mua tranh vì yêu thơ muốn gặp.
      Các cô nhỏ ngày càng kiếm trò để tấn công thầy mạnh hơn. Việt Quốc cũng có cách của mình. Nhiều hôm anh cho lớp chép những câu trong những tấm thiệp mà anh yêu. Quốc cũng công khai cho biết đó là những câu anh nhặt khắp nơi về chỉ để ghi trong thiệp tặng vợ hằng tháng. Ví dụ như: 
      - No one knows my lonely heart when we’re apart... (Đâu ai biết lòng tôi cô đơn khi chúng tôi chia lìa…) 
      - All I want... is to love you for the rest of my life...
to wake up every morning with you by my side
      All I want... is to grow old with you... to watch our life unfold,
our dreams, one by one, come true. (Tôi chỉ muốn… yêu em suốt phần đời còn lại, mỗi sáng thức giấc có em bên tôi. Tôi chỉ muốn… sống cùng em đến bạc đầu, cùng nhìn cuộc đời trôi qua, và thấy những ước mơ của chúng mình dần dần trở thành thực.)
      - ...
      Khóa mới này, "fan" số một của thầy Việt Quốc là Diễm. Chỉ có Diễm mới đưa tay lên có ý kiến. Có một câu Diễm rất thích nhưng chờ mãi không thấy thầy ghi. Đó là câu người ta thường nhặt trong kinh thánh và cho vô thiệp cưới... “until death do us apart”. Quốc lặng một chút rồi bình thản trả lời, vợ tôi đã lấy đó làm tựa cho cuốn tiểu thuyết đầu tiên rồi. Sau đó, anh không đả động gì tới những câu thơ tiếng Anh thường được ghi trong thiệp nữa. Sau đó anh nghỉ dạy. 
      Học viên ghé thăm chỉ gặp Kỳ Nam. Cô cho biết chồng được người bạn thân mang đi khám bệnh hằng năm. Chuyện đó thường thôi. Sống ở nước ngoài thì chuyện khai thuế với khám bệnh định kỳ năm nào cũng phải làm. Diễm dấn hỏi thêm, vậy thầy cô là Việt kiều à? Mà là Việt kiều nước nào vậy? Kỳ Nam cười kỳ bí, thử nhìn và đoán coi, chúng tôi đã đi qua những nước nào?
      Có một căn phòng riêng hai vợ chồng bày trong đó nhiều món “lượm” về từ một quốc gia nào đó, chiếc nón, lưỡi dao, hòn đá, chiếc ghế, mẫu tranh nhỏ, chiếc khăn san, chiếc đĩa, bộ tách, cặp hoa tai, lá bùa, mẫu đồ chơi cho trẻ con... Họ đã đi qua các nơi chứa những thứ đó hay mua lại từ ai? Không ai dám hỏi thêm khi Kỳ Nam thở dài. Chiếc lúm đồng tiền trên má không còn thấy nữa. Anh ấy khám xong là đến tôi. Chỉ mong mọi chuyện bình yên, chúng tôi không muốn phải dời chỗ ở, đổi nghề và trôi giạt nữa. Chiều hôm đó khi cả bọn tạ về, trời vần vũ báo hiệu mưa giông, Kỳ Nam ngoắc riêng Diễm hỏi có thể thu xếp tới ngủ đêm với cô được không, đêm nay chắc thầy không về kịp, mà cô thì rất sợ bị ở qua đêm một mình trong những đêm giông bão, dù đây đã là nhà của mình. Diễm về thưa với mẹ và được bà đồng ý ngay. Anh của Diễm chở cô đến và hẹn sáng mai đưa về sớm. Cô Nam đưa Diễm vào phòng ngủ dành riêng cho khách. Mưa gió khá lớn bên ngoài. Diễm thấy cô Nam mang áo mưa ra chống những cây hoa bị đánh tơi trong mưa lớn. Diễm định ra phụ nhưng bị cô ép vào trong nhà với lý do em không rành tụi nó bằng tôi đâu. Sau đó cô pha cà phê để thức ngồi vẽ lại cảnh bão giập vườn hoa. Cô còn cho Diễm xem qua một  trong những hộp đựng thư của thầy vẫn gửi cho cô khi họ chưa lấy nhau lẫn khi đã sống chung nhà. Đó là những tấm thiếp nồng nàn lời thương yêu bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh, có cả những tấm thiếp ghi địa chỉ người gửi và nhận đều là biệt thự Sơn Cúc này. Diễm chỉ lướt qua vì có lạ gì những dòng nầy đâu, thầy vẫn đem vô lớp cho cả đám chép mà.
      - When I think how you’re always my number one fan and how much that support’s always worth... then I know in my heart I’m the luckiest man anywhere on the face of the earth. (Khi tôi nghĩ em luôn luôn là người ái mộ số một của tôi  và sự hỗ trợ đó luôn có giá trị biết bao… lòng tôi thấy mình là kẻ may mắn nhất trên cõi đời này) 
      - Sometimes when I look at you, I can hardly believe you’re mine. (Đôi khi nhìn em, hầu như tôi không thể tin được em là của tôi.) 
      - …
      Diễm thích cùng ngồi uống cà phê để gợi chuyện với cô nhưng cái cách cô quá chăm chú vào việc vẽ khiến Diễm không dám lên tiếng, đành ngồi ngắm đôi bàn tay có những ngón thuôn dài của cô hoa lên khung bố ngà dần dần kín những cánh hoa tái mầu trong bão xám. Càng nhìn, càng thấy cô giống thầy, nhất là trong đêm, khi cô tháo kính áp tròng màu nâu ra và gần như để mặt trơn, chiếc đồng tiền trên má thỉnh thoảng lại lộ ra khi cô thể hiện được một nét vẽ mà cô vừa ý. Mãi rồi Diễm cũng mỏi mệt, đầu hàng, xin phép vào ngủ trước.
Khi trời gần sáng, bão lặng, chỉ còn mưa nhỏ đều hạt, gõ trên phiến gỗ nào đó ngoài vườn, lẫn vào đó, dường như Diễm nghe trao đổi của hai vợ chồng.
      - Đừng để em sống qua đêm một mình ở bất cứ nơi nào trên trái đất.
      - Anh xin lỗi, anh đã định về nhưng đèo lở lớn ở Núi Giải Oan, thác Đam Mê dâng cao, các xe phải đợi dài.
      - Nếu không có Diễm, em đã không dám ra ngoài cứu hoa.
      - Chiếc xe đưa anh đi bị tảng đá to lăn xuống đè bẹp dúm. Anh chui ra được, và đi bộ về đây với em.
      - Nói với em là anh còn sống đi. Khi vẽ hoa giập trong bão, dường như em thấy máu hoa.
      - Trong xe dường như mọi người chết cả. Lẽ ra anh phải ở lại, nhưng anh biết là em đang sợ, và em có thể vỡ tim..
      Thoảng nghe tiếng chuông ai giật ngoài cổng, Diễm bước ra khỏi phòng thì thầy Quốc đang pha trà trong bếp. Thầy ra dấu Diễm nói khẽ để cô ngủ vì đêm qua gần như cô thức suốt đêm. Thầy cũng cám ơn Diễm đã đến với cô đêm qua, không có Diễm chắc sẽ không có bức tranh còn ướt dầu trên giá. Thầy cũng cho hay hôm sau, chờ ngớt bão sẽ đưa cô đi khám bệnh. Diễm lí nhí chúc thầy cô khỏe mạnh để tụi em còn được học thầy. Thầy đưa Diễm ra cổng khi có tiếng chuông giật lần nữa, anh của Diễm. Trước khi chia tay, thầy còn ấp tay Diễm vào giữa hai bàn tay của mình. Mười ngón tay thầy dài và thuôn như ngón của cô. Hai vợ chồng nầy dường như đều sinh ra để làm nghệ sĩ, Diễm nghĩ thầm như vậy. Cũng như Ngọc khoá trước, sau một đêm ở lại biệt thự Sơn Cúc, Diễm thấy yêu hơn cả vợ lẫn chồng.   
      Ngày hai vợ chồng Quốc và Nam dọn đi, gần như chẳng ai hay. Ngay cả Diễm là người được tặng lại bức tranh Hoa trong bão. Người cay nhất là Năm Dao, chủ quán Cây Hồng. Ông ta mất dịp thu thập tin tức để làm giàu hơn kho chuyện thần bí quanh ngôi biệt thự mà hơn ai hết, ông tin là nó đã bị iếm. Họ sang hay bán nhà qua chủ mới cũng quá kín đáo, không cho ông cơ hội kiếm tiền cò. Năm Dao giận quá tung tin, hai vợ chồng này sống ẩn nguyên nhân chính là do họ trốn nợ. Trong lúc tung tin, ông cố tình lấp lửng như đó là chuyện thật 100 phần trăm. Thật hay không thì họ cũng đã đi rồi. Biệt thự Sơn Cúc lại tiếp tục để hoang  phế. Hóa ra họ không bán được cho ai mà sang lại cho chủ cũ. Người chủ mới, và cũng là cũ, cho biết, Quốc gặp tôi nói kẹt tiền vì phải đưa vợ sang Mỹ cài đặt trứng hay giống gì đó để kiếm con, Kỳ Nam lớn tuổi rồi, càng để lâu càng khó. Ông ta cũng không định lấy lại biệt thự Sơn Cúc nhưng Quốc để lại giá còn phân nửa khiến ông trong thì nổi lòng tham, ngoài thì nói là mua lại giúp. Năm Dao khi đối diện tin này cũng chống chế: Nói chung họ cũng vướng lời nguyền không hạnh phúc khi ở lâu trong đó. Thương yêu nhau cách mấy mà chẳng bà con thân thích cũng như không một mụn con nối dõi cũng kể như tiêu. 
      Vài năm sau, Diễm đã về làm dâu nhà Năm Dao. Ngọc thì không biết may hay xui hơn, đi làm dâu xứ khác. Cũng một đêm mưa to bão lớn, đám khách thương hồ ghé quán Cây Hồng, quanh lò sưởi, đua kể những chuyện kỳ quái mà họ đã chứng kiến hoặc nghe, Diễm nghe lỏm như là khách đang kể về cái chết của một nữ văn sĩ chuyên viết truyện vụ án ký Hương Trầm. Cô có linh cảm như khách đang nói về người vợ của thầy mình, người đàn bà mà cô đã có duyên trôi qua trong một đêm cũng mưa bão giập hoa như vầy. Bức tranh theo cô về nhà chồng còn trang trọng treo cao nơi cuối quán.
      - Anh có chứng kiến tận mắt không? - Một người nghi ngờ chặn hỏi.
      - Tôi không tận mắt thấy tử thi nhưng tên bác sĩ khám nghiệm chính là bạn thân của tôi. Đặc điểm của tên này là chưa bao giờ biết xạo hay tưởng tượng thêm. Hắn thề độc với tôi là bà văn sĩ đó là một người đàn ông. Nhưng chuyện này có phải là chuyện riêng tư của một bác sĩ hay một bệnh viện nữa đâu. Người ta kiếm không ra người chồng tên Quốc Việt của bà dù áo quần, vật dụng đàn ông vẫn còn đầy đủ trong nhà. Có cả mấy hộp thư tình của họ gửi cho nhau bằng nhiều thứ tiếng, có lúc chồng ký Việt Q., vợ ký Tr. Hg, K.Nam. Có lúc họ còn lấy cả địa chỉ biệt thự Sơn Cúc ở đây. Bên điều tra viên đang có kết luận tạm thời đây là hai vợ chồng dùng chung một xác; đúng cái xác mà bạn tôi đã khám nghiệm sau khi bà ấy bị đụng xe.
      - Làm gì có chuyện động trời như vậy. Lỡ như người chồng đang thất lạc đâu đó chưa tận lực tìm ra? 
      - Vậy còn cái xác đàn ông với khuôn mặt đàn bà mà bạn tôi đã khám nghiệm thì sao? Hai người là đồng tính à? 
      - Không phải đồng tính đâu, họ yêu nhau thật mà. Diễm vọt miệng chêm vào.
      - Ý con cho là cặp Hương Trầm và Quốc Việt này chính là cặp Kỳ Nam, Việt Quốc đó sao? - Năm Căn hăng hái hỏi con dâu nhưng rồi nói ngay với chính mình - Cũng có lý lắm đó bà con ơi, hai vợ chồng đó quá giống nhau. Chưa từng ai thấy hai người xuất hiện một lượt với nhau.
      - Thì đã nói điều tra viên kết luận như vậy rồi. Họ chưa cho báo chí đăng vì còn phải tìm thêm quá khứ trước khi dùng chung xác, ắt hẳn hai người đó cũng đã từng là một cặp hạnh phúc.
      Những người quanh lò sưởi chuyển đề tài sang khúc quá khứ của cặp Quốc-Nam, tức Việt-Trầm. Trong lúc Năm Dao ôn lại cốt truyện Mãi đến chết mới phân lìa đôi ta để suy diễn ra cái xác đó chính là người chồng của cô kế toán còn đang ở tù trong một vụ án dược phẩm lớn nhất nhì nước. Trong lúc mòn mỏi chờ vợ giảm án chung thân, anh đã sống với giấc mơ người vợ vẫn còn sống cạnh mình. Vụ bê bối đó là một câu chuyện có thật, báo có đăng, ti vi có đưa hình cô kế toán ngày bị kêu chung thân. Nhiều người làm lớn hơn cô lại được giảm án một cách khó hiểu. Vài tờ báo có kêu về sự bất hợp lý này cách đây vài năm nhưng mọi chuyện rồi rơi vào quên lãng. Vợ chồng cái xác nầy tin vô một nhà báo, giờ chồng vợ chia lìa trong và ngoài song sắt nên phải sống kiểu vậy mới còn thở được, không thì đã đứt bóng lâu rồi, Năm Dao tạm kết luận như vậy.
      Diễm lại nghĩ khác. Có lẽ vì nhờ đã được thấy những món đồ tha về từ nhiều nơi trên thế giới của vợ chồng thầy mình mà Diễm cho là quá khứ hạnh phúc của họ chắc phải khác hơn. Cả hai là những người có phần số trôi giạt đi nhiều nơi. Khi gặp được nhau, tưởng như đã trên đỉnh hạnh phúc, đời họ không còn ham muốn mong cầu gì hơn. Nhưng trời không cho họ được hưởng cái hạnh phúc ấy lâu. Người vợ chết tình cờ, chết như mơ, khi hai vợ chồng một hôm lạc vào một trận thanh toán giữa các băng đảng châu Á giữa ban ngày nơi đất khách. Go Vietnamese! Chơi theo kiểu Việt Nam đi, đám Việt Nam kia chạy rồi thì may sao có hai đứa này cũng vừa âu yếm kêu nhau là Việt và Nam. May cho những người đó nhưng không may cho hai vợ chồng này. Người còn sống sót là Quốc Việt. Bên xác Kỳ Nam, anh cũng chẳng còn nhớ mình là Việt Quốc hay Quốc Việt. Là gì đi nữa thì thần chết vẫn không thể phân lìa được Nam và anh. Anh có cách sống của anh để hai vợ chồng vẫn có thể yêu nhau vượt chết. 
      Suốt thời gian đóng vai Kỳ Nam, có lẽ Quốc không ý thức được. Phần anh, còn loáng thoáng trong đầu anh những gì mà anh không tài nào xoá được thì anh mang ra truyền lại cho học viên. Như chuyện Hồ quý Ly giết sạch dân ba làng về tội dám ăn thịt voi. Như những câu thơ của Việt Q. nhớ thương ca ngợi vợ. Như  thành ngữ lan truyền trong giới băng đảng châu Á ở California. Go Vietnamese! 
      Đó là những gì trong tưởng tượng của Diễm về một trường hợp của hai vợ chồng dùng chung xác. Nghe có vẻ hợp lý hơn giả thuyết của Năm Dao dù vụ án tại xí nghiệp dược kia là có thật. Nhóm điều tra vẫn đang làm việc. Có thể họ sẽ có một kết luận riêng khác hẳn. 
      Nhưng kết luận gì đi nữa thì cái xác xài chung kia cũng đã ngưng thở rồi. Biệt thự Sơn Cúc càng hoang lạnh hơn. Giờ người chủ cũ mới thấy chuyện mình mua lại ngôi biệt thự đó là hớ. Muốn kinh doanh căn biệt thự đó, chuyện đầu tiên của anh ta là thuê dân giang hồ tung tin toàn bộ vụ bà văn sĩ kia chết và khám nghiệm ra bà mang xác đàn ông là chuyện bịa. Nhưng những người giang hồ từ chối. Vì hơn ai hết họ muốn tin đó là chuyện thật. Vài người trong số họ đã sống sót sau vài trận Go Vietnamese!

Nguyễn Thị Minh Ng

Offline SUCSONG@  
#3 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 08:03:46(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Sáng sớm một ngày bình thường (Phần một)
Không nợ nần nhau kiếp trước, không phải vợ chồng kiếp này. Không ân oán đời trước, không phải cha con đời này. Có phải như dân gian vẫn nói thế không mà Nguyệt lại có một anh chồng so với Nguyệt cọc cạch về đủ mọi phương diện như thế nhỉ? Như đôi đũa lệch. Như cơm tám thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà. Như một sự lắp ghép vụng về, như thói trêu ngươi của ông tạo, lại giống như một trò đùa oái oăm của định mệnh. Ấy là cảm giác của mọi người khi nhìn thấy vợ chồng Nguyệt.

      Quả là so với Nguyệt, chồng Nguyệt chẳng được một mặt nào thật. Nguyệt là một đàn bà nhan sắc nổi trội hơn người. Mười tám tuổi nàng đã làm náo động cả tình trường một huyện lỵ sầm uất miền biên. Vẻ đẹp của cơ thể không một khiếm khuyết của nàng, cặp mắt đong đưa của nàng đã sản sinh ra cả một tá thi sỹ phủ huyện và tạo nên cơn ghen tuông hiềm khích của mấy vị chức sắc địa phương và ở cơ quan thương mại của nàng, nơi nàng giữ chân nhân viên kế toán.
      Đàn bà đẹp thường tối dạ. Nguyệt không thế. Ông trời cho nàng cả sắc đẹp lẫn tài trí. Nàng thông minh, tháo vát khôn ngoan, sắc sảo trong ứng xử, tính toán và cả trong ngôn ngữ. Miệng nàng tươi như hoa. Con chim đẹp, đẹp từ màu lông vũ, tiếng hót đến g. Nguyệt đã đẹp, đã khéo, lại còn giàu nữa. Giàu từ trong trứng giàu ra. Giờ ở Hà Nội cùng chồng, có một cửa hàng điện tử ở chợ Ngọc Hà, Nguyệt còn sở hữu ba quả đồi cọ, một khu đất ở huyện lỵ quê hương, trị giá cả tỷ bạc.
      Nhưng buồn sao là cái thói chơi khăm của ông trời! Ông cho Nguyệt rất nhiều thứ, nàng giàu có, nàng xinh đẹp, nàng thông minh, nhưng ông lại ghép cho nàng một anh chồng hèn kém, cùn nhụt đủ mọi mặt. Chao ôi là cái oái oăm, cái ác độc, xỏ xiên của ông tơ bà Nguyệt! Cạnh nàng hồng nhuận thăn lẳn, tươi giòn, nở nang, tướng mạo vượng phu ích tử, vừa đoan trang vừa đa tình, là chồng nàng cằn cọc thấp bé, héo hắt buồn tẻ như một dải khoai héo, trông chẳng khác tên đầy tớ hèn mọn của một phu nhân đài các là nàng. Ngực lép. Đít hóp. Mặt tóp. Hai con mắt bên ngưỡng thiên bên ngưỡng địa, lại gián nhấm. Cái miệng lại loe loe với cái hàm răng cà la vâu lúc nào cũng nhoe nhoét dớt dãi. Tướng mạo ấy dù có khoác lên người bộ đại lễ phục, dù đã hưởng hàm trưởng phòng, vụ trưởng thì vẫn cứ lồ lộ vẻ tôi đòi, bần tiện. Thành ra, nhìn cái vẻ bề ngoài cóm róm, dị ngợm, uột èo, chán ngắt của y, chẳng anh đàn ông chân chính nào mà không thấy chạnh lòng, khó chịu và tiếc rẻ, tiếc rẻ quá thật!
      Nhưng mà đã nói đi thì cũng cần nói lại. Rằng biết đâu đó chẳng qua chỉ là cái bề ngoài lừa dối, cái bề ngoài thuần túy chỉ là hình thức, nó không phản ánh bản chất con người? Thật sự y có duyên lặn, y là kẻ sống có đức độ, có tài ngầm, y tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi, và ở cái khoản giới tính của đàn ông y mạnh mẽ khác thường? Quan hệ vợ chồng, cái đó có nghĩa lắm đấy! B. to không lo đói! Thì chẳng đã có cái thành ngữ dân gian ấy là gì! Không! Không có những chuyện ấy. Vì đã là hàng xóm của Nguyệt hơn ba năm, vô tình, nhưng không ít hơn cả chục lần, chính tai tôi đã nghe thấy từ miệng Nguyệt thốt ra lời phàn nàn, trách cứ những nhược điểm về tính tình tài cán, sức lực của y! Rằng y là một kẻ vô tích sự, chưa đi đến chợ đã hết tiền, rằng vợ chồng Nguyệt cho đến nay vẫn vô sinh mà nguyên nhân chính là thuộc về y; Rằng không hiểu sao đã từng là nhân viên trong ngành ngoại giao mà sao y kém cỏi thế cả về phương diện giao tiếp, lễ tân. Và đã từ lâu rồi, nàng đã áp dụng phép dùng ngoại vật để cải đổi nội lực y, nghĩa là giúp đỡ y, kể từ việc may cho y những bộ cánh sang trọng. Vậy mà vẫn chẳng ăn thua. Người ta có giày adidas thì y cũng có; Người ta có đồng hồ Rado thì y cũng có; Nàng dạy y từ cách cho áo vào trong quần sao cho khi thắt lưng không bị phùng; Từ việc bảo y cách làm lông trà trước khi pha trà. Nàng cắt cho y cái lông mũi quá dài. Nàng ngâm cho y hàng bình rượu thuốc với đầy đủ ngọc dương, dâm dương hoắc, tắc kè và Minh Mệnh thang, để y có thể đóng trọn vai một trang nam nhi trong cái lốt èo uột vốn dĩ.
      “Kìa, quần áo rõ đẹp mà sao trông vẫn như thằng lái xe ôm ấy nhỉ?” Nhưng mà than ôi, đã không ít lần nhìn chồng xúng xính trong bộ quần áo mới, Nguyệt đã phải kêu thầm vậy. Và chính là một lần, giữa một đêm hè vằng vặc trăng sao, Nguyệt kéo chiếc ghế tựa ra sân, ngả người nhìn trời và tôi là người hàng xóm của nàng đã nghe được trọn vẹn lời than van thảm thiết của nàng: “Trời ơi! Cái số quạ mổ của tôi! Tôi ăn phải bùa mê thuốc lú nào mà lấy ông làm chồng, hả ông Mào ơi!” Ôi! Ông cao xanh trên kia, ông có nghe thấy tiếng kêu than đau đớn của một phận đàn bà!
      Đúng là đã ăn phải bùa mê thuốc lú thật! Nếu không thì tại sao Nguyệt lại bằng lòng lấy anh chàng Mào làm chồng? Đúng là đã ăn phải bùa mê thuốc lú, đã có sự dẫn lối đưa đường của ma quỷ, nên Nguyệt đã từ chối, đã ngoảnh mặt đi trước bao nhiêu lời tỏ tình, cầu hôn của không ít gã đàn ông tử tế, giàu sang, có chức vị ở huyện lỵ này, để chấp nhận làm vợ anh chàng Mào, một gã đàn ông xấu xí và kém cỏi đủ mặt, hơn nữa, một tên xâm lược. Tên ngoại bang xâm lược! Tất cả các gã đàn ông đã mơ tưởng Nguyệt ở huyện miền biên này hồi đó đều gọi Mào một cách căm hận như thế. Tại sao lại thế? Hay là họ đã nhận ra trong cái bộ dạng tầm thường của y có linh hồn của một kẻ lắm mưu mẹo gian ngoan, thủ đoạn? Hay đơn thuần họ chỉ muốn nói y không phải dân bản địa huyện này? Y chỉ là một kẻ từ nơi khác đến để chiếm đoạt? Thực tình, lúc này Mào chỉ là một gã nhân viên tạp vụ của sứ quán ta ở Italy, nhân ngày xuân đi phép, Mào nổi cơn ngẫu hứng, lên huyện lỵ này thăm một một bà con quê ở Thái Bình chuyển cư tới đây lập nghiệp. Thật tình là hồi đó tên ngoại bang trông cũng lạ mắt. Vì trừ cái miệng dẩu ướt nhoét, y cũng là sản phẩm của một nền văn hóa mới lạ thật. Thì mới từ Rôm về còn gì! Áo lông. Mũ lông. Giày lót lông. Máy vi tính xách tay. Và cả một chiếc Spring bệ vệ như ngồi trên xa lông. Với một huyện lỵ miền biên xám nhờ những căn nhà tường xăm đá, mái lợp cỏ và cánh đàn ông cũ kỹ là những bóng hình trộn lẫn vào nhau, mùa đông sùm sụp cái mũ lông bịt tai cỏ úa, mười anh hút thuốc lào cả mười một, thì Mào là cả một hiện tượng. Nhất là khi y tự xưng là bí thư thứ nhất Đại sứ quán ta ở Rôm thì lòng thiếu nữ nào mà chẳng xao xuyến!
      Nguyệt đã nhẹ dạ cả tin. Mào xấu xí đã đành. Mà chỉ là anh nhân viên tép riu thì sao lại có thể giàu được. Nguyệt đã bị lừa. Bị chính con tim non dại của mình lừa mình. Thành ra bị lừa mà nàng đành phải âm thầm ngậm bồ hòn làm ngọt. Và thế là nàng khởi động một thời kỳ ghìm nén nỗi đau đời, lặng lẽ và nỗ lực san lấp khoảng cách chênh lệch. Nguyệt ra sức dạy dỗ, sửa sang, sắm sửa, tô điểm cho chồng, để cải đổi hoàn cảnh sống của mình!
      Cải đổi hoàn cảnh sống! Việc này khó lắm! Vô cùng khó! Và chẳng bao lâu chính nàng cũng nhận ra tính chất vô vọng, không tưởng của dự định. Con người ta xuất thân thế nào thì mãi mãi là thế thôi! Sửa đổi nó là việc bắc thang lên trời! Và thế là bỏ công sức ra mà không có hiệu quả, mãi rồi thì cũng đến lúc chán nản! Chán nản mãi thì tuyệt vọng. Tuyệt vọng càng lúc càng tăng, vì theo thời gian khoảng cách giữa nàng và Mào mỗi lúc một doãng rộng thêm. Nhất là lúc này, nàng đang bước vào thời đoạn thịnh đạt, như phát tiết anh hoa, sắc đẹp bừng nở đến độ rực rỡ và về quan lộ, sự thành đạt và giàu sang đã tới đỉnh cao; Nàng được bổ nhiệm giữ chức giám đốc một công ty.
      Bây giờ Nguyệt đi làm bằng ôtô cơ quan. Một ngày nàng thay váy áo tới ba bốn lần. Sáng nàng có bác sỹ tư đo áp huyết, chiều cũng lại vậy. Một tuần một lần, một người thợ ở mỹ viện đến sửa móng tay, móng chân cho nàng. Đêm ngủ nàng bôi kem dưỡng da hoặc dán đầy mặt các lát dưa chuột cắt mỏng. Nguyệt đẹp viên mãn, thuần thục, mỡ màng ở tuổi ba mươi lăm.
      Trong khi đó buồn thay, Mào chồng nàng, lại phát triển theo chiều đối cực với nàng. Xí nghiệp cơ khí ở đó Mào làm phó phòng hành chính, sau thời kỳ làm ăn thua lỗ liên tục cả chục năm trời, đã giải thể. Mào về hưu non. Lương sướng đã chẳng đáng kể lại còn phải nuôi thêm hai đứa cháu con ông anh mồ côi mẹ, và vào tuổi bốn lăm, các tật bệnh trong người y như gặp cơ hội tha hồ phát lộ. Vừa khởi phát bệnh hen suyễn y lại tái phát chứng thấp khớp, hai bàn tay co quắp như củ gừng, thân đau, đốt sống cổ vôi hóa, đi đứng đều lom khom trông càng thêm dị mọ. Tên ngoại bang xâm lược giờ đây hiển nhiên đã biến thành kẻ ăn bám vợ xo xúi, kém hèn rồi!
      Bây giờ thì Nguyệt không thể giấu nổi cơn bất mãn, bực dọc ngày càng thường xuyên của mình nữa rồi. Mà giấu làm gì nữa. Nó sờ sờ ra đấy, ai người ta chẳng biết. Thêm nữa, vợ chồng là kẻ ăn cùng mâm, ngủ cùng giường. Huống hồ, gái có chồng còn như gông đeo cổ. Làm sao mà lờ đi, mà quên khuây được, dù là trong chốc lát!

Ma Văn Kháng

Offline SUCSONG@  
#4 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 08:04:50(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Sáng sớm một ngày bình thường (Phần cuối)
“Không hiểu kiếp trước tôi nợ nần gì mà ông trời lại ghép tôi với ông Mào thế nhỉ?” Chao ôi! Nguyệt than thân trách phận. Nguyệt không cần giấu giếm nỗi uất ức nữa. Ở thế thượng phong, nàng giữ quyền cao ngạo, khinh miệt chồng. Nàng liên tục kể xấu chồng. Nàng nói nàng ê chề vô cùng vì một lần đi xem kịch ở Nhà hát lớn, giữa thế giới thượng lưu cao sang mà Mào lại ngửa đầu lên ghế ngủ ngáy kho kho.

