Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


3 Trang<123>
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline SUCSONG@  
#21 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 05:59:13(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Oan hồn ngõ đá dốc

Đoàn Lê

Tôi nhớ như in buổi sáng trước hôm xảy ra chuyện, tôi đã cảnh giác bảo thằng Hào:

- Phải coi chừng thằng cù lần. Nó sắp điên rồi.

Hào nheo mắt nhìn tôi một thoáng rất nhanh, rồi dõi ra biển, Hào nói lảng sang chuyện thời tiết:

- em đoán oi thế này khéo mai chột giời.

Ý nó không muốn tôi dây đến chuyện thằng Tú, thằng bạn nối khố của hai đứa tôi. Nhưng không dây sao được. Thế nào gọi là bạn bè? Tôi nói tiếp, gay gắt hơn:

- Nó đang mù, phải mở mắt cho nó. Không hay ho gì đâu!

Hào bật cười một tiếng ngắn ngủn.

- anh nhất định làm bố trẻ nó đấy? anh có giỏi đi can nó thử xem!

Không rõ từ thuở nào Tú đã mê mẩn bám theo cô bé Thơ mồ côi ở vạn chài này. Chuyện chúng nó, tôi tin có bàn tay của giời nhúng vào. Không vậy, ai lý giải được?

Hai đứa lớn lên cùng ở ngõ đá dốc. Cái Thơ ở với bà ngoại, thằng Tú ở với ông bố ngây ngây ngô ngô từ dạo vợ chết. Hồi Tú còn bé, bà Thạo, bà ngoại cái Thơ thương hại cảnh nhà Tú một bố một con nên thường kéo nó sang nhà chăm nom tiện thể, để hai đứa tha thẩn chơi với nhau đỡ tội. Thơ hơn Tú một tuổi. Ngày bé Tú vẫn nhoen nhoẻn gọi: "Chị Thơ ơi!". Hai đứa quấn quýt nhau như chị em ruột thịt. Con bé mang hết tình yêu bản năng đàn bà mà chiều Tú. Lên bốn tuổi, con bé đã biết ôm gọn Tú trong lòng, bắt chước người lớn vạch áo cho "em bé bú tí'', ru rín Tú mỗi cơn nó hờn dỗi. Lớn hơn chút nữa, cứ buổi chiều con bé lại nắm tay lôi Tú xềnh xệch ra bãi biển tắm táp. Đôi khi Tú chẳng buồn về nhà, hai ba ngày liền ăn ngủ bên bà Thạo với cái Thơ.

Tôi lại lớn hơn cái Thơ gần hai tuổi. Tôi chưa quên một hôm bắt gặp cái Thơ cho Tú ăn lạc bằng cách đặt những viên lạc luộc giữa đôi môi mím chặt. Thằng bé không được dùng tay, phải há miệng đớp đớp hạt lạc trên môi con Thơ như chú chim con chờ mớm mồi. Mỗi lần con Thơ nguẩy đầu dướn cao cổ lên, Tú lại nhăn nhó nài nỉ:

- Nào, nào, em ăn hết rồi. Cho em đi!

Tôi tình cờ đi tới sau lưng nhưng chúng nó không biết. Tôi thấy ghét quá, lừa tát thật mạnh lên đầu con Thơ để chúng vập mặt vào nhau. Chạy xa rồi tôi còn nghe hai đứa khóc ré phía sau. Con Thơ sưng trán bằng quả nhót, thằng Tú môi vều rớm máu.

Chỉ tới lúc dậy thì, con gái sớm biết xấu hổ, cái Thơ mới bỏ rơi thằng Tú. Vả lại trẻ con xóm chài cứ nhè Tú trêu ghẹo: "Hai vợ chồng là chông vợ hài... " khiến Tú đỏ mặt tía tai, uỵch nhau chí chết. Không mấy khi mặt mũi chân tay nó không xây xước, bầm tím. Từ ấy trông thấy Thơ ở đâu, thằng Tú lỉnh ngay.

Khi Tú thành một chàng trai lừng lững với những bắp thịt nổi cuộn như chão dưới làn da nâu cháy, tôi chợt phát hiện thằng cù lần đã yêu, mà yêu thật mãnh liệt. Lúc ấy tôi chưa cưới vợ, cũng đang chết điên vì sa vào vạt lưới một cô giáo cấp hai ngoài thị xã. Đêm đến hai đứa tôi hay rủ nhau bỏ nhà ra bãi biển nằm khểnh trên bờ đá, tâm sự vụn. Một lần Tú thú nhận với tôi hay mơ thấy một người con gái ở xóm chài, được ôm ấp cô ta. Nhưng tên tuổi người con gái ấy, Tú không hé lộ.

Đầu năm ngoái, cái Thơ được người bác họ cho đi học lớp trung cấp nấu ăn trên Hải Phòng. Tú bỏ cả chài lưới, thứ bảy chủ nhật nào cũng giấu tôi, tót lên phố, thậm chí chỉ để nhìn cô bé một thoáng cho đỡ nhớ. Còn Thơ, hình như cô sợ sự săn đón ráo riết của Tú, nhiều bận cứ xua đuổi lẩn tránh, không chịu gặp mặt.

Rốt cuộc Tú đành phải thú nhận hết với tôi. Nó đau khổ nhưng quyết không chịu lùi bước. Nó nhờ tôi tác động giúp nó một tay. Tất nhiên tôi phải chiều bạn, tuy băn khoăn không hiểu tại sao Tú chọn lựa kỳ cục thế. Đồng ý cái Thơ có duyên, dễ coi nhưng hơn tuổi Tú, sau này vài con với nhau mới thấy rõ sự chênh lệch. Đàn bà chóng già, ai không biết thế. Vả con gái vạn chài mới lớn, mỡ màng như những con cá lanh tươi, lấy thúng đựng không hết, Tú chỉ cần ới một tiếng, khối cô lăn vào xin chết ngay. Đẹp trai, khỏe mạnh, giỏi cá lưới, nhà cửa đàng hoàng, có mỗi ông bố già lẩm cẩm dễ chiều, mặt hàng này thuộc diện a-còng chứ đùa ?

Một sáng chủ nhật tôi phải đèo nó lên Hải Phòng, tìm tới tận lớp dạy nghề nấu ăn của công ty X., chờ chực, làm thân với thằng cha thường trực mặt mũi đầy mụn, nhăn nhó như người táo bón kinh niên. Tú móc bao thuốc lá ngoại, đưa mời bằng cả hai tay lẫn nụ cười nịnh nọt trên môi.

- Mời anh xơi điếu thuốc với chúng em cho vui...

- Cảm ơn, tôi không hút. Yêu cầu các anh cũng đừng hút ở đây, tôi đang ho...

- Vâng... Sắp hết giờ lên lớp rồi anh nhỉ?

- Làm sao tôi biết được. Nhưng các anh gặp cô Thơ có việc gì ? Tôi đã nhắn hộ vào lớp, có thấy cô ấy ra đâu ?

- Chúng em người cùng xóm với Thơ. Bà cô ấy nhờ gửi lên ít ruốc cá cho cô ấy.

Tú giơ gói ruốc cá lên làm chứng. Món ruốc cá thu này vợ tôi làm cho thằng con mới biết ăn bột. Sáng nay, Tú nằng nặc đòi sẻ một nửa lọ đưa lên làm quà cho Thơ. Vợ tôi không dám từ chối, phải chiều. Thơm rưng rức vậy mà gã thường trực chun mũi làm vẻ khó chịu với mùi ruốc cá, kiểu những ông Tây sợ mùi mắm tôm của dân tộc lạc hậu.

- Dào ôi, gửi gì cứ để ở bàn. Của này không sợ người ta ăn mất đâu.

Rồi gã chỉ vào mặt Tú đánh tiếp một câu xanh rờn:

- Nói thật nhá, tuần nào nhà anh chả tạ sự chầu chực ở đây, tôi lạ chó gì. Nhân tình nhân ngãi cứ nói toạc ra. Sốt ruột ! Khóa trước có một cô xinh nhất lớp, chưa học xong đã bị nó rủ rê lừa bán sang Trung Quốc... Các anh đi sang bên kia cổng mà chờ hộ tôi.

Cái từ nó chung chung của gã thường trực rất thâm. Chẳng khác gã bảo chúng tôi chính là nó ấy. Tôi chỉ muốn đấm vào mặt thằng cha một quả. Nhưng Tú bấm tay tôi ra hiệu chào thua, rồi hai thằng kéo nhau ngoan ngoãn ra bên kia cổng đứng chờ. Nhìn nụ cười lấy lòng cha tắt ở trên miệng Tú, tôi càng sôi máu hơn. Cứ cười đi, từ nay cậu đừng hòng xui tôi giáp mặt thằng cha thường trực phải gió ấy lần nữa nhé! Cầu sao có lần hắn ra chơi Đồ Sơn, tôi sẽ trả nợ đủ.

Nhưng sự tình lại xoay sang hướng khác. Bẵng đi một tháng, tôi cùng Tú vào Quảng Trị tìm mộ anh cả tôi, khi về bỗng nghe tin sét đánh. Nó chưa kịp rủ rê đưa sang Trung Quốc thì cái Thơ đã đi đứt với tay giáo viên dạy nghề ở lớp học. Lằng nhằng với nhau hiện cái Thơ có mang, nhà trường mới biết chuyện. Anh giáo sau khi "truyền thụ sở trường'' xong, bị kỷ luật đã trốn mất tăm. Thơ không được học nữa đành vác bụng lại trở về vạn chài ở với bà ngoại.

Thằng Tú sau một hồi chết đứng như Từ Hải, nó lầm lì bảo tôi:

- Thôi cũng được. Tôi nhờ ông thuyết phục cô ấy hộ tôi. Phải cưới nhanh trước khi cái bụng ểnh ra, chướng lắm. Ông đã vợ con đàng hoàng, lời nói có trọng lượng, không chả chớt như thằng Hào, chắc chắn cô ấy nghe ông đấy.

- Nghĩ kỹ chưa ? Nó trót để xảy ra chuyện không hay, bây giờ anh sẵn sàng nhận làm bố đứa trẻ trong bụng nó chứ?

- Con cô ấy cũng như con tôi.

- Ông cụ lẫn cẫn đã đành, nhưng họ hàng nhà anh người ta để yên cho không ?

- Vớ vẩn. Tôi lấy vợ cho tôi chứ lấy cho họ hàng đâu?

Ngừng một lát, Tú nhìn lảng đi nơi khác, nói nhỏ:

- Vả tôi vẫn cay lắm. Cô ấy khéo hành tôi đến chết mất.

Đúng vậy. Dạo này Tú gầy rộc, hai mắt sâu hoắm, nhìn vào chỉ thấy phát ra thứ ánh sáng loang loáng sắc lạnh.

Tôi đi tìm gặp Thơ. Phải lần ra bãi đá từ lúc mặt trời chưa nhô khỏi chân mây tôi mới thấy cái dáng nhỏ nhắn của Thơ, cô đơn, lúi cúi quanh mấy tảng đá nhấp nhô. Thơ đi đánh hàu bán chợ sớm từ hôm thôi học.

Thơ không ngờ tôi đi tìm cô, đôi mắt to rất đẹp cứ chớp chớp bối rối, cái chìa hàu giống cái cuốc chim tí xíu chỉ chực rời khỏi tay.

- Anh tìm em có việc gì?

- Ra xem cô đánh được nhiều hàu chưa. Đưa anh hộ một lúc. Cô có nhớ nghề này chính anh dắt díu cô với thằng Tú theo không ?

- Làm sao em đã quên được. Ngày ấy vui quá anh nhỉ ? Mới hơn chục năm mà sao em thấy lâu thế ?

- Mười sáu năm chứ ít gì. Nhoáng cái sẽ lại đến lượt cu con nhà tôi xách xô ra bãi này.

- Hôm trước chị bế cháu sang thăm bà em, trông cu Tít kháu thật. Giống bố như đúc khuôn ấy thôi.

Tôi cầm lấy cái chìa hàu cùng cái ga-men nhôm méo mó trong tay Thơ. Cô vươn người đứng thẳng lên, xoay mình mấy cái cho đỡ mỏi. Tôi liếc nhanh cái bụng mây mẩy của Thơ, chợt ái ngại.

- Hai bà cháu đã túng, lại sắp thêm một đứa bé, trông cả vào mấy con hàu đủ sống sao được? Có cách tính gì khác không? Anh hỏi thật, đừng giận anh nhé, sao cô không đi quách bệnh viện cho sớm? Cái thằng thầy giáo chết tiệt ấy thực lòng gắn bó với cô đâu mà giữ với gìn ? Nếu vướng mắc, khó khăn không giải quyết được cứ sang bên nhà, bàn với vợ anh một tiếng xem sao. Cô ấy tốt bụng đấy.

Thơ im lặng.

Chúng tôi không ai nói gì thêm. Đã lâu lắm tôi lại cầm chìa nạy miệng những con hàu bám trên đá. Tự nhiên tôi thương Thơ đứt ruột. Những khi lủi thủi lần quanh mấy tảng đá này, liệu có lúc nào Thơ nghĩ đến chuyện gieo mình vào lớp sóng lạnh lùng kia không ? Giá tôi là anh ruột của Thơ, chắc tôi sẽ tìm bằng được để bổ ấy vài nhát chìa này vào mặt. Bây giờ biết nó đi xứ nào? Tiếc quá, một đời con gái thơ ngây tội nghiệp!

Lúi húi một lúc, khi tôi ngẩng lên mới biết Thơ đã ngồi lại ở một tảng đá phía sau, đang lấy tay áo lau mắt. Tôi vứt cái ga-men cùng chìa hàu, đi tới ngồi cạnh Thơ. Đây là lúc tôi sẽ phải khuyên cô điều hơn lẽ thiệt. Cứ khóc đi nhưng đừng tuyệt vọng, em ạ! Vẫn còn mọi người chung quanh thương yêu em cơ mà. Hãy đón nhận tấm lòng chân thành của Tú. Hai đứa có cả một tuổi thơ gần gụi quý mến nhau, chắc chắn không ai thông cảm với em hơn nó. Bao lâu nay nó yêu em thế nào, em đã thừa biết. Nó sẵn sàng chấp nhận cả đứa bé trong bụng em, có nghĩa nó bất chấp mọi người, chỉ nghĩ đến em thôi. Vậy em do dự gì nữa?

Nghe tôi giảng giải, Thơ cứ lặng lẽ khóc. Gặng mãi cô mới lau nước mắt, ngập ngừng trả lời:

- Em nhờ anh nói hộ với Tú, em không thể chấp nhận. Em rất biết ơn Tú nhưng sống với nhau phải nghĩ chuyện lâu dài. Em hơn tuổi Tú cơ mà... Mệ em cũng vì hơn tuổi bố em mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh em. Do đau khổ quá, bà bỏ đi biệt tăm bao nhiêu năm. Làng nước không ai biết cho, cứ trách mẹ em vô tình. Tới lúc chết, mẹ em mới gửi thư về xin bà ngoại tha tội. Không đời nào em lặp lại nỗi đau khổ của mẹ. Giờ em lại trót dở dang, Tú càng không nên theo đuổi nữa. Như vậy cả hai đứa mới đỡ khổ. Cứ để em chống chọi một mình, trả giá cho lầm lỗi của em. Em chịu được hết. Thực lòng bây giờ em chỉ mong Tú có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Đời Tú quá khổ rồi anh ạ!

Thơ đứng lên, tới nhặt cái chìa cùng ga-men nhôm, có ý chấm dứt câu chuyện giữa chúng tôi. Đi thật xa tôi mới dám ngoái đầu nhìn lại cái dáng chịu đựng nhẫn nhục của cô bé.

Sau hôm tôi làm đại sứ về, Tú lầm lì tựa cái bóng. Tôi rỉ tai thằng Hào, xui nó rủ Tú ra mấy nhà hàng ngoài bờ biển giải khuây. Tôi biết rõ ngoài đó các quán vừa đua nhau tuyển mấy em bé xinh như mộng, rất bắt mắt, để lôi kéo khách vào dịp khai trương mùa du lịch. Thằng Hào khì khì cười:

- Ông xui dại con. Vợ con ác chiến không kém công an một-một-ba đâu. Nháy mắt nó đã lù lù sau lưng. Ông định để con bị đánh dấu vào mông à ?

Tôi khích Hào:

- Đồ hèn ! Sợ vợ như sợ cọp, về nhà mặc váy cho xong. Ăn vụng thì học cách chùi mép, khó gì ? Hơn người ở chỗ ấy đấy.

- Vâng, ông ít sợ cọp, con rước ông đi ra ngoài đó "kiểm tra điền thổ "trước. Xem ông chùi mép kiểu gì, lúc ấy con xin học tập ông.

Chối vậy nhưng một buổi tối Hào bảo tôi đến nhà rủ Hào đi "tìm mua bộ lưới, chuẩn bị vụ làm ăn mới của chúng tôi''. Như vậy Hào có cớ ra khỏi nhà một tối. Tôi rủ đi, vợ Hào sẽ khỏi lăn tăn.

Sáng hôm sau nghe tôi hỏi kết quả, Hào cười khẩy văng tục:

- Thôi nhé, từ nay xin ông tha cho con công tác kích dục gà trống thiến đi. Mất thì giờ với thằng cù lần, lại ngượng cả mặt với mấy con bé nhà hàng Bông Đại.

- anh nói sao ?

- Đưa nó đến nhà hàng ấy yên tĩnh nhất hội còn gì? Vừa ngồi xuống chưa ấm chỗ bà chủ đã đon đả thiết kế xong hai em Cao Bằng mới đón xuống. Con bé tiếp thằng Tú da trắng bóc, có hai răng khểnh cực điệu. Nhưng thằng cù lần ngồi ngây cán tàn, mặt mũi đỏ tía, uống vã hết hai lon bia liền, không chịu đứng dậy vào phòng. em ngán quá. Cứ ngồi chường mặt suốt tối ở đây có mà bỏ mẹ. em ra hiệu giục nó mấy lần, nhưng nó làm bộ tảng lờ mới ức chứ. Điên tiết, em quát vào tai nó: "Nào, bố có ăn đặc sản không thì bảo ? Nếu bố đến đây chỉ để ngửi thôi, con kính mời bố phắn khẩn cấp !''.

Tôi không nhịn được, cười phá lên.

- Tóm lại tối qua anh đếch chăn dắt nổi nó chứ gì ?

- Cái gì ? Nghe em quát, thằng cù lần đứng phắt dậy, về "thẳng két''. Mẹ kiếp, mấy em nhà hàng đang vắng khách, mừng hụt, mặt cứ thuỗn ra. Mụ chủ Bông Đại tha tế sống là phúc đấy. em ngượng chín người quẳng vội cả một trăm cho bốn lon bia, không dám lấy lại tiền thừa, chạy mất dép.

Thế này hết thuốc chữa. Tôi gặp Tú, nổi cáu, băm bổ mắng:

- anh định giữ đau khổ cho đến thối ruột như con cá chết trương à ? Mở mắt ra nhìn xem, quanh anh thiếu giống con gái xinh đẹp nết na, cái Thơ còn lâu mới bám được gót chúng nó. Hơn nữa cái Thơ đã nói nhất quyết không chấp nhận anh, thế mà định chết khô giữ chữ Hiếu với bu anh? Đồ ngu! Làm thằng đàn ông chả sợ thiên hạ chửi anh đầu đất ! Mấy con cave tối qua chắc được một bữa cười bằng chết.

Tú không cãi, nó rên rỉ thừa nhận:

- Ông chửi tôi cũng đáng thôi. Nhưng lúc ấy tôi lại nghĩ đến Thơ. Không thể mó vào bất cứ ai được... Làm vậy chẳng khác tôi hèn hạ trả thù Thơ. Với tôi, cô ấy có tội lỗi gì đâu ? Các ông chưa hiểu hết lòng dạ cô ấy.

Đã vậy mặc xác anh ! Tôi thề không quan tâm tới chuyện riêng của nó nữa.

Chúng tôi vay vốn đại tu con thuyền. Cá mú mấy năm gần đây sợ bờ, hoặc giả chúng khôn ngoan biết tránh xa vùng nguy hiểm. Để vượt lộng tìm cá, phải đi giã đôi mới bõ. Chúng tôi quyết tâm mua bộ lưới mới, rủ thêm thuyền ông Cận, người vạn Ngang, đi giã đôi với chúng tôi.

Mọi thứ đã sẵn sàng. Vợ tôi với vợ Hào sắm lễ trình đền Cờn ngày rằm hôm trước. Mấy can nước ngọt, rau mắm, gạo nước đủ cả. Ngày khởi sự hẹn hò với thuyền của ông Cận định vào con nước sáng mười sáu.

Mấy bữa liền tôi gặp Tú ngồi một mình ngoài quán ốc luộc, cái chai rượu nửa lít luôn cạn đến đáy. Nguy hiểm thật ! Liệu nó còn hồn vía không đây ? Hy vọng trời biển sẽ lấy lại thăng bằng cho nó thì may quá.

Bốn giờ sáng hôm mười sáu tôi đến nhà Tú. Tôi với nó có nhiệm vụ khiêng giã lưới mới sắm ra thuyền. Trông thấy căn bếp sáng đèn, tôi biết Tú đã dậy. Tôi đằng hắng đe con mực khỏi sủa, đi vào sân.

Hóa ra ông Bổn, bố Tú, đã ngồi với cái điếu cày ở bàn nước từ bao giờ. Hai ngọn nến điện trên bàn thờ nhuộm đỏ lừ mọi vật lẫn ông già ngây ngô, giống cảnh phim Trung Quốc hay chiếu. Chúng tôi đã phân công vợ Hào mang cơm nước hai bữa sang cho ông. Tôi chào qua ông cụ cho phải phép rồi xuống bếp tìm Tú.

- Đi thôi chứ?

- Đi.

Hai đứa tôi khuân giã lưới ra sân. Khá nặng. Những sợi lưới mềm suội mát lòng bàn tay, chưa nhuốm mùi biển làm tôi phấn khích.

- Ôi giời, cứ như được sờ vào gái đồng trinh ấy.

Ông Bổn từ trong nhà hỏi vọng ra:

- Đi hở?

- Vâng.

Tôi nghe mình trả lời tựa một tiếng reo vui. Chúng tôi luồn thanh đòn vào giã lưới, lấy hết sức nhấc lên vai. Tú đi đằng trước. Nó ngoái lại dặn ông Bổn:

- Tí bố nhớ uống thuốc đấy nhé!

Chẳng đợi ông Bổn trả lời, hai chúng tôi lần lượt đi qua cổng ngõ nhà Tú.

Tôi nhớ hôm đó sương xuống nhiều. Không khí ẩm mặn bám vào da thịt mát rượi. Chung quanh làng chài còn thiêm thiếp ngủ, chỉ tiếng chân chúng tôi bậm bịch khuấy động cái ngõ đá dốc.

Bỗng nhiên đang đi Tú dừng lại đột ngột. Tôi loạng choạng dừng theo. Nghểnh cổ nhìn lên phía trước, tôi chợt nhận ra Thơ. Cô bé sùm sụp mảnh khăn hoa bịt đầu che ngang trán lẫn nửa mặt dưới, chỉ để lộ đôi mắt to đen, tay vẫn xách cái ga-men nhôm đi đánh hàu. Điều đập vào mắt tôi là cái bụng thây lẩy, dễ đã năm, sáu tháng. Thơ từ ngõ nhà cô đi ra. Oái oăm ở chỗ cái ngõ đá ấy đối diện ngõ nhà Tú và cả hai đều dồn về con đường nhỏ dẫn ra bãi biển. Ba chúng tôi gặp nhau đúng giữa ngã ba, không ai kịp né tránh.

- Các anh đi lưới đấy ạ.

Thơ lí nhí chào. Tú không trả lời. Còn tôi, tim tôi nhói lên một linh cảm không lành. Tôi lấy giọng bình thản đáp lại:

- Em ra bãi sớm thế? Đi trước đi!

Thơ hơi cúi đầu, vội bước dấn qua ngã ba, vợt lên trước chúng tôi. Chờ vài giây cho Thơ đi xa hơn, tôi khẽ ẩy cái đòn khiêng trên vai, ra hiệu giục Tú đi tiếp. Quái lạ, không những nó cứ ỳ tại chỗ mà còn trở vai đòn, đứng đối mặt với tôi, ra một lệnh ngắn gọn:

- Quay về!

- Sao? Sao phải về?

Tú không trả lời chỉ du đòn khiêng rất mạnh khiến tôi suýt ngã ngửa. Tôi vừa hốt hoảng trở vai lấy thăng bằng, Tú đã đẩy tôi bước đi. Nó đẩy tôi phăm phăm một cách đầy giận dữ. Thằng khỉ !

- Từ từ nào !

Mặt đường ngõ lát đá bập bỗng dưới bước chân chạy gằn của tôi. Nó định làm gì thế này?

Về tới sân nhà, Tú quẳng phắt giã lưới xuống đất, chạy ào vào bếp. Tôi chạy theo. Trên bếp than tổ ong, một nồi nước nóng đang nghi ngút hơi. Tôi vẫn biết Tú thường đặt cho bố nước nóng để ông cụ tắm rửa mỗi sáng. Ngỡ nó làm gì, nhưng tôi chỉ thấy nó mở nắp bếp cho lửa cháy mạnh hơn khiến nồi nước đột ngột réo sôi. Tôi yên tâm bỏ lên nhà kiếm điếu thuốc lào.


Thấy tôi, ông Bổn làu nhàu:

- Bảo nó thèm uống chè tươi phải chuẩn bị nấu từ sớm đi. Lại còn quay về!

Hóa ra dạo này ông lão tỉnh táo hơn trước. May cho thằng Tú. Nó thương bố không ai bằng. Tôi quý nó ở chỗ ấy.

- Con xin ông điếu thuốc.

- Hút đi.

Cái điếu nảy ro ro thật thích. Đang khoan khoái thở làn khói trắng tự nhiên tôi giật mình đánh thót. Một nỗi nghi ngờ thoáng nhanh trong óc tôi. Nó nấu nướng gì ? Chả lẽ...

Chạy vụt xuống bếp, tôi kịp nhìn thấy thằng Tú đang ngoáy vào nồi nước sôi sùng sục mấy cái đuôi cá đuối khô, một thứ của độc để dành mà dân đi biển thường giữ. Ôi trời, không thể như thế !

-Tú ! anh điên à ? Thôi nào !

Giọng tôi lạc đi. Mặt thằng Tú tối sầm, đôi mắt long lên dữ tợn. Nó không trả lời tôi, lẳng lặng nhấc nồi nước ra khỏi bếp.

- Tú, anh... anh...

- Lui ra, đừng đến gần tôi !

Tôi chỉ còn cách đứng chắn ngay ở cửa bếp. Nhưng Tú lừ lừ tiến tới. Tôi thấy rõ hai hàm răng nó nghiến kèn kẹt quyết liệt, đôi mắt đỏ ngầu quắc lên. Nó sẽ hắt thẳng nồi nước sôi vào tôi đây. Theo bản năng, lập tức tôi nhảy lùi lại phía sau mấy bước.

Tất cả xảy ra trong chớp mắt. Thằng Tú chạy ào ra sân, tưới một vòng nước sôi quanh giã lưới. Thấy nó tới đến vòng thứ hai, nước sôi không còn mấy, tôi mới mê mẩn đá mạnh cái nồi trên tay Tú. Cái nồi bắn văng tới tận góc sân. Tôi lao vào ôm chặt lấy Tú. Như con thú mất mồi, nó vùng mạnh một cái khiến tôi ngã ngửa. Tuy mắt nảy đom đóm, tôi vẫn kịp nhìn thấy nó ôm đầu chạy biến khỏi ngõ.

Gượng ngồi dậy, tôi chạy đi tìm Hào. Tôi bảo nó cùng về vác lưới ra bến. Trên đường tôi kể vắn tắt mọi việc cho Hào nghe. Nó không ừ hử một tiếng, cũng chẳng tỏ vẻ đồng tình trước lời phê phán gay gắt của tôi.

- Thấy chưa, sáng qua em đã bảo phải cảnh giác, nó sắp điên rồi. Giờ anh tin lời em chưa ?

Lúc ấy, Hào mới nhẹ giọng hỏi lại tôi:

- Vào địa vị anh, anh làm khác được?

- Nhưng đấy là cái Thơ!

- Cái Thơ ? Vậy chúng em là vỏ ốc à? Địa vị em, em cũng không thể làm khác thằng Tú. Ai chịu trách nhiệm, nếu có chuyện gì xảy ra hôm nay?

Tôi không buồn tranh luận.

Những người đàn bà chửa xóm chài phải hiểu một điều cấm kỵ không ai nói ra: Cấm xuất hiện ngáng đường hay sờ mó vật dụng của người chuẩn bị lên thuyền ra khơi. Nếu chẳng may vô tình vi phạm, sẽ khó thoát chuyện bị "đánh vía'' cho trụy thai bằng nồi nước sôi, đuôi cá đuối, cùng bài niệm bí hiểm ít được phổ biến. Đánh vía xong, những người đàn ông tin rằng họ sẽ thoát được vận xúi, điềm gở. Điều này chỉ là chuyện rỉ tai nhau giữa những người đàn ông dân chài, từ cổ xưa đến giờ.

Tại sao người đàn bà chửa lại mang điềm gở ? Chả ai giải thích rõ được. Ngay bản thân tôi, tuy ít tin những chuyện huyễn hoặc nhưng cũng không dại gì phản đối. Dân chài lênh đênh sóng gió, đối mặt với trăm ngàn bất trắc, hơn ai hết họ cần vững dạ, cần thanh thản bước chân xuống thuyền. Họ có kiêng kỵ cũng chẳng ai cấm được họ.

Nhưng đây là thằng Tú, đây là cái Thơ với đứa trẻ vô tội trong bụng. Tôi không thể ngờ Tú nỡ xử sự như vậy. Đơn thuần do mê tín, hay có cả lòng thù hận trong đó?

Sắp khởi hành, tôi mừng thấy Tú từ đâu chạy vụt ra bãi. Không ai nói lời nào, ba đứa tôi lặng lẽ lên thuyền. Bên kia đội bạn ra lệnh xuất phát. Tiếng máy côle sáu mã nổ giòn lấy lại sự hưng phấn của tôi. Xưa tôi xin nghỉ chân loong toong văn phòng ủy ban phường Vạn Hương, về đi lưới, chính vì sự nao nức mỗi khi con thuyền chồm qua ngọn sóng, bỏ lại rừng thông bờ đá phía sau, đối mặt phía trước chỉ còn biển cả bao la tít tắp chân trời... Lúc ấy gỗ đá cũng phải xao xuyến. Ai sinh ra từ xóm chài, khó lòng dứt bỏ được sự quyến rũ của biển đã ngấm trong máu thịt.

Giã lưới buông hết, chúng tôi neo thuyền. Mặt trời âm u ẩn sau mây. Thằng Hào nhặt rau, Tú nổi lửa bếp. Lúc này nghỉ ngơi, tôi mới kịp xem xét mấy nốt bỏng nước sôi ở bắp chân. Thằng Tú chợt nhận ra, có vẻ áy náy. Hào vô tình hỏi:

- Sao lại phỏng rộp ghê thế ?

- Thì đấy. May nồi nước còn ít, chứ không cầm chắc em thối thịt.

Tú ngượng ngập:

- Người ta biếu ông cụ ít mỡ trăn. Rồi tôi đưa cho. Bôi vào khắc dịu lại ngay.

Tôi lườm Tú.

- anh là thằng rồ hoa mướp ! Sẽ có lúc em nện cho bằng tỉnh ra.

Nó im lặng vẻ hối hận.

Hãy hối hận đi ! Còn nhiều dịp cho anh hối hận nữa ! anh sẽ phải trả giá cho hành động của anh ngay đấy thôi !

Quả vậy, sau khi ba đứa tôi ăn mừng thắng lợi chuyến đi giã đôi đầu tiên ngay tại quán bia ở bờ biển, rồi giữ chặt bọc tiền ai về nhà nấy, tôi chưa kịp ngả lưng nghỉ ngơi đã nghe tiếng xe máy của Tú rú rít ngoài sân. Nó hớt hải chạy vào, mặt xám ngoét, nói nhỏ với tôi:

- Ông đi lên Trung tâm y tế thị xã hộ tôi với! Thơ... cô ấy...

Tôi ngồi bật dậy, chẳng hỏi thêm, chạy vội ra xe máy đi cùng Tú.

Tú kể cho tôi nghe chuyện nó vừa gặp bà Thạo ở Trung tâm y tế thị xã về. Bà cụ nước mắt chứa chan cứ níu lấy Tú khóc. Đêm hôm qua, Thơ tự nhiên đau bụng quằn quại và có dấu hiệu sảy thai. Đứa bé sáu tháng chết ngay trong bụng. Lấy được thai ra nhưng mẹ nó bị băng huyết. Cô ấy yếu quá thỉnh thoảng lại ngất đi.

Chúng tôi vào phòng cấp cứu khu sản. Thơ nằm thiêm thiếp trên giường đang được truyền máu. Nhìn gương mặt xanh lét như tàu lá, tôi lo cô ấy không qua khỏi.

- Các anh là người nhà sản phụ ?

- Vâng, tôi là chồng cô ấy - Tú đáp luôn không đắn đo.

- Sao bà cụ nói cô ấy chưa có chồng ?

- Bà tôi lẫn cẫn. Cần gì bác sĩ cứ nói với tôi.

- Đêm hôm qua cô Thơ sảy thai, anh không có nhà hay sao ?

- Tôi đi lưới vừa về sáng nay. Tôi mang theo tiền đây, xin chị làm ơn cố cứu vợ tôi với.

- Được rồi. Anh ký vào giấy tờ này đã.

Chúng tôi ngồi canh chừng ống truyền máu theo lời chỉ dẫn của chị bác sĩ. Thơ vẫn chưa tỉnh. Tới giữa chiều, tôi ra ngoài kiếm bánh mì để hai thằng ăn tạm. Lúc mang hai ổ bánh với pa-tê về, tôi thấy Tú đang gục mặt vào bàn tay buông lơi của Thơ, đôi vai run lên lặng lẽ. Tôi quay ra ngoài, mặc nó khóc.