      Nàng gọi Mào là thằng cha thổi kèn Tây để chế giễu chứng hen suyễn của chồng. Nàng bảo: giá Mào lấy được cô vợ hen có phải là đêm nằm cò cử như kèn có đôi không? Ngôn ngữ linh hoạt dồi dào, nàng sáng tác cả những chuyện cười về chồng. Chẳng hạn, vì mắt chàng cái ngưỡng thiên, cái ngưỡng địa, nên trong bữa cơm chàng định gắp món đậu mà lại thọc đũa vào món rau. Cũng thế, chàng đã bị ăn đấm oan, vì một lần đi chơi chợ, chàng nghênh ngáo nhìn đó đây mà một tên du côn lại tưởng chàng đang theo dõi hành vi chôm chỉa đạo tặc của nó.
      May mắn đã không xảy ra phản ứng gì từ Mào. Dường như nhận ra sự hèn kém, không tương xứng của mình, Mào lẳng lặng chấp nhận thân phận phụ thuộc của mình. Y câm lặng như một kẻ vô cảm, cặm cụi làm đủ mọi việc trong nhà, từ đi chợ, nấu ăn đến quét dọn, giặt giũ. Như một tên đầy tớ tận tụy, y vội vã chạy ra mở cổng khi có khách gọi. Dẫn khách vào, pha trà mời khách xong y đi xuống bếp. Và ở đó trong tư thế sẵn sàng chạy lên khi Nguyệt ngoảnh xuống, réo: “Ông Mào, lấy hộ mấy lon bia trong tủ lạnh lên đi. Nhanh lên một tý! Sao mà lù đù như chuột chù phải khói thế!”
      Trước mọi lời trách mắng thô lậu của vợ, y im lặng như một kẻ tốt nhịn, lại cũng giống như một thằng đần. Và đó chính là điều kiện để Nguyệt càng lúc càng trở nên dạn dĩ, bất cẩn, nghĩa là nàng tha hồ khinh nhờn chồng, nàng coi y chẳng còn là một giá trị gì nữa. Nhất là từ khi nàng dò la đây đó và tỏ tường lai lịch y. Y là đứa con bị bỏ rơi của một gã đạp xích lô và một ả điếm. Rồi sau những ngày sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ được một người tài xế ở cơ quan ngoại giao đem về nuôi, cho ăn học. Nghĩa là bây giờ nàng có thể tự cho mình cái quyền được thỏa sức ăn nói, chửi đổng, thậm chí mắng mỏ, chì chiết, đay đả Mào, để xả cơn uất ức, để hả nỗi đau đời mà nàng đã phải chịu nhận bao năm trời. Đã giận y, đã hận y, đã khinh bỉ y, bây giờ nàng căm ghét y!
      - Ôi giời, chẳng phải là một ngày tựa mạn thuyền rồng đâu, nhưng một khi gặp người tâm đầu ý hợp, vừa lứa xứng đôi thì đây ấy à, sẵn sàng ngồi xổm lên dư luận! Nghĩa là cứ giường cao chiếu rộng mời chàng chứ không có thèm rúc bờ rúc bụi đâu!
      Nguyệt chao chát cao rao vậy với âm lượng hết cỡ, như cốt để Mào ở dưới bếp nghe thấy, trong một lần trò chuyện với bạn gái về chủ đề ngoại tình. Chẳng còn gì phải giữ gìn nữa, giờ đây nàng có thể bĩu môi bĩu mỏ quay đi khi bỗng thấy Mào xí xớn phởn phơ vì một nỗi vui vô cớ nào đó. Nàng gọi y là đồ cứt nát có chóp khi thấy y đứng trước gương nắn lại chiếc cà vạt trước khi đi đến nhà bạn, hoặc y nổi cơn hưng phấn bất thần, ư ử hát thầm bài dân ca Italy: “Có biết bao giờ lại gặp cô em thời ấu thơ”.
      Đã thôi hẳn việc ăn nằm với chồng, giờ đây Nguyệt như kẻ chân son mình rỗi, đêm hôm khuya khoắt đi về tự do, thoải mái; Lại nhiều lần vin vào lý do công việc, nàng không ngủ nhà có khi cả tuần liền. Chưa hết! Một chiều mùa hè, tôi sang nhà Nguyệt mượn tờ báo. Đưa tôi tờ báo, nàng đồng thời nhấc cái túi xách tay, rồi vừa mở nắp thò tay vào, nàng đã ngoảnh xuống bếp gọi chồng lên và giọng giật đùng đùng:
      - Ông Mào! Một triệu đồng tôi để trong túi này, sao giờ chỉ còn bảy trăm ngàn là thế nào?
      Mào lụng thụng trong cái áo màu cổ vịt, gãi đầu lí nhí đáp rằng y không biết và chỉ đợi có thế là nàng bất cần biết đến sự có mặt của người khách là tôi, lập tức chồm lên mặt bàn, rít chói tai:
      - Sanh không thủng cá đi đằng nào? Hả giời ơi! Bao năm trời tôi ngậm đắng nuốt cay. Sao cái thân tôi khổ sở thể này, hả giời!
      Cái nhọt bọc căng nhức nung mủ trước sau rồi cũng đến lúc vỡ bục thôi! Đinh ninh vậy, nhưng nghe trong lời xì xầm bàn tán của hàng xóm láng giềng, được biết cô vợ đã viết đơn ly hôn không ít hơn chục lần, và anh chồng cương quyết không chịu ký, nên lại thấy phân vân, không hiểu rồi vở bi hài kịch còn nhùng nhằng lâu này sẽ kết thúc thế nào!
      Mùa thu ấy, cái kết thúc của câu chuyện đã đến. Như sự tuần hoàn của thời tiết từ hạ sang thu, đến thật chùng chình, nhưng lại giống như cái kết của một cái truyện ngắn tài tình, nghĩa là rất có lý mà lại hoàn toàn bất ngờ. Mùa thu ấy đến chậm rãi và đủng đỉnh như những trang văn của một tiểu thuyết cổ điển. Tuy vậy, tiết thu vừa chớm đã đạt ngay đến sự dịu dàng mát mẻ hiếm hoi và mọi người có cảm giác được đền bù thật thỏa đáng sau những ngày hè nấu nung. Chỉ tiếc sáng thu ấy giống như một nốt nhạc lạc điệu trong âm hưởng êm đềm, trong mát của khúc nhạc thu dìu dặt mỗi sớm mai. Chúng tôi thức giấc vì nghe thấy tiếng đập cửa ầm ầm và tiếng hò hét hung hăng của anh chàng Mào, chồng Nguyệt. Bước ra cửa, xem có chuyện gì, chúng tôi tất thẩy đều ngơ ngác tưởng đang sống giữa chiêm bao.
      Mào lẻo khẻo quắt queo trong bộ đồ thể thao áo thun, quần thun tím sọc trắng, chân đi giày Adidas, đầu đội mũ bitis, toàn những thứ hợp thời trang vợ y mới sắm cho, đứng cạnh cái túi du lịch căng phồng, tay chống háng, ra oai cóc tía, mồm dẩu, xỉa hàm răng cà la vâu về trước, trong khi chân phải y liên tục đá thình thình vào cánh cửa khóa trái bên trong.
      Anh chàng mới đi du lịch đâu đó về, đang gọi vợ dậy mở cửa ư? Đúng! Đúng là từ mấy hôm trước đã nghe phong thanh là sắp tới Mào sẽ đi du lịch Cát Bà. Và tối hôm qua, lúc chín giờ mọi người còn thấy chị vợ đi xe máy đèo chồng ra ga để đi chuyến tàu tốc hành xuống Hải Phòng! Nhưng, đúng vậy mà cũng không phải vậy. Vì lọt vào cửa ga xong là Mào lập tức lủi ngay vào bóng đêm giữa hai đoàn tàu, rồi lát sau, quay trở lại, tìm nhà trọ ngủ qua đêm chứ không lên tàu. Để bây giờ tang tảng sáng một ngày thu mát mẻ bình thường, y bất ngờ trở về nhà và đang đá thình thình vào cánh cửa nhà mình.
      - Mở cửa! Mở cửa! Làm cái gì mà lúng túng, không ra mở được thế, Nguyệt!
      - Mở cửa! Hừ, chưa mặc kịp áo quần hả! Hừ, rõ đẹp mặt chưa! Nào, mời bà con láng giềng lại đây xem con vợ tôi nó xinh đẹp, giỏi giang và chính chuyên như thế nào, nào!
      - Nào, có mở cửa không? Hay là để em vào em trói cả hai đứa gian phu dâm phụ rồi dong lên công an phường nào. Hứ! Bao lâu nay cô tưởng tôi là đứa ngô ngọng, ngu si, đần độn không biết gì, hả! Hứ! Rõ là giường cao chiếu sạch con đĩ tha hồ đú đởn với giai như tuyên ngôn hôm nào nhé!
      - Nguyệt, cả đêm đú đởn với nhau chưa đã, sáng rồi, còn gỡ gạc tiếp hả! Một... hai... ba..., già lừa ưa nặng, em phá cửa đây!
      Hai cánh cửa bị chân Mào đạp mạnh, mở rộng toang hoang. Mào nhảy tót vào giữa nhà, mặt đỏ hăm, chân giày giận phịch phịch xuống đất, há miệng thật to, gào đến gỡ họng: “Thế nào! Đồ đĩ thối thây! Ai là chủ cái nhà này, hả! em hỏi, ai là chủ cái nhà này, hả! Trả lời đi thì em tha: Ai là chủ cái nhà này!”
      Mào đã ra tuyên ngôn xác lập vị thế của mình. Mào đã ra khỏi thân phận. Mào đảo ngược được tình thế. Màn kịch được y dàn dựng thật tài tình. Y là tác giả của một truyện ngắn có cái kết thúc quá xuất sắc. Hóa ra tên ngoại bang xâm lược thâm hiểm, lắm mưu mẹo, chứ đâu có vụng dại, ngu đần. Hóa ra kẻ xuất thân hà tiện có lá gan to, dám làm cả những chuyện phi đạo lý động trời. Y đã thắng to, bất chấp cả sự chê bai của miệng thế và lòng tự trọng thông thường của người đàn ông.
      Giờ đây, là ông chủ thực sự của căn nhà, y đi đi lại lại, vênh vang tự đắc và thỉnh thoảng lại như kẻ động kinh, ngoạc miệng thét lớn, tiếp tục ra oai, để xác định dứt khoát quyền uy của mình. Tuy nhiên, nhiều lần thét xong, y lại đứng ngẩn. Vẫn còn đâu đây cái cảnh Nguyệt chồm dậy từ đám chăn nệm nhàu nát, vội vàng choàng tấm khăn mỏng qua tấm thân lõa lồ của mình chạy tới quỳ trước mặt y, lập bập xin y tha tội, trong khi gã tình nhân run lẩy bẩy trong gầm giường. Y không hiểu mình là ai. Như kẻ phải đóng một vai kịch lạ, y ngơ ngẩn vì thấy mình chưa nhập vai. Vai trò mới của y lạ lẫm quá! Y ngơ ngác không hiểu vì sao tình thế lại đổi thay nhanh thế. Và nhất là, người đàn bà vợ y đang mạnh mẽ, kiêu căng là thế mà thoắt cái lại có thể yếu ớt, yểu nhược đến thế!
      Yếu ớt, yểu nhược quá là Nguyệt lúc này. Giờ đây, ở trong nhà thì nàng lủi thủi một mình một bóng như con sen con ở, ra ngoài đường ngõ thì nàng gằm mặt xuống đất, không dám nhìn ai. Nàng như kẻ biết mặt mình nhọ nhem, bẩn thỉu. Nàng đã bị trúng đòn hiểm. Nàng đã thất bại hoàn toàn trong mưu toan đổi hoàn cảnh sống. Thất bại ê chề đến trong có nháy mắt. Thất bại của nàng là thất bại của chính con người.

Ma Văn Kháng

 

Offline SUCSONG@  
#5 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 08:07:12(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Một miếng để đời (Phần một)

Utopi – một miếng để đời là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn Vũ Bão (1931-2006) vừa mới được nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Đông A ấn hành. Đây là câu chuyện tưởng tượng về chuyến xuất ngoại của một anh chủ quán thịt chó với những tình huống bi hài. Nhân ngày giỗ đầu của nhà văn (30/4/2006 - 30/4/2007), NĐBND giới thiệu một số phần trong cuốn tiểu thuyết này.

      Tôi phải làm gấp món cho một ông khách rất thân của nhà hàng vừa bắt đầu thưởng thức món chả chó đã đặt xí phần một bát Ngọc Cẩu Hoàn. Một bát nước xuýt chó trong vắt, giữa lòng bát có một viên tinh hoàn của con cầy tơ đã được hấp cách thủy chín thật nhừ. Vừa lúc ấy, một nhân viên phục vụ chạy vào ghé miệng nói nhỏ với tôi: Anh ơi, Tây! 
      Dân tỉnh tôi thường như vậy, cứ thấy một người ngoại quốc vào tỉnh là bàn tán, xem như nhân vật trong năm mà không biết rằng họ cũng đầu tròn chân vuông như mình, có gì là lạ đâu. Tất bật với họ chỉ có ông du lịch đang tìm cách thăm dò xem họ thích gì thì chiều rồi đến ông an ninh xem họ có đi vào nhà ai ngoài luồng không, còn mình là dân thường chẳng việc gì phải bận tâm, trừ phi họ say sưa giở trò quấy phá thì mình gọi cảnh sát 113 đến dẹp là xong, mình là chủ nhà mà. 
      Thấy một ông Tây cao, to lớn, mặc sơmi carô, quần bò, chân đi giày thể thao, lưng đeo ba lô lữ hành cao từ chấm đỉnh đầu đến trùm mông đang đứng nhìn vào đám khách ngồi trên mấy chiếc chiếu hoa, tôi vội chạy ra nói với khách bằng thứ tiếng Anh giọng làng Chè: Du a oenkhâm! Ông khách lại trả lời bằng thứ tiếng Việt làng Phùng - tức là thứ tiếng Việt không có dấu: Xin loi, toi noi duoc tiếng Viet.  Tôi thở dài nhẹ nhõm, bèn lia ngửa bàn tay về phía trong nhà: Xin mời vào. Ông khách cố lách qua những chỗ trống giữa hai mép chiếu đi vào cuối phòng, một nhân viên phục vụ đã nhanh chóng đem chiếc chiếu hoa rải ngay dưới chân ông. Đầu tiên ông ngồi co đầu gối lên rồi từ từ nhìn sang chiếu bên cạnh, bắt chước họ hạ đầu gối xuống rồi ông cầm chân phải đặt lên đùi trái và luồn chân trái xuống dưới đùi phải. Nhân viên phục vụ thấy ông nói tiếng Việt nên đưa ngay tờ thực đơn đến cho ông xem.  Ông đưa mắt rất nhanh lướt từ dòng đầu đến dòng cuối rồi trỏ ngón tay vào dòng chữ đầu tiên. 
      Nhân viên phục vụ bưng ngay một đĩa chả chó lên.  Ông loay hoay mãi mà không sao gắp được miếng chả lên miệng.  Nhân viên thấy thế vội bưng ngay cái đĩa trên đặt cái phuốcxét nhôm đến nhưng ông gạt tay nhân viên ra mà cứ lẳng lặng đánh vật với đôi đũa.  Hình như ông đang khám phá sự kỳ diệu của hai thanh tre mảnh mai này.  Gắp được miếng chả, ông không kịp đặt vào bát mà đưa thẳng lên miệng.  Ông nhai chậm chạp như để thưởng thức vị lạ của món chả này, đôi lúc mặt ông đờ đẫn ra như muốn tìm xem mùi hương lạ quyện trong miếng chả ở đâu tới. Các vị khách ở chiếu bên cạnh tay đã xách chai rượu lộc đứng dậy rồi nhưng ông vẫn không vội vã, cứ nhẩn nha gắp gắp nhai nhai.  Rõ ràng ông đến quán này chỉ để tìm một cảm giác mới lạ chứ không phải để lấp cho đầy cái bao tử.  Lúc thanh toán tiền, thấy nhân viên phục vụ xòe mười ngón tay ra, ông trố mắt nhìn rồi rút hai tờ 5 đô la đưa cho nhân viên.  Nhân viên phục vụ cầm lấy tiền chạy vào chỗ tôi đang làm việc, mặt hí hửng như vừa thắng được một quả lừa. Tôi bảo nó chỉ lấy 140 đồng VN.  Anh chàng trố mắt nhìn tôi: Nó là Tây kia mà.  Tôi cười: Mọi khách hàng đều bình đẳng, không có cái lối Tây phải trả nhiều tiền hơn ta, Khách hàng đã là Thượng Đế thì không có Thượng Đế Tây và Thượng Đế ta. 
      Ông khách xách chai rượu, đeo ba lô lên vai rồi giơ tay chào chúng tôi: Hẹn gặp lại! Tôi cũng tưởng ông ta thực hành bài tập nói tiếng Việt, ai ngờ hôm sau, ông ta đến thật.  Ngồi xếp chân bằng tròn xuống chiếu xong, ông ta giơ tay đỡ lấy tờ thực đơn rồi trỏ tay vào dòng thứ hai. 
      Nhân viên phục vụ bưng đĩa dồi chó lên và nói với ông ta: Sống trên đời, ăn miếng dồi chó.  Ông ta rút vội sổ tay và cái bút bi trong túi áo ngực ra ghi vội vào trang giấy rồi khẽ cúi đầu: Cám ơn. 
      Ngày thứ ba, ông ta lại đến. Ông ta cầm tờ thực đơn rồi trỏ vào dòng thứ ba.  Nhân viên phục vụ bưng lên một bát nhựa mận.  Thì ra mỗi ngày xuống quán Có Ngay, ông chỉ thưởng thức một món và chỉ một mà thôi. Té ra ông này cố tình thưởng thức kỹ thuật làm cầy tơ ở đất Giao Chỉ. Nhân dịp này, tôi cũng được cánh xe ôm kể chuyện mỗi lần xuống đây, ông đều đi xe lửa đến ga rồi ngày thứ nhất gọi xe ôm, ngày thứ hai gọi xe xích lô, ngày thứ ba gọi xe ngựa, ngày thứ tư gọi xe Công Nông, ngày thứ năm gọi xe lam, ngày thứ sáu gọi xe lọng - loại xe ba bánh của thương binh có trang bị thêm cái mui che bằng vải bạt... tôi mới hiểu con người này đi hàng vạn dặm đến đây rất muốn thưởng thức mọi thứ tiền tiến đậm đà bản sắc dân tộc của đất Việt. 
      Ngày thứ 15, ông không gọi món nữa và bắt chước khách ngồi ở các chiếu khác, ông xòe tay giơ cả mười ngón lên rồi lại giơ thêm bàn tay xòe năm ngón nữa. Nhân viên phục vụ bưng đĩa chả quạt than hoa lên. Ông ta gọi thêm một đĩa nữa rồi mời tôi ra. Tôi vừa bước vào chiếu, ông ta đã cầm tay tôi kéo xuống ngồi bên cạnh: Hom nay toi thích noi chuyen voi ong. Các ông gioi lam, có mot con cho xin loi, con cay, các ông che bien đươc 15 món. Chang mon nao giong mon nao. Mon nao cung ngon ca.  Tôi nói với ông ta: Chúng tôi có bốn nghìn năm dựng nước cũng có nghĩa là chúng tôi đã ăn thịt chó bốn nghìn năm rồi và phải bốn nghìn năm các cụ chúng tôi mới tìm ra 15 món thịt chó ấy. Cái gì ngon thì nó tồn tại, cái gì tồn tại thì nó ngon. Ông ta giơ tay ra trước mặt: Xin lỗi, cho tôi ghi câu này. Mời ông nói tiếp. Tôi lại nói: Ông đã khen ngon cũng có nghĩa là ông đã bắt đầu mở khóa cánh cửa kho tàng văn hóa phi vật thể của chúng tôi. Tại sao thịt chó ông thưởng thức ở đây lại ngon như vậy? Trước hết chúng tôi chọn những con chó từ 9 đến 10 tháng tuổi lông trắng hoặc vàng. Các cụ đã dày công thưởng thức hàng nghìn năm rồi mới xếp bốn loại: nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm. Nước chúng tôi đã hiện đại hóa, công nghịêp hóa rồi nhưng sau này tiến xa hơn nữa, nghề làm thịt chó vẫn là nghề thủ công, không thể chế ra cái máy làm thịt chó được. Cắt tiết vẫn phải đưa con dao sắc nhọn vào cổ nó, cạo lông xong, đem thui nó cũng phải dùng tay lấy rơm - mà phải là rơm nếp thì da nó mới chín bóng lên được. Ông đã thưởng thức món tiết canh. Ông ta nghe đến tiết canh vội nhíu lông anh lại như muốn nhớ về một chuyện đã qua. Tôi nói tiếp: Cái món ông thưởng thức ngày thứ tám, ông nhớ rồi chứ, không phải chúng tôi làm đông bằng tủ lạnh đâu. Ông không thể nào biết rằng khi tia tiết đầu tiên phóng xuống bát, chúng tôi phải hãm bằng chanh, muối, đủ độ chua mặn cho tiết khỏi đông, rồi lại phải cho thêm một chút nước sôi giữ cho bát tiết màu đỏ tươi. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn nhân tức là xương gầu, sụn, thịt nạc băm nhỏ trộn với gia vị cho vào từng bát để sẵn đấy. Tiếp đó chúng tôi lấy nước xuýt - tức là nước luộc thịt đã để nguội rồi pha với tiết đã hãm theo một tỷ lệ thích hợp, lấy đũa khoắng tan đều đổ vào bát có nhân, một lúc sau bát tiết canh từ từ đông lại. Một số người ở thành phố đã phát huy sáng kiến giội nước xuýt vào bát nhân rồi cho vào tủ lạnh nhưng người ăn biết ngay là tiết canh đểu vì bao nhiêu hương vị của tiết canh đã bị khí lạnh làm cho biến chất. Ông ta gật đầu: Tôi đã đi nhiều nước trên thế giới, tôi chưa thấy nơi nào chế biến được những món ăn ngon tuyệt vời và độc đáo như thế này.  Tôi đã từng ăn ở nhiều nhà hàng nổi tiếng để tìm lấy cái đắt như nhau và những cái ngon cứ lặp đi lặp lại đến nhàm chán. Tôi hỏi: Ông có biết vì sao đến đây, ông được thưởng thức một cái ngon vừa dân dã vừa độc đáo không? Ông ta cười: Cũng như xem một bức tranh, tôi không diễn tả nổi cái cuốn hút, thịt chó cũng vậy, tôi không phân tích được, chỉ có thể nói rằng đã ăn một lần là nhớ mãi. Tôi nói với ông ta: Ông đã biết chế biến một món thịt chó công phu như thế nào nhưng một mình nó không thể tạo thành cái ngon độc đáo được. Chính các gia vị mới tôn từng món đến chỗ dậy mùi: làm thịt chó mà thiếu riềng, mẻ, mắm tôm, chanh ớt, lá mơ tam thể, rau húng, rau ngổ, tài trời cũng không làm sao ngon hơn được. Ông ta gật đầu: Tôi hiểu. Tôi nói tiếp: Món thịt chó dù ngon đến mấy nếu thiếu chất dẫn đường thì cũng không đẩy hết chất ngon lên đỉnh điểm. Riêng ở nhà hàng chúng tôi, rượu cất bằng nếp hoa vàng, được hũ rượu nào chúng tôi lại “hạ thổ” đủ một trăm ngày mới đem ra phục vụ quý khách. Ông ta lại gật đầu: Tôi hiểu. Tôi lại nói tiếp: Nhưng như thế vẫn chưa đủ, lại phải có chỗ ngồi ngon nữa. Các cụ yêu phong thủy thích làm nhà hướng nam. Nhà hàng chúng tôi cũng quay mặt về hướng nam, gió mát như có dàn máy lạnh. Ông nhìn thử qua cửa chính cửa sổ mà xem, tầm mắt không bị vật gì che chắn. Cánh đồng ngô, cánh đồng mía trải dài đến tận bờ sông. Những cánh buồm no gió xuôi ngược trên sông trông cứ như đang bơi giữa ruộng ngô, ruộng mía. Ông có để ý đến tiếng lá ngô, lá mía quyện vào nhau theo đà gió tạo thành bản nhạc đồng quê. Hơi ngô non theo gió bay về quẩn trong từng căn phòng, nếu ông về đây vào dịp cuối thu đầu đông mà xem, ngồi ở đây uống rượu với thịt chó mà ngắm các vồng mía lắc lư theo gió, ông sẽ có cảm giác cuộc đời cũng đang say theo ông. Ông ta lại gật đầu: Tôi hiểu nhưng thế thì tại sao trong chương trình du lịch và trong chương trình xuất khẩu của các ông không có thịt chó. Tôi cười: Vì chẳng có Bộ nào quản lý nên việc nuôi chó và chế biến thức ăn từ con chó do nhân dân tự sản tự tiêu với nhau. Ông ta gật đầu: Thế thì tôi mời ông sang nước tôi có gì liên quan đến chính phủ các ông không? Tôi ngẩng đầu lên hỏi ông ta: Nước ông thuộc phe nào? Ông ta lúng túng: Nước chúng tôi chẳng đứng trong phe nào? Tôi vặn lại ông ta: ít nhất nước ông phải đứng trong phe đế quốc chủ nghĩa, phe xã hội chủ nghĩa hay chẳng ở một phe nào? Ông ta cười: Vuong quoc Balođitxtang chung toi chi o phe nhan dan vì the toi muon moi ong sang nuoc toi. Tôi lắc đầu: Tự dưng đi ra nước ngoài, chúng tôi gọi là vượt biên. Không được. Ông ta đập tay vào ngực mình: Tôi moi. Tôi tưởng ông ta nói đùa nên cũng ngật ngưỡng nói: Nước tôi khác nước ông, mọi chuyện không dễ dàng như ông tưởng. Ông ta toài người qua mâm: Ong co biet toi la ai khong? Tôi cười: Tôi chỉ biết ông là khách của nhà hàng. Chúng tôi phải phục vụ ông chu đáo. Ông ta rút danh thiếp trong túi áo đưa cho tôi: Ong hay tin toi.  Xin ong vui long cho toi đia chi. Nói đoạn ông ta đưa sổ tay và cây bút mạ vàng cho tôi. Đã chơi thì chơi, tôi liền viết:
      PHAM THE HE
      Thôn Chè - xã Trà Thủy - huyện Sông Trà
      Tỉnh Trà Lý
      Ông ta vừa đi khỏi, thằng Đóm chạy ra cửa nắm lấy tay tôi: Ông ấy mời anh sang nước ông ấy chơi đấy phải không? Tôi cười: Xem ra tay này hâm tỉ độ, tự nhận mình là người Balôđitxtăng. Thằng Đóm khẽ bảo tôi: Anh em có nói nó đưa cho cậu cái tờ giấy gì kia mà. Tôi rút cácvidít trong túi ra cho nó xem. Thằng Đóm lắc đầu: Chữ Tây. Cậu biết tiếng Anh, cậu dịch thử xem tay này làm gì. Vốn tiếng Anh lớp 12 của tôi chỉ đọc được họ và tên, quốc tịch, số điện thoại của ông ta. Tôi phải chạy đi tìm ông giáo viên tiếng Anh nhờ dịch hộ. Ông giáo viên vừa đưa mắt nhìn qua cácvidít đã hỏi tôi ngay: Cậu làm thế nào mà quen được ông này? Tôi thật thà trả lời: Thưa thầy, ông ấy đến ăn ở cửa hàng Có Ngay của em. Ăn xong, ông ấy đưa em cái này. Ông giáo tiếng Anh nói nhỏ với tôi ra điều quan trọng: Ông này là Thái tử Vương Quốc Balôđitxtăng. Chuyện chỉ có thế mà chỉ ít phút sau, khắp thị xã đã đồn rinh lên thằng Hệ được nói chuyện với Thái tử Vương Quốc Balôđitxtăng. Có người còn nói thêm, lúc chia tay Thái Tử còn đưa cho thằng Hệ cái cácvidit toàn chữ mạ vàng. Các cụ thường bảo đầu chày máy đến cuối chày máy, câu chuyện đã khác đi rồi. Đầu phố thì nói thế, đến cuối phố câu chuyện đã thêm giấm thêm ớt như sau: Thái tử Tây Ba lô khen thịt chó của nhà hàng Có Ngay ngon quá nên đã bo cho thằng Hệ 100 đô. Lại có người dám kể như chính mắt mình nhìn thấy: ông Thái tử ngồi xếp chân bằng tròn, ăn dồi chó rồi gật gù khen: Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó. Ngon tuyệt. Sợ vi phạm nhân quyền, một ông ở huyện đến nhà hàng gọi: Hiệp 1 số 6, hiệp 2 số 14. Vừa ăn xong hiệp 1, ông đã kiếm cớ gặp tôi hỏi chuyện về ông Thái tử đó: Chú em có thấy ông ấy hỏi về nhân sự Đại hội kỳ này không? Tôi lắc đầu: Báo cáo đồng chí, không ạ. Ông hỏi tiếp: Cậu có thấy mấy tay viết báo đả kích chủ trương giải phóng mặt bằng làm sân gôn của tỉnh ủy thì thụt đến đây không? Tôi lắc đầu: Không. Ông vẫn hỏi tiếp: Thế cậu có thấy ông ta hỏi han gì về mấy tay chuyên gây rối ở tỉnh ta chuyên xúi giục dân đâm đơn lên tận Trung ương kiện chính quyền không? Tôi lắc đầu: Không. Đúng lúc ấy, một nhân viên phục vụ đến gọi tôi về làm món đùi ninh, ông đành chấm hết câu chuyện một người hỏi rồi một người trả lời.

Vũ Bão


Offline SUCSONG@  
#6 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 08:11:55(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Offline SUCSONG@  
#7 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 09:42:04(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Một miếng để đời (Phần hai)
Bố tôi nhắn tôi về nhà. Tôi vừa mớái về đến sân, bố đã hỏi ngay: anh có nhận 500 đô la của thằng Tây ấy không? Tôi cười: Từ thị xã về đây, con đã được thêm 400 đô la rồi đấy bố ạ. Bố tôi bảo tôi: Của Tây, ăn không mát đâu. Tôi nói nhỏ với bố tôi: Miệng thiên hạ đồn thổi, bố tin hơn đứa con bố mẹ đứt ruột đẻ ra à? Bố tôi thở dài: Nghe những người đi thị xã về kể chuyện về anh, em cứ rối cả ruột lên, bây giờ nghe anh nói em mới yên tâm. Tốt nhất đừng có dại dây vào những chuyện Tây Tầu đó.

      Từ hôm sau đó, ngày nào tôi cũng thấy mấy người lạ mặt đến ăn. Khiếp, họ ngồi lâu dễ đến chảy nước ra.  Tôi nghĩ ngay đến X. 30, X. 31, X. 32 đang theo dõi một tên gián điệp nhưng tôi chẳng có cái họ đang tìm nên tôi cứ yên tâm. Thỉnh thoảng một người lạ mặt tìm cách gặp tôi dù chuyện trên trời dưới đất nhưng cuối cùng vẫn xoáy vào ông Thái Tử Vương quốc Balôđitxtăng. Nào là ông ta có thiếu tiền đâu mà phải ăn đến 15 ngày, mỗi ngày chỉ một món? Nào là Tây chịu ăn mắm tôm có nghĩa là ông ta chịu “khổ nhục kế” lắm nhưng chịu khổ nhục kế đến như thế còn nhằm mục đích gì? Thái Tử Vương Quốc phải nói chuyện với thằng Đóm là ông chủ chứ, tại sao ông ta lại nói chuyện riêng với thằng phụ bếp như tôi? Tôi gặp thằng Đóm xin thôi việc. Thằng Đóm trông lù đù thế mà đôi lúc nó cũng có câu chất lượng.  Nó bảo tôi: Cậu cứ ở đây, ai mà họ không nghi. Công việc của họ là nghi mà. Cái gì thì cũng còn mình làm chứng. Cậu bỏ đi chỗ khác, họ cho là mình sợ và xảy ra việc gì thì chẳng có ai làm chứng cho cậu. 
      Nó đã nói đến thế, mình bỏ đi sao tiện. Tôi cứ ở lại và ngày ngày cứ phải tiếp mấy ông khách chỉ hỏi đi hỏi lại mấy câu nghe đến phát bực mình. Càng bực mình bao nhiêu tôi càng oán ông Thái Tử Vương Quốc Balôđitxtăng bấy nhiêu. Thích thịt chó thì cứ đến ăn, hà tất gây ra những chuyện phiền hà rắc rối cho người khác. 
      Mãi về sau này tôi mới biết, khi về đến Balôđitxtăng, Thái Tử đã gửi giấy mời sang cho tôi nhưng cơ quan có trách nhiệm đã giữ giấy mời lại và bí mật điều tra xem quan hệ giữa ông ta và tôi như thế nào, chuyến đi của tôi sang Balôđitxtăng có dính dáng đến những nhóm Việt Kiều lưu vong không, có bàn tay của những Mặt trận này, Liên minh nọ không. Giấy mời cứ nằm đấy, người đi điều tra ngày ngày cứ đến quán Có Ngay làm một đĩa thịt chó theo đúng quy định của phòng tài vụ nên chẳng moi ra được điều gì. Cấp dưới hỏi lên cấp trên, cấp trên bảo rằng còn nghiên cứu, cấp trên thúc cấp dưới đi sâu phát hiện thì cấp dưới báo cáo lên rằng đang tích cực đi sâu. Còn tôi do đó vẫn dậm chân tại chỗ ở trong bếp tầng ba nhà hàng Có Ngay. 
      Chính trong lúc ấy, tại một hội nghị quốc tế, Thái Tử gặp một vị đại diện chính phủ ta, bèn than phiền về việc đó.  Khi về nước báo cáo  kết quả cuộc vận động các nước đầu tư vào Việt Nam, vị Đại diện đó khéo léo chuyển lời than phiền lên một Đấng Quyền Uy. Đang khát khao gọi các nhà đầu tư Balôđitxtăng sang Việt Nam, Vị Quyền Uy liền chỉ thị cho văn phòng kiểm tra xem thực hư thế nào. Kết quả là chuyện có thật. Tỉnh chỉnh huyện, huyện biện xã, xã nã vào thôn, thôn dồn vào dân, thế là Tỉnh báo cáo lên Đấng Quyền Uy đang thuyết phục đương sự phải đi Balôđitxtăng nhằm đặt mối quan hệ lâu dài, sau này chúng ta thiếu vốn cần xây dựng nhiều công trình lớn, có thể chọn Balôđitxtăng làm đối tác tin cẩn và trong lúc đang xây dựng nhà máy lọc dầu, chúng ta có thể mua trước trả sau dầu xăng của Vương Quốc Balôđitxtăng. 
      Lúc thường thì khó đến thế nhưng bề trên gõ cho một cái vào đầu, hình như các cấp choàng tỉnh dậy, thả hết tốc lực ra làm cho vừa lòng bề trên đến mức tôi chưa kịp nghĩ tới nên đem đầu đến cửa nào trước thì chỉ trong một vài ngày tự dưng tay chữa xe đạp ngồi đối diện với quán Có Ngay đã thu dọn đồ nghề biến mất, tay ấy vội đến mức bỏ quên cả cái bơm Tầu ở gốc bàng. Các thứ Thái Tử gửi cho tôi bị lưu kho: vé máy bay, quần áo, giầy, mũ... rồi hộ chiếu đã được trên tỉnh đem đến đủ cho cái thằng Phạm Thế Hệ ở thôn Chè, xã Trà Thủy, huyện Sông Trà, tỉnh Trà Lý rồi. Mẹ tôi bàn với bố tôi bán cái ao cho tôi lấy tiền đi Balôđitxtăng chuyến này, bố tôi cười: Thời buổi này, chẳng cái gì là chắc cả. Tôi thưa chuyện với bố tôi: Ngày mai con lên Hà Nội đăng ký vé máy bay rồi, bố bảo đã chắc chưa? Bố tôi cười: Chưa chắc. Biết đâu đêm nay, thằng thư ký đến tâu với Đấng Quyền Uy, lãnh đạo tỉnh chưa đi, tiến sĩ chưa đi, nhà văn chưa đi, nhạc sĩ chưa đi, doanh nhân chưa đi, làm sao lại để cái thằng giết thịt chó ở thôn Chè đi sang Vương Quốc Balôđitxtăng được. Hãy cho nó đi chuyến sau.  Xếp một thằng làm thịt cầy đi chuyến sau là phải quá rồi còn gì. Rồi cái chuyến sau cũng phải đợi đến ngày sang tiểu. Suất mình không đi thì một tay lãnh đạo đi. Có gì khó giải quyết đâu. Đến khi tôi cầm vé máy bay về cho bố tôi xem, tôi trỏ vào chữ OK đỏ in trong tấm vé: Thế này bố bảo đã chắc chưa? Bố tôi vẫn bảo: Chưa chắc. 
      Đến ngày lên đường, thằng Đóm thuê một xe Toyota 24 chỗ ngồi chở bố mẹ tôi, 6 thằng “tú đụp” làng Chè - trong đó có cả tôi, vợ chồng thằng Đóm, thằng Cốc. Còn hàng ghế trống, chú bác tôi bên nội, cậu mợ tôi bên ngoại ngồi kín chỗ, vênh vang có thằng cháu được mời đi nước ngoài theo lời mời của một ông Thái Tử chứ không phải một thằng Tây ba lô nào.                                                          
      Đến lúc vai đeo ba lô, tay xách túi du lịch vào phòng chờ, tôi nói khẽ với bố tôi: Bố ơi, thế này đã chắc chưa? Bố tôi định nói gì nhưng kịp thời kiềm chế chỉ cười ra vẻ chịu thua. Mãi về sau trong lúc vui chuyện, ông mới nói với mẹ con tôi: Có con đi nước ngoài, thằng bố nào không thích ngọng lưỡi ra nhưng hồi ấy em thấy truyền hình nhà nước đưa tin máy bay của ta đâm vào núi, máy bay Mỹ tự dưng lao xuống đất, máy bay Pháp bị không tặc bắt con tin, em cũng hốt nhưng nói ra giữa lúc con cái lên đường là không có lợi nên em cố nhịn không nói. 
      Họ Phạm chúng tôi tuy có cả kỹ sư, bác sĩ, nhà văn, nhà báo, lại có cả dũng sĩ, anh hùng nhưng chẳng có ai được đi nước ngoài lần nào, còn họ Lê, họ Vũ có con cháu đi Liên Xô, đi Đức, đi Tiệp, đi Hung, thấy tôi đi Balôđitxtăng thì dè bỉu: Ngày xưa, chúng tôi đang ở các nước xã hội chủ nghĩa có các vàng không ai thèm bước chân đến cái nước Mường Mán ấy.

*
*     *

      Phải công nhận trong việc tổ chức đường dây vận chuyển chó sang Balôđitxtăng, thằng Hoài là một thằng “có nghệ”: không một trục trặc nho nhỏ nào xảy ra trong các chuyến bay Hà Nội - Utopi. Thái Tử đã chỉ thị cho Hãng Xây dựng Hoàng Gia xây một trại nuôi chó dưới danh nghĩa Phân viện của Viện nghiên cứu gia súc. Một ông tiến sĩ sử học lâu nay chỉ chuyên tâm nghiên cứu thủy tổ loài người là con khỉ hay là con ngựa. Ông đã nghiên cứu sách Đông Tây kim cổ thì thấy rằng loài người từ thứ dân đến huyện trưởng, tỉnh trưởng, thủ tướng, tổng thống, từ hạ sĩ đến trung sĩ, đại úy, thiếu tá, trung tướng, đại tướng vẫn hay ra đòn theo kiểu đá hậu, tuy mỗi thời, mỗi nước có cải tiến đi một chút cho phù hợp với phong tục, tập quán, hiến pháp, luật lệ nhưng miếng võ cơ bản vẫn là miếng đá hậu theo gien di truyền. Bản luận văn của ông dày tới 567 trang nhưng Hội đồng Khoa học Hoàng Gia chưa bố trí thời gian cho tiến sĩ trình bày vì 123 bản luận văn khác vẫn cứ xếp hàng như thời Balôđitxtăng còn phải duy trì chế độ tem phiếu phân phối lương thực, thực phẩm thời chưa hạ mũi khoan thăm dò dầu khí ở biển. Lý sự về chuyện tổ tiên của loài người là loài ngựa của ông tiến sĩ không đủ sức kéo dài tới 568 trang nên ngày ngày đến Viện Sử học Hoàng Gia, ông tiến sĩ lại vần vò những trang bản thảo cũ đến mức ông có thể đọc luận văn không cần nhìn vào văn bản. Chính ông cũng chán, không đủ kiên nhẫn chờ 123 ông khác trình bày xong luận văn của họ. Vốn là người tự trọng, ông không thèm chen ngang nên đến khi Thái Tử gọi ông sang Viện Nghiên cứu Gia súc Hoàng Gia, ông xách cáctáp đi liền không buồn ngoái cổ lại nhìn bản luận văn tổ tiên loài người là khỉ hay là ngựa. 
      Hãng Xây dựng Hoàng Gia đã xây dựng xong trại chó - tức là phân viện khuyển học thuộc Viện nghiên cứu gia súc Hoàng gia. Trại chia làm nhiều ngăn, mỗi ngăn nhốt một chú chó ta. Hai hàng máng ăn chạy dọc hai bên hành lang. Ngày ba lần, một cô đẩy xe cơm và thức ăn đi theo hành lang, lần lượt xúc từng suất một vào máng. Đến chiều, một nhân viên lực lưỡng nâng vòi bơm chĩa vào từng ngăn cho từng chú chó tắm. Buổi đầu tiên con chó nào cũng hoảng sợ vừa sủa vừa nép vào hàng lưới thép ở vách ngăn, dần dần chúng vừa nép vào hàng lưới thép vừa ngoái cổ về phía nhân viên cầm vòi phun, không thấy ông cầm vòi phun có dấu hiệu làm hại chúng, con nào con ấy rùng rùng bộ lông giũ nước ra điều khoái chí. Chúng không thể nào hiểu được chỉ sau một giấc ngủ con nào con ấy đã sớm vĩnh biệt cái kiếp lang thang đầu vườn cuối bãi mà nhanh chóng lên đời đến kỳ lạ như thế này. Cơm đã không bị hắt xuống dưới đất lại còn trộn thịt trộn cá ,con nào con ấy cứ việc ăn thả cửa, ăn đến nhờn mõm không sợ bị ai đá vào sườn, cầm gậy giáng vào lưng. Chỉ có một việc không con nào biết: thỉnh thoảng một con biến mất khỏi trại mà chính hai con ở hai ngăn bên cũng không hiểu tay hàng xóm của mình biến đi đâu. Cũng may, nếu chúng là thằng người thì thế nào chúng cũng phải theo dõi, tìm hiểu thằng hàng xóm ấy đang ăn mảnh ở đâu mà chen ngang đòi được hưởng một suất ngang với nó. Rất tiếc những con đang bị nhốt trong phân viện khuyển học không cài được máy ghi âm theo dõi cuộc nói chuyện của Thái Tử với tôi:
      Thái Tử - Theo lời khuyên của ông, chúng tôi đã thiết lập một đường dây bí mật chuyển chó Việt Nam - xin lỗi, cày ta sang Balôđitxtăng, chúng tôi cũng đã đặt mua riềng mẻ, mắm tôm, các loại gia vị từ bên Pháp nhưng sao ăn không thấy ngon bằng những món các ông làm ở nhà hàng Có Ngay. 
      Tôi - Thưa Thái Tử, các công đoạn chế biến, tôi vẫn làm đúng như ở Việt Nam, không hề thêm bớt một tí gì. 
      Thái Tử -Trong thời gian ông sang khách sạn Hoàng Gia, có ai làm chuyện gì mà ông không hài lòng?
      Tôi - Thưa Thái Tử, sống bên khách sạn Hoàng Gia, tôi được tự do như ở nhà mình, không có vấn đề gì phải bận tâm cả. 
      Thái Tử - Hay trước khi sang Balôđitxtăng, ông còn vướng mắc vấn đề gì với chính quyền địa phương?
      Tôi - Thưa Thái Tử, không có vấn đề gì. 
      Thái Tử - Thế chuyện phân chia tài sản trong gia đình, ông có chuyện gì chưa được giải quyết, tôi sẽ nhờ đoàn luật sư giỏi nhất cử người giúp đỡ ông. 
      Tôi - Trong gia đình ở nước chúng tôi, mọi công việc đều do các thành viên tự giải quyết, chưa bao giờ phải mời các luật sư. 
      Thái Tử - Tôi còn nhớ có hai bố con một ông gì to lắm cũng tranh chấp một gian nhà và một cái sân.  Đài VOA, Đài BBC, Đài RFI cũng đưa tin này. 
      Tôi - Nhưng hai bố con ông ấy tự giải quyết xong rồi. 
=======================
huhuhu k ai vỗ tay một cái vậy ta.

Offline the_rock  
#8 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 09:43:45(UTC)
the_rock

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 10-10-2006(UTC)
Bài viết: 489

Cảm ơn: 7 lần
Được cảm ơn: 21 lần trong 15 bài viết
Bác post nhìu truyện trong thời gian ngắn vậy đã đọc hết chưa?
Và ta biết một điều thật giản dị, càng xa em ta càng thấy yêu em...
Offline SUCSONG@  
#9 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 09:44:35(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Một miếng để đời (Phần cuối)
Mười vị chuyên gia của Hội bảo vệ chó quốc tế vừa xuống máy bay đã được mười cô lái taxi xinh đẹp mời lên xe đưa về Trung tâm giải trí Hoàng gia nghỉ ngơi.

 

      Buổi chiều các vị đi tắm tiên, đến tối các cô lái xe taxi lại đưa các vị lên khu Hồng Đăng du hí.  Ngày hôm sau và một ngày nữa vị Trưởng đoàn cố tìm cách liên lạc với Chi nhánh Hội bảo vệ chó quốc tế Balôđitxtăng. Cái ngày mong đợi ấy không bao giờ đến vì tay chân gỗ vừa mò đến Trung tâm giải trí Hoàng gia đã bị Cục phản gián lôi đi biệt tăm và cho một sĩ quan phản gián đóng vai “chân gỗ” phát đúng tín hiệu liên lạc đến cung cấp tin về địa điểm bí mật nuôi vỗ chó. Mười cô sĩ quan phản gián ngày ngày cứ việc lái xe đưa mười ông chuyên gia của Hội bảo vệ chó quốc tế đi đến những vùng sâu, vùng xa tìm địa điểm nuôi vỗ chó, chiều chiều lại đưa các vị về Trung tâm giải trí Hoàng gia, tối lại đánh xe đưa các vị lên du hí trên khu Hồng Đăng. Hôm đầu, các vị còn gỡ gạc các cô lái xe, từ hôm thứ hai trở đi, vị nào vị ấy cứ như đàn cò bị bão, lờ đờ bước vào trong xe rồi ngủ dúi dụi trên ghế, thi nhau ngáy. Được cái cả mười vị đều làm việc tận tình, đi sâu, đi sát thực địa, mười cô sĩ quan phản gián cũng tận tình lái xe đến bất cứ nơi nào các vị chuyên gia yêu cầu, mười hội viên Nghiệp đoàn Thanh Y Hồng Đăng càng tận tình vắt kiệt sức các vị khách nước ngoài khi các cô buông con mồi của mình ra thì các vị khách quý chỉ còn là cái bã người. Đã thế, bếp trưởng ở Trung tâm giải trí Hoàng gia còn nghiên cứu nghệ thuật ẩm thực Phương Đông chế biến những món tráng dương và đem cả rượu Nhất dạ ngũ giao, rượu cá ngựa về cho các vị khách thưởng thức nhưng các vị khách coi khinh hết. Trước khi đi sang Balôđitxtăng, vị nào vị ấy đã dự trữ hai cơ số Viagra để dạy cho con gái Balôđitxtăng biết thế nào là đàn ông ngoại quốc rồi nức nở khen hàng ngoại khoái hơn hàng nội. Tình cảnh mười chuyên gia của Hội bảo vệ chó quốc tế bây giờ giống như một tay đánh bốc bị knock-out rồi nhưng được uống thuốc tăng lực cho mau hồi sức. Các cổ động viên xốc nách đống bã người ấy ẩy lên đài làm bị cát cho “đối tác” đánh đến rủn tỉ nhưng đống bã vẫn say đòn, cố leo lên đài loạng choạng vung găng cho hết hiệp. Trong lịch sử tình báo thế giới chưa bao giờ có chuyện một điệp viên bị tra tấn đến nhũn người ra nhưng cứ lao vào xin tiếp tục chịu đòn, miệng vẫn “hô khẩu hiệu” qua hơi thở hắt ra “Phướng phì phướng phưng phứ phở phì phò”.     
      Tự dưng tôi được Thái Tử giao nhiệm vụ làm một bữa đủ cả dồi chó, nhựa mận, xào lăn, tái chó, chó luộc, chả quạt than hoa phục vụ mười vị đang đi lùng địa điểm bí mật nuôi vỗ chó. Lần đầu tiên được xơi những món lạ miệng lại tráng dương, cả mười vị đều chén sạch sành sanh lại còn viết hai chữ BIS! BIS! vào góc tờ thực đơn đặc biệt chuyên đề về thú rừng quý hiếm
      Hết một tuần đi thanh sát địa điểm nuôi vỗ béo chó, cả mười ông chuyên gia báo cáo về Trung tâm thông tin của Hội bảo vệ chó đã phát hiện dấu vết khả nghi. Giám đốc Trung tâm thông tin xin ý kiến Chủ tịch Hội bảo vệ chó quốc tế thông báo cho mười ông chuyên gia gắng chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn tiếp tục thanh sát. Hỡi ơi!Đáng lẽ mười ông trời đánh thánh vật này phải làm đơn xin kéo dài thời hạn thanh sát để tiếp tục cơm no bò cưỡi thì cấp trên lại “bắt” ở lại thêm một tuần nữa. 
      Bảy giờ sáng sáng, xe của các nữ sĩ quan phản gián cứ việc chở mười ông chuyên gia vừa mở được mắt rề rà xơi xong bữa lót dạ đã mười giờ rồi. Xe lăn bánh chạy vu vơ quanh vùng ngoại thành một lúc rồi các cô lại đưa mười ông về Trung tâm giải trí Hoàng gia dùng bữa trưa. Mười ông ngủ trên xe chưa đủ đô nên dùng bữa xong, mười ông ngủ lăn như chết. Mười nữ sĩ quan phản gián không thèm lẻn vào đoạt tài liệu như sách báo trinh thám đã viết vì cả mười ông đã phát hiện được tí gì về dấu vết địa điểm nuôi vỗ béo chó đâu. Các ông ngủ để lấy sức làm đêm, quên cả chương trình đi thanh sát buổi chiều. Dùng bữa tối xong, mười chiếc xe Innova lại đưa các ông lên khu Hồng Đăng. 
      Sau một tuần đánh cầm cự kiểu võ sĩ vờn găng trên đài, cả mười ông thống nhất nhận xét: Chính quyền Balôđitxtăng cố tình bao che vụ thảm sát chó này. Căn cứ vào những tấm ảnh chụp được trong thời gian thanh sát, đề nghị Trung tâm thông tin thuê một máy bay không người lái chụp những địa điểm đã khoanh vùng mới phát hiện được chính xác nơi đang cất giấu chó. Thực ra cả mười ông cùng thấy hai tuần ăn chơi nhảy múa vừa rồi là cơm toi, vác mười cái mặt thớt này về thế nào cũng bị sa thải là cái chắc nhưng không biết phá bí bằng cách nào. Thật không cái dại nào giống cái dại nào, giá cứ bỏ tiền túi ra mà thưởng thức mùi vị Balôđitxtăng cũng bõ đồng tiền. Còn nhờ Chủ tịch Hội bảo vệ chó quốc tế che tàn, nương bóng tiền chùa thì bây giờ về ăn nói sao cho trôi hai tuần sáng hạ giới, đêm thiên đường? Đang lúc cả mười ông đã no xôi chán chè, đang tính sao cho trôi chuyện trả nợ miệng thì ông trưởng đoàn nghe tiếng chuông điện thoại. Ông vội toài người về phía điện thoại rồi nhấc máy lên: Alô, tôi nghe đây. Một tiếng con gái rất trong vọng qua ống nghe: Anh có thể bớt chút thì giờ vàng ngọc nói chuyện với em được không? Ông Trưởng đoàn quên hết mệt nhọc vui vẻ trả lời: Nói chuyện với người đẹp, anh coi đó mới là thì giờ vàng ngọc. Tiếng cô gái vọng qua ống nghe: Thế thì vinh dự cho con gái Balôđitxtăng chúng em quá! Chuyện liên quan đến công việc của anh đấy. Anh xuống quán giải khát Mê Ly, qua cửa, anh nhìn sang góc bên phải, em nóng lòng chờ.                         
      Trưởng đoàn hôn đến chụt một cái vào ống nói thể hiện quyết tâm đi tìm thì giờ vàng ngọc của mình rồi gác máy. 
      Đúng như cô gái đã hướng dẫn, ông vừa bước qua cửa vừa nhìn sang góc phải đã thấy một cô gái non tơ đang tươi cười khẽ gật đầu như muốn nói “Em đây!” Ông Trưởng đoàn đi thẳng về chỗ cô gái. Không dài dòng xã giao, cô gái nói ngay: Việc khẩn cấp lắm, em phải bỏ qua những thủ tục rắc rối gặp anh, trao cho anh những bí mật Nhà nước Balôđitxtăng đang cố tình che giấu. Em sẽ đặt túi xách tay của em trên ghế, anh chọn đúng ngăn có phécmơtuya, kéo nhẹ hàng khóa ra rồi lấy thỏi USB. Anh cứ bình tĩnh ngồi uống nước, lúc nào muốn đi thì đi. Em sẽ quay lại coi như tìm cái túi bị bỏ quên. Ông Trưởng đoàn vội giơ tay ra hiệu ngăn cô gái đừng rời bàn vội: Công lao của em rất lớn. Anh phải thưởng cho em thật xứng đáng. Mời em đi theo anh. Cô gái xua tay: Trước mắt anh phải chuyển những điều bí mật này về Trung tâm cái đã. Tiền thưởng em sẽ gặp anh sau. Nói xong cô lẳng lặng đi thẳng, không ngoái cổ lại. Trưởng đoàn nhìn theo thầm phục người anh hùng vô danh đã vì đại nghĩa dám dấn thân vào con đường nguy hiểm không tính toán hơn thiệt về mình
      Ông nhét thỏi USB vào túi áo, cố làm ra vẻ bình tĩnh uống vội ly cà phê rồi trở lại nhà nghỉ. Ông chạy đi vừa đấm cửa từng buồng vừa gào: Sang ngay phòng tôi! Chín ông chuyên gia vừa chạy sang đến nơi đã thấy ông Trưởng đoàn vừa đấm hai tay lên trần nhà vừa reo to như cổ động viên thấy đội nhà sút tung lưới đối phương: Thấy rồi! Chín ông chuyên gia chẳng biết ông Trưởng đoàn thấy gì cũng reo theo: Thấy rồi! Quang cảnh cái phòng của Trưởng đoàn vừa ồn ào vừa nhốn nháo như boong thuyền của Christophe Colombus khi vừa nhìn thấy dải đất Tân Thế Giới còn mờ mờ phía xa.
    Ông Trưởng đoàn móc túi giơ thỏi USB lên cao rồi quá phấn khởi không ghìm lòng được cũng hét lên: Không chui xuống hầm tối sao lấy được vàng! Nói đoạn ông tháo máy vi tính xách tay ra khỏi bao da, bật máy rồi cắm thỏi USB vào ổ. Ông ấn một nhát vào hàng phím. Một hàng chữ hiện trên màn hình: 
      LŨ CHÓ HIỆN NGUYÊN HÌNH
      Bản nhạc The Last Waltz nổi lên tha thiết, chín ông chuyên gia khom lưng châu đầu về phía màn hình theo dõi đoàn xe Innova nối đuôi nhau chồm chồm trên con đường đá chạy vòng vèo dưới chân núi.                                            
      Đến ngã ba, đoàn xe rẽ theo tấm biển in mũi tên và dòng chữ UTOPI 52km. 
      Đoàn xe nối đuôi nhau chạy trên con đường sáu làn nằm giữa hai dãy nhà cao tầng. 
      Đoàn xe rẽ theo hướng tấm biển KHU HỒNG ĐĂNG.   
      Xem đến đoạn phim này, không vị chuyên gia nào nói năng gì nữa, cứ im thin thít nhìn vào màn hình: Từng vị một bước qua cửa một tòa nhà treo đèn lồng đỏ, máy quay cận cảnh từng khuôn mặt hau háu, thèm khát. Tiếp đến là cảnh Trưởng đoàn mình trần trụi như con lợn cạo giơ hai tay vuốt ve mông một cô gái đang chống hai tay xuống giường vào vai con chó cái. Trưởng đoàn từ từ tiến sát mông cô gái rồi với vai con chó đực ông ta biểu diễn các động tác đúng như những động tác các quý vị đã được xem phim con lợn ở nhà. 
      Chín ông chuyên viên thở dài nhẹ nhõm khi thấy mình vô tang chứng. Bỗng một tiếng “Trời ơi!” rú lên. Một ông chuyên viên xuất hiện trên màn hình cũng đờ đẫn vuốt ve mông một cô gái Balôđitxtăng đang chống hai tay xuống giường làm con chó cái. 
      Ông diễn đúng động tác của con chó đực đang làm nhiệm vụ thiêng liêng với thế hệ tương lai. Máy quay cận cảnh khuôn mặt hớn hở, phơi phới tràn đầy khoái cảm của ông. Chợt một ông chuyên viên vừa trỏ vào màn hình vừa hét to lên: Tôi bị con gái Balôđitxtăng cho uống thuốc mê! Ông Trưởng doàn cũng phụ họa theo: Tôi cũng thế. Một ông chuyên gia lấy tay gạt mấy người đứng gần màn hình ra rồi khom người chỉnh phím điều khiển cho bộ phim phát lại từ đầu. Đến lượt ông Trưởng đoàn hét to: Tôi bị chúng nó cho uống thuốc mê! Cả chín ông chuyên gia cùng nín thở xem, chẳng ai thấy người trên màn hình có dấu hiệu của người đã ngấm thuốc mê mà chỉ thấy ông biểu diễn những động tác nhịp nhàng và chủ động chuyển cảnh như một diễn viên có nghệ.
 Bộ phim quay được mười đoạn, mười ông lần lượt làm chó đực, mỗi đoạn chia làm nhiều cảnh, mỗi cảnh lại được thu vào ống kính dưới nhiều góc độ khác nhau, chứng tỏ mỗi ông trong từng phòng đều vào vai con chó dưới mấy ống kính chứ không phải dưới một ống kính cố định. Bàn tay đạo diễn thể hiện ở chỗ đã quay chộp được những lúc hứng khởi nhất của từng ông trong cận cảnh, trung cảnh. Cô gái Balôđitxtăng đóng vai chó cái đã thể hiện đúng nhân vật phụ xuất hiện trước ống kính chỉ để làm nổi bật vai trò chủ đạo của nhân vật chính. Tiếng động trong phim chính là những âm thanh ghi tại trận và nhạc nền cho từng đoạn có chọn lọc, không phải loại nhạc bổ củi trong các đĩa hàng chợ bán đầy ở sạp. Mỗi đoạn phim luồn âm thanh của một nhạc cụ khác nhau: Girl, you are my love chơi bằng ghi ta, Moon river chơi bằng kèn trompette, Sealed with a kiss chơi bằng mandoline, Donna chơi bằng violon, Only you chơi bằng đàn balalaika, You needed me chơi bằng kèn saxophone...
      Cả mười ông có lẽ cả đời mới được chiêm ngưỡng dung nhan của mình trong vai chó đực một lần. Ông nào ông ấy cứ như bị điểm trúng huyệt, người vẫn ngồi đấy nhưng mắt cứ dại ra, mồm cứ lập bập không nói thành lời. Tay chọc mắt rồi, còn kêu với ai. Bị một thỏi USB giáng trúng huyệt, cả mười ông chẳng ai kịp bàn với ai, cùng tính bài tẩu mã. 
      Thủ tục xuất cảnh, chính quyền Balôđitxtăng giải quyết rất nhanh. Ngay chiều hôm sau, mười nữ sĩ quan phản gián đã lái xe đưa mười vị chuyên gia của Hội bảo vệ chó quốc tế ra sân bay. Các cô lái xe cũng cứ vờ như không có chuyện gì xảy ra. Mười vị chuyên gia ngả lưng vào thành ghế đệm, người cứ nhũn như vừa bị rút xương, mi mắt nặng chình chịch. Ngay cả lúc vào phòng đợi, các vị khách du lịch đặc biệt này cũng không nho nhoe gì nữa. Mấy tay trinh sát được phân công theo dõi thỉnh thoảng lại kiếm cớ đi qua hàng ghế các vị ngồi chờ, liếc nhanh xem các vị khách quý có còn đủ sức trở về cố quốc hay không. Bác sĩ ở ga sân bay quốc tế có ghé qua hỏi nhỏ: “Tôi có phục vụ quý vị được việc gì không?” cũng chẳng thấy ai trả lời, không biết vì thua một keo lấm lưng, trắng bụng hay vì hết hơi tàn sức.                          
      Trông người lại ngẫm đến ta, tôi chắc những ngày tôi sống ở thành phố Utopi cũng được chăm sóc thế này đây, sao nó nhẹ nhàng, êm ái đến thế chứ không đến nỗi xuất hiện một ông chữa xe tự dưng vác đồ nghề ngồi giữa lối đi vào cửa hàng.