Để thức trông Thơ buổi đêm, tôi với Tú vào quán cà phê Trung Nguyên gần Trung tâm y tế làm mỗi thằng một cốc số tám cho sành điệu.

Thằng cù lần mặt mũi rầu rĩ đến thương. Nó cắm mặt vào cốc cà phê trong lúc thổ lộ với tôi. Nó nói rằng thực ra Thơ rất yêu nó, nhưng cô ấy không vượt qua được mặc cảm lẫn lo sợ. Nỗi đau khổ của bà mẹ trở thành một ám ảnh, án ngữ tình yêu của cô. Tựa hồ luôn có tiếng nói bảo rằng: cô là con của người bố tồi tệ, cô sẽ phải trả nợ cho bố cô, món nợ đúng như ông ta gieo vào đời mẹ. Và cô cố cưỡng lại điều khủng khiếp ấy.

- Ông tin không, Thơ giữ đứa bé trong bụng là cốt để tôi tuyệt vọng, đừng theo đuổi nữa, chứ cô ấy đâu có còn yêu thằng cha dạy nấu ăn. Nhưng tôi không thể sống thiếu Thơ được. Mặc kệ, bây giờ tôi quyết không chịu nhân nhượng cô ấy, muốn ra sao thì ra.

- Hãy lo cho nó sống được đã.

Nửa tháng trời Tú lăn lóc bên giường bệnh. Nó công nhiên đóng vai một anh chồng chu đáo. Tuy vậy tôi để ý hai đứa cùng tránh trò truyện riêng với nhau. Chỉ khổ tôi cứ phải kè kè bên cạnh Tú để làm chất xúc tác.

Ấy thế, Thơ dần dần vượt qua cơn hiểm nghèo. Da cô hồng hào trở lại. Tôi hy vọng khi Thơ trở về sẽ là ngày chúng nó sum họp sau bao nhiêu đau khổ gây ra cho nhau.

Nhưng rõ ràng số phận không chiều người. Ngày Thơ sắp bình phục, tự nhiên Tú đòi chúng tôi để nó tiếp tục đi biển. Nó bảo ngồi trên bờ nửa tháng, người ươn lắm rồi. Dăm ngày nó đi lưới trở về, vừa vặn đón Thơ ra viện.

Có thể do nó cần tiền lo cưới, hoặc trang trải viện phí, chứ tôi biết hạnh phúc nhất đối với nó bây giờ là được mọc rễ bên cạnh Thơ.

Ai ngờ Tú đi chuyến biển cuối cùng của đời mình.

Hôm ấy như có linh tính xui khiến, lúc ra bến, đi bên tôi Tú có vẻ bồn chồn khác thường. Tôi đùa trêu cho nó bình tĩnh:

- em tính rồi anh trở thành thằng dính vợ nhất xóm chài. Chưa xa nửa bước đã nóng ruột, có làm ăn con khỉ !

- Tôi không muốn để cô ấy ở một mình. Nói dại sau này tôi mệnh hệ gì, anh em hãy thương tôi, bảo bọc cô ấy nhé.

Tôi mắng nó gở mồm, đã định đuổi về, nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào tôi lại thôi.

Hôm ấy thuyền ông Cận có thêm người cháu họ tập sự đi khơi.

Thoạt đầu trời rất đẹp, nắng vàng ong mặt biển, không gian oi nồng như mọi ngày. Chỉ đến chiều gió bất ngờ nổi lên, chân trời ùn ùn những đụn mây đen vần vụ đầy đe dọa. Không dám chủ quan, cả hai thuyền vội hò nhau chạy hết tốc độ vào bờ.

Nhưng cuộc chạy trốn của chúng tôi thật thảm hại trước sự cuồng nộ của biển. Chỉ trong chớp mắt, một đám mù trắng xóa đã vây bọc chúng tôi và hơi lạnh ẩm ướt đột ngột khiến tôi sởn gai ốc. Tựa hồ bàn tay vô hình của thần biển đã sờ vào người tôi. Không còn nhìn thấy thuyền ông Cận ở đâu.

Vòi rồng !

Tôi nghe tiếng Tú thét thất thanh trong tiếng gió rít. Một cơn giông xoáy hình thành từ mạn phía đông. Nhìn ra đã thấy một phễu nước đen ngòm lừng lững tiến tới. Nó giống con rắn hổ mang bành khổng lồ, lắc lư thân mình lao tới trước. Tuy nó đi chệch qua, nhưng tôi biết ảnh hưởng của nó sẽ rất khủng khiếp. Chưa kịp trấn tĩnh, tôi đã mê mụ đi khi một ngọn sóng bất ngờ dâng lên cao, đổ ập xuống đầu. Trong cơn choáng váng kinh hoàng, tôi quờ được một mảnh ván thuyền.

Chuyến ấy cả giã lưới đôi lẫn thuyền đều trả nợ biển cả. Tôi với Hào may mắn được tàu cứu hộ vớt lên sau mấy giờ ngoi ngóp, vật lộn với cái chết. Nhưng Tú thì không... Thuyền ông Cận còn thiệt hại hơn, chỉ một mình ông ấy thoát nạn.

Sau cái ngày Tú không trở về, Thơ ốm quỵ đợt thứ hai. Chúng tôi đều hết sức chăm sóc, nhưng rốt cuộc chỉ cứu được phần xác cô ấy.

x x x

Ba năm trôi qua, bây giờ trẻ con xóm chài đã quen với cái dáng gầy gò thất thểu của một người cô gái ngớ ngẩn. Chúng không trêu chọc, thậm chí đôi khi gặp trên đường còn bẻ cho nửa cái bánh. Cô gái ấy lặng lẽ như cái bóng, suốt ngày tha thẩn ở bãi đá, ngóng ra biển như thể đợi ai. Chiều đến, vợ tôi thường nhờ lũ trẻ con hoặc ai đó dắt cô ấy về nhà, lo chuyện tắm táp, ăn uống, rồi chỉ vào tấm phản kê dưới nhà ngang dặn:

- Ngủ đi nhá! Tôi đã mắc màn, không được tháo ra nghe chưa ?

Cô gái ngước bộ mặt sớm tàn tạ nhìn vợ tôi, khẽ nhăn mặt, đầu gật gật ra ý đã hiểu.

Rất nhiều bận vợ tôi thở dài đánh sượt, ngao ngán hỏi:

- Chả lẽ... cứ phải thế này mãi ?

Mười lần như một, tôi đều dịu giọng dỗ dành vợ tôi:

- Ừ, trước mắt chịu khó thế đã. Tôi hứa với thằng Tú rồi...

Tuyệt nhiên tôi không muốn bao giờ phải đi qua cái ngõ đá dốc ấy. Ở đó chắc chắn có một oan hồn không siêu thoát được!

Xóm Núi, tháng 4/2006

Offline SUCSONG@  
#22 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:01:08(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Bên kia giấc mơ màu hạt dẻ

Nguyễn Quỳnh Trang

1. Mệt. Giá có thể buông lơi tay lái. Nằm gục giữa đường. Đừng dậy nữa. Đừng dậy.

Phố hờ hững phố, người hờ hững người. Nắng buông thả trượt trên đọt lá gầy. Dừng lại năm phút nghe tiếng nắng thở héo hắt, lạo xạo. Hâm đấy. Điên đấy. Lại đi. Điểm đến là gì mà loài người cứ cặm cụi đi...

Li bảo, tôi đưa cô đi chụp hình nhé. Hôm nay mùa hạ nắng đẹp. Em nhìn Li. Nắng đẹp thì sao? Mùa hạ thì sao? Năm nào chẳng bằng đó mùa. Mùa hạ nào chẳng có nhiều đến thế nắng. Mùa và nắng lướt qua chỉ kịp làm người nhoi nhói đau. Li lắc đầu kéo em xềnh xệch lên xe.

Ngửa cổ nhìn trời, nắng rát mặt. Em không đeo khẩu trang giữa phố ngột ngạt nóng, ngột ngạt bụi. Nắng hun hai cánh tay bầm đỏ. Em mặc chiếc áo hai dây. Thách thức cùng mặt trời. Li cũng áo thun, quần ngố, đầu trần phơi mình trong ánh gắt. Hắn nói. Cô điên rồi. Tôi điên rồi. Rõ là hai đứa điên. Lang thang đúng 12 giờ trưa. 390C. Nhìn quanh chẳng một bóng râm. Gió Phơn - tây nam luẩn quẩn thổi. Không gian đặc sệt mùi nóng. Mồ hôi rịn ra từ các lỗ chân lông nhớp nháp. Chốn này, cỏ hoang, hoa tím dại, cát, cát và cát... Em cởi áo nằm úp mặt vào cỏ. Li bấm máy lạch xạch, thì thầm. Đẹp. Đẹp thật.

Có tiếng còi tàu vọng về từ xa vắng. Vồng cát trườn lên gió theo một bản nhạc buồn. Li ngồi xoãi chân đặt em ngồi vào lòng. Lá cỏ chạm vào da thịt ram ráp. Từng nhịp từng nhịp hun hút sâu vô tận. Em ngậm một thân cỏ nheo mắt nhìn bốn phương tám hướng. Nước sông luồn qua bãi lau róc rách róc rách. Li ôm lấy tóc em ghì cứng trong hai lòng bàn tay ngón thon lào thào, lâu lắm mình mới gặp nhau... em quay mặt nhìn Li mơ hồ, trên thái dương Li, nước ứa từ lớp da chảy ròng ròng. Em và Li chưa bao giờ từng yêu. Li ngập ngừng, cô không yêu... thật sao? Em cười, tiếng cười băng lạnh, rơi lạo xạo giữa thinh không thành chuỗi sỏi chứa lắm nỗi muộn phiền.

Nắng vẫn ngằn ngặt nóng. Phía bên kia giấc mơ là khoảng không.

Li hỏi, chụp thế nào đây, áo này lên hình không đẹp? Em đứng giữa gió trời thay áo. Cát buông vài hạt lên má, phủ lấp lánh trên thân mình. Chẳng có gì mà Li tự dưng quay đi ý nhị. Tự bên trong em trào lên cảm giác lạ. Sau mỗi tin nhắn chán đời thèm chết của em (trước hết gửi cho anh, sau là rất nhiều người không buồn ngó tên), Li luôn luôn (và có mãi mãi?...) là người trả lời đầu tiên. Rất nhanh.

Hỏi em ở đâu. Li đến bên. Vẻ mặt lo lắng. Li đưa em đi chơi. Em ngồi sau. Mặc Li muốn đưa đến đâu thì đến. Trong đầu không chút khái niệm nào. Nhìn cảnh vật xung quanh ơ hờ. Sợ phải nói chuyện. Muốn rút mình vào im lặng. Sợ con người nhưng lại luôn thèm khát có hơi người ở bên. Một khối mặc cảm. Một khối mâu thuẫn. Không lí giải nổi. Mà việc gì phải lí giải.

Li bảo bình tĩnh nhé, bình tĩnh, sẽ có lối thoát. Có đấy. Quan trọng là cô có muốn tìm không. Mặt Li phúng phính, môi Li cong cong vẻ hờn dỗi non trẻ, mắt Li màu nâu đen đa tình. Li không gợi lên một chút gì về anh, nhưng Li làm em nhớ anh. Một ngày không xa anh đã đưa em đến đây, cũng vào buổi trưa, trưa mùa đông hửng nắng. Em kéo chiếc khoá áo, cởi bỏ từng chút nặng nề mùa đông.

Lần đầu tiên anh nhìn em từ tận sâu vồng cong ngan ngát mùi cỏ nâu. Anh bế em lên quay vòng trên cát. Dấu chân in yêu thương. Hai yêu thương bốn yêu thương hàng chục hàng trăm hàng ngàn yêu thương. Không đếm nổi, làm sao đếm nỗi cảm xúc mạnh mẽ của mình. Khi ấy, em còn biết cười. Anh có thể, người đàn ông cuối cùng.

Li gào lên, là thằng nào chứ, là thằng nào... Tiếng kêu vừa thốt ra đã bị cát chặn lại. Li ôm ngực ho sặc sụa. Mặt đỏ bừng, thân nóng rẫy. Cát bốc lên chặn hết tầm nhìn. Cát đi hoang, cỏ đi hoang, một thân thể đàn ông đi hoang, một thân thể đàn bà đi hoang. Và hai trái tim hấp hối chết trên đỉnh trời.

2. Em ngồi trong phòng kín, máy lạnh ri ri chạy, lấy tay che miệng ngáp. Phạm đi xuống, buồn ngủ thì cứ gục xuống bàn tự nhiên, cấm rủ người khác ngủ cùng. Cả phòng phá lên cười. Lúc sau, em nhận được tin nhắn. Ngủ với anh nhé. Phạm đứng trên bục thuyết trình nháy mắt. Em delete. Ngả đầu xuống. Lần này thì ngủ thật. Ngủ rất sâu...

...Này mắt ướt của sóng, này nụ hôn của sóng. Sao ào ạt mãi nhiều chiều nông nổi? Dòng phả một hơi nóng ngang qua mặt. Em nằm trên người Phạm, hơi thở bấn loạn, không cảm giác. Phạm lật em xuống phía dưới. Em thoát ra khỏi Phạm. Đẩy Phạm về một phía. Lòng chan chứa kiêu hãnh điên khùng. Chỉ có em. Duy nhất em. Kẻ chiếm hữu. Kẻ thống lĩnh.

Phạm lấy bia tu ừng ực. Chất men chảy qua khoé miệng, chảy qua kẽ tay, nhễu giọt dài trên cát. Cát bốc hơi ngun ngút. Nắng dội sầm sập trên đầu. Mặt Phạm nhăn nhúm chuyển màu. Màu vàng bia thành sền sệt máu đỏ. Vẫn từng vết từng vết trên cát. Có phải trinh tiết em tự trọng em cô độc em đang ứa máu... Phạm tròng quần áo lên người đi về hướng Tây. Mờ mịt ảnh hình. Phạm tan vào cát. Lào xào tiếng cười... Tiếng mặt gỗ bóng bật vào thanh sắt... Tiếng chuông điện thoại...

...Em ngớ ngẩn tỉnh dậy. Phạm đang lúi húi cất tài liệu vào chiếc cặp đen dày cộp. Một nữ sinh chống tay lên bục, ngực thì xẹp lép mà cố ưỡn cong về phía trước. Phạm vuốt ve cô ta bằng mắt, thi thoảng liếc sang phía em ngồi. Em xô ghế đứng dậy. Vuốt lại tóc. Gửi Phạm một cái nhếch miệng. Chỉ có thế. Dù gì Phạm đã tặng em chút cảm xúc. ƯÂ thì trong mơ... Mà mơ gì mà mơ, bụng dưới em đang quặn lại, âm ấm nóng.

Nếu Phạm nhanh chân đi về phía em như mọi khi, rất có thể lần này em sẽ theo Phạm đi một bản khiêu vũ giữa trời nắng tắt. Phạm vừa ôm chặt em chuyển động theo những vòng xoay huyền bí, vừa nhìn đồng hồ lo về nhà với vợ đúng giờ. Không sao, em nhắm mắt. Tưởng tượng. Phạm là anh đấy. Là anh.

Em tự nhóm lên nỗi hoài cảm xót xa, tự thổi cho mình bay lên bồng bềnh. Em mượn tạm thể xác Phạm. Khiêu vũ nhé, nhịp tim, nhịp bước. Em luôn tiến chân, còn Phạm phải lùi. Em dìu dặt đưa Phạm vào điệu nhạc nồng nàn, phấn khích. Em đưa Phạm vào u uẩn giấc mơ của chính em... Mà sao Phạm đứng yên. Năm ngón tay luồn vào quai cặp day dứt. Phạm luôn là người đàn ông chủ động. Phạm không chấp nhận. Phạm vẫn đứng yên.

Cô nữ sinh chồm cả người lên thì thào vào tai Phạm. Cô ta rũ người cười. Phạm không cười. Phạm nhìn em. Em khuất sau hành lang rồi.

Hôm nay, buổi hội thảo cuối cùng. Em vẫn vẹn nguyên đi tìm hơi thở của anh.

3. - Con điên ấy. Có gì mà nói... Phạm châm thuốc hút. Khói bảng lảng bay trên khuôn mặt Li. Cô ấy gầy đi nhiều. Li thở dài. Cứ úp mặt lên cỏ khóc run cả vai. Phạm co chân đặt lên chiếc ghế bên cạnh, bập bập điếu thuốc quanh vành môi nhơm nhớp mùi bia. Ngón tay cái bấm tin nhắn nhoay nhoáy. Một tin, save, send cho chừng hai chục số điện thoại khác nhau, hơn hai phần ba dành cho lũ sinh viên ngớ ngẩn. Con nhỏ đặc biệt, khuôn mặt u uẩn gợi tình, mắt miệng cười thơ trẻ, áo sao mỏng quá, lúc nào cũng hở khoảng lõm trăng trắng. ánh nhìn mạnh mẽ quất ngang mọi nỗi thèm muốn ứ đầy. Chưa từng trả lời tin nhắn. giá chỉ một lần...

Li giơ hai bàn tay lên, nhìn sâu vào trong đó tuồng như muốn chọc thủng da, chọc thủng tế bào, chọc thủng mạch máu. Bàn tay từng nắm lọn tóc dài của cô buông theo gió bay. Còn chút hương thừa nào đọng lại... Máy Li rung nhịp nhịp. Li cầm máy, thở dài âu sầu. Thêm một cái hẹn với bạn gái. Tính đủ một tháng rồi, đến ngày cho nàng rời khỏi thôi.