Vũ Bão

Offline the_rock  
#10 Đã gửi : 18/06/2007 lúc 09:48:10(UTC)
the_rock

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 10-10-2006(UTC)
Bài viết: 489

Cảm ơn: 7 lần
Được cảm ơn: 21 lần trong 15 bài viết
Tại bác post 1 lúc nhìu quá sao đọc hết, cái nì phải lúc nào có hứng mới đọc được.
Chứ đọc qua loa mấy truyện liền không hiểu rõ hay dở vỗ tay bừa thành ra giả tạo
Và ta biết một điều thật giản dị, càng xa em ta càng thấy yêu em...
Offline SUCSONG@  
#11 Đã gửi : 19/06/2007 lúc 03:43:22(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

  khong doc, seo dam spots len ha em trai. Tu tu ngam nhap nhe hihihihi
Offline SUCSONG@  
#12 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:49:24(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Tình thư nhất bức

Erskine Caldwell

Mắt Rê chớp chớp không tin, chằm chằm đưa mắt qua cái nắp kính, nhìn bức thư một lúc lâu. Sau đó, tay run run, anh mở hộp thư, lấy ra chiếc phong bì màu hồng. Khi bắt đầu dọc thư, vẻ buồn bã trên bộ mặt thuôn gầy của anh dần tan biến, anh bắt đầu mỉm cười. Rồi đột nhiên, anh nhét bức thư vào túi, lao ngay ra khỏi phòng bưu điện...

Theo thói thường ai mà chả thích nhận thư, song chắc chẳng có người nào trong thị trấn Nước Lặng lại thích nhận được thư gửi hơn là Rê Bơphin. Tuy vậy, Rê là người nhận được thư tại hộp thư của anh ở phòng bưu điện ít hơn bất kỳ ai.

“Khỉ gió thật!” – Rê thường thốt lên như vậy, vẻ buồn bã hiện trên gương mặt thuôn gầy khi anh nhìn lại lần cuối hộp thư của mình, rồi rời phòng bưu điện. Những lúc như thế, cả cái thân hình cao, xương xẩu của anh rũ xuống, thất vọng: “Lần này, vẫn không có thư, nhưng trong lòng, mình tin tưởng một ngày nào đó sẽ nhận được một bức thư”.

Tất nhiên, vì chẳng có họ hàng thân thích để trao đổi thư từ và không quen biết người nào ở ngoài thị trấn Nước Lặng, cho nên bản thân anh cũng chẳng có lý do gì để viết một bức thư. Trường hợp ngoại lệ duy nhất đã xảy ra một lần từ nhiều năm trước. Hồi đó, Rê khoảng 13 tuổi – anh đã viết một lá thư gửi cho một cô nàng, nàng kiều diễm biết bao. Anh kết thúc bức thư bằng cách xin cưới nàng, nhưng anh không nhận được thư trả lời.

Giống như một số lớn các thị trấn nhỏ khác, thị trấn Nước Lặng với số dân khoảng năm trăm rưởi, không nằm cạnh đường sắt hoặc quốc lộ lớn, do đó mỗi ngày chỉ có một chuyến thư tới.

Chiều chiều, trừ chủ nhật, chiếc xe ôtô từ Oliơn tới, dừng lại trước cửa phòng bưu điện ở quảng trường thị trấn. Anh lái xe mở cửa, quăng ra hai ba túi bưu kiện chứa đủ các loại thư từ, báo chí, gói nhỏ. Xe thường đến lúc bốn giờ, và chỉ ít phút sau, bác trưởng phòng bưu điện Xít Xtoni đã bắt đầu phân loại thư từ, xếp vào các hộp thư có nắp kính.

Buổi chiều, đúng vào giờ đó, Rê Bơphin bao giờ cũng khóa cửa hiệu của anh lại (anh kiếm sống bằng cách chữa các loại máy thu thanh, đồng hồ báo thức, súng hơi trẻ em), vội vã đi qua quảng trường, tới phòng bưu điện. Cố len thật sát tới hộp thư số 42 của mình, Rê Bơphin đứng ở chỗ đó lo lắng quan sát cái nắp kính nhỏ bé trên hộp thư trong khi Xít Xtoni chậm rãi phân loại, chia thư từ trong ngày.

Trong lúc chờ đợi, người ta đùa cợt và tán chuyện, nhưng Rê Bơphin hầu như chẳng nói một lời nào trong khi đứng quan sát tuyệt vọng hộp thư số 42, cho đến lúc tận bức thư cuối cùng được chia xong. Rốt cuộc, khi Xít Xtoni đã chia xong tất cả thư từ, Rê bao giờ cũng đưa mắt nhìn hộp thư của mình lần cuối, rồi chậm rãi đi ngang qua quảng trường, bộ mặt gầy cúi xuống thất vọng.

- Khỉ gió thật! – Rê thường lẩm bẩm như vậy – Lần này vẫn không có thư.

Về tới cửa hiệu, anh mở khóa cửa, bước vào nhà. Anh thường ngồi khom người trên ghế làm việc cho tới tận khuya.

Trong thị trấn có hai chàng thanh niên, tên là Gai Hogiơ và Ranphơ Bankin, thường nghĩ ra các trò đùa cợt người khác. Một buổi chiều, sau khi quan sát Rê Bơphin lòng đầy hy vọng đứng đợi thư, hai anh chàng bàn nhau, quyết định sẽ gửi cho Rê Bơphin một bức thư ký một cái tên bịa đặt nào đó. Các chuyện đùa cợt của hai anh bạn này bao giờ cũng đầy thiện ý, chẳng hề có ý định làm hại đến ai cả.

Thế là hai anh chàng quyết định bảo mọi người đứng trong phòng bưu điện hãy quan sát Rê lấy bức thư ở trong hộp của anh ta, rồi một người nào đó hỏi thật to xem có phải Rê nhận được thư tình của một thiếu nữ không. Sau đó, một người sẽ giật bức thư ở tay Rê và đọc to cho mọi người cùng nghe.

Gai và Ranphơ đi vòng góc phố, tới tổng đài điện thoại có cô Grêxi Búc trực ban đêm.

Grêxi là một phụ nữ đẫy đà, tóc sáng, hơi đứng tuổi, đã làm việc ở Công ty Điện thoại từ khi tốt nghiệp trung học. Suốt những năm đó, cô ta vẫn sống độc thân. Bởi lẽ Grêxi sống cuộc đời đơn độc, làm việc vào ban đêm và ngủ vào ban ngày, cho nên cô biết hiện giờ cô ít có cơ hội gặp được một người đàn ông muốn lấy cô.

Hai anh bạn Gai Hogiơ và Ranphơ Bankin đến nhử Grêxi viết thư gửi cho Rê, bởi họ muốn thư được viết bằng nét chữ phụ nữ. Thoạt tiên, Grêxi trả lời không muốn dính dáng gì đến mưu mô của hai anh chàng. Cô vừa nói vừa lắc đầu:

- Thật là độc ác. Tôi không bao giờ làm một việc độc ác như vậy đâu.

- Chỉ là chuyện đùa thôi mà, chị Grêxi ạ - Ranphơ cố giải thích – tất cả chỉ là để cho vui thôi mà. Mọi người đều thích thỉnh thoảng diễn ra một chuyện đùa vui vô hại. Cứ tưởng tượng đến cái cảnh sẽ diễn ra khi anh bạn Rê nhận được “tình thư nhất bức” viết trên tờ giấy hồng của một nàng thiếu nữ Mơtơn, hoặc Giơxi, hoặc Phơlơrơn nào đó nói rằng nàng thầm yêu trộm nhớ Rê đã lâu lắm rồi mà không thể che giấu tình cảm được thêm một ngày nào nữa. Cái vẻ mặt buồn thiu của Rê sẽ tan biến nhanh chóng đến mức không ai ở thị trấn này còn nhận ra được anh bạn Rê nữa.

Rồi Ranphơ tiếp tục năn nỉ - Hãy mạnh dạn lên, viết hộ chúng tôi lá thư đi. Chúng tôi không cho anh bạn Rê hoặc bất kỳ ai biết chị viết lá thư đó đâu. Anh ấy chẳng bao giờ biết được mà.

Đột nhiên, Grêxi quay đầu, giấu mặt đi, nhưng không ngăn nổi dòng nước mắt tuôn trên gò má. Hình như cả một cuộc đời đã trôi qua, kể từ khi chị nhận được một bức thư của Rê Bơphin viết rằng anh say mê chị hơn bất kỳ thiếu nữ nào và mong muốn lấy chị. Lúc đó, Grêxi vừa tốt nghiệp trung học và mới bắt đầu làm việc ở Công ty Điện thoại, bởi vì còn mang tính vô tư của một cô gái mới lớn và không hề nghĩ tới việc lấy ai khi còn trẻ trung như vậy, cho nên chị không trả lời bức thư.

Từ đó, suốt trong bao năm, hai người thỉnh thoảng có gặp nhau và chẳng có gì hơn ngoài một sự chào hỏi lịch sự. Mỗi lần nhìn thấy Rê, Grêxi đều thấy anh có vẻ buồn hơn, cô đơn hơn. Trong mấy năm gần đây, có nhiều lần Grêxi muốn chạy đến với Rê, quàng tay ôm cổ anh, xin anh tha thứ vì chị đã không trả lời bức thư. Nếu chị đã trả lời, có lẽ họ đã sống chúng với nhau suốt những năm đó, và bây giờ không ai còn cô đơn nữa.

- Nào chị Grêxi – Gai Hogiơ năn nỉ - Chị hãy mạnh dạn lên, viết hộ chúng tôi lá thư. Nếu chị không viết, chúng tôi sẽ phải tìm người khác đấy.

- Không! - Grêxi nói nhanh, lau nước mắt ở mắt và má - Đừng làm thế! Tôi muốn viết bức thư đó! Tôi không muốn để một người khác viết bức thư đó!

- Tuyệt lắm, chị Grêxi – Ran phơ nói, vỗ vào vai Grêxi - Tôi biết chị thích chuyện vui đùa mà. Nào, chúng ta bàn xem chị nên viết những gì nhé. Tôi nghĩ chị nên kể cho anh bạn Rê là chị say mê anh ấy từ lâu rồi, chị muốn được thân mật hẹn hò với anh ấy. Rồi chị có thể viết rằng nếu, anh bạn Rê không phản đối, chị muốn gặp anh ấy càng sớm càng hay để tâm sự với một việc riêng liên quan đến hai người. Chị làm cho anh bạn Rê nghĩ là chị thật lòng muốn xây dựng gia đình. Rồi chị ký bất kỳ cái tên nào chị thích.

- Tôi cho rằng tôi biết cần phải viết những gì - Grêxi chấp thuận - Tối nay, tôi sẽ viết và sáng sớm mai sẽ bỏ vào hộp thư.

Sau khi hai chàng thanh niên rời tổng đài điện thoại, Grêxi khóc một lúc lâu. Canh khuya đêm đó, chị ngồi viết thư gửi Rê Bơphin và sáng hôm sau, khi rời tổng đài điện thoại chị đến phòng bưu điện bỏ thư.

Gai Hogiơ và Ranphơ Bankin đợi ở phòng bưu điện lúc bốn giờ chiều hôm ấy khi Rê bước vào, đứng trước hộp thư của anh. Lúc đó, một đám người đông hơn thường lệ tụ họp trong phòng bưu điện. Mọi người đều biết chuyện sắp diễn ra. Họ nháy mắt, hích nhẹ nhau đầy vẻ hiểu biết, nhưng hầu như không ai nói một lời nào.

Xít Xtoni chưa bắt đầu phân loại thư từ do xe từ Niu Oliơn chở đến, thì Rê đã nhìn thấy một bức thư nằm trong hộp thư của mình, mắt anh chớp chớp không tin, anh chằm chằm đưa mắt qua cái nắp kính, nhìn bức thư một lúc lâu. Sau đó, tay run run, anh mở hộp thư, lấy ra chiếc phong bì màu hồng. Khi bắt đầu dọc thư, vẻ buồn bã trên bộ mặt thuôn gầy của anh biến mất, anh bắt đầu mỉm cười. Rồi đột nhiên, anh nhét bức thư vào túi, lao ngay ra khỏi phòng bưu điện, chẳng ai kịp nói gì hoặc kịp ngăn anh lại.

Thoạt thấy sự việc xảy ra như vậy, Gai và Ranphơ vừa chạy theo Rê vừa gọi anh quay lại phòng bưu điện. Nhưng Rê vẫn vội vã vòng góc phố đi tới tổng đài điện thoại. Thường lệ, phải đến sáu giờ tối Grêxi Búc mới tới làm việc, nhưng hôm nay chị đến từ bốn giờ chiều Gai và Ranphơ chạy vào, thấy Grêxi ngồi trước bảng tổng đài và Rê đứng bên cạnh, trên mặt nở một nụ cười hạnh phúc và sung sướng nhất trần đời mà hai chàng thanh niên chưa hề thấy trên gương mặt Rê bao giờ.

Rõ ràng chưa ai nói một lời nào, rõ ràng hai người quá xúc động đến mức không nhận thấy Gai và Ranphơ đã có mặt trong phòng, quan sát họ. Lúc này, Rê với tay xuống, cầm tay Grêxi, Grêxi đáp lại tức khắc bằng cách gục đầu vào người Rê, nước mắt lăn trên gò má.

Gai và Ranphơ ra khỏi phòng. Họ chẳng hề nói một lời cho đến khi ra tới đường phố.

- Cái chuyện đùa này sao lại biến thành như thế này được nhỉ? – Ranphơ hỏi, bối rối lúc anh và Gai trở lại phòng bưu điện – Mình cứ nghĩ chúng ta chắc là sẽ được một mẻ cười anh chàng Rê thật thoải mái. Mình không hiểu sự việc đầu cua tai nheo sao cả. Cậu có nghĩ rằng Grêxi Búc đã ký nhầm tên chị ấy không nhỉ?

- Đúng là Grêxi đã ký tên thật của chị ấy, nhưng mình cho đó không phải chuyện nhầm lẫn. Mình thấy xem chừng cả hai người đều muốn lấy nhau từ lâu lắm rồi, nhưng họ quá rụt rè không dám nói năng gì cả. Mình đánh cuộc là nếu chúng mình không nghĩ ra cái trò đùa viết thư thì hai người chẳng bao giờ ngỏ lời với nhau đâu.

- Mình chẳng quan tâm – Ranphơ nói, tự lắc đầu một mình – nhưng lần sau nếu bày ra một chuyện đùa nào, chúng ta phải đảm bảo chắc ăn. Đừng để người ta bắt đầu nói rằng chúng ta không còn bày ra được những chuyện đùa vui vẻ nữa.

- Dù sao chăng nữa, mình cũng rất vui mừng thấy chuyện này đã thành ra như vậy. Hơn nữa, không có chúng ta, Rê chẳng bao giờ nhận được bức thư mà chắc chắn anh ta đã chờ đợi mất một phần lớn cuộc đời.

Đắc Lê dịch

Offline SUCSONG@  
#13 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:50:09(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Tìm vợ

Tuệ Hải

Ba mẹ mất cũng hơn 5 năm, bây giờ ở nhà chỉ còn hai chị em. Chị Hai đã lấy chồng và có một cháu gái 4 tuổi.

Thân làm giáo viên, giảng dạy môn địa, ngoài mười sáu tiết trên lớp, thời gian còn lại trừ những lúc soạn bài, chấm bài ra, Thân chưa nghĩ ra cách dùng nó vào việc gì cho có lợi nhất. Đang dợm đi chơi với bạn, vừa ra khỏi cửa, Thân đã nghe tiếng chị Hai:

- Chiếc áo chị mới ủi sao không mặc? Ngoài bốn mươi mà còn chưa lấy vợ! Thầy giáo gì mà tóc tai dài thượt!

Tính chị vốn thế, việc quan trọng không phải là chiếc áo nhăn, mái tóc quá lứa hay phòng ngủ thiếu ngăn nắp mà là chuyện vợ con. Từ một lẽ khác, nên chuyện quần áo tóc tai, đồ đạc trong phòng; tất cả chị đều có thể gắn liền với bàn tay phụ nữ. Ba má mất sớm, hiện giờ chỉ còn hai chị em, lúc trước chưa có gia đình, ngoài vai trò làm chị dường như ở chị còn mang sự lo toan của người mẹ. Khi có chồng, gánh nặng trách nhiệm đối với gia đình riêng nên chị không còn có thời gian nghĩ đến em.

Có đôi lúc Thân nghĩ chắc chị Hai tưởng lấy vợ thì lập tức ngày mai tóc sẽ gọn gàng, quần áo sẽ thẳng tắp và phòng ốc tự nhiên sẽ ngăn nắp. Cứ nhìn gia đình chị thì khắc rõ: con cái lễ phép, quần áo tươm tất; chồng chị lịch sự sang trọng; nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng. Hàng xóm trông vào cuộc sống gia đình hạnh phúc của chị, ai cũng thèm thuồng. Đặc biệt không mấy khi thấy chị bàn đến chuyện tình cảm, chuyện tình yêu! Ôi tình yêu! Chị Hai lấy chồng không bắt đầu từ tình yêu. Qua mai mối, cảm thấy hợp là tổ chức đám cưới. Nếu cuộc sống vợ chồng chỉ có bấy nhiêu thì nhiều lúc Thân định nói với chị “em đang tìm ô-sin”.

Mỗi lần về nhà Thân hay nựng cháu Bo con chị Hai, con bé bụ bẫm dễ thương, đôi mắt đen láy, cá tính nhanh nhẹn hễ gặp là muốn ngồi xe đòi cậu chở một vòng rồi mới cho cậu hôn, lần nào cũng vậy, không được là nó mè nheo. Chỉ cần nựng cháu là Thân cảm thấy bao mệt nhọc sau những giờ lên lớp như biến đi đâu mất. Hễ thấy cậu cháu đi chơi là chị Hai lại nói trỏng: “Sao, chị sắp có em dâu chưa?”, chẳng biết có nghe hay không chỉ thấy Thân gật đầu, miệng ừ hử rồi lại lảng sang chuyện khác. Chẳng lẽ lại kể: “Ở trường em cũng còn nhiều bạn lớn tuổi hơn vẫn chưa vợ!”. Như thầy Hoàn dạy môn sử, năm nay đã bốn mươi ba cũng đang kiếm người nâng khăn sửa túi. Thầy Đoàn dạy thể dục năm nay ba mươi tám vẫn đang chờ... vợ. Một lần có ai hỏi thầy Hoàn để dành tiền đủ chưa, sao không ưng đại cô nào, kẻo cha già con cọc? Thầy nói ngay: “Tiền thì bao la, nhưng chưa lấy vợ được...!”, thầy ghé sát tai người bạn nói câu gì đó, rồi bỗng dưng ai cũng thấy hai người cùng cười to. Thân kém Hoàn một tuổi, nhưng khi trò chuyện đều gọi nhau bằng anh em. Thân còn lạ gì câu nói nhỏ “đái còn ướt dép nói gì lấy vợ” của Hoàn, nghĩ đến đó Thân tự cười một mình mà chẳng ai biết Thân cười điều gì? Thân dạy môn địa, học sinh thường gọi là thầy địa, thỉnh thoảng khi các em nói chuyện với nhau có lúc gọi ông địa, nhưng mấy khi nó nói trước mặt thầy, dễ thường có nghe được chắc cũng vui! Chính số lượng giáo viên độc thân nam đếm trên đầu ngón tay nên ở trường các thầy dễ bị gán ghép với cô này cô kia. Chẳng hạn như ghép Thân-Thu, cô dạy môn giáo dục công dân, học sinh nói trại ra là giáo dục “cô dâu”.

* * *

Đang nằm dựa trên ghế hớt tóc chờ cạo mặt, Thân nghe cô thợ hỏi “anh thích nghe bài gì?”. Hớt tóc buổi trưa trong tiệm máy lạnh lại được nghe nhạc dễ làm cho người ta đi vào giấc ngủ. Thân định chọn bài Một cõi đi về hay Đâu phải bởi mùa thu nhưng lại nói “tùy em muốn cho anh nghe bài gì cũng được”. Lời hát của những bài nhạc ở đây phần lớn nó chia sẻ nỗi cô đơn, nó diễn tả đủ tâm trạng của các cô gái xa quê. Cô thợ vừa cạo mặt vừa nhoài người qua ngực Thân, bàn tay mát mẻ mềm mại vuốt căng da mặt, tay kia nhẹ nhàng lượn lưỡi dao. Thân ngửi được mùi kem thoa mặt, nhìn bộ ngực ẩn dưới làn cổ áo khoét hơi sâu nhấp nhô theo động tác cuối xuống, chỉ cần nhổm người lên một chút là môi đã chạm vào má. Khi hôn vào tình huống bất ngờ, lời đáp có thể nhận được một trong hai thái độ: giận dỗi hoặc đồng tình, khả năng thứ nhất xác suất rất cao. Nụ hôn phải mang thông điệp của tình yêu; phải có cái gì thương thương, nhớ nhớ thì chất ngọt ngào mới làm tăng ý nghĩa nụ hôn. Sợ sự tưởng tượng của mình đi quá xa, Thân nhắm mắt lại, trong trí hiện ra hình ảnh Thu, cô bạn đồng nghiệp dạy giáo dục công dân ra trường được hơn ba năm. Thu hai mươi bảy tuổi, khá đẹp, nước da trắng, nói năng hoạt bát, dáng người cao hơn Thân một chút. Khi đã yêu, lúc vắng là nhớ lắm, có những hôm không có tiết dạy Thân cũng vào trường cốt chỉ để nhìn Thu và ra về sau vài câu hỏi bâng quơ. Không hiểu hôm nay Thân trò chuyện với cô thợ cắt tóc hơi nhiều là để tự trách mình hay là giận Thu? Nhớ lại tình cảnh đi ăn kem lần trước, Thu cúi xuống hai tay nâng ly kem, gò má nghiêng nghiêng hây hây mọng đỏ, hy vọng sẽ đặt lên má em nụ hôn ngọt ngào. Ánh mắt em lim dim như sẵn sàng đón nhận nụ hôn đầu đời, trớ trêu thay hạt bụi nào chui vào mắt làm em chớp chớp, vừa khi Thân sắp được toại nguyện với nụ hôn thì Thu đưa tay lên dụi dụi mắt sau làn kính cận, cùng lúc khuỷu tay em thúc vào ngực Thân! Chẳng biết cái hạt bụi bay vào mắt Thu có thực hay không, nhưng cái cảm giác nhoi nhói đau ở vùng ngực Thân chắc không phải là ảo. Ở nhà lúc hôn bé Bo con chị Hai, Thân còn muốn cắn nó một cái vì nó dễ yêu làm sao! Còn sự chờ đợi được hôn Thu bằng tình yêu trai gái nồng nàn là cả một chương trình mà Thân đã lập từ lâu, xem như kịch bản ăn kem đã bị phá sản. Khác với lần trước, lần này Thu chủ động mời Thân lên phố đi dạo bộ. Thân đã sắm đôi giày gót cao model mới, khác với đôi giày thể dục quen với đôi chân đi bộ, lần này phải cao cao mạnh mẽ thể hiện tính cách đàn ông.

Còn Thu thì sao? Không lẽ dặn em đi đôi giày gót thấp để vừa tầm với mình, biết thế nào? Duyên con gái gắn liền với thời trang, cứ trông vào các cô người mẫu thì rõ, người cao cao, mình hạc sương mai, dáng đi uốn lượn nhấp nhô, bước chân nhún nhảy trên đôi giày cao từ sáu phân trở lên phải công nhận là đẹp. Thu đẹp, Thu cao, trang phục phải thích hợp với kiểu người mới tôn lên vẻ đẹp của em. Yêu nhau, người ta cố làm cho vừa lòng nhau, riêng cái khoản sửa soạn cho đôi hia cũng đã chiếm mất nhiều thì giờ, chẳng nhẽ mình thấp mà bắt Thu phải theo mình, mới nghĩ đến đó Thân cứ trù trừ nửa muốn đi, nửa lại thôi. Hẹn đến nhà chở Thu đi, lần hẹn này Thân chẳng mấy hứng thú gì, so với lần trước, nó giả giả, gượng gượng làm sao! Cứ nhớ đi ăn kem mà Thân thấy quê quê, tức tức, may mà Thu vẫn vui vẻ. Ai có tật người đó giật mình, có phải Thân đang giật mình khi nghĩ đến chuyện cũ? Thu càng vô tư bao nhiêu thì Thân càng thấy mình xấu xấu bấy nhiêu, hôn người mình yêu đâu có gì phải lén lút. Phải chi Thu là cô thợ cắt tóc thì chuyện không đến nỗi nặng nề lắm, cùng quá lần sau Thân sẽ không đến, Thu dạy chung trường vào là gặp, ra là thấy bảo sao không ngượng không quê, chỉ cần hé ra một tí là cô giáo đỏ mặt.

Cuối cùng Thân cũng đến nhà chở Thu đi phố, gặp hôm mất điện không khí nóng bức Thân phe phẩy chiếc quạt thế nào làm tuột chiếc cúc áo ngực. Không lẽ để thế mà đi chơi, đâu có áo sẵn để thay, đành để em đứng khâu trực tiếp chiếc cúc trên áo. Càng vội càng lúng túng, tay Thu mất tự nhiên, muốn cho nhanh Thu dúi đầu vào ngực Thân ghé răng cắn sợi chỉ. Hơi ấm luồn lên đầu, Thân cúi xuống hôn lên trán em thì chiếc kẹp tăm nằm im trong tóc bí mật chui ra chọc ngay vào mũi đau điếng! Khi cô thợ hỏi “anh ngủ hay nghe nhạc”, lúc này Thân biết mình đã làm một giấc ngủ trưa say sưa trên chiếc ghế cắt tóc.

* * *

Đàn ông tuổi hườm hườm, tình yêu thì ít mà lo toan lại nhiều; vợ quá trẻ nhiều nhõng nhẽo, ít kinh nghiệm; chồng thấp vợ cao biết trong đời có mấy lần đi bộ song đôi. Lại thêm chị Hai lại kém mẹ Thu vỏn vẹn sáu tuổi, xưng hô thế nào đây? Cứ nhớ đến hai lần trước: một lần đau ngực, một lần đau mũi, Thân cảm thấy lo lo cho tình yêu mới chớm của mình. Quá tam ba bận, Thân định lần này mời Thu đi hát karaoke rồi nói thẳng ra chứ không chịu cái cảnh ỡm ờ khó chịu, còn chị Hai lần nào cũng khen: “Con nhỏ đó lễ phép, vén khéo, thích bé Bo lắm”. Thân chứ đâu phải bé Bo!

Thời kỳ nào cũng vậy, tình cảm trai gái bao giờ cũng lâm ly nhất, đẹp nhất và nhiều nước mắt nhất. Trên màn hình tivi, người con gái ngước lên nhắm mắt lại, hai tay quàng qua cổ người con trai, gã con trai xoay người cúi xuống hai tay vòng qua lưng đứa con gái và môi chạm môi... Xem đi xem lại trên màn hình cảnh hai ngươi hôn nhau, chợt nhớ tới Thu người Thân như tê đi, không biết đã đến mức độ yêu chưa sao cứ nhớ nhớ, lo lo. Không biết giờ này Thu đang làm gì, đang nghĩ đến ai? Có những tối không hẹn, chỉ vì nhớ mà Thân tìm cách đi chậm chậm ngang qua nhà Thu, thưởng thức mùi hoa hoàng lan. Tuổi tác chênh lệch làm cho dòng suy nghĩ của hai người có khoảng cách: Thu vô tư hồn nhiên, Thân lo xa cả nghĩ. Ai bảo đàn ông không ế vợ, ai bảo đàn ông dễ chọn vợ. Từ khi ý tưởng lấy vợ nhen nhúm trong Thân cũng là lúc mặc cảm chen vào. Thu cao ráo, xinh gái, con một, nhà khá giả, ba mẹ đầy đủ còn Thân mồ côi. Mặc cảm và tự ái là anh em sinh đôi, một khi vô tình chạm vào nỗi đau thì tự ái nổi dậy và sẵn sàng buông bỏ tất cả để còn chỉ giữ lấy một cái “tôi”, cho dù cái tôi ấy thấp bé, hèn mọn. Không lẽ cái tôi của người ta sinh ra chỉ để làm khổ lẫn nhau.

Mắt em nhìn màn hình, gương mặt đăm chiêu, một tay cầm micrô, một tay diễn tả tâm trạng theo lời nhạc, đôi chân nhịp nhịp trên sàn gạch. Nhấp một chút bia Thân có cảm giác như can đảm hơn, đặt nhẹ một tay thăm dò trên vai trần của Thu, em vẫn say sưa theo điệu nhạc “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc”. Thân vẫn thường nghĩ: tình yêu không đến và cũng không đi, chỉ có sự thương, ghét hiện diện trong mỗi con người chúng ta. Tay Thân như muốn ghì mạnh hơn và vòng sang phía trái hôn nhẹ vào má em... Thời gian dần trôi, nhạc điệu vẫn còn phát ra trên máy, liếc mắt nhìn màn hình dòng chữ màu vẫn đang tô, sao không có tiếng hát? Thân lịm dần đi và chợt hiểu không phải chỉ có Thân đang hôn em mà còn có ai đó đang hôn mình!

Bây giờ Thân không còn nghe tiếng chị Hai phàn nàn về áo nhăn, tóc dài, phòng thiếu ngăn nắp mà nghe từ một tiếng nói khác, giọng quen thuộc với điệp khúc “giờ này mà anh chưa đi tắm!”.

Offline SUCSONG@  
#14 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:51:24(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Nhớ...

Đoàn Việt Hùng

Chiều nào ông Năm cũng chống gậy ra ngồi nơi quán nước nghèo sát bờ sông. Quán nghèo thiệt: mái lợp lá, giàn rường cột chống đỡ bằng những cây bần, cây so đũa phệu phạo. Trên nền đất gập ghềnh là những chiếc bàn gỗ cũ kỹ, có vẻ như khép nép, ngượng nghịu trước những chiếc đẩu nhựa bao quanh. Trên cao, chỗ đặt những ly tách, chai nước ngọt, trái chanh, hũ đường... được bện bằng những cây sóng lá, gá đỡ lỏng chỏng như chực rụng xuống lúc nào không báo trước.








Chiều nào ông Năm cũng chống gậy ra ngồi nơi quán nước nghèo sát bờ sông. Quán nghèo thiệt: mái lợp lá, giàn rường cột chống đỡ bằng những cây bần, cây so đũa phệu phạo. Trên nền đất gập ghềnh là những chiếc bàn gỗ cũ kỹ, có vẻ như khép nép, ngượng nghịu trước những chiếc đẩu nhựa bao quanh. Trên cao, chỗ đặt những ly tách, chai nước ngọt, trái chanh, hũ đường... được bện bằng những cây sóng lá, gá đỡ lỏng chỏng như chực rụng xuống lúc nào không báo trước.

Mùa gió chướng nổi lên lâu rồi, nhưng hiu hiu. Bữa nay thì rộ hung. Cái loại gió giao mùa bắt người ta nao nao hoài nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê, nhớ mối tình đầu chẳng hạn. Ai cũng có mối tình đầu và luôn đẹp. Ông cũng vậy, cũng có mối tình đầu, nhưng thỉnh thoảng mới bay qua, chỉ đủ gợn rung rung dây đàn chùng rồi thôi. Ở cái tuổi tám mươi, chuyện tình ái thời trai trẻ như vết sượt trên da, không còn mặn mòi, chẳng bâng khuâng nhung nhớ chi nữa. Duy nhất ông có một nỗi nhớ khôn nguôi: nhớ quê, nhất là khi ngọn gió chướng khi hiu hiu, lúc mãnh liệt như bàn tay vô hình bóp thắt tim ông từng cơn. Mươi ngày trước ông nhận ra ngay thứ gió dờn dợn nỗi cồn cào này trên bàn ăn, bắt ông phải buông đũa. Đứa cháu nội hỏi sao vậy ông? Nước mắt ông dân dấn như con nít. Thằng con trai hiểu cớ sự nói ba già rồi, làm sao ngồi xe đến gần sáu trăm cây số, ba cũng không thể đi máy bay được. Giọng nói chăm sóc của nó sao giống lưỡi dao bén cắt rột những bó cải xanh mướt làm vậy? Nước mắt chảy thành giọt, ông vội vã bỏ lên gác, nhìn tấm ảnh thờ của vợ mỉm cười sau khung kính như thầm nhắc: già thiệt rồi, không đi nổi đâu.

Trước mặt ông, đọt lá dừa vẫn chúc xuống dòng nước trôi lặng lờ một cách cần mẫn miệt mài, có lúc ve vẩy như cái ve vẩy tay của người thôn nữ quảy đôi thúng gạo trên vai. Ngoài quê không có loại dừa nước, nhưng có những thứ khác ven sông: cây cám, hàng tre hát ru kẽo kẹt với gió nồm nam mát rười rượi, không cần tốn kém những máy quạt, điều hòa... Trưa, ra bờ sông nằm gối đầu lên đụn cát nhỏ đánh một giấc dài theo tiếng sõng khua mái chèo lụp bụp, cái tiếng nghe như tiếng gõ tang trống lúc Điêu Thuyền ngước cao chiếc cổ trắng, ca khúc huê tình, lúng liếng mắt làm Lữ Bố bủn rủn chân tay đánh rơi đại đao xuống đất.

Cũng may, mấy tháng trước ông Bốn Thơ vào Saint Paul gắp anh lúa ghim vô võng mạc. Ông mừng như đào khoai nhằm hũ vàng, vội vã kêu xe ôm tới thăm. Băng kín bên mắt phải, chiếc miệng móm mém, Bốn Thơ mở to con mắt trái ra cười với ông. Cười đến chảy nước mắt. Vì bất ngờ, vì cảm động. Bốn Thơ bật dậy, hai người ôm nhau khóc. Đôi bạn già gần đất xa trời cứ ôm riết khiến cả phòng ngơ ngác. Đôi bạn cùng ê a Tam Tự Kinh, cùng chận trâu, cùng lén vào ruộng mía xiết những lóng dài ngọt lừ... Bữa nay gặp nhau nơi xứ người bảo sao không chảy nước mắt được?

Ông Năm chạy ra quầy điện thoại công cộng gọi về nhà, nói ở lại với Bốn Thơ. Thằng con trai trả lời rột rẹt trong máy: ô kê, được ba! Chút xíu con vô. Nó vô thiệt, ôm theo gói to những sữa, những bánh ấn vào tay Bốn Thơ, nói chú cũng như ba con mà. Lần này ông thấy nó ngoái nhìn lại cái cũ kỹ trong tình bạn già nua của ông với tấm lòng khiến ông vui. Lần đầu tiên ông hể hả với thằng con ra mặt.

Đêm ông ở lại, nằm ghé bên Bốn Thơ ngửi cái mùi chua chua của phèn đất, nồng nồng của rơm rạ thấy tâm thần phấn chấn lạ thường, thấy như tuồng hai người đang nằm trên chõng tre trước chái hiên kể chuyện đi dân công Tây Nguyên. Bao nhiêu năm ông mới được ngửi lại cái mùi đặc trưng ấy của quê nhà nên coi bộ rất hả hê, ở riệt với bạn trong bệnh viện, suốt ngày lẫn đêm nghe Bốn Thơ kể chuyện ngoài đó. Hai ông già thi nhau nói, chen nhau kể chuyện xưa chuyện nay về mảnh đất quê mùa, chơn chất, lắm tai ương, địch họa. Mọi người cứ như cây xương rồng, bàn chải trên dải cát cháy, cứ tồng ngồng lớn lên, bất chấp nắng lửa, mưa dầu... để trổ hoa. Hết lớp này tới lớp khác cứ tiếp tục vịn tay vào cái khốn khó mà lớn lên, mà thành người...

“Khu cồn mả Cây Keo đó, đâu còn nữa, anh. Những lùm bàn chải với mai rừng hóa kiếp thành nhà cao nhà thấp rồi. Khu trại lính sát mép biển cũng vậy, nhà cửa, phố xá kéo dài ra tận ngoài quốc lộ. Đường lớn, đường nhỏ, nhà máy... cứ như trong phim ảnh. Tụi nhỏ bây giờ giỏi hơn lớp già tụi mình. Anh mà về không chừng đi lạc...”. Bốn Thơ miên man kể, ông say sưa nghe như say sưa nghe bà nội ông thuở nhỏ kể chuyện cổ tích thần tiên. Giọng Bốn Thơ phều phào như chiếc xe đạp thồ gạo cũ kỹ, cọc cạch chở ông ngồi phía sau đi dạo hết phố này qua khu khác. Cho tới lúc thiếp đi trong giấc ngủ nhẹ tênh, cho tới khi Bốn Thơ nắm tay ông, nước mắt trào bên khóe, bước lên xe. Ông Năm như từ trời cao mây trắng rớt cái đùng xuống đáy vực. Giấc mơ ông là lớp khói xịt sau xe, là cái vẫy tay của Bốn Thơ không lòi ra khỏi khung cửa kính kín bưng. Ông đứng ngó trân trân bóng chiếc xe hút nhỏ sau khúc quanh, trên đường phố đông nghìn nghịt. Còn lại quanh ông là vũng nắng trắng lóa.

- Mua vé số Tây Ninh, ông. Hôm qua nẫu trúng nhiều lắm – thằng bé đen đúa ốm tong teo chìa xấp vé số trước mặt, khiến ông giật nẩy người thiếu chút nữa là rơi tõm xuống sông. Giấc mơ chềnh chồng gãy gập, nát ngứu thành bọt sóng. Ông ngơ ngác ngó thằng bé xa lạ mà như đang nắm một thứ gì đó thiệt gần gũi, quý báu lỡ bỏ quên lâu ngày trong hóc bếp ám bồ hóng, đang thay thế chỗ Bốn Thơ. Ông ngó trân trân vào mặt thằng nhỏ, nuốt nghẹn vừa chỉ tay vào chiếc ghế trước mặt:

- Me chay, cháu gốc... Cơ khổ, sao cháu lặn lội tận trong này?

- Dạ, nhà đông anh em, nghèo nghỉ hè cháu tranh thủ vào đây, phụ tiền sách vở cho mấy đứa em.

- Chớ nhà cháu ở chỗ nào?

- Xóm Lẫm.

- Nhiều xóm Lẫm lắm, làm sao ông nhớ hết?

- Xóm Lẫm, Tây Phú...

- Ờ há... Tây Phú – Nói và ông nhắm mắt mơ màng, bỏ mặc thằng bé lóng ngóng, loay hoay trên ghế với tập vé số dày cộp. Chất giọng đặc sền sệt ruộng đồng và biển sâu khiến ông hồi hộp, run run như lần đầu tiên nắm tay cô Ba Thẩm, không thốt lên được lời nào. Chẳng biết cô còn hay mất. Cũng nhờ thằng nhỏ này mà ông mới nhớ lại cái cầm tay đó, chớ lâu rồi ông đã quên?

Ông hỏi thăm gia sự, hỏi thăm xóm làng... Ông hỏi nhiều, dồn dập đến nỗi thằng nhỏ hụt hơi trả lời, chỗ nhớ, chỗ không, biết và không biết chồng chéo lên nhau, đan dệt tựa tấm lụa đào thơm tơ thơm tằm. Thằng nhỏ như thiên sứ kết nối sợi dây đàn lỡ đứt của Bốn Thơ, mang đến cho ông nụ hoa dủ dẻ thơm nức trong đáy mắt. Ông hả hê nuốt từng lời từ chiếc miệng tròn phát ra những âm lệch nghiêng.

Ông Năm chồm người cắt ngang:

- Hè, chớ cháu biết bến phà cũ chỗ cây da ở Đông Phước không?

Thằng nhỏ nhìn xấp vé số, miệng méo xệch:

- Dạ chỗ cầu Chùa.

- Không phải, ở cầu Chùa ngó chéo lên cỡ bốân - năm trăm thước. Chạy một hơi là tới liền đó mà.

- Dạ – thằng nhỏ trả lời vừa ngó ra con đường bắt đầu đông nghịt xe cộ.

- Còn nữa, ở Tây Phú chắc nghe tiếng giáo Hai ở đồng Bầu Sấu, ông giáo hồi đánh Tây đó mà, nghe nói ổng viết sách thuốc, trị bịnh, lập gia phả...

- Dạ, mà cháu đâu biết đồng Bầu Sấu, có nghe nói ông giáo Hai.

- Đúng. Bầu Sấu là Phú Ân. Ổng đó, nay ra sao cháu?

Thằng nhỏ gãi đầu, ấp úng không biết trả lời sao:

- Nghe nói mạnh khỏe. Nó đáp bừa, chớ thật bụng đâu biết ông giáo Hai là ai.

Ông xịch ghế lại gần, nắm tay thằng nhỏ, vuốt ve bàn tay gầy tong gầy teo của nó, miệng lẩm nhẩm: “Cơ khổ, ở ngoải chưa hết nghèo thiệt sao?”. Thằng nhỏ nghiêng đầu về phía ông nhưng nghe không rõ ràng.

- Dạ, nhà con nghèo thiệt mà. Nghèo nên mới theo anh em vô tận đây bán vé số. Nhưng khai trường là con về, đi học.

Ông già chồm tới định nói câu gì đó nhưng cuối cùng thì ông thả rơi vào tư thế cũ. Ngoài đường xe cộ mỗi lúc một đông thêm. Quán có thêm mấy người công nhân tan ca bước vô kêu ly xây chừng, trà đá... Thằng nhỏ lúng túng với tập vé số còn dày trong lòng tay gầy guộc. Nó ngoái nhìn những người mới đến. Mắt ông già chạm ngay vào cái ngoái nhìn đầy lo lắng rê theo chút hy vọng mỏng tang của thằng nhỏ đồng hương. Ông thả vội tay nó ra, lần vào túi áo. Ông lôi những tờ giấy bạc cong queo ấn hết vào tay thằng nhỏ, nói phều phào:

- Ông còn chừng đó, chẳng biết bao nhiêu, con giữ lấy hay chọn những tấm vé con thích, biết đâu chừng gặp hên. Ông già rồi. Vé với số mà làm gì. Chừng nào sắp về, con ghé lại quán này nhắn ông, có chút quà cho cháu mang về quê – miệng nói, bụng nghĩ ngay đến món tiền cất trong chiếc tráp gỗ chưa tiêu đến. Chẳng nhiều nhặn gì, nhưng sẽ phụ thêm tấm áo, cuốn vở, cây bút chì cho tụi em nó. Tội. Biết đâu ông bà, thần hoàng bổn địa phù hộ cho chúng thành tiến sĩ, kỹ sư...

Ông đẩy tay cầm tiền của thằng bé về phía bụng nó, dặn:

- Cứ vài ba bữa cháu tạt qua đây, nói chuyện với ông chút xíu cho vui.

Thằng nhỏ cầm những đồng bạc cong queo, miệng há hốc ngạc nhiên, nói lí nhí “Cảm ơn” trước khi bước qua các bàn khác rồi hòa vào dòng người ngược xuôi như dòng nước xoay vòng. Ông Năm thẫn thờ đứng lên ngó theo bóng nó hút xa với nỗi vui khấp khởi, hy vọng thế nào nó cũng sẽ quay lại nói chuyện với mình.


*

* *

Cơn mưa cuối mùa thiệt dữ dội. Mưa ào ào xuống mặt đường vẽ thành những vòng tròn nối nhau trôi xuống các hố ga. Nước chảy ào ào. Chẳng mấy chốc, con đường trước mặt như mương nước. Xe cộ chạy ngang qua tát nước lên tận hàng hiên. Gành bật cười, nghĩ thầm: Mưa xứ này thiệt kỳ, ào ào như lũ. Đến mưa cũng hối hả huống chi con người. Tính cách của mưa, của nắng và của người ở đây sao giống nhau quá chừng chừng. Gành giật mình, mưa vầy làm sao qua chỗ ông già bữa hổm? Ngày kia về rồi. Sắp khai giảng. Thiệt tội ông già, chắc là nhớ quê hung, phải ghé thăm ông cụ và cảm ơn món tiền ông cho mình, chẳng nhiều nhỏi chi nhưng hiếm có người tốt bụng như vậy. Nó lại nghĩ, sao ổng cho mình băm sáu ngàn không tiếc mà mình lại tiếc ướt áo? Nghĩ vậy và nó đội mưa chạy băng qua mấy con đường đón xe buýt qua bên kia rạch Ông.

Mưa dứt thình lình. Đường láng lẩy như vừa rửa bột giặt. Mặt trời buổi xế chiều ló ra thật dịu dàng. Xe dừng gần giao lộ, Gành xuống xe lóc cóc chạy bộ một đoạn ngắn mà trong dạ chưa sắp xếp xuôi lọt những câu định nói với ông già.

Quán vắng hoe. Bàn ghế trống trơn. Gành mon men lại gần chiếc bàn vuông kê sát vách lá, ăn thông ra mé hông dùng làm chái bếp. Người đàn bà luống tuổi đang lượm thóc trong rổ gạo ngẩng lên, hỏi:

- Cháu kêu gì?

- Dạ không. Cháu hỏi thăm ông cụ hay ra ngồi ở góc bàn đằng kia, cô có biết nhà chỗ nào không?

- Quen?

- Dạ không.

- Không rõ chỗ nào, nhưng thấy ổng chống gậy từ hướng ngã tư qua. Cả tuần nay không thấy lại. Già cả, nay đau mai bệnh ai mà biết được.

Gành chưng hửng, xớ rớ một lúc, nói cảm ơn rồi bước ra khỏi quán. Giữa phố xá đông nghẹt người như vầy biết hỏi ai để tìm ra chỗ ở của ông? Gành bước xiêu xiêu trong màu nắng thiệt lạ sau cơn mưa.

Gành ngơ ngác hỏi thăm từng căn phố, cố mô tả ông già để gợi nhớ cho từng chủ nhà, nhưng ai cũng lắc đầu. Sao không giống như ngoài mình hẻ, Gành tự hỏi, chốn này hình như mỗi người chỉ biết đến da thịt của riêng mình thôi sao? Mọi hy vọng của nó bắt đầu xẹp lép, trương lên âm điệu buồn mênh mang, như tiếng nhạc đám ma đang chậm rãi ngược chéo với hướng đường nó đang bước tới phía ngã tư. Khung ảnh người người quá cố bị che khuất bởi đứa nhỏ mặc áo tang, trạc tuổi Gành, nên nó không thể nhìn thấy người chết là già hay trẻ. Đoàn xe tang quành sang con đường khác, nó chỉ còn thấy khúc đuôi của những người đưa tiễn, văng vẳng điệu nam ai buồn não nuột.

Offline SUCSONG@  
#15 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:52:25(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Hoàng hôn rực rỡ

Vân Hạ

Từ xa, cô gái đã thấy một người đàn bà ngồi quay mặt ra biển. Nắng chiều rọi thẳng vào lưng áo mầu gạch non làm cho khoảng nắng ấy như đang chín đỏ lên.

Một thằng bé cởi trần mặc quần cụt chạy chơi lăng xăng bên mép sông gần đó. Những đợt sóng hăm hở tấp lên bờ vô số vỏ hà, phao lưới, vỏ đồ hộp và củi rác. Ðang mùa biển nghỉ nên cả bãi biển vắng ngơ vắng ngắt, chỉ thấy trơ trọi có hai mẹ con người đàn bà. Hai mẹ con, cả dáng ngồi bất động đăm đăm của người mẹ lẫn cái bóng nhỏ chuyển động không ngừng của đứa con, cứ gợi lên một cái gì vừa ấm áp gần gũi vừa đơn côi nỗi niềm. Một hình ảnh của sự chờ đợi. Có vẻ như thằng bé đã quen theo mẹ, quen với việc chơi một mình ở nơi có mẹ.

Người đàn bà ngồi trên một khúc gỗ do sóng mang từ đâu tới hất dạt lên từ mùa trước. Trước mặt chị ta, chỗ cái bóng đổ xuống, có một giỏ lác đựng ít con cá liệt, cá dìa còn tươi nhớt. Cô gái ngồi xuống đầu kia khúc gỗ. Người đàn bà quay sang nhìn cô rồi lại nhìn ra biển không nói gì. Thằng bé thấy có người lạ đến thì chạy lại ngồi bên mẹ. Nó vừa cầm que vạch ngang dọc lên mặt cát vừa nhìn trộm cô gái.

- Chị ngồi đây làm gì vậy? - Cô gái lên tiếng hỏi

- Chờ ba tụi nhỏ - Người đàn bà trả lời

- Mùa này mà thuyền cũng đi hở chị?

Người đàn bà lắc đầu, vẫn không nhìn cô, nói:

- Ðâu có. Ảnh đi lội bộ kiếm vài con cá về ăn vậy mà.

- Ảnh đi lội bộ mà chị cũng dắt cháu ra đây ngồi đợi sao?

- Quen rồi.

Trong khi nói chuyện, cô gái nhận thấy gương mặt người đàn bà trẻ hơn nhiều so với dáng ngồi. "Người làng chài thường già trước tuổi vì đông con", có một người đã nói với cô như vậy.

Người đàn bà vẫn đăm đăm dõi mắt ra biển, không cần hỏi cô là ai, ra đảo mùa này làm gì, dù thoạt nhìn cũng có thể biết cô là người nơi khác đến. Có lẽ đối với người đàn bà lúc này thì chẳng có gì quan trọng hơn việc dõi trông ra biển. Cô gái cũng cố nhìn theo nhưng chẳng thấy bóng dáng một người nào ngoài mấy chiếc thuyền đang neo đậu dập dềnh. Thằng bé hết nhìn mẹ lại nhìn người lạ. Cô gái vẫy tay cười với nó nhưng nó vẫn bám dính lấy mẹ không rời.

Chiều xuống chậm nhưng nắng nhạt rất nhanh. Cái nắng mùa này yếu ớt, nếu có hoàng hôn cũng chưa chắc đẹp. Lúc này cả hai người cùng im lặng nhìn ra biển, nhưng mỗi người nhìn vào một sự chờ đợi khác nhau. Cho đến khi người đàn ông bất chợt hiện ra lừng lững trước mặt họ như từ thủy cung chui lên. Ðống lưới vắt trên vuông vai trần vẫn đang rỏ nước ướt át. Trên mắt lưới còn mắc hai con cá nhỏ chưa gỡ đang giãy giãy. Gương mặt người đàn bà vụt tươi hẳn lên. Người đàn ông dịu dàng nói với vợ:

- Về thôi.

Người vợ đứng lên. Rồi không cả chào tạm biệt cô gái, họ cứ vậy quay lưng men theo mép nước đi ngược về hướng làng chài. Người đàn ông vác lưới, người đàn bà xách giỏ đi bên cạnh, thằng bé lăng xăng chạy trước. Họ đi xa dần, khuất lẫn vào những chiếc thuyền thúng quét nhựa mầu đen úp rải rác trên bờ cát đằng xa.

Bây giờ thì trên bãi biển chỉ còn mình cô gái. "Họ hạnh phúc", cô nghĩ và hình dung ra bữa cơm tối của họ ở một căn nhà trong số những căn nhà lụp xụp kia. Hai vợ chồng và bầy con bốn, năm đứa ngồi quây quanh mâm cơm có tô canh cá nấu ngọt và đĩa mắm lớn dầm ớt trái. Chung quanh nhà bề bộn những lưới, mủng, thạp mắm cùng mùi cá khô... Họ chẳng cần biết đến cảm giác thiếu thốn, chẳng cần đi tìm gì...

Nắng tắt nhanh. Gương mặt chiều đã phảng phất bóng buồn bâng khuâng cuối ngày. Thế là vì mải nghĩ ngợi lan man cô đã để hoàng hôn qua mất. Hay vì nhiều mây quá nên không thấy được mặt trời?

Cô gái đã từng đến làng chài này vào một mùa hè cách đây đã lâu. Lúc đó đường đi rất vất vả, còn đảo thì hoang sơ vắng lặng hơn bây giờ nhiều. Lần đó cô đã được chứng kiến trọn vẹn từ đầu đến cuối cái giây phút đẹp rực rỡ của hoàng hôn cùng với một người. Chứng kiến một cách rất tình cờ, không đợi trước, không có một sự chuẩn bị nào. Ðó cũng là lần duy nhất cô thấy được hết một cảnh tượng đẹp đến vậy và ngắn ngủi đến vậy. Trước mắt cô chỉ có một mặt trời to lớn, đỏ rực, treo rờ rỡ trước mặt. Cùng lúc hòn đảo Rùa ở phía bắc cũng nhuốm vàng rồi nhanh chóng rực lên như một khối kim loại vừa lấy trong lò lửa của thợ rèn ra đặt giữa biển khơi xanh sẫm. Mọi cảnh vật như cũng sáng bừng lên trong ráng đỏ huy hoàng. "Ôi!" Cô chỉ thầm kêu lên được một tiếng như vậy rồi ngồi lặng đi trong khoảnh khắc kỳ vĩ nhất của một ngày. Nhưng chỉ giây phút thôi, khi mặt trời chìm hẳn xuống, vương lại vài tia sáng hắt lên nền trời phía tây, thì Hòn Rùa cũng trở lại mầu xanh xám như miềng sắt nguội. Cô gái cũng trở về với buổi chiều quanh mình nhưng chưa hết ngẩn ngơ phấn khích.

"Ðẹp quá phải không?"

Tiếng nói cất lên ngay sau lưng. Cô gái quay lại, vui mừng nhận ra có một người nữa cũng vừa kịp chiêm ngưỡng và tiễn biệt hoàng hôn với mình.

"Phải là một ngày nắng ra nắng, hoàng hôn mới đúng là hoàng hôn. Muốn thấy một phút hoàng hôn đẹp phải chịu nực chịu khát cả ngày trời". Người đó đã nói vậy và ngồi xuống bên cô sau khi hoàng hôn tắt hẳn. Hôm đó đúng là một ngày nắng kinh khủng. Nền trời xanh ngăn ngắt không một vẩn mây. Bàn chân cô vẫn còn căng đỏ lên vì sục dưới cát nóng khi phải vượt qua đồi. Trên đảo lúc đó rất hiếm nước ngọt. Cô đã được biết thế nào là giữa biển nước mà khát nước.

"Ðừng tiếc. Hoàng hôn ngắn ngủi nhưng không mất. Nó tắt để cho trăng lên thay thế và còn để chuẩn bị cho một bình minh rạng rỡ khác ra đời nữa chứ. Dĩ vãng bao giờ cũng buồn và đẹp...".

Những lời nói văn hoa như có phép phù thủy đã an ủi cô gái, làm cô lạc quan hẳn lên với ý nghĩ hoàng hôn tắt không phải là kết thúc, mà để bắt đầu cho sự chuyển tiếp những cái đẹp không giống nhau. Sau này thì cô nhận ra những lời đó thật ra không có gì mới mẻ. Cũng như mùa đông tàn lụi là để chuẩn bị cho mùa xuân mới ra đời, cô đã biết từ lâu. Vậy mà cô vẫn háo hức nghe như cô học trò nhỏ thích thú nghe giảng về những điều mới lạ. "Nhưng nếu ngày hôm sau là một ngày mưa?". Cô tự hỏi và lại tự trả lời "Mưa thì sao. Ngày mưa cũng vẫn là một ngày. Vẫn bắt đầu từ buổi sớm tươi non rồi đến trưa, chiều, tối. Một ngày mưa vẫn có sự hiện diện của mặt trời cơ mà".

Lúc đó cô không nghĩ là sau này cô đã nhiều lần phải kiếm cớ để trở lại đảo. Nhưng chưa lần nào cô gặp lại trọn vẹn giây phút ấy. Chính cô cũng không ngờ một việc đơn giản ngày nào cũng lặp đi lặp lại như vậy mà cho đến giờ cô vẫn chưa gặp lại được, nhất là bây giờ lại đang mùa mưa. Ðêm nào cũng có mưa. Ban ngày tuy nắng nóng nhưng "nắng không ra nắng" và trời thì rất nhiều mây. Hồi nãy người đàn bà đã không hỏi cô ra đảo làm gì. Nếu chị ta hỏi, cô đã sẵn có câu trả lời. Nhưng dù đó là một công việc có thật thì câu trả lời vẫn là không thật, nên nếu không bắt buộc phải nói thì không nói vẫn tốt hơn.

Chiều hôm sau cô gái lại ra chỗ cũ. Cô hy vọng sẽ được thấy lại hai mẹ con người đàn bà như chiều hôm trước. Cái hình ảnh vừa gần gũi ấm áp vừa đơn côi nỗi niềm, do cảm giác của cô sinh ra. Nhưng chiều nay hai mẹ con người đàn bà không ra, chắc vì người đàn ông không đi lội bộ quăng lưới, hẳn nhiên là vậy rồi. Cô ngồi xuống khúc cây, lơ đãng nhìn về phía Hòn Rùa. Bỗng Hòn Rùa như ửng sáng lên, chuyển mầu vàng đỏ... ồ, đây rồi...

- Chào người đẹp.

Một giọng nói cũng cất lên từ phía sau, vào đúng lúc lẽ ra phải im lặng. Cô gái không quay lại nhưng vẫn biết đó là một người khác giới. Một kẻ phá đám vô tình. Cùng lúc một cảm giác khó chịu nhen lên. Rồi như sực nhớ ra cô vội nhìn Hòn Rùa nhưng đã muộn. Hoàng hôn yếu ớt đã tắt. Hòn Rùa đã trở lại mầu xanh xám như miếng sắt nguội.

- Chào người đẹp mà người đẹp cũng không thèm trả lời.

Tiếng nói lại cất lên. Bây giờ thì cô đã biết cảm giác khó chịu phát sinh từ đâu, đó là từ hai tiếng "người đẹp" mầu mè. Anh chàng phá đám đã bước lên đứng phía đầu kia khúc gỗ.

- Chào anh - Cô đáp - Anh vừa nói tôi à?

- Còn với ai ở đây nữa. Cô nhớ ra tôi chưa?

Cô nhìn anh ta, cố kéo trí nhớ trở về.

- Bữa qua ở dưới bến đó. Tôi đã kéo cô từ dưới tàu lên, chở cô về nhà trọ. Giờ cô nhớ ra chưa? Từ bữa qua tới giờ tôi kiếm cô mà không được, vì không biết tên.

- Có chuyện gì không? - Cô hỏi và nghĩ nhanh xem mình bỏ quên thứ gì.

- Không. Nhưng thấy cô... lạ lạ thế nào.

"Lạ lạ thế nào", đây không phải cách nói của người làng đảo. Ðây là kiểu nói phổ thông, chỉ những thanh niên thích sự tân tiến (người làng đảo cho là thích học đòi) mới nói. Cả hai tiếng "người đẹp" cũng vậy.

- Cô đang đợi ai vậy?

- Tôi đợi hoàng hôn. - Cô bất giác nói thật, nhưng lại làm ra vẻ đang đùa.

- Ðúng. Phải công nhận hoàng hôn ở đây đẹp cực, nhưng phải vào mùa nắng kìa.

Cô gái bỗng trở nên hào hứng:

- Anh biết không. Trước đây, lâu rồi, có một người cũng xuất hiện ở đây cùng ngắm hoàng hôn với tôi. Nhưng hoàng hôn hôm đó không phải như chiều nay đâu. Phải nói chưa bao giờ tôi thấy một buổi hoàng hôn nào như vậy. Còn chiều nay...

- Chiều nay thì sao?

- Chiều nay anh cũng tình cờ ở đây nhưng anh lại làm hỏng mất hoàng hôn của tôi.

- Vậy à ... - Anh chàng chợt cao giọng - Thì sao? Thử hỏi người thấy được buổi hoàng hôn đó với người chưa thấy bao giờ có gì khác nhau? Làm sao biết được ai là người đã thấy, ai là người chưa thấy?

Cô gái nhìn anh chàng, ngạc nhiên:

- Ðúng vậy - Cô thầm nhắc lại - Anh nói đúng. Nó chỉ có ý nghĩa với người nào đã thấy mà thôi.

Im lặng. Rồi cô chủ động hỏi sang chuyện khác:

- Anh có biết một thầy giáo tên là Việt, dạy học ở đảo cách đây 10 năm không?

- Việt? Biết. Nhưng chuyển đi lâu rồi. Các thầy cô giáo trẻ họ chỉ ở đây vài năm rồi về đất liền. Ðó, cô thấy chưa. Những người có chí lớn đều tung hoành ngang dọc hết. Chẳng ai chịu cột chân trên đảo này vì những buổi hoàng hôn đẹp cả. Cô cũng ra đây chỉ vì nhớ một người gặp cách đây cả chục năm đúng không?

- Cũng không hẳn vậy. Anh đừng buồn. Tôi nghĩ những người đã ở đây cho dù họ có đi ngang dọc những đâu thì cũng có lúc họ nhớ về đảo như một kỷ niệm đẹp.

- Chuyện đó thì có.

Cô gái nhận ra cảm giác khó chịu ban đầu đã biến mất từ lúc nào. Cô hỏi giọng thân mật hơn:

- Anh có thường đi biển không?

- Ði chứ. Ở đây đàn ông không đi biển thì còn biết làm gì.

- Chiều qua tôi thấy có một bà vợ dắt đứa con nhỏ ra đây ngồi chờ ông chồng đi lội bộ về. Có phải cứ chồng đi biển là vợ phải ra ngồi chờ không?

- Cũng còn tùy. Có người ngồi đánh bài, tán gẫu cũng gọi là chờ. Như tôi đây thì có đi cả tháng cũng chẳng ai chờ.

- Thế chị nhà anh đâu?

- Làm gì có.

- Vậy mà tôi cứ tưởng anh phải có cả một đàn con lau nhau như đàn gà rồi. Anh không muốn có người chờ đợi à?

- Ai mà không muốn... Chiều mai cô có ra đây nữa không? Mai cô đã về chưa?