Chấm dứt. Rồi tránh đi để đừng nhìn thấy mặt nhau. Li tính thầm, chừng ba mối tình một lúc. Chẳng để làm gì. Nhạt hoét. Lo lắng quẩn quanh. Còn cô ấy, đến rồi đi, đi là biền biệt. Tình nhỏ thoảng qua. Được nhiều ở cô ta mà nào tốn kém gì. Không lời nói, không nụ cười, mặt lúc nào cũng lành lạnh nhưng Li thấy thoả mãn. Luôn đạt đến đỉnh cao trào. Chỉ cô ta mới làm được.

Li khoác túi đứng dậy, chào Phạm, bước chống chếnh. Phạm giơ cao di động, chao nghiêng tìm chút ánh sáng hắt vào, đọc mấy tin nhắn vừa gửi đến. Mấy giờ nhỉ... 20 phút cho một cuộc hẹn bí mật... kịp không...

4. Em nằm nghiêng dưới một bầu trời đầy sao lạ. Đọng trong khoảng không là những vũng tối mờ ảo. Giăng mắc cánh đom đóm lập loè ven vùng hoa trắng dại. Loài hoa không rõ tên gì huyễn hoặc một làn hương lan toả đều khắp màn đêm. Ngày qua ngày, em tìm kiếm điều gì trong muôn mặt người xa lạ? Làm gì có hơi ấm nào từ muôn trái tim hoang đàng, bất lực và rất mực phù phiếm quanh em...

Em xoay người trở dậy. Tháo chạy. Gió rin rít đuổi theo. Đá sắc cạnh cào nát bàn chân. Bàn chân tươm máu. Kệ. Cứ chạy. Không thể dừng được nữa. Bản năng quẫy đạp. Lí trí ngủ quên.

Một khoảng trống đen ngòm chụp thẳng lên người em. Em sảy chân rơi vào miệng vực. Những miệng vực nằm len lỏi đâu đó quanh vùng đá sỏi cằn khô này. Những miệng vực dành riêng cho kẻ tuyệt vọng. Cơ thể em mất thăng bằng, không còn cảm giác về trọng lượng.

Rơi... Rơi... Rơi...

...Vẫn tiếng gió rít sượt qua mang tai, âm u đỉnh đầu. Mùi cô đơn ma quái ẩn nấp. Loang loáng những vết sáng ký ức chạy dài. Này là khuôn mặt đẫm nước của mẹ, này khuôn mặt nhăn nhúm sầu muộn nơi cha. Này những trò chơi nghịch dại thủa nhỏ. Mấy đêm trốn nhà nằm co ro ngoài hiên đời mưa bão. Tháng năm cắp sách đến trường chỉ để kịp nhét vào đầu nhiều luận điệu lừa mị của người lớn. Đoá hoa cho nụ hôn thơ dại. Ngày đầu tiên bước chân vào vương quốc đàn bà, nhờ anh... ở nơi tận cùng thế giới cho em gặp lại nhiều điều em bỏ quên.

Em rơi
rơi...
rơi...

... Bất chợt. Thấy mình ngừng lại ngay giữa thinh không. Một tấm lưới mỏng như thể của một con nhện cái khổng lồ nào giăng ra chờ mồi thơm sập bẫy. Em nằm yên tưởng ngất lịm. Thấy anh đứng phía trên miệng vực, hai tay cầm chặt đầu lưới. Bên này là Li. Bên kia là Phạm.

Em toài người bò về phía anh. Chới với. Chới với. Phạm cùng Li ra sức kéo. Anh đứng yên, thản nhiên nhìn. Em trườn từng chút một về phía anh. Tấm lưới chảy nhão tựa hồ rất mỏng manh. Em đến rất gần anh rồi, chỉ cách một sải tay. Anh chìa tay cho em nắm đi. Rất nhanh thôi, em sắp được cứu thoát rồi.

Phía bên kia, Phạm và Li nhoài hẳn người ra. Bàn chân em nằm gọn trong tay họ. Em bám chặt vào tấm lưới, mắt nhìn anh đăm đắm, chờ anh. Anh vẫn im lìm. Là pho tượng chết. Da tay em tróc từng mảng lớn. Thịt đỏ thắm phơi ra dưới ánh đèn đom đóm. Máu không chảy vì thân xác em đã khô kiệt nước.

Cứ thế để em cảm nhận sự rách toạc của cơ thể. Mười ngón tay vẫn bám chặt vào lưới. Hai cổ chân vẫn nằm yên trong tay Phạm, tay Li. Đầu và thân mình em rơi thẳng xuống phía dưới. Đáy hố hun hút sâu. Mọi giác quan tê liệt. Em chết.

Trước khi tim ngừng đập, em kịp nhận ra. Trên vực là anh mà không còn anh. Chỉ là một thi thể nơi từng giấu một linh hồn phiêu bồng lãng mạn. Linh hồn đó dao du về chốn nào rồi, em không biết. Bên kia thế giới liệu anh có đứng chờ em?

5. Ba người đàn ông ngồi trong quán bia tại trung tâm thành phố. Họ bàn bạc, tán róc, chửi đổng... Li là người gợi lại chuyện cũ đầu tiên. Phạm bảo. Uổng thật. Nó đẹp thế. Hình như bị câm. Tên gì nhỉ, quên biến mất rồi... Li nói. Dẹp mẹ hết đống đàn bà con gái đi. Rách việc. Mệt người.

Nhân vật Anh thở phào. Một tháng chứ mấy. Bám lấy mình tựa hồ cứu tinh đời nó. Đồ cả tin. Tình yêu? Ngôn từ bóng bảy, sáo rỗng. Sao mà dai như đỉa. Nào tin nhắn, gọi điện, tìm gặp ời ời cả lên. Mà để làm gì... Chết phiền. May quá, lần này thì nó đi thật. Đi thật rồi...

6. Cô gái ngồi trên ghế đá ở vườn hoa. Nhắn tin cho người quen. Nhắm mắt thư dãn. Một luồng ánh nhìn đan chéo vào sau gáy. Nhột nhạt. Khó chịu. Day mặt qua. Thấy con nhỏ đứng tần ngần. Tóc dài, da trắng, môi bợt, cặp mắt dài dại, nước bọt nhễu qua miệng, chảy dài trên cằm. Con nhỏ mặc chiếc quần bệnh nhân cũ xỉn. áo vo viên cặp vào nách. Cởi trần. Chẳng mặc áo lót bên trong. Cứ tênh hênh nhìn cô.

Cô gái đứng dậy, đi ra chỗ khác, tránh con nhỏ. Con nhỏ đi theo. Cô đứng đâu. Nó bám riết đến đấy. Cô tự dưng sợ. Thấy gai gai khắp mình mẩy. Con nhỏ nhào qua, chộp lấy di động đang cầm hờ trên tay nhà báo. Nhà báo hét lên. Hai bóng áo trắng lướt tới, túm lấy tóc con nhỏ, quặt tay con nhỏ ra sau, khống chế. Họ luôn miệng xin lỗi xin lỗi.

Nhà báo run run. Không sao... không sao... Con nhỏ hét. Lâu lắm nó mới nghe thấy giọng chính mình. Điện thoại... liên lạc... loài người... Giấc mơ... màu hạt dẻ... Phía bên kia.. có gì... rỗng không... rỗng không... Tiếng kêu của nó bị bàn tay hộ pháp của chị y tá chặn lại. Nó bị lôi đi, bị đẩy vào sau cánh cổng gỗ dày. Tiếng khoá lách cách. Cô nhà báo cất di động cẩn thận vào trong túi. Dắt xe về. Tự dưng thấy tồi tội con nhỏ thất tình. Một ngày trong bệnh viện tâm thần lấy tin thật quá tải cho dây thần kinh vốn đã căng phồng chực đứt của cô. Cô dâng lên cảm giác mệt.

Mệt. Giá có thể buông lơi tay lái. Nằm gục giữa đường. Đừng dậy nữa. Đừng dậy

Offline SUCSONG@  
#23 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:02:12(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Khoảng trắng ngày xưa tôi

Nie Thanh Mai

Ngôi nhà lớn! Dây bìm bìm hoa tím leo kín từ mặt đất lên tầng hai. Nhìn xa như tòa lâu đài trong truyện cổ tích. Ngôi nhà mang theo tuổi thơ của tôi và những ký ức của cha mẹ tôi. Cả những sóng gió bé bỏng của chúng tôi nữa. Nó đổ sụp vào đêm qua. Trong giấc ngủ của tôi.

Trong gạch vụn ngổn ngang, những bức tường gãy đổ tức tưởi, tôi thấy linh hồn mình thanh thản bước ra từ căn phòng nhỏ. Tôi mặc một chiếc áo trắng mỏng. Từ bé tôi đã gắn bó với màu trắng. Có lẽ nó hợp với nước da hơi ngăm ngăm tai tái của tôi chăng. Khi tôi vào lớp một, giữa những bộn bề lo toan và nghèo khó, mẹ đã cắt cho tôi chiếc áo trắng đến trường từ áo blouse bác sĩ của cha. Tôi vẫn cảm giác được lớp vải thô ráp và dìu dịu mùi cồn trên áo mình. Đôi lúc tôi bối rối sực nhớ về những đường chỉ cố giấu trên mép của lai áo mẹ thức đêm trước. Khi lớn lên tôi mới thấy thương mẹ.

Tôi nhìn thấy tôi mặc một chiếc quần đen may bằng vải xoa. Có lẽ những câu chuyện mẹ vẫn kể về vật duy nhất mẹ tôi mua cho con gái, đã ám ảm vào đầu tôi quá lâu nên lúc nào tôi cũng nhớ đến nó. Nhìn tôi. Tôi thấy mình của 18 năm về trước.

Đi qua những ngổn ngang gạch vỡ. Tôi nhìn thấy cha cũng đang cố gắng ngồi dậy phía dưới một bức tường đồ sộ. Tôi chạy tới đỡ cho cha. Bức tường nhẹ bẫng, tôi chỉ cần nhấc nhẹ là nó đã bay lên. Nhưng cha không thấy tôi. Thật nực cười vì tôi đang sờ sờ đứng trước mặt ông mà ông không thấy. Vừa thoát khỏi bức tường ông đã hối hả đi tìm mẹ tôi. Tôi thấy hạnh phúc vì điều đó. Hạnh phúc vì ông nghĩ đến mẹ tôi những lúc như thế này.

Mẹ tôi là một người phụ nữ không đẹp. Hay nói đúng hơn và tàn nhẫn hơn là mẹ tôi rất xấu. Đôi khi tôi vẫn ngạc nhiên khi nhìn thấy tấm hình cưới của hai người. (Tôi có một bài tập làm văn. Đề bài yêu cầu “ Hãy tả người mẹ của em”. Tôi khóc suốt buổi chiều vì không biết tả mẹ tôi như thế nào. Tôi không đủ can đảm để viết theo văn mẫu. Mẹ nhìn đề bài của tôi và thờ thẫn cả mấy ngày sau đấy. Khi lớn lên tôi mới nhận ra mình thật ngu ngốc). Trong suốt tuổi thơ mình, chưa bao giờ tôi thấy hai người đi cùng nhau ra phố.

Cha tôi là bác sĩ thú y. Tôi theo cha đến mọi nơi ông chữa bệnh cho heo gà những lúc không đến trường. Tôi thích ôm chặt hông cha khi xe đạp long xòng xọc trên những con đường mòn mấp mô như đường lên núi. Những con đường sặc sụa bụi và đỏ quạch đầu tóc khi quay về. Khi lớn lên, tôi vẫn nhớ suốt hình ảnh những con đường hăng hắc mùi hoa quỳ. Nhớ cả lưng áo ướt đẫm của cha trên đầu những con dốc.

Cha tôi là một người đàn ông đẹp trai. Ngay cả khi vất vả nhất nhìn ông vẫn rất phong trần. Tôi tự hào về cha. Và bám riết sau lưng cha trong suốt tuổi thơ tôi.

Mỗi khi trở về nhà, mẹ mở cổng và đón chúng tôi. Mẹ ít khi nào ra đường. (Thế giới của mẹ quanh quẩn với vườn rau quanh nhà, chuồng heo lẫn chuồng gà phía cuối vườn. Tôi luôn nhìn thấy ở đấy dáng vẻ tất tưởi của mẹ). Hình ảnh đẹp nhất mà tôi nhớ được về mẹ trong tuổi thơ của mình là khi mẹ tưới rau vào mỗi buổi chiều. Khi hoa cải trổ ngồng, hoa vàng một vạt. Dạo đó mẹ xuýt xoa mãi vì tiếc không ăn kịp mà rau cải mau già.

Đôi lúc tôi tự hỏi, mẹ có biết gì ở ngoài kia không?

Cha vẫn thường đi họp phụ huynh cho tôi. Đúng hơn chỉ duy nhất mình cha đi họp. Cô giáo chủ nhiệm của tôi còn rất trẻ. Ở lớp chúng tôi vẫn hay ngắm cô bằng đôi mắt trẻ thơ của mình. Mấy thằng con trai kháo rằng cô có cái eo chuẩn nhất thế giới. Con gái bảo nước da cô có thể mang lên ti vi để quảng cáo mỹ phẩm. Tôi nhìn cô và ước rằng mẹ tôi cũng đẹp như thế. Tôi có thể ra phố với mẹ. Tôi có thể đi công viên với mẹ. Và hãnh diện nghe mọi người khen sao con gái giống mẹ đến thế.

Có lẽ vì những điều đó mà tôi rất yêu cô giáo.

Tôi thích đến nhà cô. Cô đón tôi bằng sự dịu dàng. Cô dạy toán cho tôi bằng bàn tay thon nhỏ trắng muốt. Tôi nghe được cả mùi lá hương nhu trên tóc khi cô cúi xuống chỉ những lỗi sai trong bài làm của tôi. Tôi kể những điều đó cho cha một cách hồ hởi khi ông đến đón tôi về.

Mỗi ngày cha đều đến đón tôi. Mỗi ngày cha đều nghe tôi thao thao về cô giáo trẻ và đẹp của mình. Tôi nằn nì cha đến gặp cô giáo của tôi.

Cha đưa tôi đi xem lễ hội. Mẹ lắc đầu khi cha bảo mẹ vào nhà thay quần áo đi cùng hai cha con. Mẹ bảo mẹ ở nhà và xem ti vi. Ti vi truyền hình trực tiếp coi rõ hơn. Ra ngoài đó đông đảo và ồn ào. Mẹ không chịu được nơi đông người, ngộp thở lắm. Tôi muốn cha đến rủ cô giáo đi chơi cùng. Cha ngập ngừng nhưng cũng dừng xe trước cửa nhà cô. Cô giáo không muốn đi, cha tôi cũng không nài nỉ như nài nỉ mẹ trước đó nhưng tôi thì rơm rớm nước mắt. Cô leo lên xe ngồi sau lưng cha một cách gượng gạo và nhẹ nhàng. Tôi thấy mình sung sướng.

Mẹ hay ngồi ngoài vườn lúc tôi đi học về. Bên cạnh là con mèo đen già nua và lười biếng. Mẹ lại đan một chiếc áo mới. Suốt ngày mẹ cặm cụi với những que đan và những cuộn len. Tôi thường thấy những cuộn len lăn dưới chân mẹ.

Cha thường xuyên không về nhà ăn cơm chiều. Mẹ ngồi ngoài vườn đến khi không thấy rõ mặt người mới vào nhà. Tôi ăn cơm một mình. Căn nhà trống rỗng và yên ắng. Tiếng người nói trong ti vi cũng trở nên xa vắng.

Tôi đi ra phố với lũ bạn. Và quên mất bữa cơm chiều. Có lẽ mẹ chẳng nhớ tôi không về nhà. Mẹ gắn bó với len và những que đan hơn.

Len và những que đan mang lại cho mẹ niềm vui. Có lẽ vì mẹ quen làm bạn với chúng bằng sự điềm đạm và say mê nên chúng mang lại cho mẹ sự nổi tiếng. Người ta bắt đầu nói về những sản phẩm của mẹ bằng sự ngưỡng mộ. Trong nhà tôi la liệt sản phẩm từ len rồi cả dây dù. Nhà tôi bắt đầu đông người. Những người phụ nữ quanh nhà và cả những cô gái nhìn hiền lành như đất và ngây thơ cười khi nhìn thấy tôi. Những cô gái mẹ gọi lên từ dưới quê. Khu vườn trồng cải bên hông nhà được lợp kín và trở thành một cái xưởng nhỏ. Nơi đó lúc nào cũng rộn ràng tiếng cười. Đôi khi tôi nghe cả tiếng hát.

Tôi không còn tìm được sự lặng lẽ của mẹ. Tôi thấy mẹ cười, với cả những người lạ.

Cha không san sẻ được những niềm vui với mẹ. Ông bận rộn với một người khác mẹ tôi. Cuộc rong chơi của ông làm tôi day dứt và xấu hổ. Cô giáo tôi ngày nào bây giờ là nỗi muộn phiền trong tôi.