Chiều mai? Ðột nhiên cô gái nhận ra mình luôn ngoái trông về quá khứ. Hôm qua cô ra đây để tìm lại một lần tình cờ của 10 năm trước. Hôm nay cô ra để mong gặp lại hình ảnh hai mẹ con người đàn bà của chiều hôm qua. Biết đâu ngày mai và cả sau này nữa sẽ có lúc cô ngồi để nhớ về cuộc gặp gỡ này? "Dĩ vãng bao giờ cũng buồn và đẹp". Chỉ vì cô cứ nghĩ mãi về cái đã qua. Cô tìm đợi hoàng hôn với một hoàng hôn xưa có sẵn trong lòng. Cho dù mặt trời có lặp lại mỗi ngày y như nhau thì những buổi chiều vẫn không giống nhau. Và hẳn nhiên cô bây giờ cũng không còn hoàn toàn là cô của chiều hôm đó. Chừng nào cô chưa hoàn toàn là cô của buổi chiều xưa thì sẽ không thể nào thấy lại được một hoàng hôn đúng như cô đã từng thấy.

Và chiều hôm đó cô gái từ bãi biển trở về trong tâm trạng hoàn toàn khác trước. Cô sẽ không đợi nữa.

Hôm sau, khi công việc lấy số liệu điều tra đã xong, cô gái lững thững ra bãi biển định chia tay ngày cuối cùng ở đảo thì đã thấy cái người hôm qua ngồi ở đó như đợi từ bao giờ. Anh chàng đưa cho cô một mảnh giấy, đó là một bài thơ cắt ra từ một tờ báo cũ. Mới nhìn tên tác giả cô gái đã thấy bồi hồi. Bài thơ nói về một hoàng hôn đã xa trên đảo vắng, có hai người không quen tình cờ cùng bắt gặp giây phút tuyệt vời và ngắn ngủi mà lúc đó họ không nghĩ là sẽ không còn có dịp nào như vậy nữa... Một bài thơ đẹp và buồn, như dĩ vãng.

- Cảm ơn anh - Cô gái xúc động nói

- Có gì đâu mà cảm ơn. Tờ báo này lâu rồi, tôi thấy viết về đảo mình nên giữ lại.

- Một kỷ niệm đẹp của tôi... Nhưng nó đã thành kỷ niệm rồi. Sáng mai tôi ra bến sớm. Chào anh luôn nhé.

- Vậy là mai cô về. Cô còn trở lại đây nữa không. Khi nào cô lại ra?

- Tôi cũng không biết.

- Cô không biết, nhưng tôi biết cô sẽ còn quay lại.

- Tại sao?

- Tại vì cô nhớ tôi!

- Có chuyện đó à?

- Chứ sao. Cô thích chờ đợi lắm mà.

- Nhất là chờ đợi người đi biển đúng không?

- Ðúng đúng.

Họ cùng cười. Câu chuyện trở nên thoải mái vui vẻ. Những câu nói đùa trong lúc ngẫu hứng thường vui vẻ. Chỉ khi còn lại một mình cô gái mới lại thấy buồn như sắp vào cuộc chia ly. Chia tay với quá khứ cũng là một cuộc chia ly. Sẽ rất khó khăn và cần phải có thời gian. Nhưng rồi cô sẽ vẫn phải trở về với chính mình. Bắt đầu bằng một buổi sớm non tơ trong trẻo.

Offline SUCSONG@  
#16 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:53:18(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Hương bưởi quê nhà

Hạ Huyền

Bên cạnh nhà tôi có một căn nhà bỏ hoang. Ðó là căn nhà của ông Phúc. Ông Phúc đã được con đón ra thành phố sinh sống. Căn nhà hai gian ẩm thấp, xây bằng gạnh tro lò, lợp ngói mũi. Rêu bám tràn qua bậc thềm lên tận bức tường hè.

Nom căn nhà im ỉm như khu miếu cổ. Không có người ở, cái sân gạch cũng xanh loang lổ rêu và đầy lá rụng. Trước nhà có một cây bưởi xum xuê. Vào tiết xuân cây bưởi nở hoa trắng xóa. Từ phòng học bên này tôi thường ngồi trước bàn sách, buồn bã ngắm những cánh hoa bưởi lặng lẽ rơi xuống. Thứ hương bưởi không có chủ bần thần đến hoang lạnh.

Một hôm, trong bữa cơm, bố tôi bảo nhà tôi sắp có hàng xóm mới. Sẽ có một gia đình từ ngoài đê chuyển vào. "Ông Phúc nhượng lại khu nhà ấy có năm triệu đồng. Rẻ thật...", bố tôi xuýt xoa. Mẹ tôi chép miệng: "Ở đây đồng trũng nước chua, làm ăn gì cũng khó. Căn nhà ấy còn bán được là tốt".

Tôi hồi hộp chờ đợi chủ nhân mới của căn nhà. Tháng tám, nắng thu vương vãi trên sân rêu. Những trái bưởi rám nắng, thả hương lãng đãng bay sang tìm tôi như để chia sẻ sự cô đơn. Mãi gần tối tôi mới thấy họ dọn đến - những người hàng xóm mới của nhà tôi. Một người đàn ông gầy gò mặc bộ quân phục cũ, chiếc ba-lô đeo trễ một bên vai. Theo sau ông là cô bé khoảng 17 tuổi gánh một gánh có vẻ không lấy gì làm nặng lắm. Họ đẩy cánh cửa cổng rít ken két bước vào sân. Tôi định đứng dậy sang làm quen với những người hàng xóm mới nhưng tôi cứ thấy ngài ngại. Có lẽ vì sự có mặt của cô bé. Tôi kịp nhận ra cô bé khá xinh. Toàn thân cô bé tỏa ra mầu trắng ngời như những bông hoa bưởi. Ðặt gánh xuống cô reo nho nhỏ chạy ngay đến chỗ gốc bưởi. Nhặt những lá bưởi vàng, cô ấp chúng vào giữa đôi bàn tay xinh xinh như hai cái bím tóc nhỏ của cô.

- Huyền ơi, vào nhà dọn dẹp, con!

Nghe tiếng người đàn ông gọi, cô bé giật mình chạy vào. Vậy là tôi đã biết tên cô bé. Tỳ tay xuống bàn tôi vẩn vơ suy nghĩ. Từ nay cây bưởi đã có chủ mới. Hương bưởi sẽ không còn cô đơn nữa. Nhưng không hiểu vì sao tôi lại thấy thoáng buồn.

Mấy hôm sau tôi biết bác Tấn (tên người hàng xóm mới) là bệnh binh. Hơn ba mươi tuổi bác Tấn mới lấy vợ. Vợ bác cũng là bộ đội chuyển ngành. Họ lấy nhau, mười năm chưa có con. Các bác sĩ chẩn đoán cặp vợ chồng lớn tuổi này cả hai đều bị ảnh hưởng chất độc da cam thời chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Thuốc thang mãi, mấy năm sau người vợ mới có thai. Nhưng khi đứa bé chào đời thì người đàn bà đó không bao giờ được nghe tiếng khóc của con mình. Ca đẻ khó, các bác sĩ chỉ cứu được đứa bé. Ðứa bé ấy chính là Huyền.

Ở cái vùng quê hẻo lánh này, tất cả thanh niên chúng tôi đứa nào cũng khát khao muốn vượt qua "cánh đồng làng". Mẹ thường động viên tôi: "Cố mà học con ạ, may ra mới thoát khỏi cảnh Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời". Tôi được bố mẹ chăm sóc, tạo điều kiện cho ăn học. Nhà người hàng xóm mới không giống nhà tôi. Bệnh cũ tái phát, bác Tấn đau ốm liên miên. Cô bé Huyền phải nghỉ học từ lớp 10 để chăm sóc bố. Họ sống tằn tiện, có phần đạm bạc, không ồn ào, và cũng âm thầm như cái vùng quê heo hút này.

Mùa thu qua nhanh, cây bưởi đã gần vơi hết quả. Bầu trời luôn xám xịt, thấp lè tè. Những cơn gió lạnh đầu mùa se sẽ vào vườn, rứt xuống đất những chiếc lá bưởi vàng cuối cùng. Buổi chiều chủ nhật tôi sang nhà người hàng xóm mới. Không thấy bé Huyền đâu. Người đàn ông ngồi im lìm trong nhà. Không đáp lại tiếng chào của tôi ông nói khe khẽ như đang nói với chính mình:

- Nó đi rồi... nó đi thật rồi...!

Tôi hiểu "nó" ở đây là Huyền. Ánh mắt người đàn ông vẫn đăm đăm nhìn ra ngõ. Ông thở dài lẩm bẩm:

- Sao nó phải đi cơ chứ. Vào tận miền nam. Miền nam, tận miền nam...

- Tại sao bác để cô ấy đi?

- Nó nói nếu không để nó đi, liệu tôi có lo được tương lai cho nó? - Bất thần người đàn ông đứng phắt dậy đấm vào ngực mình bình bịch: - Tại cái bệnh chết tiệt này. Tại tôi hèn quá. Tôi không lo được tương lai cho nó... Tại tôi... Tại tôi...!

Tôi buồn rầu nói với người đàn ông rằng lớp trẻ bây giờ đứa nào cũng muốn bay bổng, muốn vượt qua cánh đồng làng. Rằng ở xóm này những ai lớn lên không theo con đường học hành thì cũng phiêu tán ngược xuôi khắp nơi. Rằng không thể trói chúng tôi ở mãi cái nơi đồng trũng nước chua, không có nhà máy, không có khu công nghiệp này. Tôi nói một thôi, vẻ hùng hồn lắm. Người đàn ông lặng lẽ ngồi xuống. Khuôn mặt hốc hác của ông nhăn lại. Rồi ông ho. Những tiếng ho như muốn nổ tung g ngực lép kẹp của ông.

Thỉnh thoảng tôi gặp người bưu tá đến nhà bác Tấn. Rút từ chiếc cặp vải sờn mép ông đưa cho bác Tấn khi là lá thư, khi là giấy mời nhận tiền. Mẹ tôi nói với bố: "Ông Tấn sướng, con Huyền làm trong miền nam lương cao, tháng nào cũng gửi tiền về". Bố tôi không mặn mà lắm với câu chuyện của mẹ. Người thủng thẳng: "Có lẽ nó sắp gửi cả một cô vợ miền nam về cho ông Tấn đấy". Mẹ tôi nguýt dài. Bố tôi bỗng cáu kỉnh: "Không à, tưởng gửi tiền về là đủ à. Ông ấy sống lủi thủi một mình, thanh niên thời buổi này đứa nào cũng thích đi xa, nhăm nhăm bỏ cả làng, cả quê...". Tôi không biết cô bé Huyền vào trong ấy làm nghề gì. Ngồi trong phòng học tôi nhìn sang căn nhà người hàng xóm. Cây bưởi trơ ra những cành gầy guộc không một cọng lá, run rẩy trong mưa. Cái sân gạch đầy lá rụng và rêu tràn xanh lên bậc hè. Tôi thấy bác Tấn cặm cụi ngồi đan cót. Dạo này bác đan cót nhập cho hợp tác xã. Mẹ tôi bảo: "Ông Tấn hà tiện, một tháng vừa lương bệnh binh vừa tiền con Huyền gửi về dễ đến năm trăm nghìn đồng. Có tiền mà chẳng dám ăn, chẳng dám uống. Thuốc bệnh chỉ toàn uống loại thuốc lá rẻ tiền". Nhiều đêm tôi nghe tiếng ho từ bên nhà người hàng xóm vọng sang. Mùa hoa bưởi chưa đến. Cái hương bưởi ngan ngát chưa về. Thay vào đó là mùi thuốc lá hăng hắc xông qua ô cửa phòng học của tôi.

Năm sau tôi vào đại học. Ước mơ vượt cánh đồng làng của tôi đã thành hiện thực. Nghỉ hè tôi về thăm nhà. Phòng học giờ bố tôi làm nơi cất lúa khoai. Buổi tối bố tôi từ nhà người hàng xóm chạy về gọi giật:

- Sang nhà bác Tấn ngay, bác trở bệnh nặng lắm. E không qua được.

Tôi và mẹ chạy sang. Nhà bác Tấn đông nghịt người. Những người hàng xóm và các bác ở Hội Cựu chiến binh xã. Người ta bảo bác Tấn đang lóe sáng những phút giây cuối cùng, như ngọn đèn cạn dầu vụt sáng lên để rồi tắt. Bác vẫn nhận ra tôi. Bàn tay xương xẩu của bác khẽ vẫy, gọi tôi lại. Giọng bác thều thào, đứt quãng:

- Cháu điện... miền nam... gọi Huyền... Huyền về, cái rương... rương này... bác gửi... gửi nhà cháu cho... cho nó...

Bố tôi gật gật đầu, gương mặt xúc động tột độ.

Gần nửa đêm, bác Tấn trở mình gọi mấy tiếng: "Con ơi. Huyền ơi..." rồi "đi". Không có tiếng gào khóc, những người chung quanh lặng lẽ lau nước mắt. Tiếng gió rú ào ào ngoài vườn. Trời lắc rắc mưa. Bản tin thời tiết báo đêm nay có gió lạnh tràn về.

Hơn mười ngày sau cô bé Huyền mới từ miền nam ra. Hai cái bím tóc xinh xinh không còn. Thay vào đó là mái tóc ngắn, được ốp sấy kiểu cách. Bố tôi trao chiếc rương lại và bảo tôi sang giúp Huyền dọn dẹp căn nhà lại cho "đỡ hơi lạnh". Cánh cổng lại rít lên ken két. Tôi giúp Huyền cạy nắp chiếc rương được bác Tấn đóng đinh cẩn thận. Hình như đồ đạc trong rương bác đã sắp xếp, chuẩn bị từ lâu. Một chồng báo xếp ngay ngắn. Một bọc tiền gói trong hai lớp ni-lông. Trong bọc tiền là một lá thư có rất nhiều lỗi chính tả. "... số tiền chín triệu đồng gồm tất cả tiền của con gửi về và tiền lương của bố dành dụm cho con sau này... Bố lo cho con lắm...". Huyền vừa đọc thư vừa khóc. Tôi thắp hương lên bàn thờ bác Tấn. Trên bàn thờ không có ảnh của bác, chỉ có chiếc ba-lô bạc mầu. Chiếc ba-lô tôi đã trông thấy bác Tấn đeo trễ một bên vai hôm dọn về nhà này.

Tốt nghiệp ra trường tôi quyết định xin về quê công tác. Căn nhà người hàng xóm vẫn còn. Huyền không vào miền nam làm nữa. Cô lập một trại trồng nấm tại làng. Mẹ tôi nói: "Con Huyền giỏi, vốn của nó bây giờ có đến vài trăm triệu đồng. Nó giúp hơn hai mươi đứa con gái thất nghiệp ở làng này có công ăn việc làm". Tôi vào căn phòng học cũ, mở toang cửa sổ. Cái sân gạch và khu vườn bên nhà người hàng xóm đã thành một khu trại nuôi nấm. Lảnh lót tiếng cười con gái. Cây bưởi vẫn đứng đó. Cái tán lá của nó nhô lên khỏi mái trại, xanh rì. Mùa hoa bưởi chưa đến nhưng hương thơm cứ ngào ngạt đâu đây...

Offline SUCSONG@  
#17 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:53:57(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Bên kia giấc mơ màu hạt dẻ

Nguyễn Quỳnh Trang

1. Mệt. Giá có thể buông lơi tay lái. Nằm gục giữa đường. Đừng dậy nữa. Đừng dậy.

Phố hờ hững phố, người hờ hững người. Nắng buông thả trượt trên đọt lá gầy. Dừng lại năm phút nghe tiếng nắng thở héo hắt, lạo xạo. Hâm đấy. Điên đấy. Lại đi. Điểm đến là gì mà loài người cứ cặm cụi đi...

Li bảo, tôi đưa cô đi chụp hình nhé. Hôm nay mùa hạ nắng đẹp. Em nhìn Li. Nắng đẹp thì sao? Mùa hạ thì sao? Năm nào chẳng bằng đó mùa. Mùa hạ nào chẳng có nhiều đến thế nắng. Mùa và nắng lướt qua chỉ kịp làm người nhoi nhói đau. Li lắc đầu kéo em xềnh xệch lên xe.

Ngửa cổ nhìn trời, nắng rát mặt. Em không đeo khẩu trang giữa phố ngột ngạt nóng, ngột ngạt bụi. Nắng hun hai cánh tay bầm đỏ. Em mặc chiếc áo hai dây. Thách thức cùng mặt trời. Li cũng áo thun, quần ngố, đầu trần phơi mình trong ánh gắt. Hắn nói. Cô điên rồi. Tôi điên rồi. Rõ là hai đứa điên. Lang thang đúng 12 giờ trưa. 390C. Nhìn quanh chẳng một bóng râm. Gió Phơn - tây nam luẩn quẩn thổi. Không gian đặc sệt mùi nóng. Mồ hôi rịn ra từ các lỗ chân lông nhớp nháp. Chốn này, cỏ hoang, hoa tím dại, cát, cát và cát... Em cởi áo nằm úp mặt vào cỏ. Li bấm máy lạch xạch, thì thầm. Đẹp. Đẹp thật.

Có tiếng còi tàu vọng về từ xa vắng. Vồng cát trườn lên gió theo một bản nhạc buồn. Li ngồi xoãi chân đặt em ngồi vào lòng. Lá cỏ chạm vào da thịt ram ráp. Từng nhịp từng nhịp hun hút sâu vô tận. Em ngậm một thân cỏ nheo mắt nhìn bốn phương tám hướng. Nước sông luồn qua bãi lau róc rách róc rách. Li ôm lấy tóc em ghì cứng trong hai lòng bàn tay ngón thon lào thào, lâu lắm mình mới gặp nhau... em quay mặt nhìn Li mơ hồ, trên thái dương Li, nước ứa từ lớp da chảy ròng ròng. Em và Li chưa bao giờ từng yêu. Li ngập ngừng, cô không yêu... thật sao? Em cười, tiếng cười băng lạnh, rơi lạo xạo giữa thinh không thành chuỗi sỏi chứa lắm nỗi muộn phiền.

Nắng vẫn ngằn ngặt nóng. Phía bên kia giấc mơ là khoảng không.

Li hỏi, chụp thế nào đây, áo này lên hình không đẹp? Em đứng giữa gió trời thay áo. Cát buông vài hạt lên má, phủ lấp lánh trên thân mình. Chẳng có gì mà Li tự dưng quay đi ý nhị. Tự bên trong em trào lên cảm giác lạ. Sau mỗi tin nhắn chán đời thèm chết của em (trước hết gửi cho anh, sau là rất nhiều người không buồn ngó tên), Li luôn luôn (và có mãi mãi?...) là người trả lời đầu tiên. Rất nhanh.

Hỏi em ở đâu. Li đến bên. Vẻ mặt lo lắng. Li đưa em đi chơi. Em ngồi sau. Mặc Li muốn đưa đến đâu thì đến. Trong đầu không chút khái niệm nào. Nhìn cảnh vật xung quanh ơ hờ. Sợ phải nói chuyện. Muốn rút mình vào im lặng. Sợ con người nhưng lại luôn thèm khát có hơi người ở bên. Một khối mặc cảm. Một khối mâu thuẫn. Không lí giải nổi. Mà việc gì phải lí giải.

Li bảo bình tĩnh nhé, bình tĩnh, sẽ có lối thoát. Có đấy. Quan trọng là cô có muốn tìm không. Mặt Li phúng phính, môi Li cong cong vẻ hờn dỗi non trẻ, mắt Li màu nâu đen đa tình. Li không gợi lên một chút gì về anh, nhưng Li làm em nhớ anh. Một ngày không xa anh đã đưa em đến đây, cũng vào buổi trưa, trưa mùa đông hửng nắng. Em kéo chiếc khoá áo, cởi bỏ từng chút nặng nề mùa đông.

Lần đầu tiên anh nhìn em từ tận sâu vồng cong ngan ngát mùi cỏ nâu. Anh bế em lên quay vòng trên cát. Dấu chân in yêu thương. Hai yêu thương bốn yêu thương hàng chục hàng trăm hàng ngàn yêu thương. Không đếm nổi, làm sao đếm nỗi cảm xúc mạnh mẽ của mình. Khi ấy, em còn biết cười. Anh có thể, người đàn ông cuối cùng.

Li gào lên, là thằng nào chứ, là thằng nào... Tiếng kêu vừa thốt ra đã bị cát chặn lại. Li ôm ngực ho sặc sụa. Mặt đỏ bừng, thân nóng rẫy. Cát bốc lên chặn hết tầm nhìn. Cát đi hoang, cỏ đi hoang, một thân thể đàn ông đi hoang, một thân thể đàn bà đi hoang. Và hai trái tim hấp hối chết trên đỉnh trời.

2. Em ngồi trong phòng kín, máy lạnh ri ri chạy, lấy tay che miệng ngáp. Phạm đi xuống, buồn ngủ thì cứ gục xuống bàn tự nhiên, cấm rủ người khác ngủ cùng. Cả phòng phá lên cười. Lúc sau, em nhận được tin nhắn. Ngủ với anh nhé. Phạm đứng trên bục thuyết trình nháy mắt. Em delete. Ngả đầu xuống. Lần này thì ngủ thật. Ngủ rất sâu...

...Này mắt ướt của sóng, này nụ hôn của sóng. Sao ào ạt mãi nhiều chiều nông nổi? Dòng phả một hơi nóng ngang qua mặt. Em nằm trên người Phạm, hơi thở bấn loạn, không cảm giác. Phạm lật em xuống phía dưới. Em thoát ra khỏi Phạm. Đẩy Phạm về một phía. Lòng chan chứa kiêu hãnh điên khùng. Chỉ có em. Duy nhất em. Kẻ chiếm hữu. Kẻ thống lĩnh.

Phạm lấy bia tu ừng ực. Chất men chảy qua khoé miệng, chảy qua kẽ tay, nhễu giọt dài trên cát. Cát bốc hơi ngun ngút. Nắng dội sầm sập trên đầu. Mặt Phạm nhăn nhúm chuyển màu. Màu vàng bia thành sền sệt máu đỏ. Vẫn từng vết từng vết trên cát. Có phải trinh tiết em tự trọng em cô độc em đang ứa máu... Phạm tròng quần áo lên người đi về hướng Tây. Mờ mịt ảnh hình. Phạm tan vào cát. Lào xào tiếng cười... Tiếng mặt gỗ bóng bật vào thanh sắt... Tiếng chuông điện thoại...

...Em ngớ ngẩn tỉnh dậy. Phạm đang lúi húi cất tài liệu vào chiếc cặp đen dày cộp. Một nữ sinh chống tay lên bục, ngực thì xẹp lép mà cố ưỡn cong về phía trước. Phạm vuốt ve cô ta bằng mắt, thi thoảng liếc sang phía em ngồi. Em xô ghế đứng dậy. Vuốt lại tóc. Gửi Phạm một cái nhếch miệng. Chỉ có thế. Dù gì Phạm đã tặng em chút cảm xúc. ƯÂ thì trong mơ... Mà mơ gì mà mơ, bụng dưới em đang quặn lại, âm ấm nóng.

Nếu Phạm nhanh chân đi về phía em như mọi khi, rất có thể lần này em sẽ theo Phạm đi một bản khiêu vũ giữa trời nắng tắt. Phạm vừa ôm chặt em chuyển động theo những vòng xoay huyền bí, vừa nhìn đồng hồ lo về nhà với vợ đúng giờ. Không sao, em nhắm mắt. Tưởng tượng. Phạm là anh đấy. Là anh.

Em tự nhóm lên nỗi hoài cảm xót xa, tự thổi cho mình bay lên bồng bềnh. Em mượn tạm thể xác Phạm. Khiêu vũ nhé, nhịp tim, nhịp bước. Em luôn tiến chân, còn Phạm phải lùi. Em dìu dặt đưa Phạm vào điệu nhạc nồng nàn, phấn khích. Em đưa Phạm vào u uẩn giấc mơ của chính em... Mà sao Phạm đứng yên. Năm ngón tay luồn vào quai cặp day dứt. Phạm luôn là người đàn ông chủ động. Phạm không chấp nhận. Phạm vẫn đứng yên.

Cô nữ sinh chồm cả người lên thì thào vào tai Phạm. Cô ta rũ người cười. Phạm không cười. Phạm nhìn em. Em khuất sau hành lang rồi.

Hôm nay, buổi hội thảo cuối cùng. Em vẫn vẹn nguyên đi tìm hơi thở của anh.

3. - Con điên ấy. Có gì mà nói... Phạm châm thuốc hút. Khói bảng lảng bay trên khuôn mặt Li. Cô ấy gầy đi nhiều. Li thở dài. Cứ úp mặt lên cỏ khóc run cả vai. Phạm co chân đặt lên chiếc ghế bên cạnh, bập bập điếu thuốc quanh vành môi nhơm nhớp mùi bia. Ngón tay cái bấm tin nhắn nhoay nhoáy. Một tin, save, send cho chừng hai chục số điện thoại khác nhau, hơn hai phần ba dành cho lũ sinh viên ngớ ngẩn. Con nhỏ đặc biệt, khuôn mặt u uẩn gợi tình, mắt miệng cười thơ trẻ, áo sao mỏng quá, lúc nào cũng hở khoảng lõm trăng trắng. ánh nhìn mạnh mẽ quất ngang mọi nỗi thèm muốn ứ đầy. Chưa từng trả lời tin nhắn. giá chỉ một lần...

Li giơ hai bàn tay lên, nhìn sâu vào trong đó tuồng như muốn chọc thủng da, chọc thủng tế bào, chọc thủng mạch máu. Bàn tay từng nắm lọn tóc dài của cô buông theo gió bay. Còn chút hương thừa nào đọng lại... Máy Li rung nhịp nhịp. Li cầm máy, thở dài âu sầu. Thêm một cái hẹn với bạn gái. Tính đủ một tháng rồi, đến ngày cho nàng rời khỏi thôi.

Chấm dứt. Rồi tránh đi để đừng nhìn thấy mặt nhau. Li tính thầm, chừng ba mối tình một lúc. Chẳng để làm gì. Nhạt hoét. Lo lắng quẩn quanh. Còn cô ấy, đến rồi đi, đi là biền biệt. Tình nhỏ thoảng qua. Được nhiều ở cô ta mà nào tốn kém gì. Không lời nói, không nụ cười, mặt lúc nào cũng lành lạnh nhưng Li thấy thoả mãn. Luôn đạt đến đỉnh cao trào. Chỉ cô ta mới làm được.

Li khoác túi đứng dậy, chào Phạm, bước chống chếnh. Phạm giơ cao di động, chao nghiêng tìm chút ánh sáng hắt vào, đọc mấy tin nhắn vừa gửi đến. Mấy giờ nhỉ... 20 phút cho một cuộc hẹn bí mật... kịp không...

4. Em nằm nghiêng dưới một bầu trời đầy sao lạ. Đọng trong khoảng không là những vũng tối mờ ảo. Giăng mắc cánh đom đóm lập loè ven vùng hoa trắng dại. Loài hoa không rõ tên gì huyễn hoặc một làn hương lan toả đều khắp màn đêm. Ngày qua ngày, em tìm kiếm điều gì trong muôn mặt người xa lạ? Làm gì có hơi ấm nào từ muôn trái tim hoang đàng, bất lực và rất mực phù phiếm quanh em...

Em xoay người trở dậy. Tháo chạy. Gió rin rít đuổi theo. Đá sắc cạnh cào nát bàn chân. Bàn chân tươm máu. Kệ. Cứ chạy. Không thể dừng được nữa. Bản năng quẫy đạp. Lí trí ngủ quên.

Một khoảng trống đen ngòm chụp thẳng lên người em. Em sảy chân rơi vào miệng vực. Những miệng vực nằm len lỏi đâu đó quanh vùng đá sỏi cằn khô này. Những miệng vực dành riêng cho kẻ tuyệt vọng. Cơ thể em mất thăng bằng, không còn cảm giác về trọng lượng.

Rơi... Rơi... Rơi...

...Vẫn tiếng gió rít sượt qua mang tai, âm u đỉnh đầu. Mùi cô đơn ma quái ẩn nấp. Loang loáng những vết sáng ký ức chạy dài. Này là khuôn mặt đẫm nước của mẹ, này khuôn mặt nhăn nhúm sầu muộn nơi cha. Này những trò chơi nghịch dại thủa nhỏ. Mấy đêm trốn nhà nằm co ro ngoài hiên đời mưa bão. Tháng năm cắp sách đến trường chỉ để kịp nhét vào đầu nhiều luận điệu lừa mị của người lớn. Đoá hoa cho nụ hôn thơ dại. Ngày đầu tiên bước chân vào vương quốc đàn bà, nhờ anh... ở nơi tận cùng thế giới cho em gặp lại nhiều điều em bỏ quên.

Em rơi
rơi...
rơi...

... Bất chợt. Thấy mình ngừng lại ngay giữa thinh không. Một tấm lưới mỏng như thể của một con nhện cái khổng lồ nào giăng ra chờ mồi thơm sập bẫy. Em nằm yên tưởng ngất lịm. Thấy anh đứng phía trên miệng vực, hai tay cầm chặt đầu lưới. Bên này là Li. Bên kia là Phạm.

Em toài người bò về phía anh. Chới với. Chới với. Phạm cùng Li ra sức kéo. Anh đứng yên, thản nhiên nhìn. Em trườn từng chút một về phía anh. Tấm lưới chảy nhão tựa hồ rất mỏng manh. Em đến rất gần anh rồi, chỉ cách một sải tay. Anh chìa tay cho em nắm đi. Rất nhanh thôi, em sắp được cứu thoát rồi.

Phía bên kia, Phạm và Li nhoài hẳn người ra. Bàn chân em nằm gọn trong tay họ. Em bám chặt vào tấm lưới, mắt nhìn anh đăm đắm, chờ anh. Anh vẫn im lìm. Là pho tượng chết. Da tay em tróc từng mảng lớn. Thịt đỏ thắm phơi ra dưới ánh đèn đom đóm. Máu không chảy vì thân xác em đã khô kiệt nước.

Cứ thế để em cảm nhận sự rách toạc của cơ thể. Mười ngón tay vẫn bám chặt vào lưới. Hai cổ chân vẫn nằm yên trong tay Phạm, tay Li. Đầu và thân mình em rơi thẳng xuống phía dưới. Đáy hố hun hút sâu. Mọi giác quan tê liệt. Em chết.

Trước khi tim ngừng đập, em kịp nhận ra. Trên vực là anh mà không còn anh. Chỉ là một thi thể nơi từng giấu một linh hồn phiêu bồng lãng mạn. Linh hồn đó dao du về chốn nào rồi, em không biết. Bên kia thế giới liệu anh có đứng chờ em?

5. Ba người đàn ông ngồi trong quán bia tại trung tâm thành phố. Họ bàn bạc, tán róc, chửi đổng... Li là người gợi lại chuyện cũ đầu tiên. Phạm bảo. Uổng thật. Nó đẹp thế. Hình như bị câm. Tên gì nhỉ, quên biến mất rồi... Li nói. Dẹp mẹ hết đống đàn bà con gái đi. Rách việc. Mệt người.

Nhân vật Anh thở phào. Một tháng chứ mấy. Bám lấy mình tựa hồ cứu tinh đời nó. Đồ cả tin. Tình yêu? Ngôn từ bóng bảy, sáo rỗng. Sao mà dai như đỉa. Nào tin nhắn, gọi điện, tìm gặp ời ời cả lên. Mà để làm gì... Chết phiền. May quá, lần này thì nó đi thật. Đi thật rồi...

6. Cô gái ngồi trên ghế đá ở vườn hoa. Nhắn tin cho người quen. Nhắm mắt thư dãn. Một luồng ánh nhìn đan chéo vào sau gáy. Nhột nhạt. Khó chịu. Day mặt qua. Thấy con nhỏ đứng tần ngần. Tóc dài, da trắng, môi bợt, cặp mắt dài dại, nước bọt nhễu qua miệng, chảy dài trên cằm. Con nhỏ mặc chiếc quần bệnh nhân cũ xỉn. áo vo viên cặp vào nách. Cởi trần. Chẳng mặc áo lót bên trong. Cứ tênh hênh nhìn cô.

Cô gái đứng dậy, đi ra chỗ khác, tránh con nhỏ. Con nhỏ đi theo. Cô đứng đâu. Nó bám riết đến đấy. Cô tự dưng sợ. Thấy gai gai khắp mình mẩy. Con nhỏ nhào qua, chộp lấy di động đang cầm hờ trên tay nhà báo. Nhà báo hét lên. Hai bóng áo trắng lướt tới, túm lấy tóc con nhỏ, quặt tay con nhỏ ra sau, khống chế. Họ luôn miệng xin lỗi xin lỗi.

Nhà báo run run. Không sao... không sao... Con nhỏ hét. Lâu lắm nó mới nghe thấy giọng chính mình. Điện thoại... liên lạc... loài người... Giấc mơ... màu hạt dẻ... Phía bên kia.. có gì... rỗng không... rỗng không... Tiếng kêu của nó bị bàn tay hộ pháp của chị y tá chặn lại. Nó bị lôi đi, bị đẩy vào sau cánh cổng gỗ dày. Tiếng khoá lách cách. Cô nhà báo cất di động cẩn thận vào trong túi. Dắt xe về. Tự dưng thấy tồi tội con nhỏ thất tình. Một ngày trong bệnh viện tâm thần lấy tin thật quá tải cho dây thần kinh vốn đã căng phồng chực đứt của cô. Cô dâng lên cảm giác mệt.

Mệt. Giá có thể buông lơi tay lái. Nằm gục giữa đường. Đừng dậy nữa. Đừng dậy...

Offline SUCSONG@  
#18 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:54:39(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Vũ trụ câm

Vũ Đình Giang

1. Thường xuyên trong những buổi chiều ngoại ô đầy gió, Min bị nỗi đe dọa xâm chiếm bởi những tiếng sấm mơ hồ dội lên từ cuối chân trời. Nơi cội nhãn già nua chưa bao giờ ra hoa kết trái, Min mắc cái võng dù tòng teng chẳng mấy khi nằm. Từng đám mây bay qua bầu trời thảng hoặc để lại những hình thù ngộ nghĩnh tùy theo trí tưởng tượng của Min. Trong vùng hồi ức xa xăm bỗng mọc lên một đám mây hình nấm trôi đi dưới ánh nắng quái gở của chiều tà - một cảnh tượng kỳ vĩ và ngoạn mục mà có lần trên chuyến bay về H. Min tình cờ thấy được. Qua ô cửa kính đọng đầy hơi nước, tấm thảm mây dày cộm chập chùng dường như bất động, khiến Min nghĩ rằng nếu mình lỡ rơi xuống đó, hẳn sẽ được giữ lại trong cảm giác mềm mại an toàn và vĩnh viễn không thể nào chạm đất.
Giờ đây, trong căn phòng cáu bẩn đầy nghẹt đất sét, màu bột và giấy vụn, Min bó gối nhìn những bức tranh treo xộc xệch trên tường, cố nặn óc nghĩ ra một việc gì đó để làm, cốt xua đi cảm giác bị đe dọa bởi những tiếng sấm mơ hồ. Từ ngày thi rớt đại học, Min đâm ra thờ thẫn và uể oải, cậu hay khép hờ cửa sổ rồi đứng ngó mông lung ra ngoài qua khe cửa hẹp, quan sát thế giới xung quanh thay đổi chậm chạp từng ngày. Bấy giờ là cuối thu đầu đông, những chiếc lá trong vườn bắt đầu cong lên rồi ngả sang màu vàng sậm. Không gian nồng đượm mùi dầu chuối tỏa ra từ xưởng bánh kẹo nhà bên cùng tiếng máy dệt rào lên không ngớt nơi những xưởng dệt thủ công của vài gia đình gốc Quảng còn sót lại trong vùng.
Căn nhà vắng lặng nằm im lìm trong khu vườn nhỏ chỉ bật ra tiếng người vào buổi tối. Bà mẹ độc lập và giàu có dường như cố hữu một nguyên tắc là chỉ trao đổi với cậu con trai những câu chuyện thật sự cần thiết trong bữa ăn, hiếm khi khóe môi bà nở nụ cười. Người hầu gái học được cách tiết chế cảm xúc từ bà chủ quyền lực, cũng như keo kiệt lời nói nhưng lại hào phóng những cái ngáp vặt vô tội vạ. Cô ta chăm chỉ hoàn thành tốt mọi việc trong nhà rồi lên phòng bật tivi, hồn nhiên lau nước mắt sau mỗi trường đoạn sướt mướt của những bộ phim nhiều tập dành cho giới bình dân.
Thỉnh thoảng Min phóng xe máy đi vòng vèo ra các quán xá trong vùng. Mãi cũng chán! Đành khép chặt cửa ở lì trong phòng, ngủ vùi rồi nguệch ngoạc vẽ những bức tranh ngày một khó hiểu. Thời đi học Min cũng lặng lẽ như thế, cả lớp không ai phát hiện ra tài năng của cậu, nên những tờ báo tường của lớp thường xuyên phải thuê người lớp khác sang trang trí. Cho đến ngày lớp trưởng phát hiện ra cậu đang say mê trong một khóa luyện thi của hội mỹ thuật, thì lúc đó mọi người cũng sắp ra trường.
Trong bữa ăn tối lạnh nhạt của ngày biết tin thi rớt, Min thông báo với mẹ bằng một câu nói nhát gừng:
- Con sẽ luyện thi cho năm sau, mẹ ạ!
Bà mẹ nhướng cặp anh thanh tú, tia nhìn tỏa ra một vệt màu tối lặng lẽ, cố trấn an:
- Đừng lo lắng quá, con trai! Mẹ sẽ thuê riêng một họa sĩ về làm gia sư cho con.
- Không cần thế đâu, mẹ! - Đứa con cúi mặt vào tô súp - Con sẽ đến lò luyện như mọi lần...
Bà mẹ lắc mái đầu uốn tỉa khá công phu, mặt nhăn lại khiến những vết rạn ở hai cánh mũi được dịp hằn rõ, cố nén tiếng thở dài:
- Sự dạy dỗ không bao giờ là chu đáo ở những môi trường quá đông đúc.
- Nhưng ở đó con có bạn...
Min lẩm bẩm tỏ thái độ bất bình rồi xoay người mở cửa tủ lạnh lấy ra đĩa trái cây. Cậu tần ngần một lúc lâu rồi quyết định cầm quả lê rời nhà ăn lên lầu. Trong căn phòng nhỏ, nơi thế giới riêng đầy ắp trăm thứ hầm bà lằng nhưng bất khả xâm phạm, cậu nhặt nỗi lòng của mình đang vương vãi trên sàn nhà, rồi đem dán nó nơi cánh cửa sổ đã hờ khép. Cậu vịn tay vào đó và giương mắt nhìn ra. Ngoài kia, đêm tối sẩm. Những tàn cây mệt nhọc đang thiếp ngủ, ánh lên những vệt sáng hắt ra từ các ô cửa của nhà hàng xóm. Mơ hồ một tiếng kêu khắc khoải của loài chim lạ ăn đêm.
Phía dưới nhà, mẹ Min đang trao đổi với ai đó qua điện thoại về một câu chuyện làm ăn dang dở. Người hầu gái bình thản dọn dẹp bàn ăn, nhẩm đếm số chén bát bất di bất dịch được dọn ra vào mỗi tối, tận hưởng niềm sung sướng của một Ô-sin nhàn nhã. Thật may mắn cho cô, ít khi khách đến chơi nhà, nên cô chưa bao giờ bị nhấn chìm trong sự bận rộn và đau đớn vì những tiếng quát tháo của gia chủ. Cô nhớ có lần, hình như đã rất lâu rồi, có một người đàn ông trung niên dáng dấp to cao vâm váp ghé ngang rồi ngủ lại. Đêm ấy cậu chủ nhỏ không về. Hình như Min đang kẹt chuyến dã ngoại xa cùng với lớp. Cô hầu gái bê chai rượu Whisky lên cho bà chủ, thấy hai người lặng câm ngồi đối diện nhau, môi ai cũng dính chặt điếu thuốc tỏa khói mờ mịt. Cô rút lui xuống nhà, sợ hãi đến nỗi chỉ dám bật tivi xem hình nhưng khóa tiếng.
Sáng hôm sau, khi cô hầu gái trở dậy thì người khách lạ đã biến mất tự khi nào. Bà chủ lún sâu trong mớ chăn nệm thoảng lên mùi nước hoa xa lạ, mở to đôi mắt trống rỗng nhìn như xuyên thủng trần nhà. Sáng ấy bà chủ không đi làm, bà cứ đi lên đi xuống cầu thang rồi đột ngột phá tung cửa phòng riêng của Min lục soát thứ gì đó. Chốc sau bà gọi người hầu gái tới và dặn dò:
- Cô đã gọi thợ tới sửa cánh cửa sổ trên phòng cậu Min, nó gần sứt bản lề ra rồi. Thật nguy hiểm nếu đêm nào đó mưa bão quét qua. Và thay luôn tủ kính đã bị rạn. Không hiểu Min đã va đập thứ gì vào kính nên nó mới thế. Chiều nay thợ đến, cháu nhớ quan sát họ và trông nom nhà cửa cẩn thận giúp cô nhé!
Chiều muộn Min về, vứt ba lô ra sàn và hét lên những tràng dài vô nghĩa, khiến cô hầu co rúm người như thể sai lầm ấy là do cô dựng ra. Đúng như dự đoán, Min mắt ngầu đỏ chạy vội xuống cầu thang, gọi người hầu giật giọng:
- Chị Gái! Chị Gái đâu rồi? Tôi đã bảo là không ai được phép xâm phạm căn phòng của tôi kia mà. Ai?
- Nhưng đấy là mẹ cậu... - Cô hầu tên Gái ấp úng, thở không ra hơi.
Min giận dữ bỏ lên lầu và từ chối luôn bữa tối. Rất khuya, bà chủ về tới nhà, không tỏ thái độ gì hoang mang khi nghe thuật lại câu chuyện của Min. Không biết bà lên phòng dàn xếp câu chuyện ra sao mà căn nhà vẫn im bặt, không phát ra một tiếng động nào như mọi khi. Và Min, trong những ngày hôm sau, vẫn giữ thói quen tắt hết đèn trong phòng rồi nhìn ra bên ngoài qua khe cửa sổ mở hé. Mắt cậu mênh mang ngập đầy những tia nắng sót lại trong chiều tà.

*

* *

2. Đêm nối đêm ngày nối ngày, căn phòng nhỏ của Min vẫn lặng câm và phủ trùm bóng tối. Thường sau những giờ luyện vẽ ở trường về, Min đánh trần nằm vật ra sàn ngó mông lung lên trần nhà. Cậu nhìn thấy những đám mây hình nấm trôi đi dật dờ. Không gian dường như giãn nở trong suốt. Cậu vẽ nhiều hơn trước, những bức tranh chập chờn màu sắc ngày một khó hiểu vì không để lại hình thù gì cụ thể, chỉ có những nhát cọ thao túng mặt giấy lúc uể oải lúc cuồng nhiệt. Màu lục sẫm cứ choáng hết mặt tranh. Dưới sàn, vô số những bức tượng què cụt bằng đất sét, có cái đã nứt rạn sứt mẻ một vài chi tiết nên biến dạng thành những vật thể méo mó. Trên tường, chi chít những chiếc mặt nạ tróc lở và các tờ báo cũ dán chồng chéo lên nhau thành các mảng lập thể đầy ám ảnh... Người hầu Gái có lần tò mò đã phá kỷ cương lén nhìn trộm vào phòng trong một buổi trưa oi bức, thấy cậu chủ đang khỏa thân đứng bất động trước tấm gương soi mới thay đã lại xuất hiện những vết rạn mới, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng vào chính cậu mà có vẻ như không nhìn thấy một cái gì...
Trong một nỗi hốt hoảng tột độ, người hầu Gái lập cập vịn lan can lần dò xuống tầng trệt và ngã lăn ra bất tỉnh một lúc lâu mới có thể ngồi trở dậy. Chiều ấy cô ta thu xếp quần áo định bụng chờ bà chủ về rồi kết thúc hợp đồng. Thế nhưng khi chạm phải ánh nhìn trống rỗng và khóe môi lạnh lẽo của bà chủ, cô không dám cất lời.
Bà chủ hỏi:
- Tại sao?
Cô không thể thuật lại câu chuyện ban trưa, một phần vì ngượng và một phần vì sự vô lý của nó.
- Cháu đang sợ hãi điều gì ư? - mắt bà chủ vẫn nhìn xoáy vào cô hầu Gái.
“Cái đầu ấy thông minh biết bao!” - cô hầu nghĩ, không dám ngẩng mặt lên, mặt cô nhòe nước và cô thổn thức:
- Cháu sợ...
- Cháu sợ điều gì? - giọng đối diện ân cần mà nghiêm khắc.
- Cháu sợ... Không, cháu buồn! Cháu cảm thấy rất buồn...
Vừa lúc Min đi xuống, cắt đứt giọng sũng nước đang lắp ba lắp bắp. Đôi vai người hầu run lên không thể kiểm soát. Rất may, Min chỉ lướt qua và không dừng lại. Cậu ta dắt xe ra khỏi nhà chuẩn bị đi đâu đó.
Bà chủ vỗ về cô hầu, giọng gần như ra lệnh:
- Cháu phải ở lại! Cháu nên ở lại! Nhà cô chỉ có hai mẹ con, có muốn không buồn cũng chẳng được. Cô thì đi suốt ngày. Min thì lầm lì ít nói, tính nó xưa nay là thế mà... Cháu không nên câu nệ... Mức lương và sự đối xử của cô thế này chẳng lẽ không tốt sao?
- Vâng, là rất tốt... Thế nên...
Bà chủ thông minh cướp lời:
- Thế nên cháu cần ở lại! Cháu phải ở lại! Nào, đưa cái túi xách cho cô. Một công việc lao động phổ thông nhàn nhã trong thời buổi này không nhiều đâu, cô gái trẻ ạ.
Dứt câu, bà xách cái túi lên phòng cô hầu, trả nó về đúng vị trí cũ.

*

* *

3. Không gian vẫn mênh mang ở căn nhà quá rộng và ba chiếc ghế cứ chông chênh trong những bữa ăn tối lặng lẽ. Bà chủ vẫn quan tâm tới con trai bằng những câu hỏi vừa đủ lượng thông tin nhưng thiếu hẳn kịch tính. Min vẫn phát đi phát lại những câu trả lời nhát gừng. Cô hầu vẫn dọn dẹp bàn ăn với chừng ấy chén bát xoong nồi đũa muỗng. Và căn nhà vẫn chưa có vị khách quan trọng nào ghé qua.
Nhưng Min thì hơi khác trước. Cậu ta ra khỏi nhà nhiều hơn vào ban ngày. Đêm, cậu thường tắt đèn sớm. Sau lần bắt gặp cậu chủ khỏa thân đứng bất động trước gương như một kẻ tâm thần, cô hầu Gái không dám bén mảng đến cánh cửa bí ẩn ấy nữa. Cô sợ chạm mắt vào những hình thù quái gở giăng mắc khắp phòng của Min. Bởi mỗi khi cô lén nhìn vào những gương mặt méo mó dị dạng ấy là y như rằng chúng cũng phóng tia nhìn chằm chặp lại cô. Cô sợ chúng ám ảnh vào giấc ngủ rồi sinh ra những cơn ác mộng.
Vậy mà Min đã sống một cách an toàn giữa chúng. Đơn giản vì đó là thế giới do chính Min tạo ra. Dạo sau này Min đã sáng tạo được một trò chơi mới. Cậu tha về những miếng simili có chức năng hấp thụ nhiệt và phản quang, cắt ra thành muôn vàn những mảnh vụn có hình ngôi sao, sau đó tỉ mẩn bắc ghế đính từng ngôi sao tí hon ấy lên trần nhà. Công việc thủ công này tưởng đơn giản nhưng hóa ra rất tốn thời giờ. Nguy hiểm nhất là việc phải sử dụng hai ba chiếc ghế chồng lên nhau mới đủ chiều cao cho Min với tay đụng trần. Min cặm cụi tiến hành công việc trong nhiều ngày mà vẫn không thỏa mãn. Đêm xuống, cậu khoái trá tắt hết đèn. Với sự hấp thụ nhiệt rồi phát ra ánh sáng được một thời gian ngắn, thế là trong vùng tối đen đặc, hiện ra một bầu trời sao lung linh hết sức kỳ thú. Rồi cậu đếm sao. Rồi cậu mơ tưởng viễn vông. Cậu thấy mình bay lên, bay lên... Người cậu nhẹ tênh, cậu chạm vào được những tia sáng lấp lánh ấy. Thế giới nở ra đến vô cùng... Cậu đứng dậy nhảy múa, với tay khua khoắng lên bầu trời sao vĩ đại của riêng cậu. Và cậu cười sằng sặc trong đêm...
Ngày nối ngày đêm nối đêm, Min không ngừng bắc ghế đính sao lên trần để khi tắt đèn vũ trụ sẽ hiện ra rồi khoái trá thưởng thức. Và trong những buổi chiều, không gian vẫn dày đặc nỗi đe dọa xâm chiếm bởi những tiếng sấm mơ hồ dội lên từ cuối chân trời. Cho đến ngày kia, bà mẹ không thấy con trai xuất hiện trong bữa ăn tối bèn sai người hầu Gái lên đập cửa phòng, sau nhiều lần hô toáng lên mà không tiếng đáp trả. Khi cánh cửa bật mở, trong vùng tối đen đặc, cô hầu lần tay bật công tắc điện. Trên cao, bầu trời sao vụt tắt ngúm. Chợt cô hét lên những tràng ú ớ khi phát hiện ra Min đang vật vã trên sàn nhà bừa bộn giấy bút như vừa bị trượt chân ngã từ những chiếc ghế chồng lên cao, tuy nhiên, định thần nhìn kỹ thì thấy nơi khóe miệng của Min đang sùi lên từng dòng nước bọt chảy ngoằng.

*

* *

4. Nhưng Min đã không chết. “Ma túy, chị hiểu không? Con chị đã bị sốc thuốc, may mà...” - vị bác sĩ nghiêm mặt kết luận. Còn người mẹ đau khổ lảo đảo vịn tay ghế, nhắm mắt nuốt cơn cảm xúc vào trong như thói quen lạnh lùng thường nhật. Tuy nhiên, lần này bà đã không thể. Bà ngẩng mặt lên cay đắng hỏi: “Ma túy ư? Vì sao?...”.
Dù Min tỉnh lại Min cũng không thể trả lời hay nói đúng hơn là Min không muốn trả lời. Vì một lẽ cậu cho rằng mẹ cậu hẳn phải hiểu rõ điều này hơn ai hết. Nỗi buồn, sự cô đơn, chứng trầm cảm..., chúng đã bao vây cuộc sống của con, trùm phủ khắp căn nhà này. Chẳng lẽ mẹ không hiểu sao, hở mẹ?
Thấy con đã qua cơn nguy kịch, bà mẹ móc di động run rẩy bấm số định gọi cho một ai đó. Rồi bỗng dưng bà dừng lại đột ngột. Không! Bà không muốn ông ấy lại đay nghiến bà. Bao nhiêu năm nay bà đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình, bằng vẻ mặt bình tĩnh đông cứng trong mọi trường hợp, bằng một sự nghiệp ổn định và phát triển. Không! Bà chưa hề vấp ngã, chưa hề suy sụp. Bà không thể để cho ông thấy bà đang thất bại trong vai trò người mẹ như thế này.
Chỉ có cô hầu Gái là không hề biết gì về những bí ẩn trong ngôi nhà mà cô đang phục vụ. Cũng phải thôi. Cô chỉ mới đến đây làm việc có hai năm. Cô làm sao biết được từ rất nhiều năm trước, khi cậu chủ Min còn bé tí và còn rất đỗi hồn nhiên tinh nghịch, cha mẹ cậu đã chia tay vì một vụ ngoại tình diễn ra từ phía người chồng. Bằng tất cả sự kiêu hãnh của người phụ nữ quá đỗi xinh đẹp, người vợ trừng phạt chồng bằng cách chối bỏ hai chữ “thứ tha”, dù người chồng ra sức van nài. Trải qua nhiều năm, lòng kiêu hãnh đóng băng rồi biến thành nỗi đớn đau câm lặng. Đứa con đành gánh vác hậu quả này. Mà ngay cả nó, dù có cố gắng vẽ ra bao nhiêu bức tranh khó hiểu đi nữa, dù tạo ra bao nhiêu bầu trời sao đi nữa, nó cũng không thể mường tượng được rằng hàng năm, mẹ nó chỉ cho phép hai người gặp nhau đúng một lần vào dịp kỷ niệm ngày cưới, cũng chính là ngày hai người chối bỏ nhau.
Dĩ nhiên, cái ngày ấy cô hầu Gái không thể nào biết được. Nhưng hình như người cha tội nghiệp của Min thì cô hầu đã gặp một lần rồi. Ấy là vị khách hiếm hoi có cái dáng to cao vâm váp đã ghé ngang ngôi nhà một đêm nào đó vắng Min. Rất tiếc, mối quan hệ sâu xa này cô cũng không biết nốt, bởi vì ngay cả tên ông ta cô còn chẳng nhớ nữa là...

Offline SUCSONG@  
#19 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:57:11(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Chuyện không thể gọi tên

Nguyễn Danh Lam

Cặp kính anh đã tháo bỏ đầu giường. Mặt chiếc đồng hồ không nhìn rõ số, mờ mờ một quầng trắng trong đêm. Anh bật điện thoại, hướng ánh sáng về phía nó. Vẫn chẳng thấy. Cô đang ngủ, ngực ập vào chiếc gối ôm, thở đều. Nằm thêm một lúc, anh chỏi tay ngồi dậy. Cô thở nhẹ, trở mình về phía ngược lại. Lại thở đều. Anh đã buông hai chân xuống đất, nghĩ sao, trườn người lên hôn nhẹ tóc cô. Cô càm ràm:

- Ngủ đi. Mai lại dậy trễ...

Anh không trả lời, quờ tay lấy gói thuốc trên cái tủ đầu giường.

Trăng sau mưa. Ướt. Một chuỗi sương huyền bí lóe dọc thành lan can. Anh vẫn không mang kính lên. Ngắm đêm qua cặp mắt của người cận thị có cái hay của nó. Những đốm đèn phía xa tỏa lên thành quầng. Lạ lùng. Rờn rợn.

Chiếc điện thoại đã hiện rõ màn hình. 1 giờ 44, nó đang nhảy... 1 giờ 45. Anh chống hai tay lên thành lan can. Đốt một điếu thuốc. Còn khoảng mười đến mười lăm phút nữa. Thấy ướt ướt dưới chân, anh bật đèn trần ban công. Thì ra mưa tạt. Hôm nay thứ bảy. Cô sẽ về muộn hơn. Có tiếng máy xe nổ từ xa. Xa thế này khó phân biệt là một chiếc hay hai chiếc. Đôi khi gã chở cô về. Đôi khi cô chạy một mình. Thường thì một mình. Chiếc xe trắng. Chờ thêm một lát. Tiếng máy xe lại lịm. Đúng "lịch" còn khoảng bảy phút nữa.

Mấy con thiêu thân bay quàng đập vào mặt anh. Anh mang kính lên. Tạnh mưa, thiêu thân lại vào. Nguyên nhân là cái bóng đèn kia. Anh vào phòng, lấy chiếc ghế. Đáy cái chụp đèn đầy xác thiêu thân. Anh vặn cái chụp. Một đám thiêu thân khô cong. Nhưng anh nghĩ, nếu đổ xác chúng ra cái bóng đèn sẽ quá sáng. Lại vặn vào. Tốt nhất là tắt luôn cái đèn đi. Anh trả chiếc ghế vào phòng. Trở ra. Ngồi trong bóng tối. Việc vặn cái chụp đèn mất mười ba phút. Cô vẫn chưa về.

Con hẻm cách dưới chân anh chín mét. Có lẽ hơn một chút. Phía dưới có một cái cột đèn. Ngược sáng. Nếu cô có ngước mặt lên cũng sẽ chẳng thấy anh. Nhiều đêm anh đã cho phép mình nhô hẳn đầu ra khỏi thành lan can. Những đêm trong tuần, cô thường về sau 0 giờ. Thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ thường khoảng 2 giờ. Đôi khi sớm hơn, hoặc trễ hơn.

Cái nắp cống dưới mặt hẻm bật lên thành một âm khô. Gã thanh niên tắt máy cho xe trôi vào hẻm. Chiếc xe dừng lại. Hôm nay cô mặc một cái váy màu vàng. Vàng hoa hướng dương. Hướng dương nửa đêm. Vầng lưng tỏa ngược ánh đèn, xanh như một thứ kem. Cô rút điện thoại, bấm phím. Gã thanh niên móc gói thuốc. Cô vừa nghe điện thoại vừa chìa tay. Gã thanh niên gắn thẳng điếu thuốc lên môi cô. Bật lửa. Cô kẹp điếu thuốc trên hai đầu ngón tay. Rít vài hơi, chìa lại phía gã. Gã quay đầu xe. Cô vẫn nói chuyện điện thoại. Tiếng máy xe nổ. Còn lại mình cô trên mặt hẻm. Anh nép hẳn vào bụi cây trên sân thượng. Nước lạnh buốt trôi xuống cổ. Cô vẫn nói chuyện điện thoại. Bất ngờ, cô ngước mặt lên. Theo phản xạ anh giật mình chui tọt đầu vào lan can. Tất nhiên cô không thấy. Nhưng anh kịp nhìn rõ trong một tích tắc những vệt kim tuyến lấp lánh trên hai quầng mắt cô. Quầng mắt tô rất đậm, cũng hắt ánh vàng kim. Hai vệt chì kẻ lông anh đen nhánh. Cô cách anh chín mét, nhưng dường vẫn nghe mùi hương tỏa dìu dịu...

Cuộc nói chuyện qua điện thoại kéo dài hơn mười phút. Cô đóng nắp máy, lục cái bóp tìm chìa khóa. Con chó xù từ trong nhà lao vọt ra. Nó quẫy đuôi, mũi chúi vào đôi giày cao gót. Cô kéo sợi xích. Con chó lăng xăng chạy trước. Nó gác chân lên cột đèn. Cô kéo mạnh sợi xích. Con chó đi theo hướng giật lùi vào cửa. Tiếng rít dài của kim loại. Anh còn nghe thêm một chuỗi lách cách, cô vặn ổ khóa.

Trăng trượt qua đỉnh đầu. Thành lan can ướt lạnh. Anh rút điếu thuốc cuối cùng, bóp cái gói. Đêm còn lại đúng nghĩa đêm. Mênh mông. Anh ở ngoài mọi căn nhà.

Anh mở cửa sân thượng. Khoảng cách với dưới kia đã là mười hai mét. Có một chuyến bay ngang đầu. Không rõ cất cánh hay hạ cánh. Đèn đỏ dưới cánh chớp đều. Gió. Gió khiến anh khẽ rùng người. Ánh đèn phía phòng cô còn sáng. Cô đang tẩy trang, bước vào bồn tắm. Anh chỉ nghĩ đến đấy, chưa bao giờ lấn thêm. Tại sao nhỉ? Anh tự mỉm cười. Ánh đèn bên kia tắt hẳn. Anh ngồi thêm một lúc. Một con chó sủa, âm điệu nửa tỉnh nửa mơ. Lắc ắc.

Khi anh trở lại phòng, cô đã nằm ngang qua mặt nệm. Anh đẩy nhẹ, vừa một chỗ. Lại nằm xuống. Cô nghiến răng. Chắc ngủ say. Anh lùa tay tìm được mấy sợi tóc. Đưa lên môi, cắn nhẹ. Con chó ngoài hẻm vẫn sủa. Mặt cô trắng dưới ánh đèn từ cửa sổ hắt vào. Lông anh cong. Sống mũi thanh tú. Cô đẹp. Anh nghe mùi thuốc lá từ miệng mình hôi gắt, trộn với mùi thơm từ mái tóc cô. Chẳng ra một thứ mùi gì cả. Đồng hồ điện thoại chỉ 3 giờ 21. Anh tắt máy. Cố thở thật sâu. Sực nhớ mình quên để chuông báo thức, anh lại mở máy. Ánh sáng từ màn hình làm cô thức giấc. Cô trườn ngang người anh. Đầu gối thúc thẳng vào bụng. Cô lảo đảo bật đèn phòng vệ sinh.

- Sao anh chưa ngủ đi?

- Mai em cứ kêu. À mà anh đã để báo thức.

- Mấy giờ?

- Bảy...

- Sớm thế? Chín đi.

- Ừ...

Cô quàng tay ngang bụng anh, nằm xuống. Anh lật ngang về phía cô, thấy đôi mắt mở to. Cô cười.

- Tỉnh mất rồi.

- Thôi ráng ngủ đi.

- Không ngủ được nữa thì sao?

- Chẳng phải em nói anh sáng mai phải dậy à?

Cô kéo bàn tay anh đặt lên ngực mình. Anh để yên. Cô cũng nằm yên. Lát sau, anh biết cô đã ngủ lại.

Anh vẫn dậy đúng 7 giờ. Cô chưa dậy. Không có cảm giác thèm ngủ, anh đã quen với những giấc đêm chỉ chừng hơn bốn tiếng. Anh đẩy nhẹ cửa ra lan can. Nắng đã gắt. Cửa nhà đối diện vẫn khép im. Con chó xù cào cào bên trong, rên khẽ. Nó thèm ra ngoài. Nhưng việc ấy chỉ có thể đến sau bốn đến năm tiếng đồng hồ nữa. Cô dậy khi mọi người đã vào giấc ngủ trưa.