Tôi đi tìm cha bằng sự u uất. Tôi đến nhà cô. Chiếc xe cha dựng khéo léo dưới lùm cây trần bì, nơi còn ghi dấu vết của tuổi thơ tôi. Tôi mở cổng bằng sự cẩn trọng và run rẩy. Tôi thấy cha nằm ngả đầu trên đùi người đàn bà ấy. Họ đắm đuối nhìn nhau. Họ cuộn lấy nhau và sõng soài dưới nền nhà. Tôi nhìn thấy bàn tay cha tháo tung những miếng vải trên người đàn bà ấy và hôn ngấu nghiến lên đó. Những cái hôn thèm thuồng và tham lam có bao giờ đã dành cho mẹ tôi.

Tôi hét lên khi cha nhào lên người đàn bà. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ánh mắt hãi hùng và tủi hổ của cha khi đối diện với con gái. Tôi hả hê nhìn thẳng vào mắt họ. Ánh mắt tôi ánh lên những tia vằn vện: “Các người sẽ được trả giá cho việc này. Tôi hứa như thế.”

Tôi ra về. Mang theo sự nhục nhã của cha và căm giận cho chính tôi.

Tôi khóc trong phòng mình. Và ngủ quên khi mắt còn sưng mọng. Tỉnh dậy tôi không nhìn thấy được mặt mình trong gương. Khi cha vào phòng tôi, ông ngồi trên ghế và đầu gục xuống một cách thảm hại. Ông không nói được lời nào có lẽ vì mắt tôi lạnh và nhiều sát khí.

Tôi viết những lá đơn bằng chiếc máy đánh chữ trong phòng của mẹ.

Những lá đơn thấm nước mắt. Sự trả thù ngốc nghếch của tôi ném đi hạnh phúc bé nhỏ mà bao năm nay mẹ tôi gìn giữ bằng sự cẩn trọng. Tôi muốn biết khi cha tôi mất việc, khi ông chới với giữa sự gièm pha của mọi người thì ai là người đón lấy ông?

Cả cha và người đàn bà riêng của cha đều bị kiểm điểm trước cơ quan vì mối quan hệ ấy.

Ông trở về nhà bằng sự yên lặng vào mỗi buổi chiều. Mẹ tôi nhìn ông bằng đôi mắt buồn. (Đêm trước mẹ sang ngủ với tôi. Mẹ không nói gì. Khi tỉnh giấc mẹ gọi tôi dậy bằng giọng dịu dàng. Tôi uể oải lăn mình vào mép tường. Mẹ bâng quơ như nói một mình “Con nông nổi lắm. Mẹ không thể trách vì những điều con làm. Nhưng tàn nhẫn quá con gái của mẹ.” Tôi yên lặng. Nước mắt thấm ướt vạt gối. Mẹ có trách tuổi thơ nông nổi của tôi không?)

Mẹ giao cho người quản đốc trong xưởng quản lý mọi việc và vào bếp nấu ăn cho cha. Tôi nhìn thấy hoa hồng nhung rực rỡ khi trở về nhà. Tôi nghe thấy bản nhạc không lời của Richard Claydeman dịu dàng trong phòng khách.

Một buổi chiều. Tôi gặp cô giáo cũ trong phòng khách của nhà mình. Cô ngồi khép hai chân bằng một khuôn mặt buồn và mệt mỏi. Mẹ tôi ngồi đối diện cô. Bao nhiêu năm rồi mà tôi vẫn nhận ra cô nổi bật rất nhiều so với sự cằn cỗi của mẹ. Tôi ngồi xuống cạnh mẹ. Tôi nghĩ rằng mẹ cần có tôi bên cạnh khi đối diện với cô. Nhưng khi ngồi xuống, tôi mới thấy cô thật tội nghiệp. Có lẽ sự tội nghiệp của cô có rất nhiều lỗi từ tôi.

Mẹ tôi dịu dàng, sự dịu dàng cố hữu. Cha yên lặng như một pho tượng. Mái tóc cha rũ xuống trên vầng trán cao đầy quyến rũ. Mẹ cho cha sự chọn lựa. Cô đã khóc khi mẹ tôi nói điều ấy. Mẹ nhìn cha và bảo là tôn trọng những quyết định của ông. Một người phụ nữ khổ là đủ rồi. Mẹ không sao. Mẹ có niềm vui của mẹ. Chỉ cần tôi ở bên mẹ là đủ.

Cha nhìn cô. Cái nhìn thật sâu. Cô òa khóc khi cha nói lời xin lỗi. Mẹ hét vào mặt cha giận dữ “Anh hèn, anh cướp mất tuổi xuân của cô ấy rồi”. Tôi biết cha không thể có sự chọn lựa nào khác. Cha yêu mẹ. Và sự rong chơi của cha đã kết thúc.

Tôi đã cố gắng lãng quên những lỗi lầm của cha. Mỗi lần nhìn thấy ông, cổ họng tôi lại đắng ngắt. Đắng như người ta uống một nắm thuốc. Thuốc không trôi vào cổ họng và ở mãi trên lưỡi.

Cha không nhìn được vào mắt tôi. Ông loanh quanh với những việc vặt vãnh trong xưởng của mẹ bằng đôi vai gầy và dáng đi hơi cúi. Mẹ vẫn thường nói chuyện với cha trong bữa cơm. Tôi thấy mắt mẹ buồn, khuôn mặt mẹ ghim gút một điều gì đó. Tôi không tin rằng mẹ quên sự rong chơi của cha nhanh đến thế.

Sự hiền lành của mẹ không mang lại cho cha một sự thanh thản như tôi vẫn tưởng. Tôi nhìn thấy cha trong căn phòng kho áp mái. Một mình. Với chăn đệm dầy và xốp. Thứ chăn đệm model thời thượng. Gian phòng nhỏ và lạnh lẽo. (Tôi không biết điều đó xảy ra từ bao giờ. Tôi không mấy khi lên lầu. Tôi quen quanh quẩn với giang sơn của mình, vùi mình trước màn hình vi tính và những thứ giải trí sang trọng trong căn phòng của tôi.)

Tôi thương cha. Và hiểu sự dịu dàng của mẹ dành cho ông.

Chao ôi! Tôi mệt mỏi trong căn nhà của mình.

Đêm qua. Tôi mơ thấy ngôi nhà tôi sụp đổ. Giống những ký ức trở thành gạch vụn ngổn ngang. Nhưng sáng nay mở mắt dậy. Tôi vẫn thấy mình vùi trong chăn ấm. Và nắng phải cố gắng lách qua tấm rèm xanh sang trọng, hôn lên đôi mắt buồn của tôi.

Offline SUCSONG@  
#24 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:03:56(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Không có khuôn mặt của cái ác

Nguyễn Đình Tú

Thằng Tuân không dám nói điều ước của nó ra với ai cả. Người ta sẽ cười cho. Ông Thược cũng chẳng hỏi nó ước gì mỗi khi nó nhăm nhe muốn tâm sự với ông về điều ước của nó. Thế là nó cứ giữ kín trong lòng. Nhưng nó lại luôn bị ám ảnh về câu chuyện của ông Thược. Sao lại có thể yêu được con gái thủy thần nhỉ?

Thằng Tuân năm nay mười bốn tuổi. Nó là người thành phố. Đầu mùa hè trước, mẹ đưa nó về làng nhờ bác ruột nuôi hộ hai năm. Chỉ hai năm thôi, vì khi nó vào lớp mười, cũng là lúc bố nó hết hạn làm việc ở nước ngoài. Vả lại, mẹ nó bảo: “Đến lúc ấy về thành phố ôn thi đại học là vừa, không thiếu hụt kiến thức cơ bản cũng chả phải nhồi nhét sớm”. Khi gặp ông Thược lần đầu tiên, nghe ông Thược hỏi học lớp mấy, nó bảo: “Cháu học lớp mà có nhân, chia các đa thức và “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ạ”. Ông Thược phì cười trước câu trả lời rối rắm của nó. Thực ra nó muốn nói rằng: “Cháu biết thừa nhà quê như thế nào rồi, đừng có nghĩ là cái gì cháu cũng không biết, cháu đã học về chị Dậu rồi đấy”.

Ông Thược sống một mình, chẳng vợ con, họ hàng gì cả. Ông trông coi nghĩa địa của làng, một khu mộ nằm sát bờ sông, mỗi quý xã trích cho ông vài yến thóc, còn ngoài ra, ông trồng thêm được thứ gì thì ăn thứ đó. Ông Thược xuất thân ra sao, thành phần thế nào, chỉ rất ít người biết. Bác thằng Tuân thì bảo: “Ông ấy học giỏi lắm, cả làng này chỉ mỗi ông ấy thuộc mấy nghìn câu Kiều. Có một thời làm thông ngôn cho Tây nữa đấy”.

Ông Thược gầy gò, quần áo toàn đồ cũ, cổ và tay áo sờn hết cả. Mỗi khi ông cười, lợi hở ra, nhìn rõ cả chân răng trắng đục. Nhưng giọng ông rất hấp dẫn khi kể chuyện, khê khê thuốc lào, chan chát nước chè, song có hồn, có cả nước mắt và lòng nhân ái thấm đẫm trong đó. Giọng ông đặc biệt lôi cuốn khi câu chuyện chuyển sang hồi bi kịch hoặc miêu tả những tình tiết ma quái, bí ẩn. Cả hai tông giọng ấy ở ông đều rất tự nhiên và nếu muốn ông có thể làm lũ trẻ con sợ vãi đái ra quần hay quay mặt đi chùi vội để giấu những giọt nước đang chực trào ra nơi khóe mắt. Một lần Tuân cùng thằng Sản, thằng Tính đang đứng trên tảng đá đen sát mép sông buông câu, ông Thược đi ra bảo: “ đứng trên đầu cô thế hả, xuống ngay không đêm về cô vật chết bây giờ”. Cả bọn hốt hoảng, bỏ câu, chạy về căn lều của ông. Bên chiếc điếu cày, ông bảo: “ở cái làng này vật nào cũng linh thiêng, cũng gắn với truyền thuyết, sớ rớ, chết có ngày”.

- Chứ không à? - Uống xong bát nước chè xanh thằng Tuân đưa cho, ông tiếp - cứ đi dọc mép sông mà coi, có kiếm được nổi hòn đá nào to bằng nắm tay không? Cả tỉnh này chẳng có lấy một hòn núi đá, không phải “cô” hóa làm sao tự nhiên có hình đá to như thế nằm đấy? Mà rõ là hình đàn bà ngồi hẳn hoi nhé, tóc thả dài trùm lưng, chính chỗ anh vừa giẫm lên đấy.

Ông Thược đang nói rất hăng, bất đồ đưa tay chỉ vào mặt Tuân:

- Cháu… Cháu không biết ạ!

- Đúng, thằng này ở thành phố nên không biết - ông Thược hạ giọng - Chứ thằng Sản, thằng Tính là có tội lớn, cứ liệu hồn!

Không biết từ bao giờ sau mỗi câu chuyện ông Thược kể, thằng Tuân lại thấy lớn lên trong mình một điều ước. Chắp nhặt tất cả những chuyện của ông lại nó thấy rõ ràng dưới lòng sông kia có một thế giới riêng. ở đó có tất cả những điều kỳ diệu mà thế gian này không có, bằng chứng là những gì không thể lý giải nổi ở trên mặt đất này thì người ta lại thấy nó có mối liên hệ với dòng sông, với những vị thần ở dưới mặt nước kia. Vậy thằng Tuân ước gì?

Điều ước của nó thật đơn giản, ấy là một ngày kia nó sẽ được đặt chân xuống đáy sông. Nó sẽ cùng bọn thằng Tính, thằng Sản sục sạo vào những tòa lâu đài, sờ lên những báu vật, nhìn ngắm thỏa thích những nàng tiên cá thân hình uốn lượn, lấp lánh vảy vàng, vảy bạc. Và biết đâu chúng nó sẽ cứu được những người chết đuối, những cô gái bị quẳng xuống sông một cách oan uổng, những em bé chẳng may đang bơi bị chuột rút… Nhưng thằng Tuân biết điều đó sẽ chẳng xảy ra và những câu chuyện mà ông Thược kể vẫn muôn đời được dòng sông phủ lên mình một màu rêu phong huyền bí.

- Điều ước nào rồi cũng sẽ thành hiện thực. Hãy cứ ước đi cháu ạ! - Có lần ông Thược bảo với thằng Tuân vậy.

Và nó đã mạnh dạn hỏi lại ông:

- Trước đây ông đã từng ước gì?

Ông Thược trầm ngâm một lúc rồi trả lời:

- Hồi trẻ ông yêu một cô gái là con của thủy thần. Tình yêu ấy làm khúc sông này đẹp lên, biến những bãi sú thành thiên đường. Rồi trong một lần rượt đuổi nhau cô gái ấy chui vào đây và biến mất. Nhưng dẫu sao thì điều ước của ông cũng đã thực hiện được.

- Là gì ạ?

- Là được sống với dòng sông này, bờ bãi này và hàng đêm được gặp lại cô gái ấy, con gái của thủy thần ấy mà.

Thằng Tuân không dám nói điều ước của nó ra với ai cả. Người ta sẽ cười cho. Ông Thược cũng chẳng hỏi nó ước gì mỗi khi nó nhăm nhe muốn tâm sự với ông về điều ước của nó. Thế là nó cứ giữ kín trong lòng. Nhưng nó lại luôn bị ám ảnh về câu chuyện của ông Thược. Sao lại có thể yêu được con gái thủy thần nhỉ? Nó đem điều thắc mắc ấy về hỏi bác. Bác bảo: “Ông ấy lẩn thẩn, nghe làm gì những chuyện ấm ớ”. Nó lại hỏi bà. Bà bảo: “Cô ấy bơi lội giỏi lắm, ngày xưa là du kích xã, bị canô bắn dạt vào bãi sú. Ông ấy vớt lên nhưng không cứu được. Cô ấy chết, rồi ông ấy hóa ra như thế”.

Thật chẳng hiểu ra làm sao. Hôm nay trên đường ra đây với ông, thằng Tuân thấy mép nước sông đã cách xa hòn “đá chờ” hơn chục mét rồi. Ông Thược kể cho nó nghe câu chuyện về ba vị Thành Hoàng xong, liền hỏi:

- Mấy thằng kia đâu, sao hai, ba hôm nay không thấy chúng nó ra đây?

- Cháu không biết ạ, dạo này cả làng đang chống hạn, chắc chúng nó phải giúp nhà nên không đi được.

Ông Thược nhìn ra ngoài cửa. Sau những nấm mộ nhấp nhô kia là vệt đê dài chạy tít về phía bụi tre đầu làng. Khu mộ nằm sát bờ sông cũng đã mang những nét chấm phá của bức tranh hạn hán. Những bụi cỏ gai vàng khè, cây lá đang trút dần màu diệp lục thay vào đó là màu của nắng, của gió, của khô khát. Mấy giẻ khoai và lạc ông Thược trồng cũng đang gắng gượng vượt qua cơn khát, lòng sông mỗi lúc một đẩy xa bờ, thân già như ông Thược gánh được hai thùng nước về toát mồ hôi, tưới xong, chưa kịp quay đi đã thấy nước bốc hơi hết, chả thấm tháp gì.

- Gay đấy cháu ạ. Đời ông chưa chứng kiến một trận hạn nào như thế này. Dòng sông Văn mà hết nước thì đúng là không thể hiểu được!

Hồi đầu nghe mọi người nhắc đến hạn hán với những cái lắc đầu, chép miệng thằng Tuân không nghĩ là nó lại ghê gớm như thế này. Trông trời đất, trông mưa nắng là bản tính của người nhà quê. Ông Trời đâu có nhịn mưa được mãi. Rồi đồng ruộng lại đầy nước, nông dân lại thu thóc đầy bồ, chả chết một người nào! Thằng Tuân nghĩ thế. Người dân trong làng chắc cũng nghĩ thế.

Nhưng trời đã làm những điều mà mọi người không nghĩ đến.

Cả trường học xôn xao lên như bầy ong vỡ tổ rồi loáng cái đã tản mát hết. ánh nắng bắt đầu loang trên sân trường. Thằng Tuân khoác balô lững thững bước đi trên con đường làng. Nhà trường cho nghỉ mười ngày để học sinh tham gia giúp gia đình chống hạn. Lớp thằng Tuân đã nghỉ một phần ba từ mươi hôm nay rồi. Đám bạn nó như thằng Tính, thằng Sản, con Na cũng không còn đi học nữa. “Kiếm ăn!”, chúng nó nói thế và khuôn mặt của chúng nó nghiêm trọng như người lớn. Không phải là cái kiểu kiếm ăn bằng cách đi ra hiệu phở đầu phố hay vào một quán kem nào đó tiêu tằn tiện số tiền mẹ cho mà bụng vẫn no. Kiếm ăn ở đây đúng nghĩa với cái từ ấy. Nghĩa là chúng nó đi buổi sáng thì buổi trưa trở về kèm theo nào gạo, nào muối, nào rau dền, rau má, tôm cá, khoai sắn. Rồi cười hì hì. Rồi nghịch đẩy nhau và loáng cái đã biến mất sau những đụn khói, bên những trái bếp hì hụi nấu nướng, xì xụp ăn uống.