Anh xuống lầu. Có lẽ đi kiếm cái gì ăn sáng rồi mua về cho cô luôn. Đi ngang chỗ con chó đang cào, rên rỉ, anh dừng lại. Liếc nhanh vào bên trong. Sau lớp cửa sắt bên ngoài, còn một lớp cửa nữa. Trí tưởng tượng dẫn anh lên cầu thang, đẩy cửa phòng cô, nhìn vào gương mặt say ngủ, không trang điểm. Nó như thế nào nhỉ? Anh chưa bao giờ nhìn cô lúc không trang điểm. Tuy nhiên cô cũng mới chỉ đến ở đây được vài tháng.

Khi anh trở về nhà, cô đã dậy.

- Anh mua hủ tíu. Gỡ bịch, bỏ vô tô cho em nhé?

- Bữa qua mình mới ăn hủ tíu mà.

- Chết, anh quên.

- Thôi bỏ tủ lạnh. Đi, tiện ghé chỗ nào ăn. Trưa về tính sau.

- Cũng gần trưa rồi đấy.

- Vậy chút nữa đi ăn trưa luôn.

- Còn sáng nay? Tuần trước mình dự định làm gì nhỉ?

- Chắc đi mua cái gì đó... Để em nghĩ coi...

Tất nhiên cô luôn nghĩ ra một cái gì đó để mua.

Ngày chủ nhật trôi qua trong mấy thương xá. Chiều là rạp xi nê. Một bộ phim có người đi ra đi vào. Có nữ có nam. Hình như có vài người yêu nhau. Cô kéo tay anh:

- Về.

- Giờ ra làm sao lấy xe?

Họ đành ngồi lại thêm gần một tiếng.

- Chúng ta nên có con - Anh bảo cô trong bữa ăn tối.

Cô cười:

- Mình sẽ lại phải đón bà về ở chung.

Anh im lặng. Cô cũng chuyển đề tài:

- Bữa nay có đá banh không?

Anh gật. Cô hỏi:

- Vậy anh lên lầu hay em lên lầu?

- Anh lên lầu.

Cô chuyển kênh. Anh lục tủ lạnh lấy lon bia. Những trận banh thường diễn ra vào giờ nhà bên đèn tắt. Cô vẫn đi từ 5 giờ chiều. Anh có thể tập trung vào từng đường chuyền. Bữa nay lại khác. Vừa mở cửa phòng, liếc sang nhà đối diện, anh thấy một người đàn ông đứng bên lan can. Anh chưa thấy ông này bao giờ cả. Ít ra là từ lúc anh bắt gặp cô lần đầu trong hẻm.

Người đàn ông mặc bộ đồ thể thao màu trắng. Quần soóc. Áo có một cái sọc màu đỏ chạy vắt ngang ngực, trên có hình một cái vợt. Tóc ông ta đã bạc, nhưng người còn đậm chắc. Anh thấy cô thấp thoáng trong phòng. Người đàn ông đứng nhìn dọc con hẻm một lúc. Thoáng bóng cô đi ra. Rồi cả hai người vào. Rèm kéo lại.

Anh quay về với màn hình ti vi. Cầm remote. Âm thanh vọt lên quá mức. Tiếng cô dưới nhà:

- Em đang coi ca nhạc đó nghe.

Anh giảm âm thanh, nghĩ sao bấm phụp cho ti vi tắt hẳn. Mở nắp lon bia, anh uống từng ngụm chậm rãi.

Cô lên:

- Sáng mai phải đi làm. Thôi hôm nay ngủ sớm.

- Tùy em.

- Da em rát quá. Cả ngày nay đi nắng- Nói đến đó cô la một tiếng - Ôi...!

Anh giật mình:

- Chuyện gì vậy?

- Thấy da rát, mới nhớ bữa nay quên mua kem!

Mặc cô càm ràm với những món mỹ phẩm, anh mở lon bia tiếp theo. Định uống, nghĩ sao lại cất mình dậy:

- Em ngủ trước. Trận banh chưa hết...

- Em thấy anh có coi đâu?

- À... nghỉ giữa hiệp. Tắt. Anh xuống lầu đây.

Xuống đến nửa thang, anh nghe trong phòng tiếng cô hát. Bản nhạc trên ti vi vừa phát. Cô luôn thuộc ngay những giai điệu vừa coi trên ti vi. Hát hết đêm ấy. Hôm sau coi chương trình khác, lại đổi bài khác.

Trận banh đã hết hiệp một. Đang chương trình quảng cáo. Bia. Ti vi. Hàng không. Gần hết hai lon bia. Anh có cảm giác hơi buồn ngủ. Vươn vai một cái. Duỗi thẳng hai chân. Anh thấy hai mũi bàn chân chỉ còn lộ ra lấp ló qua đỉnh bụng. Bụng mình to rồi. Có lẽ phải tập thể thao. Đi bơi? Cô sẽ đòi theo! Đánh ten-nít? Hay đấy. Mai sẽ vào công ty hỏi mấy đứa bạn về sân bãi. Nghĩ đến ten-nít, anh nhớ lại người đàn ông ở ban công đối diện. Tay vẫn cầm lon bia, anh lững thững lên lầu, không quên kẹp theo gói thuốc.

Ánh đèn vàng nhẹ hắt ra từ cửa sổ đối diện. Anh ợ một cái. Mùi bia ựa lên. Bỏng rát. Sau tấm rèm có bóng người thấp thoáng. Rồi đèn bật sáng. Cô vén rèm nhìn ra ngoài, rồi lại buông xuống ngay. Đúng là cô. Nhưng chỉ thấy mái tóc dài. Bờ vai.

Đèn lần lượt bật sáng từ lầu trên xuống lầu dưới. Có tiếng rít cửa sắt. Anh chồm vội ra thành lan can. Cô đứng áp vào một bên cửa. Chiếc áo ngủ mỏng tang. Một cái đít xe lùi ra cửa. Người đàn ông hồi nãy. Đã thay bộ đồ khác.

Người đàn ông ngồi trên xe, kéo đầu cô gái lại. Một cái hôn lên má. Anh thấy cô đưa nốt má bên kia. Ông ta đề máy. Cô đứng vẫy theo bằng tay phải, tay trái vẫn cầm cái điện thoại. Ánh đèn phía sau xe đỏ lòe cuối hẻm.

Cô bấm máy. Con chó xù chạy quẩn dưới chân. Cô ngồi xuống, vừa nói chuyện qua điện thoại vừa vỗ vỗ đầu nó. Cuộc điện đàm ngắn. Cô bỏ máy vào cái túi trước bụng. Gió lướt qua mặt hẻm. Tấm áo ngủ dán xuôi thân thể cô. Anh thấy một cặp chân thẳng, đầy đặn. Chờ con chó gác chân lên cột đèn xong, cô trở vào. Không thấy tiếng rít cửa sắt. Cô khuất hẳn. Anh hơi cúi người dòm xuống phía dưới. Quả là hai lá cửa chưa kéo lại. Thế nghĩa là cô còn trở ra.

Anh mồi một điếu thuốc, phả khói ngược lên bầu trời. Trăng trồi ngụp sau những đám mây. Hôm nay không mưa. Gió hơi ngợp. Anh lại thò cổ qua lan can. Hẻm vắng ngắt. Đèn vàng vọt. Lũ thiêu thân hôm nay không xuất hiện. Một con mèo phóng loảng choảng trên mấy tấm tôn phía dưới anh. Anh lại thèm một ngụm bia. Cái lon đã rỗng. Phải nhớ đem xuống. Sáng mai rất có thể cô sẽ phát hiện đêm nay anh lên sân thượng uống bia một mình. Chẳng sao cả. Nhưng anh vẫn thấy không nên để cô biết điều đó. Anh muốn xuống lầu lấy thêm một lon bia, nhưng thò mặt ra khỏi lan can, anh lại nghĩ, thôi.

Có tiếng máy xe. Hẻm giờ này rất hiếm xe vào. Thì ra là gã thanh niên. Không thấy cô xuất hiện. Gã thanh niên tự đẩy xe vào nhà. Lần này thì tiếng cửa sắt rít một hồi dài. Đèn dưới lầu tắt. Đèn trên lầu tắt.

Anh xuống trệt. Một trận bóng đá khác. Giải ở một quốc gia nhỏ. Anh không theo dõi giải này. Lúc nãy cơn buồn ngủ ập đến, nhưng giờ đầu anh chỉ thấy khô khốc. Đã quen với những giấc ngủ từ quãng 3 giờ sáng, có lẽ đêm nay sẽ phải nhồi nốt vài trận banh. Cũng may, đêm chủ nhật, đài phát nhiều bóng đá.

Cuối cùng anh ngủ quên trên ghế. Ti vi vẫn mở. Khi anh tỉnh dậy, màn hình đã chuyển sang cảnh mấy gã đàn ông đồ sộ đang đánh nhau. Cổ anh mỏi nhừ vì nằm sai tư thế. Chẳng biết đã mấy giờ. Anh ngần ngừ không biết có nên lên sân thượng nữa không. Đi ngang phòng, thấy cánh cửa khép hờ. Bên trong máy lạnh vẫn mở. Anh chỉ định đóng lại rồi lên tiếp, nhưng cơn buồn ngủ cùng cái cổ đau tức kéo anh vào.

Đám bạn rất nhiệt tình khi thấy anh có ý định gia nhập nhóm ten-nít.

- Đúng đấy, bụng anh bự thế kia. Chỉ vài tháng nữa là... hai thằng không còn nhìn thấy nhau. Tập đi là vừa.

Những gã hiểu ý, bật lên cười hô hố. Anh gật đầu:

- Mua vợt và đồ ở đâu?

- Ở đâu chả có, ten-nít giờ phát triển, tỉ lệ thuận với mấy thằng phát phì như tụi mình!

11 giờ, anh nhận được tin nhắn của cô: Đi ăn trưa không? Tin nhắn lại: OK.

Ở quán ăn trưa, cô hồ hởi:

- Tụi nó vừa rủ, cuối tuần này đi X tắm biển. OK nha!

Anh vuốt gáy, thấy vẫn hơi mỏi:

- Ừ.

- Vậy em dặn tụi nó chừa chỗ xe, đặt thêm phòng.

Anh thở ra. Có lẽ phải đổi gió hai ba ngày thật. Khi trở về sẽ bắt đầu đánh ten-nít.

oOo

Từ X về, anh thấy trước cửa nhà bên một ổ khóa bằng đồng bắt vào hai sợi xích vòng ra từ bên trong. Anh nhớ trước đây cô chỉ dùng cửa kéo, không có ổ khóa này. Tối ấy, như thường lệ, đèn vẫn tắt. Anh chờ đến 3 giờ sáng. Chiếc ổ khóa vẫn câm lặng.

Một tuần như thế trôi qua. Anh hiểu cô đã rời khỏi con hẻm. Bình thường như lúc đến.

Offline SUCSONG@  
#20 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:57:57(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Kỷ vật

Trọng Huấn

Tốt nghiệp ra trường, tôi về dạy học ở một huyện vùng trung du. Cái thị trấn nho nhỏ. Ngôi trường ngự ngay trên đồi. Từ khu trường có thể nhìn bao quát xuống thị trấn, những mái nhà lô xô, cái mái ngói, cái mái tranh, trông đến vui mắt. Xa xa nữa, là những vạt chè xanh, trải dài ngút ngát. Một thị trấn thanh bình, mơ mộng!

Lũ học trò hiền lành, chăm chỉ. Cứ nhìn chúng tròn xoe mắt, lắng nghe từng câu, từng chữ trong các tiết học, trong những bài giảng của tôi, thấy chúng thật đáng yêu. Công việc, cuộc sống chỉ đến thế là cùng, mình có ước ao gì hơn nữa.

Năm dạy học đầu tiên qua đi tốt đẹp. Vào cuối năm ấy, tôi có người yêu, anh công tác ở một cơ quan trong huyện và hơn tôi dăm tuổi. Bước vào năm thứ hai, mọi việc diễn ra vẫn bình thường, nếu như không có chuyện, một cậu học trò thường gây khó chịu cho tôi. Ngay tiết học môn văn đầu tiên, lên lớp được chừng 5 phút, đang giảng bài, tôi chợt nghe có tiếng thưa rõ to:

- Thưa cô!

Nhìn ra cửa, một cậu học trò cao lớn, không cặp, không sách, áo bỏ ngoài quần và nhất là cái đầu - trọc lốc - nghênh nghênh đứng. Trong lớp nổi lên những tiếng cười khinh khích. Tôi khó chịu, song cố nén, cất tiếng hỏi:

- Cậu... tên gì?

- Thưa cô, em là Nguyễn Lê Tùng Sơn, mười tám tuổi, học sinh tổ bốn, ngồi bàn cuối, nhà ở thôn Chùa...

Cả lớp rộ lên tiếng cười

- Thôi! Cậu vào lớp ngay cho tôi nhờ!

Trường hợp này, chỉ còn cách xử lý như vậy. Nếu giằng co, làm căng, mất hết cả tiết học, mà lại là tiết học đầu năm. Cậu học sinh khuỳnh khuỳnh đi vào lớp, vừa đi, vừa đưa tay nhứ nhứ cậu này, hất hàm với cậu kia. Tôi cố nén, tiếp tục tập trung vào bài giảng. Một lúc sau nhìn xuống chỗ cậu ta, cậu học trò cũng kiếm đâu được cây bút, đang hý hoáy viết vẽ gì đó. Đến giữa tiết học, cậu ta không viết vẽ nữa, cái đầu trọc lốc gục trên mặt bàn. Cho đến tận lúc ra chơi, cậu vẫn ngon lành ngủ. Biết làm gì với thứ học trò này đây, một loại học sinh cứng đầu, cứng cổ. Tôi băn khoăn tự hỏi, cần phải áp dụng biện pháp cứng rắn, hay mềm dẻo. Nghe tôi phàn nàn ở văn phòng, cô giáo dạy văn năm trước của cậu ta, nhún vai:

- À, cái cậu Nguyễn Lê Tùng Sơn chứ gì? Chịu! Đến Tài thánh cũng chịu. Loại đó, chỉ có.... đuổi.

Đuổi thì đơn giản, tôi nghĩ. Trong những tiết học tiếp theo, cậu ta còn nghĩ ra nhiều trò quỷ quái khác. Cả lớp đang cắm cúi chép bài, bỗng dưng một cái máy bay giấy phi đánh vèo. Truy hỏi thủ phạm, cả lớp ngồi im lặng. Hay có lần, ngay trên mặt bàn giáo viên, một tờ giấy nguệch ngoạc những hình vẽ bậy bạ... Một hôm, tôi đang giới thiệu về tác giả, thì cậu ta đứng lên, cắt ngang:

- Thưa cô, cô cho em hỏi một câu ạ?

- Cậu hỏi gì?

- Thưa cô! Thế nhà thơ Nguyễn Khuyến ở đâu ạ?

- Cậu đã học chương trình văn học lớp dưới chưa?

- Thưa cô, rồi ạ! Sách viết, ông Nguyễn Khuyến quê ở Hà Nam, đỗ tam nguyên, ra làm quan... Thế mà nay ở quê em, hàng ngày vẫn thấy ông Nguyễn Khuyến dắt trâu ra đồng?

Cả lớp cười rộ lên. Tức quá, không kìm được, tôi quát to:

- Ra, ra ngay! Cậu ra ngay khỏi lớp!

- Thưa cô, em phải ra ngay ạ? Cô bảo em về mời ông Nguyễn Khuyến đến đây! Vâng, thưa cô em đi, đi ngay đây ạ!

Nói rồi, cậu ta tót nhanh ra khỏi lớp. Tôi chỉ còn biết nhìn theo, uất ức, không nói lên lời. Cố kìm nén mà nước mắt cứ trào ra. Học trò cả lớp cúi gằm. Ngay ngày hôm sau, theo kiến nghị của tôi, Ban giám hiệu nhà trường yêu cầu cậu ta lên văn phòng làm kiểm điểm. Tối ấy tôi đang ngồi chấm bài. Đây là bài kiểm tra văn đầu tiên của năm học. Nhìn đến cái tên Nguyễn Lê Tùng Sơn, tôi đã định cho con hai rõ to, song chợt dừng lại. Kể chữ viết của cậu ta cũng đẹp, nó có cái vẻ khoáng đạt. Chữ như thế này mà sao người lại có những hành động như vậy nhỉ? Tôi chậm rãi đọc bài văn của cậu ta. Ừ, cậu ta viết khá, câu cú chuẩn xác, văn phong súc tích, ý tưởng của bài văn khá mới lạ. Đang vu vơ nghĩ, chợt nghe tiếng động cửa, ngẩng lên nhìn, tôi thấy cậu học trò tai quái kia:

- Thưa cô...

Khác với mọi khi, cậu học trò rụt rè. Tôi nghĩ bụng, hoá ra biện pháp cứng rắn lại có tác dụng. Tôi bảo đến mấy lần, cậu ta mới lúng túng ngồi xuống. Thấy cậu ta cứ ấp a ấp úng, tôi đành chủ động:

- Cậu.... Cậu đã thấy khuyết điểm của mình chưa?

- Dạ... thưa cô!...

- Tôi vừa đọc bài kiểm tra của cậu xong. Sơn ạ, tôi thấy buồn và hơi lạ, một học trò viết được những điều như thế, sao có thể....

- Thưa cô... Em...

- Em làm sao?

- Dạ... em phải nghỉ học.

Cậu học trò vốn có cái vẻ phớt đời, ngông nghênh, giờ hiền khô, tội nghiệp. Tôi thoáng thấy ái ngại và hơi mủi lòng:

- Sao, sao Sơn lại nghỉ học?

- Thưa cô... hoàn cảnh nhà em... Hôm nay em đến xin lỗi và chào cô...

Sơn đặt bản kiểm điểm lên mặt bàn, rồi lặng lẽ đứng lên. Bất ngờ khi biết ý định bỏ học của Sơn, tôi bảo cậu ta ngồi xuống, định có vài lời khuyên nhủ. Cậu ta vẫn đứng, lí nhí chào và dứt khoát ra về. Khi cậu ta đi rồi, tôi thoáng ân hận. Có phải vì mình mà cậu học trò bỏ học? Vài ngày sau, vào sáng chủ nhật, hỏi thăm địa chỉ, tôi đạp xe đến thăm nhà Sơn. Nhà Sơn nằm lưng chừng một quả đồi, căn nhà tranh ba gian, có vườn chè bao quanh. Sơn cởi trần, đang lúi húi sửa cái xe cải tiến. Nhìn thấy tôi dắt xe vào sân, cậu ta có vẻ bất ngờ, miệng ấp úng chào. Trong khi tôi đang tìm nơi dựa xe, thì Sơn vội vã chạy vào nhà. Tôi ý tứ đứng lại ngoài sân, đợi cậu học trò mặc quần áo. Từ trong nhà, một người đàn bà xấp xỉ tuổi năm mươi, tong tả chạy ra:

- Cô giáo... cô giáo đến chơi. Thằng cháu Sơn nhà tôi nó chẳng báo trước gì cả. Mời cô, mời cô giáo vào nhà...

Tôi bước vào nhà theo người đàn bà. Một căn nhà tềnh toàng, nền đất gồ ghề, giáp tường có mấy bao sắn và bao thóc chồng lên nhau. Tài sản đáng giá nhất là ban thờ và cái giường gỗ rẻ quạt. Người đàn bà lúng túng giải thích, nhà chỉ có hai người, nên chẳng nước non gì cả. Nói rồi bà xách cái ấm xuống bếp. Từ trong buồng, Sơn ngập ngừng bước ra:

- Sơn... sao hai ba hôm rồi, không thấy Sơn tới lớp?

- Thưa cô...

Vẫn chưa hết lúng túng, cậu học trò tay vân vê gấu áo...

- Có điều gì mà Sơn lại nghỉ học? Có phải tại tôi...

- Dạ... thưa cô, không, không... Nhà em có chuyện. Khó...

- Khó thì mới phải cố gắng. Chỉ còn dăm tháng nữa. Sơn không nghĩ tới tương lai của mình sao?

Chúng tôi đang dang dở câu chuyện, thì bà mẹ từ dưới bếp xách ấm nước lên. Bà ngỡ ngàng khi hay tin con trai định bỏ học:

- Báo cáo cô giáo, thảo nào, mấy hôm nay, thấy nó cứ ở nhà. Hỏi thì nó bảo...

Sơn cắt ngang lời mẹ:

- Kìa mẹ! Mẹ biết gì mà... Con, con đã quyết rồi!

- Thế có chết không cơ chứ. Đã đến đận gì mà phải bỏ học. Việc của bố anh là việc của bố anh. Làm sao anh phải bỏ học...

Tôi đã biết lý do vì sao Sơn bỏ học qua câu chuyện của bà mẹ. Vừa dấm dứt khóc, bà vừa kể: Bố Sơn là thợ xây, ông thường đi vùng nọ, vùng kia xây cất nhà cửa. Trước đây ông còn có trách nhiệm với gia đình, thỉnh thoảng mang về chút tiền cho vợ con. Hai ba năm lại đây, đã rất ít về, mà tiền nong cũng tịnh không thấy một đồng nào. Mãi cho đến gần đây, mẹ con Sơn mới biết, ông có vợ bé. Giờ đây mọi công việc đều trút lên vai người vợ. Bà lại hay đau ốm. Thương mẹ, Sơn quyết định bỏ học, để kiếm một công việc nào đó. Tôi ngồi lại qua trưa, ăn bữa cơm đạm bạc với hai mẹ con họ và rì rầm khuyên nhủ Sơn. Sau buổi tôi đến nhà, Sơn trở lại lớp học.

Từ buổi ấy Sơn như người khác lạ. Cậu học trò ngỗ ngược ngày nào, nay trầm tĩnh. Đúng là một học sinh có năng khiếu môn văn, những ý tưởng lạ, mơ mộng, những bài phân tích, bình luận sắc sảo, khúc chiết. Trong những giờ tôi lên lớp, cậu yên lặng, chăm chú nghe bài giảng. Một lần đang ngồi xem sổ điểm, trong khi cả lớp cắm cúi làm bài, bất chợt ngẩng lên, tôi vô tình bắt gặp cái nhìn của Sơn, cậu ta lúng túng, vội nhìn nhanh sang hướng khác. Tôi nghĩ ngợi, hình như gần đây Sơn có cái nhìn khang khác.

Lại một đợt chấm bài kiểm tra. Xem đến bài của Sơn, tôi hơi bất ngờ. Cậu ta không làm theo đề ra, mà kể một câu chuyện yêu đương, chàng trai yêu thiết tha, còn cô gái... Thế là linh cảm của tôi chính xác, Sơn đang yêu tôi, yêu cô giáo của cậu ta. Xử lý thế nào đây, một chàng trai mới lớn. Tôi đâm ra lúng túng. Không thể mang ra kiểm điểm, hay nói trước lớp. Khi trả bài kiểm tra, tôi giữ bài của Sơn và bảo cậu ta, cuối giờ ở lại gặp tôi. Nhìn cậu học trò mặt mũi đỏ rừ, ngắc ngứ ngồi sau bàn, tôi nhẹ nhàng nhắc, Sơn làm lại bài kiểm tra, còn câu chuyện mà cậu ta viết ra, thì ở cái tuổi và vào thời điểm cuối cấp học này, là chưa nên. Sau buổi đó, Sơn tránh giáp mặt tôi. Nhưng đôi lần, vô tình tôi vẫn bắt gặp ánh mắt của cậu ta, từ xa dõi nhìn tôi.

Giữa năm học đó tôi xây dựng gia đình. Đám cưới của chúng tôi diễn ra vui vẻ, nào bạn bè, đồng nghiệp hai cơ quan, rồi học trò các lớp. Trên hội trường khi cùng chồng đến các bàn chúc rượu và cảm ơn, tôi bắt gặp cái nhìn đượm buồn của cậu học trò sau khung cửa sổ. Rồi năm học sắp kết thúc, học trò tập trung vào kỳ thi tốt nghiệp, thi đại học. Trong buổi liên hoan chia tay, lớp Sơn tổ chức ăn uống, đàn hát đến khuya. Tránh tiếng đàn hát, chúc tụng ồn ào, tôi bước ra khỏi phòng liên hoan. Đêm hè sân trường yên tĩnh. Cái nóng gắt gao ban ngày đã dịu bớt. Ngẩng lên, thấy bầu trời đầy sao. Lâu lắm rồi, có lẽ từ khi ra trường, tôi mới có dịp ngắm sao. Nghĩ nhanh thật đấy, ngày nào còn là cô sinh viên mơ mộng, bao lần cùng đám bạn bè leo lên gác thượng, ngồi tán gẫu và ngắm sao. Đang thả hồn vẩn vơ giữa bầu trời đêm thăm thẳm, tôi chợt thoáng nghe có tiếng chân người bước sau lưng và đứng lại. Linh tính mách bảo, đó là ai. Một lúc khá lâu, vẫn không thấy cậu ta lên tiếng. Hình như có tiếng thở dài. Tôi chủ động quay lại, hỏi:

- Sơn đấy hả?... Sao không ở trong lớp vui với các bạn!

- Dạ...

- Chuẩn bị thi tốt chứ? Phải cố gắng lên nhé, Sơn!

- Dạ...

Rồi cả hai im lặng. Thời gian trôi đi. Chắc đã muộn rồi, tôi quay mình định vào chào mọi người, đến lúc này Sơn mới lên tiếng!

- Dạ... Cô... Cô cho Sơn gửi...

Sơn trao nhanh cho tôi lá thư, rồi vội vã bước vào khoảng tối trên sân trường. Lá thư tỏ tình chứa chan lời yêu đương. Phân vân, cuối cùng tôi quyết định, đưa lá thư của cậu học trò cho chồng tôi xem. Xem xong, anh mỉm cười, nói một mối tình học trò, chỉ tiếc là không có đoạn kết. Sau mùa thi, Sơn trúng vào trường sĩ quan công binh. Tiếp đó, thỉnh thoảng tôi nhận được những thông tin rời rạc về Sơn. Ra trường cậu ta được điều về một đơn vị công binh. Nghe nói đơn vị không đóng ở một chỗ cố định, mà nay đây, mai đó. Còn tôi, do bộn bề công việc và chuyện chồng con, nên ít có thời gian nghĩ về cậu học trò ấy nữa.

Số phận con người ai mà biết được. Cuộc đời của tôi tưởng như êm đềm, bất ngờ bị đảo lộn. Chồng tôi không may mắc một căn bệnh hiểm nghèo, bao thuốc thang, mà anh không qua khỏi. Những ngày tháng đó tôi như kẻ mất hồn. Ban ngày vì công việc có thể còn nguôi ngoai, chứ đêm xuống, trong gian nhà vắng lặng, nhìn đứa con nhỏ, tôi tưởng như không sao chịu nổi. Để dịu bớt đi nỗi buồn, tôi chỉ còn biết lặng lẽ thắp nén nhang lên ban thờ chồng. Nhìn làn khói hương chao lượn, cảm giác trong tôi như thấy anh đang về cùng với mẹ con tôi. Sau lễ cúng trăm ngày, lúc đó khoảng tám giờ, tám rưỡi tối, tôi nghe có tiếng ai gõ cửa. Thật bất ngờ, Sơn sừng sững đứng trước hiên nhà. Bộ quần áo sĩ quan làm Sơn thêm già dặn, cứng cỏi. Sơn đặt bó hương lên ban thờ và thắp một nén nhang. Tôi đứng khóc lặng sau Sơn. Đến lúc này tôi cảm giác, càng thấy mình mất mát lớn quá. Sơn nói mấy lời chia buồn, rồi lặng lẽ ngồi hút thuốc. Tôi cũng ngồi yên lặng.

Tối hôm sau Sơn lại đến. Một tối nữa, một tối nữa, cho đến hôm trước khi trở lại đơn vị:

- Lan... tôi yêu Lan. Biết Lan đang đau khổ... Nói chuyện vào lúc này thật không hợp, nhưng...

- Thôi, đừng nói nữa Sơn. Tôi biết, tôi biết Sơn... Nhưng... không thể. Có lẽ, không bao giờ tôi quên được anh ấy. Hãy hiểu tôi...

- Không... Sơn sẽ đợi. Dù là bao lâu... anh sẽ đợi.

Sơn trở về đơn vị. Qua những lá thư, tôi biết Sơn đang ở đâu, khi thì một thị xã miền Trung, lúc tại một khu phát triển công nghiệp. Nhận thư của Sơn, nhưng tôi không hề đáp lại. Có lẽ đó là cách trả lời tốt nhất. Tháng tháng, vẫn những lá thư Sơn đều đặn gửi cho tôi. Chợt bẵng đi một, hai tháng, tôi không nhận được thư của Sơn nữa. Thôi, thế cũng hay, có lẽ Sơn đã hiểu. Một buổi chiều đang đứng lớp, tôi thấy đám học trò lao xao, ngó ra ngoài sân. Trên sân trường, tôi nhìn thấy từ phía sau lưng, ông bảo vệ đi cùng một anh bộ đội. Tự dưng tôi lại nghĩ tới Sơn. Hết tiết học, đang ngồi trong lớp, thì một cậu học trò chạy vào báo, tôi có khách, đang đợi ở văn phòng.

Tôi hồi hộp nghĩ, hay là Sơn. Bước vào văn phòng, thì biết mình nhầm. Anh bộ đội từ tốn đứng dậy:

- Chào cô giáo!

- Chào anh!

- Có phải, cô là Nguyễn Thị Huyền Lan?

- Vâng...

Anh bộ đội vẻ ngần ngừ, chưa biết bắt đầu chuyện ra sao. Rót chén nước mời anh, tôi chủ động:

- Dạ... Có việc gì thế ạ?

- Dạ. Tôi... Tôi cùng đơn vị với Sơn.

Anh bộ đội tần ngần lôi từ trong cặp ra cuốn sổ nhỏ.

- Đây là cuốn sổ tay của Sơn.

Tôi hơi bực mình nghĩ, cậu ta còn bày ra trò gì nữa đây. Thư từ gửi mãi rồi, chưa đủ sao. Giọng hơi bực bội, tôi hỏi:

- Sao... Sao lại gửi cho tôi?

- Đây là kỷ vật của Sơn. Cậu ấy đã hy sinh rồi!

- Sao?

- Hai tháng trước Sơn nhận nhiệm vụ tháo gỡ một quả mìn... Trước khi tắt thở, Sơn nhắn lại, muốn cuốn nhật ký này đến tận tay Lan.

Thế là một người nữa lại ra đi! Đặt cuốn nhật ký lên ban thờ, bên tấm ảnh của chồng, tôi thắp nén nhang. Chắc chồng tôi sẽ rộng lượng, cảm thông cho nén nhang thắp chung này, thắp cho một người đàn ông và một chàng trai, một người tôi yêu tha thiết và một người tha thiết yêu tôi.

2004

Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
3 Trang123>
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.