Nhà bác Tuân cũng đã phải ăn uống cầm chừng rồi. Mất mùa vụ này nữa là hết thóc. Cả huyện, cả xã đang vận động, hướng dẫn nông dân chuyển sang trồng màu. Nhưng trồng thứ gì cũng không thu hoạch được. Ngô bằng gang tay đã ra bắp, thứ bắp chỉ có thể làm cảnh. Lạc trồng lên được vài phân đã cháy ngọn, thui rụi cả ruộng. Khẩu phần ăn của Tuân trở nên sang trọng quá mức so với người dân trong làng. Cứ nửa tháng mẹ lại gửi về nào mì tôm, phở ăn liền, thịt hộp, nào bánh mỳ, bơ sữa, lại cả tiền mặt nữa. Tiền ấy là thay cho gạo. Mẹ bảo: “ở quê vốn sẵn gạo, rẻ lại ngon”. Tuân thương chị Hường lắm. Ngày nào chị cũng phải đi mấy cây số gánh nước. Giếng nhà bác cơi đến hai lần, sâu thêm sáu, bảy mét mà vẫn khô cạn. Hôm qua đài đưa tin sáu mươi phần trăm số hộ trong xã đói ăn. Riêng làng này đã thấy nhốn nháo lắm rồi. Những người nông dân trong làng tất tưởi ngược xuôi, hai bác cũng tất tả trước cái nắng thừa mứa, ác độc giăng mắc, tràn trề khắp mọi nơi. Và hôm nay nhà trường cũng đã phải cho học sinh nghỉ vì không thể duy trì được nữa. Đói ăn, khát uống con người ta sẽ không còn tổ chức lại được và giấy bút, sách vở cùng những lời giảng sẽ chỉ là thứ xa xỉ.

- Tuân ơi, anh đi đâu thế này?

Tuân giật mình khi nghe thấy tiếng gọi. Thì ra bọn thằng Sản. Chúng nó mỗi đứa ôm một cuốn chiếu đang nhếch nhác tiến về phía Tuân.

- Nghỉ học rồi, em buồn quá đang đi lang thang. đi đâu thế?

Thằng Sản nhìn cái Na rồi lại nhìn thằng Thứ:

- Bọn em mang chiếu đi cho người ta thuê. ở đình Thành Hoàng ấy, khách du lịch mà, một tiếng được hai nghìn.

Thằng Tính rủ:

- anh có ra đây chơi không? Hôm nay mười tư có khi đông khách đấy, lại có cả kem nữa, anh nhiều tiền ra đó mà mua.

Thằng Tuân do dự một lúc rồi bảo:

- Thôi em về, hôm nay là ngày mẹ em gửi đồ, ra đấy bây giờ nắng lắm.

Tuân quay đi rồi thằng Sản còn gọi giật lại:

- Này, nếu có bánh mỳ xôm xốp như lần trước, phần bọn em với nhé.

Thằng Tuân gật đầu rồi bước đi. Nó đã thấy cái Na đứng im lặng buồn thỉu buồn thiu. Tóc con gái gì mà khô như rễ tre. Khuôn mặt thì sạm đen vì nắng và bụi. Cả đôi mắt nữa, cứ ngơ ngác, tồi tội. Nó thấy nó chẳng khác bọn thằng Sản ở điểm gì. Vậy mà sao chúng nó lại khổ thế? Vì chúng nó là người nhà quê ư? Chơi với chúng nó còn thích hơn khối đứa ở thành phố. Vì hạn hán ư? Sao trẻ con trên phố vẫn ung dung cắp sách đến trường. Chả có câu trả lời nào đầy đủ và chính xác cả. Trí óc non nớt của nó làm sao đã có thể lý giải được mọi điều!

Thằng Tuân về đến nhà đã thấy đống đồ để trên giường rồi. Lần này mẹ nó gửi nhiều phở khô, cả một thùng ba mươi hai gói. Tuân xin bác hai gói rồi chạy một mạch tới chỗ ông Thược. Thấy nó đến, ông Thược có vẻ vui nhưng nhìn dáng người nó biết là ông không được khỏe. “Cái gì thế? Phở à? Bây giờ lại có cả phở khô nữa, tiện lợi nhỉ?”. “Giống như mì tôm ấy mà, ông pha nước sôi vào mà ăn”. “ừ được rồi, cám ơn cháu nhé, trai phố sướng thật!”.

Thằng Tuân để ý thấy gói thuốc lào đã hết, thảo nào từ lúc nó đến không thấy ông nhả khói. Bỗng ông Thược bảo:

- Trời còn hạn thế này chắc gì có dịp kể chuyện cho các cháu nghe nữa?!

Nghe ông Thược nói vậy thằng Tuân bảo:

- Ông trời ác quá, cháu cầu mong đêm nay sẽ mưa. Ông cứ yên tâm rồi thế nào cũng mưa ông ạ.

Ông Thược xoa đầu nó, khẽ nói:

- Đã đến lúc xuất hiện cái ác rồi. Nguồn ác từ đâu mà ra? Từ dòng sông kia cả. Sông ấy sinh ra cái thiện, sông ấy lại sinh ra cái ác.

Thằng Tuân bỗng rùng mình. Vậy thì điều ước của nó có liên quan gì đến đợt hạn hán này? Nó vội chào ông Thược ra về. Mép nước đã tụt xuống đến mức kỷ lục. Đáy sông sắp lộ ra rồi. Nó đứng trên hình đá nhìn xuống vừa khoái cảm lại vừa đau xót. A ha, thì ra thế giới long cung đang hiện nguyên hình ra kia? Những bờ bãi lở loét, những hang hốc khô kiệt, những vạt bùn nứt nẻ, thao láo nhìn trời. Bao câu chuyện vẫn giữ kín trong lòng sông đâu? Sông đãi hết để còn lại gì? Một lạch nước nhỏ đang thở hổn hển giãy chết và những vết nứt vô hồn, vô nghĩa kia ư? Thủy thần ở đâu? Hà Bá ở đâu? Bao xác người vô tội ở đâu? Những nàng tiên cá xòe đuôi giỡn nguyệt trong những đêm trăng sáng đâu? Sao thế giới của các ngươi tàn tạ thế, hoang hóa thế, lừa dối thế, vô hình vô ảnh thế? Thảm hại, thật là thảm hại. Tuân bỗng ôm mặt khóc hu hu. Nó chạy về đến nhà thì nằm vật ra, đầu đau buốt, toàn thân lạnh toát. Hai bác và chị Hường hoảng hốt vội đi tìm lá nhọ nồi giã lấy nước cho nó uống, còn bã thì đắp lên trán và hai thái dương. Nó ú ớ mê sảng. Nó gọi mẹ. Nó đòi bánh xốp. Nó bảo để dành cho bọn thằng Sản, con Na.

Rồi nó tỉnh lại.

Ăn xong bát cháo do chị Hường nấu, nó hỏi: “Bánh xốp đâu?”. “Còn nguyên cả cái đây, phần em cả, em đã nằm li bì hai ngày rồi”. “Chị đưa em ra đình Thành Hoàng nhé?”. “Làm gì?”. “Cứ đi với em”.

Chưa kịp biết chị Hường có đồng ý hay không, nó tụt xuống giường, ôm chiếc bánh chạy đi. Chị Hường vội đuổi theo sau nó. Đình thờ Thành Hoàng vắng tanh. Bọn thằng Sản giờ này đi đâu nhỉ? Thằng Tuân đành phải quay về. “A, thằng Tuân, Tuân ơi, anh đi đâu thế?”. Bọn thằng Sản bất ngờ nhô ra từ một bụi duối, trông chúng nó có vẻ rất vội vàng. Thằng Tuân nhìn thấy tay con Na ôm một bọc nilon. “Cái gì thế?”. “Cơm thừa, chúng em lấy ở trại chăn nuôi, về đãi đi, phơi khô rồi rang ăn”. Trại chăn nuôi? Nghĩa là chúng nó đã mò lên tận thị trấn. “Sông cạn rồi đấy. Chúng em đi hôi của đây, anh có đi không?”.

Thằng Tuân quay ra bảo chị Hường về trước, nó khỏi ốm rồi, nó theo bọn thằng Sản đi chơi một chốc rồi về. Chị Hường ngăn thế nào cũng không được. Loáng một cái, chúng nó đã ra đến khu mả ông Thược. “Ô, ơi, lại có người chết kìa”. Từ xa chúng nó đã nhìn thấy một đám đông đang vây quanh nấm mộ đắp dở. “Ông Thược chết rồi, xã phải đứng ra làm ma cho ông ấy đấy”. Con Na thông báo tin đó mà Tuân tưởng đâu mình nghe nhầm. Nó lách qua đám đông để chui vào nhà ông Thược. “Khổ quá, ở đó có một mình, ốm không ai biết thế là các cụ bắt đi”. Ai đó nói thế trong tiếng người lao xao lẫn với tiếng ném đất thình thịch. Chiếc điếu cày, ấm nước chè vẫn để nguyên cạnh chân giường. Thằng Tuân nhìn thấy tờ giấy có bài thơ được dính hờ trên tường. Nó đưa tay lên gỡ ra rồi gấp lại và đút vào túi áo.

- Thùng gạo hết sạch, chẳng còn lấy một hột, thế mà lại có những hai gói phở và cả thuốc lá Vina nữa.

- Chắc có khách quý?

- Hay con gái thủy thần hiện về?

Vẫn những tiếng người vừa làm vừa trò truyện. Thằng Tuân muốn nói với mọi người là không phải vậy. Cơn gió độc hắt lên từ lòng sông trưa hôm ấy đã đánh đổ cả nó và ông Thược. Bác nó vẫn thường bảo: “Mỗi khi nước xuống thấp ở dưới sông lại thoát lên một luồng khí độc, không tránh được rất dễ chết”. Buổi trưa hôm ấy chính nó và ông Thược đã gặp phải gió độc nhưng nó thì có người chăm sóc nên qua khỏi, còn ông Thược chẳng thể tự cứu được mình.

Thằng Tuân đi ra sau nhà ông Thược, nó nhìn thấy bọn thằng Sản đang hí húi dưới lòng sông. Bỗng nó ngồi bệt xuống đất thở dốc. Mắt nó hoa lên. Bây giờ nó mới thấy mệt. Nó còn chưa qua khỏi cơn ốm. Chị Hường vội dìu nó về. Đi trên đê nó thấy lòng sông trơ ra, nứt nẻ, xám trắng dưới ánh mặt trời. Về tới nhà thằng Tuân gặp mẹ. “Trời ơi, mẹ vô tâm quá!. Thôi, về với mẹ, về thành phố. Đây, mẹ mang côca cho con đây. Con uống đi!”. “Nhưng con đang học dở?”. “Dở cũng thôi, bố con biết thế này thì làm sao yên tâm được. Mai mẹ đưa con về, rồi mẹ sẽ nhờ bác làm việc với nhà trường”.

Đêm hôm ấy thằng Tuân ngủ cùng với mẹ. Trời thật nóng nực, mẹ nó phải thức quạt cho nó suốt đêm. Ngày mai nó sẽ trở về thành phố. Nó sẽ xa dòng sông Văn. Khi nó về làng dòng sông đầy ắp, phồn thực, duyên dáng đáng yêu là thế. Bây giờ thì dòng sông đã cạn kiệt. Liệu có phải điều ước của nó đã thành hiện thực? Nếu thế thì nó đã ước một điều tai hại. Cả làng đã phải chịu cơn tàn phá của nắng và gió, bạn bè nó nhếch nhác, thất học, đói ăn. Trời chẳng chịu mưa còn dòng sông thì đầy ắp khí độc. Không, nó không muốn thế, giấc mơ của nó không có những điều cay nghiệt, hãi hùng như thế. Ông Thược ơi, hãy tha lỗi cho nó, trong điều ước của nó không có khuôn mặt của cái ác.

Offline SUCSONG@  
#25 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:04:22(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Con chung

Nguyễn Thị Diệp Mai

Nội tôi nói cô Tư là con chung của nội và bà Hai Trầu ở Cầu Ðúc. Tôi thì không hiểu ất, giáp gì nên rất lấy làm lạ. Nhiều lần tôi hỏi, nội chỉ cười không nói.

Nội tôi vốn thế, ít nói, rất giỏi chịu đựng gian khổ và mất mát. Trong tám người con của nội thì ba người đã vĩnh viễn ngủ yên trong lòng đất giữa tuổi đời đẹp nhất: Cô Tư, chú Bảy, chú Tám. Tôi thường thấy nội lặng lẽ ngồi nhìn ba tấm bằng liệt sĩ trên bàn thờ ẩn hiện sau làn khói nhang trắng đục. Lúc đó tôi không biết nội nghĩ gì nhưng chắc chắn là nội đang tưởng nhớ hình ảnh của ba đứa con thân yêu. Tôi chưa bao giờ biết ba người con đã mất của nội vì họ hy sinh lúc tôi chưa chào đời. Tôi chỉ biết nhìn ba tấm ảnh thờ để hình dung ra họ. Chú Bảy, chú Tám thì hao hao giống cha tôi. Còn cô Tư thì tôi không biết cô giống ai trong nhà nhưng tôi biết một điều là cô rất đẹp.

Cha tôi kể cô Tư hy sinh lúc đang trên đường đi công tác. Cô bị máy bay lên thẳng đuổi lúc cô chạy băng qua cánh đồng Hỏa Lựu và bị bắn chết ngay trên đồng. Năm đó cô hai mươi bốn tuổi. Nội tôi đã một mình lặn lộn giữa đêm khuya đến nơi cô Tư hy sinh để mang xác con về. Nội tự tay chọn từng tấm ván đóng hòm, từng mảnh vải liệm cô. Rồi nội lên Cần Thơ đón hai đứa con của cô Tư về nuôi, chị Lớn mới bốn tuổi, anh Nhỏ mới một tuổi. Năm ngoái nội vừa dựng vợ, gả chồng cho hai anh chị.

Cha còn nói, cô Tư lúc đó được chôn trong một nghĩa trang vô danh ở ấp nên không được quy tụ về nghĩa trang liệt sĩ. Mười hai năm liền nội mang đơn đi khắp các nơi xin đưa hài cốt cô Tư về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện để cô Tư khỏi tủi thân với đồng đội. Tháng tư bốn năm trước phòng thương binh đã giải quyết cho nội đưa hài cốt cô về nghĩa trang liệt sĩ huyện. Nhưng khi nội đưa đoàn bốc mộ đến nơi thì hài cốt cô Tư đã được đưa về nghĩa trang rồi. Có một sự nhầm lẫn đã xảy ra, hài cốt cô Tư được an táng dưới tên của một cô huyện ủy viên hy sinh năm sáu mươi chín. Người đó là con của bà Hai Trầu. Cuộc tranh giành hài cốt con giữa hai bà mẹ diễn ra gần hai năm làm đau đầu các cơ quan thương binh xã hội huyện và tỉnh. Không ai biết giải quyết sao cho công bằng và ổn thỏa, hai người mẹ mất con nay chỉ muốn chút an ủi cuối cùng là được hương khói cho con.

Hôm nay là ngày giỗ của cô Tư. Nội kêu tôi lên nhà trên, bảo:

- Bữa nay con xách đồ cúng ra nghĩa trang với nội! Bà cháu mình đi thăm cô Tư.

- Dạ.

Tôi biết nội kêu tôi đi theo là có nguyên nhân vì hằng năm nội chỉ đi một mình.

Nội và tôi đến nghĩa trang thì thấy bà Hai Trầu đang ngồi nhổ mấy cọng cỏ quanh mộ chí. Khói hương quanh quất một cái dĩa đựng nải chuối cơm ngon lành và bốn cái bánh bò đường thốt nốt vàng ươm. Thấy bà cháu tôi, bà Hai cười nói:

- Tôi nóng ruột quá nên ra đây trước, vừa cúng xong thì bà tới đó. Lúc này bà có khỏe không bà Tám?

- Tôi khỏe lắm - Nội nhìn cái dĩa đựng đồ cúng - Năm nào bà cũng cúng hai món đó, chắc con gái bà ưa lắm?

- Ừ, hồi nhỏ nó ưa lắm.

Tôi nghe giọng nói của bà Hai dường như nghèn nghẹn. Nội bảo tôi bày hoa quả ra cúng. Nội nói với bà Hai:

- Nó là cháu nội đầu của tôi. Tôi muốn cho nó biết mộ của cô nó để sau này hương khói cúng kiếng.

- Vậy cũng tốt. Mình già quá rồi còn gì.

Hai bà nhìn nhau cười. Nội ngồi bên kia mộ. Sau khi đốt nhang cho nội cắm lên mộ xong, bà cháu tôi ngồi trên bãi cỏ chờ cho nhang tàn. Nội tin rằng khoảng thời gian đó kịp cho hồn phách cô Tư tôi về thăm viếng người thân và thưởng thức món ăn mà mình thích. Trong lúc đợi, nội bắt đầu kể cho tôi nghe tại sao mộ của cô Tư tôi lại mang tên người khác.

Nội dẫn đoàn bốc mộ của phòng thương binh xã hội đến nơi chôn cô Tư thì mộ đã được bốc đi chỉ còn lại hố huyệt sâu hoắm và vài mảnh ván hòm vương vãi. Nội cả quyết đây chắc chắn là mộ của cô Tư. Những người trong đoàn cho là nội nhầm lẫn vì đây là mộ của cô Hương huyện ủy viên đã được đưa về nghĩa trang liệt sĩ đang chuẩn bị an táng. Bà Hai Trầu, mẹ của cô Hương đã xác nhận và bà rất hài lòng vì con bà đã có nơi an táng xứng đáng. Sau một hồi tranh luận, nội không ngần ngại nhảy xuống hố huyệt sâu hoắm, đầy nước, lấy lên mấy tấm ván hòm còn sót lại. Nội chỉ cho mọi người xem mỗi đầu tấm ván đều được cắt dát một miếng hình tam giác.

Nội nói, bà cẩn thận đánh dấu từng tấm ván như vậy vì bà sợ sau này nhầm lẫn hài cốt con. Trong đoàn có người tin, có người không tin. Phòng thương binh xã hội đành mời bà Hai và nội đến để đối chứng với nhau. Hai bà mẹ ai cũng nhận đó là hài cốt con mình. Mộ đã xây xong, bia mộ cũng đã khắc xong chỉ còn đợi đưa hài cốt xuống an táng nhưng hai bà mẹ chẳng ai chịu nhường ai. Phòng bối rối không biết phải giải quyết sao đành nhờ Sở xuống giúp. Cũng chẳng có kết quả gì, sự việc nan giải này đã kéo dài gần hai năm. Bà Hai khăng khăng là bà cực khổ lặn lội khắp nơi mới tìm được mộ con và người địa phương ở đó cũng đã xác nhận đó là mộ cô Hương con bà. Nội tôi đưa mấy miếng ván có đánh dấu ra để làm bằng chứng đó là mộ cô Tư. Một bên có nhân chứng, một bên có vật chứng. Tội nghiệp cho hài cốt của cô phải nằm im trong kho bảo quản chờ lịnh mẹ để được về an nghỉ với đồng đội. Nội tôi đau xót lắm. Bà Hai cũng vậy, lần nào họp mặt để giải quyết bà cũng khóc ròng vì bà chỉ có cô Hương là con gái. Cuối cùng, nội tôi đưa ra một giải pháp là nếu ai chứng minh được những dấu tích còn ghi lại trên xương cốt đúng thì người đó được nhận lại con mình. Bà Hai nói: "Con tôi bị biệt kích bắn trúng tim chết ngay tại chỗ nên không có cái xương nào bị gãy". Nội tôi nói: "Con gái tôi cũng bị bắn ở ngực nhưng tôi không biết có bị gãy xương hay không".

Bộ hài cốt được mang ra kiểm chứng. Không có một cái xương ngực nào bị gãy. Bà Hai mừng rơn vì chắc chắn đây là con bà. Nội tôi im lặng hồi lâu, rồi ngồi xuống bên cái thùng đựng hài cốt đưa tay sờ từng cái xương một. Không có cái nào bị gãy mẻ. Nội ngồi lặng. Mọi người trong cuộc họp ai cũng thấy thương nội. Một bà mẹ mất con, đến bây giờ ước muốn cuối cùng là tìm lại hài cốt con cũng mất. Bỗng nội cầm cái xương chậu đưa lên nói chắc nịch:

- Ðây là con tôi!

Mọi người nhìn nội thương hại. Ai cũng nghĩ là nội quá thương con nên nhận bừa. Nội nhìn thẳng cái xương khẳng định:

- Ðây là con tôi!

- Bà Tám, chúng con biết bà rất thương chị Tư, nhưng mà... - Anh trưởng phòng lên tiếng an ủi nội.

- Hài cốt này là của con tôi! - Nội nhắc lại - Mọi người nhìn đi! Cái xương chậu này bị cong dẹp và lõm xuống. Chỉ có người đàn bà đã sanh nở xương chậu mới nở ra và lõm xuống như vầy. Con gái bà Hai chưa lấy chồng, con gái tôi đã hai con ai cũng biết.

- Ồ!

Cả phòng họp bỗng im lặng. Họ xúc động trước tấm lòng một người mẹ. Chỉ có người mẹ thương con mới đã bỏ ra mười mấy năm để tìm hài cốt con, chỉ có người mẹ mới hiểu được từng máu thịt, xương cốt của con mình như vậy.

Bà Hai bật khóc:

- Còn con tôi đâu? Tôi đã tìm nó mười mấy năm rồi. Con tôi đâu? Tôi chỉ mong tìm được nắm xương của nó để có ngôi mộ mà hương khói. Tôi chỉ có một mình nó là con gái thôi mà. - Bà nức nở - Hương ơi, con ở đâu? Con ở đâu Hương ơi?

- Dì Hai, tụi con sẽ cố tìm hài cốt của chị Hương về cho dì.

Một chị phụ nữ bước lại ôm lấy bà Hai. Nước mắt của chị rơi theo từng tiếng nói. Mái đầu bạc của bà Hai không ngừng run rẩy:

- Tôi tưởng đâu con tôi lần này sẽ được mồ yên mả đẹp. Ngờ đâu lại như vầy! Mồ đã xây xong rồi, bia cũng đã khắc xong nhưng xương cốt con tôi đâu? Hương ơi, con hy sinh cho nước mẹ không tiếc đâu nhưng bây giờ đến chỗ để hương khói cho con cũng không có, mẹ đau xót quá đi!

Nhiều người trong phòng mắt đã đỏ hoe. Không ai dám lên tiếng vì biết rằng mình sẽ không giúp được gì cho bà Hai. Nội tôi cẩn thận đặt cái xương vào thùng. Nội bước lại nắm lấy tay bà Hai, chậm rãi nói:

- Bà đừng có buồn nữa! Khóc nhiều không tốt cho mắt bà đâu. Tôi là mẹ, tôi hiểu bà. Thôi thì bà cho hài cốt con tôi được nằm trong mộ của con bà, mang tên con bà. Con tôi có nơi yên nghỉ, cô Hương có nơi nhang khói. Chắc tụi nó sẽ vui lắm! Nó là con chung của tôi với bà.

Hai bàn tay già nua gân guốc qua ngày tháng lao động vất vả đã chai sần, móp méo siết chặt nhau. Hai đôi mắt đục mầu vì thời gian rưng rưng nước.

Nội chỉ vào ngôi mộ, nói:

- Ðây là mộ cô con. Sau này nội và bà Hai có mất đi, con nhớ đến thăm cô con.

- Dạ...

Offline SUCSONG@  
#26 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:05:29(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Chuyến bay

Nguyễn Minh Châu

Dưới chân người đàn bà xếp hai chiếc túi, phô trương sự giàu có. Một chiếc bị cói và một chiếc túi vải màu đỏ chói chang. Cả hai đều chứa đồ đạc đến căng ra. Trên miệng chiếc túi cói vắt một chiếc áo khoác ngắn màu cỏ úa loại thật sang của đàn ông. Người đàn bà đã khiến tôi trở nên tò mò!

Trong đời một con người, dù là cả một đời bằng phẳng, tẻ nhạt thì cũng có lúc được chứng kiến những điều tưởng không thể nào giải thích nổi.

Từ bảy nhăm (1975), tôi chỉ có dịp may được ra vào thành phố Hồ Chí Minh khoảng vài ba lần. Lần cuối cùng cách đây cũng đã nhiều năm. Hình như có việc hội họp gì đấy. Tôi chẳng bao giờ là một người quan trọng. Tính tôi lại lười, kể cả lười họp lẫn lười đi chơi. Vả lại trong túi không có sẵn tiền.

Tôi sống ở thành phố Hồ Chí Minh một tuần lễ hoặc dăm hôm gì đó, khuôn mình trong khách sạn bù khú với mấy người bạn và thỉnh thoảng đáo qua phòng họp rồi leo lên máy bay về Hà Nội.

Máy bay cất cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất lúc 9 giờ sáng. Hôm ấy là một ngày nắng đẹp.

Chuyến bay của chiếc IL19.

Tôi ngồi cạnh anh bạn ở hàng ghế bên trái.

Các hàng ghế bên phải và bên trái chung quanh chúng tôi đã có khách lên ngồi kín hết mới thấy một cô bé mặc bộ đồ vàng khoác chiếc túi trắng ngơ ngác, sợ sệt đi giữa hai hàng ghế, từ phía đuôi máy bay đi lên. Cô gái trạc 16, 17 tuổi là cùng. Nom kiểu người thành phố nhưng thiếu bạo dạn, lại có vẻ yểu tướng. Thấy bên cạnh tôi còn một chiếc ghế chưa có ai ngồi, cô rụt rè đi đến.

- Cháu ngồi đây được không thưa chú?

- Được, được, cô ngồi đi.

Tôi nói và dập tắt điếu thuốc.

- Chú cứ hút…

Chúng tôi làm quen với nhau khá nhanh.

Thấy tôi cũng là người thật thà, cô bé tỏ ra cởi mở. Chuyến bay cất cánh chậm 30 phút. Trước khi bay, tôi đã kịp nghĩ rằng cô bé thật là một con chim non đang bay vào đời, bay lẻ chiếc một mình mà chưa hề biết cuộc đời thực lắm nanh vuốt và trắc trở.

Tôi được biết cô bé sinh ở Lạng Sơn, sống với bố mẹ ở đấy đến bảy nhăm (1975) thì cả nhà dọn về nửa quê hương ở trong này. Cô thực ra cũng chả còn là một cô bé như tôi nghĩ. Cô đã học xong lớp 12 từ năm kia, đã trượt đại học hai năm và bây giờ ra Hà Nội để chuẩn bị đi xuất khẩu lao động ở Tiệp Khắc.

- Sắp tới đây ra Hà Nội cháu ở đâu?

- Người ta mách nên trọ ở khách sạn Đường Thành.

- Cháu đã sống ở Hà Nội bao giờ chưa?

- Thưa chú, chưa, cháu mới có dịp đi qua hồi cháu còn nhỏ, lâu rồi, ngày ở Lạng Sơn dời nhà vào…

Tôi đâm lo cho cô bé. Tôi nhìn thấy trước, cô bé sẽ bị lừa đảo, mất trộm hoặc bị cướp giật ngay giữa thủ đô Hà Nội. Tôi đang nghĩ ra một cách gì giúp cô bé…

Trong lúc ấy tôi bỗng nhìn thấy ở dãy ghế bên phải có một khuôn mặt quen. Đấy là một người đàn ông. Tôi vốn kém sáng dạ, ý nghĩ chậm chạp. Hiện ra đầu tiên là thấy anh ta không mặc quân phục như ngày trước. Khuôn mặt già đi ít nhiều nhưng vẫn còn đẹp, và bây giờ tôi nhìn thấy có cái gì ác ác mà trước kia thời gian chưa kịp chạm trổ rõ hết đường nét. Có lẽ nó nằm ở đôi mắt. Đôi mắt như vẽ, có một cái nhìn chằm chặp lúc nào cũng hướng thẳng về phía trước. Hai tay người đàn ông đặt trước bụng, không hề động đậy, hơi cứng nhắc.

Toàn thân cũng thẳng đơ, như một bức tượng người sống được đặt và chèn kỹ trong chiếc ghế máy bay.

Cái tư thế ngồi ấy, hai con mắt ấy và toàn bộ con người ấy toát ra một vẻ kiêu hãnh, khiến tôi hết sức khó chịu, đầy ác cảm. Tôi đâm sợ cái người quen thuộc này trong một lúc vô tình tự phá vỡ cách sống của mình, một cách sống định hình từ cách đây rất nhiều năm.

Giống như một tảng ximăng chết, ngồi bất động bất di bất dịch, tôi sợ người đàn ông đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa ra hai bên, ra xung quanh, và bất ngờ nhận ra tôi.

Anh ta sẽ làm gì nhỉ? Biết đâu đấy cái bức tượng đã được chèn kỹ trong chiếc ghế máy bay ấy sẽ nhổm dậy, đưa một bàn tay ra sau giữ cho cái mặt ghế khỏi sập mạnh xuống có thể gây chấn động đến những người ngồi hai bên, rồi đi đến sau lưng tôi, không, không đâu, nghĩ như thế là tôi đã nhầm đấy, từ lúc nãy tới giờ, anh ta có quay ngang quay ngửa hay động đậy cái cổ hoặc liếc mắt nhìn ai đâu.

Một con người như anh ta, tôi vẫn còn nhớ, chỉ nhìn thấy một cái ở trước mặt, luôn luôn ở trước mặt là mục đích đi tới và quyết tâm thực hiện mọi giá…

Tôi bỗng nhớ lại một buổi trưa Sài Gòn đến điếc tai vì tiếng xe gắn máy. Một ngày đầu tháng 5 bảy nhăm, một cậu liên lạc của phòng chính trị đưa xuống nhà khách sư đoàn chỗ chúng tôi đang ở, một vị sư nữ già, có lẽ trạc đã gần 60 tuổi, mặc chiếc áo dài màu nâu, may bằng thứ vải thô mà những vị tu hành ở ngoài miền Bắc cũng không còn mấy ai mặc, có chăng chỉ những vị sư trụ trì ở chùa.

Máy bay cất cánh được một lúc, cô bé đã gục đầu xuống một cuốn sách, nhìn qua vai cô tôi mới nhận thấy một người đàn bà ngay từ đầu đã ngồi cạnh người đàn ông. Chẳng cần tinh đời lắm cũng đoán được người đàn bà trước đây vốn là loại người sang, quý phái là khác, nhưng trải qua một trận xáo trộn đời sống đã làm cho con người dầu dãi, nhầu nát đi.

Dưới chân người đàn bà xếp hai chiếc túi, phô trương sự giàu có. Một chiếc bị cói và một chiếc túi vải màu đỏ chói chang. Cả hai đều chứa đồ đạc đến căng ra. Trên miệng chiếc túi cói vắt một chiếc áo khoác ngắn màu cỏ úa loại thật sang của đàn ông. Người đàn bà đã khiến tôi trở nên tò mò!

Chốc chốc bà ta lại cúi xuống lôi từ chiếc túi ngực của chiếc áo khoác ra một bao thuốc lá ba con năm, rút một điếu đem cắm lên miệng người đàn ông rồi bật chiếc bật lửa ga màu xanh cho xòe lửa, châm vào đầu điếu thuốc. Con mắt đẹp nhìn chằm chằm ra phía trước và toàn thân người đàn ông ở bên cạnh vẫn bất động, chỉ thấy ở khóe miệng thỉnh thoảng nhả ra một bụm khói thuốc lá thơm. Sau đó, người đàn bà trườn mình qua trước bụng người đàn ông, bằng hai tay cầm bao ba con năm với một điệu bộ hơi khúm núm dâng lên trước một người thanh niên ngồi sát khuôn cửa sổ tròn của máy bay.

Anh thanh niên nói khẽ: “Cảm ơn”, đồng thời giơ một bàn tay xua xua trước cử chỉ mời mọc.

Người thanh niên mặc quần áo vàng, đội mũ cát vàng đính phù hiệu công an. Trên thắt lưng to bản đeo bao súng ngắn, lại thêm một khẩu tiểu liên cầm lăm lăm trong tay.

Thế là tôi hiểu ra tất cả. Khi chợt nhìn thấy một chiếc còng số 8 trên hai cổ tay chắp trước bụng người đàn ông. Thảo nào!

Tôi cũng đóng vai trò đồng hành với ba con người ở dãy ghế kia trong suốt hai tiếng rưỡi đồng hồ, thời gian đủ để cho tôi nhớ lại được tất cả về cái người đàn ông điển trai ngồi bất động như một bức tượng, thậm chí tôi còn nhớ được cả tên, cả giọng nói của hắn.

Riêng tôi không khỏi cảm thấy một cái gì sững sờ, thật cay đắng, thật đau xót

Offline SUCSONG@  
#27 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:06:03(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Của hồi môn

La Thị Ánh Hường

Ai cũng nói : “Phải chi cô Út là một thằng con trai thì hay biết mấy!”. Mà đâu phải nhà ông bà không có con trai. Chú Long và chú Khôi đã có vợ con đề huề cả, nhưng vì cuộc sống mưu sinh vất vả, họ phải đi làm ăn tứ xứ. Khi thì ở Biên Hòa, lúc lại xuôi về miền Tây. Cả năm người con gái của ông cũng lấy chồng xa nhà. Thỉnh thoảng ghé xách cho ông bà nải chuối, miếng thịt, khi khác lại dúi vào tay bà mấy tờ hai chục nhàu nát. Bà không lấy, vẫn cứ đưa. Lúc về bà lại phải len lén bỏ vào túi quần thằng cu Bin, bà khóc: “Mẹ con dầm mưa dãi nắng mới kiếm được vài đồng, cho bà làm gì, giữ lấy cho con cái đến trường để biết chữ với người ta”. Thằng bé nghe chẳng hiểu gì, mãi khi thấy có giọt nước rơi xuống từ khoé mắt bà, nó mới chạy ra sau vườn lắc lắc tay mẹ, ngọng nghịu: “Mẹ ơi bà đang khóc!”.

Các chị đề nghị: “Một trong hai chú phải về ở với ông bà!”. Thực ra thì hai chú cũng không phải dạng người chối bỏ quy luật gia tộc; con trai phải phụng dưỡng bố mẹ. Cũng từ quy luật đó nên không tránh khỏi suy nghĩ trọng nam khinh nữ rất rõ rệt trong gia đình ông. Đến bây giờ, ông vẫn ân hận tại sao ngày đó ông lại chấp nhận cho chú Long ở rể. Vậy là ông chỉ còn chú Khôi – người con trai sẽ kề cận ông bà cho đến cuối đời. Không ngờ lấy vợ xong, hai vợ chồng lại chỉ có duy nhất cái nghề bán quần áo dạo. Mà nghề ấy chỉ bán được ở những nơi đông người. Có ngày phải bôn ba đến mấy cái chợ mới có đủ số tiền chi tiêu trong ngày.

Mà nhà ông lại ở tận ngoại thành – một huyện heo hút nhất trong thành phố, cả người cũng lác đác thì lấy gì có chợ. Chú thím phải thuê nhà trọ trong một con hẻm sâu, ngày ngày đi lấy hàng ở chợ Tân Bình về bán. Có khi cả tháng không về thăm ông bà được lần nào.

Khi ấy cô Út mới mười tám, cái tuổi trổ mã nhìn cô đầy đặn và xinh tươi như một đoá hoa trong buổi bình minh. Chỉ có đôi mắt là buồn. Cái nét buồn của đứa con gái mới lớn chưa nói lên một điều gì rõ ràng, nhưng cứ nhìn vào lại có cảm giác xót xa.

Ngày cô cầm tờ giấy báo đậu đại học ở một ngôi trường nổi tiếng nằm ngay trung tâm thành phố. Khi ấy bà không có nhà, ông đang ngồi trầm ngâm với những con tướng, con pháo cùng một người hàng xóm – Một thói quen mà ông rất thích.

Cô hỏi, ông đưa tay chỉ ra phía đầu hẻm:

- Mẹ con ra ấy rồi!

Đến đầu hẻm, cô chợt khựng lại. Bà đang ngồi dưới gốc cây bên lề đường, trước mặt là hai cái mẹt nhỏ, một cái để buồng cau, một cái để mấy bó rau còn tươi, có cả nải chuối chín vàng mà chị hai vừa mang lên cho hôm qua. Một người phụ nữ đang trả giá một món hàng nào đó mà bà không bán.

Cô quay về, lặng người đi vì thương xót. Bà đã ngần ấy tuổi rồi, cái tuổi để nghỉ ngơi, hưởng phúc lộc từ con cháu. Vậy mà …

Trưa ấy, bà dúi vào tay cô tờ hai chục nhàu nát, bảo:

- Con giữ lấy mà mua sách vở, anh con dạo này làm ăn khó khăn, tội nghiệp nó!

Nhận tiền từ tay bà, lòng cô đau như có trăm ngàn nhát dao đang khứa sâu. Cô thương bà, thương đến quay quắt. Cô quyết định giấu luôn tờ giấy báo đậu đại học.

Bữa cơm trưa, cô xin được thưa chuyện với ông bà:

- Con… con… thi trượt rồi ạ!

Ông vốn xuất thân từ nhà nho, cho nên rất coi trọng chữ nghĩa. Bà thì ngược lại, bà thương cô Út nhất, bà bảo cô hiền nhất nhà, chỉ mong cho cô có được một người chồng tử tế, vậy là bà vui rồi, học hành chẳng quan trọng. Cô biết ông giận nhưng ông vẫn im lặng.

Hôm sau, cô tình cờ nghe được câu chuyện ông nói với người bạn chơi cờ:

- Con gái chẳng được tích sự gì, lớn lên thuộc về con người khác.

*

Cầm tháng lương đầu tiên cô đưa, bà rưng rưng nước mắt:

- Con có đau ở đâu không, sao da cứ tái nhợt đi thế kia hả?

Cô lắc đầu bảo:

- Con không sao, công việc rất thoải mái, từ nay mẹ không cần phải bán rau ở đầu hẻm nữa, mẹ cứ ở nhà nghỉ cho khoẻ.

Nói vậy nhưng có những đêm cô ho đến quặn người, có lẽ cô chưa quen mới mùi hoá chất nơi làm việc. Hôm mới vào, bà chủ cũng đã nói trước: “Nếu làm ở khâu đó sẽ được thêm tiền độc hại, nhưng nói trước là phải đảm bảo sức khoẻ để làm lâu dài đấy!”. Cô gật đầu đồng ý. Mức lương cô nhận được không nhiều, nhưng đủ để trang trải những chi phí sinh hoạt cho cả nhà.

Các anh chị của cô và nhất là chú Khôi thì vui mừng khỏi phải nói. Chú còn bảo: “Cô Út ráng đi làm, mai mốt có chồng đã có căn nhà của ông bà làm của hồi môn”. Thực lòng cô có bao giờ nghĩ đến của cải gì, ngay cả một gia đình nhỏ sau này cô cũng chưa nghĩ. Mà có cha mẹ nào nuôi con cái mà tính toán bao giờ đâu. Cô từ bỏ giảng đường, chôn vùi khát vọng cũng chẳng nhằm mục đích như chú Khôi nói.

*

Mới đó mà cô đã gần bước sang tuổi ba mươi – Cái tuổi không còn nhiều sự lựa chọn khi nghĩ đến một tấm chồng. Cô xuống sắc một cách không ngờ. Có những khi nhìn mình trong gương, rồi nhìn lại tấm hình cô chụp năm mười tám tuổi, cô không tránh khỏi ngỡ ngàng lẫn tiếc nuối. Qủa là “cái tuổi nó đuổi xuân đi”. Cô nhớ lại những “cái đuôi” đã theo mình trong suốt thời gian qua. Trong số những người chạy mất do không được cô đáp lại, giờ chỉ còn một người. Anh làm cùng phân xưởng với cô, hiền lành chịu khó và sống rất được lòng mọi người. Các đồng nghiệp chân thành khuyên: “Cưới đi, già rồi còn gì!”. Cô nghĩ tới bố mẹ già, chẳng còn cách nào khác hơn là im lặng. Người đó cũng im lặng chờ đợi, với anh, có được một người vợ hiếu thảo nết na như thế cho dù chờ bao lâu anh vẫn chờ.

Từ ngày ra thông báo nhà nước đưa huyện lên quận, giá đất nơi đây bỗng tăng lên vùn vụt. Miếng đất trống trước nhà cô được quy hoạch lại, mở một cái chợ thật lớn. Dạo này ông bị chứng bệnh phổi hành hạ nên người tiều tuỵ hẳn đi. Rồi một ngày bệnh viện trả ông về, còn dặn người nhà ông muốn ăn gì cứ cho ông ăn. Mọi người nghe câu ấy cứ lặng đi. Sinh tử đã là quy luật nhưng nào ngờ nó lại đến nhanh như vậy, mới đây ông còn ngồi chơi cờ, đàm chuyện rất sôi nổi với vài người bạn. Bây giờ lại trở nên bé bỏng yếu ớt như thế!

Theo lời ông, các anh chị cùng lũ cháu nheo nhóc có mặt đầy đủ. Lúc đầu là chị hai, sau đó hết thảy cùng tu lên khóc như thể nhà có đám tang. Giọng ông đã yếu đi nhiều, nhưng vẫn thều thào: “Khóc gì mà khóc, bố chưa chết ngay đâu!”

Đúng như lời ông nói, qua đợt đó người ông khoẻ hẳn ra, da hồng hào trở lại. Hôm ấy ông chỉ gọi con cháu về để chính thức giao lại căn nhà cho chú Khôi – gia tài duy nhất của ông bà. Không biết cô thì sao, nhưng các chị của cô đều tỏ thái độ bất bình trong lòng. Thấy thương cho cô Út, tưởng đâu qua bao nhiêu năm cô miệt mài lo cho gia đình, ông đã bỏ đi suy nghĩ “trọng nam khinh nữ” bấy lâu, nào ngờ!

Chú Khôi sau thời gian ròng rã bán buôn, giờ cũng có được của cải kha khá. Chú mua hẳn gian hàng trong chợ cho vợ kinh doanh. Gặp thời, lại sẵn có kinh nghiệm buôn bán, chẳng bao lâu chú Khôi lấy lại số vốn ban đầu. Lại mở mang thêm, lần này thì buôn bán ngay tại nhà.

Bận rộn, có hôm hai vợ chồng quên cả cơm trưa cho ông bà. Cũng nhờ cô Út dưỡng bệnh ở nhà nghỉ cả tuần nay. Bác sĩ bảo cô nên dừng lại công việc ở phân xưởng vì hình như có một dấu hiệu gì đó mà họ phát hiện trong cuống phổi cô. Vì thế mà cô trở thành người sai vặt cho chú thím Khôi, hôm thì: “Em ở nhà nấu cơm mang ra giúp chị nhé, trưa đông khách quá không về được em ạ!”. Hômkhác lại: “Em coi cửa hàng cho anh nửa buổi, anh phải đi lấy hàng gấp!”. Vì thế mà cô có cảm giác bận rộn hơn cả khi đi làm.

Một ngày, cô đưa cơm ra cửa hàng cho chị, tình cờ nghe cuộc đối thoại của chị với người bạn hàng: “Cô Út nhà chị ấy, mãi vẫn chưa lấy chồng nhỉ?”. Chẳng biết khuân mặt chị lúc ấy như thế nào, nhưng cô nghe rõ giọng chị như dài ra: “Chắc khó chịu quá chẳng anh chàng nào dám rước, không biết phải nuôi đến bao giờ đây!”. Cô đứng lại rất lâu, chờ cho cuộc nói chuyện của họ tan ra mới thong thả bước vào.

Sau lần ấy, cô mới lờ mờ nhận ra mình đang sống bám vào anh chị. Bà bảo cô: “Tìm chỗ nào đàng hoàng hãy nhận lời con ạ, đời con gái chỉ có một lần, hỏng là khổ lắm!”.

Ngày cô chấp nhận lời cầu hôn của anh công nhân làm cùng phân xưởng, thím là người vui nhất, thím nói với chú: “Nhà chỉ còn mình cô Út, anh lo tổ chức đám đình cho chu đáo vào!”.Cô hiểu được có lời đuổi khéo từ sau câu nói đầy trách nhiệm ấy!

Cô lấy chồng trong những ngày lập đông giá rét, các anh chị có mặt đầy đủ để chúc mừng cô. Người thanh niên đi bên cạnh cô mặt rạng ngời hạnh phúc. Trước lúc về nhà chồng, bà kéo cô vào phòng đeo vào tay cô chiếc nhẫn bằng vàng: “Của mẹ buôn bán lặt vặt để dành cho con đấy! Gĩư lấy để phòng thân con ạ!”. Cô bật khóc, khóc như hồi mười tám tuổi khi thấy bà ngồi giữa những mẹt rau quả ngoài lề đường. Hoá ra suốt thời gian cô đi làm, bà vẫn lén cô bòn mót rau củ trong vườn nhà đem đi bán, mặc dù số tiền cô đem về đã đủ cho bà trang trải. Cô thương bà đến nghẹn ngào!

Trong bàn tay anh, cô lặng lẽ bước theo. Phía trước mặt họ là con đường trải rộng thênh thang.

Offline SUCSONG@  
#28 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:06:33(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Heo may xào xạc

Lê Thuần Thảo

Chị vừa ru, vừa khóc, cách khóc của người điên. Khóc không thành tiếng mà hai dòng lệ như vô tình cứ chảy hoài, chảy ngoằn ngoèo trên khuôn mặt đen xạm, cáu bẩn, kéo thành một vệt dài xuống cằm, xuống cổ, xuống cặp vú để trần teo tóp, dăn deo. Ngừng ru, chị nhặt những quả bàng rụng đã được vun thành một đóng trước mặt, chọn những quả chín vàng khươm nhằn vỏ rồi khẽ khàng bón cho hòn đá.

Ngày ấy, lão về quê thắp hương nhà thờ họ. Ông tộc trưởng sau khi châm hương, trao cho lão, quay ra ngồi ở hiên, nói chõ vào:

- Tết này, tính cả tuổi mụ, chú sáu mươi rồi nhẩy. Ra rằm họp họ, chú phải sắm cái lễ, khao họ, lên lão. Bây giờ cả làng, cả họ phục cổ, cứ sáu mươi là khao thọ, được con cháu gọi bằng cụ.

Nghe vậy, lão cứ buồn cười. Lão mà là cụ ư? Râu hai ngày cạo một lần, những cái râu đen nhánh, cứng như chông. Công việc làm phăm phăm, khối anh trên ba bốn chục chạy theo còn mệt. Lúc vui nhậu nhẹt, kể cả chúc tụng lão không hề lùi. Khối bữa nhậu, chúng nó say quắc cần câu, chỉ còn lão là tỉnh, ung dung bước lên xe, không phải ai dắt dìu. Và cả cái tính xấu của lão mà bà vợ vẫn hay mắng yêu là: “Anh chỉ được cái vụng đôi tay mà hay đôi mắt”. Quả vậy, cho đến bây giờ ra đường, thấy em nào xinh xinh, lão cũng thích nhìn vài ba lần cho đã mắt. Ôi! đang thế này là làm “cụ” thì thật hoài. Lão vừa cắm hương lên bát nhang, vừa nghĩ vơ vẩn. Thành thử quên cả những lời cầu nguyện, lão chỉ chắp tay vái bốn cái rồi quay ra. Lão tự hứa với mình từ nay hãy đúng mực hơn.

Lâu nay, anh em trong cơ quan gọi lão là “bác”, ừ thì cũng phải, họ gọi thay con, cũng có thể lão có tý chức, dù không lớn lắm, nhưng anh em cũng tôn trọng. Có mấy cô cậu sinh viên mới ra trường gọi là “bác” xưng “cháu”, lão giật mình. Chà! Mình già thật rồi sao? Và câu hỏi ấy được trả lời ngay năm sau khi cấp trên hỏi lão: “Nếu mai kia anh nghỉ chế độ, thì ai thay thế được?”. Thế là sắp hết quãng đời công tác. Lão lên lão thật rồi.

Lão tự răn mình là phải giữ đúng phong độ. Không để “tuổi già” lấn lướt. Điều này dễ, bởi trời phú cho lão có sức khỏe, có chút thông minh lại chịu khó học hỏi.

Nghỉ hưu, lão làm những chuyến hành hương tìm về chốn cũ.

Người đầu tiên lão nghĩ đến là cậu Tứ. Ngày đánh Thành cổ, lão là chính trị viên, Tứ là liên lạc đại đội. Hầm sập, lão bị sức ép ngất xỉu. Tứ bị thương gãy tay. Thế mà cậu ra cõng được lão qua tuyến lửa tọa độ phi pháo dày đặc, về trạm quân y tiền phương. Sau đấy hai anh em cùng đi học. Tốt nghiệp lão về địa phương công tác, còn Tứ học tiếp và hiện đang là một chuyên gia đầu ngành cấp Bộ. Làm ăn phát đạt, cơ quan đóng ở đường Phạm Đình. Lão gặp Tứ không phải là để cầu cạnh gì, mà chỉ là cuộc viếng thăm sau bao năm xa cách, vẫn luôn nhớ nhau, vẫn nghĩ về nhau với những tình cảm đẹp. Vậy thôi.

Tụt ôtô ở bến Kim Mã, lão sà vào quán nước bên đường. Lâu lắm, dễ đến hai chục năm nay, lão mới được ngồi trong quán cóc thế này. Vào thời đổi mới, cơ quan có xe riêng, đi đâu xa là ôtô, rồi họp hành, làm việc túi bụi, nhiều hôm tan tầm vẫn chưa xong việc, thời gian đâu mà ngồi quán cóc. Vả lại, lão có chút cương vị, ai lại la cà. Bây giờ là “phó thường dân”, giữa đất Tràng An này, ai biết lão là ai?

Gọi chén nước chè, khum hai tay ôm chén nước, hơi nóng hôi hổi bốc lên. Lão nhớ ngày bé, lùi khoai vào bếp, lúc lấy ra bóc vỏ, ăn vội, ăn vàng cũng nóng, với cảm giác từa tựa thế này. Sẵn chiếc điếu cày, lão viên thuốc “bắn” một phát. Lâu lắm rồi lão mới hút thuốc lào. Lão bỏ thuốc đã chục năm nay, từ ngày cơ quan có chiếc ô tô máy lạnh.

Còn thuốc lào thì lão đã chia tay với nó trước đó cả chục năm. Nhón cái đóm làm bằng gỗ diêm, châm nhẹ vào ánh lửa nhỏ như hạt đậu từ chiếc đèn chai, đặt đóm cháy nghiêng lên nõ điếu, lão rít một hơi dài. Lồng ngực lão như căng ra, đón khói. Những sợi khói thuốc lào được lọc qua nước lã, tràn vào nang phổi, rồi xộc lên óc, chạy khắp người tạo ra cảm giác đê mê, cùng lúc với tiếng điếu rít lên cao vút, lảnh lót và sang trọng.

Đó là tiếng gà gáy thanh bình nơi thôn dã hay là tiếng rú man dại giữa rừng đại ngàn? Hay là nét văn hóa ngàn năm mang quốc túy quốc hồn quê kiểng? Ai mà biết được. Chỉ biết, lão thấy khoái trá, tròng mắt lờ đờ, thở nhẹ ra, qua mồm, qua mũi những dòng khói. Lão nghiêng đầu xì xái thuốc vào thùng rác, buông luôn điếu vào đó, rồi vớ chén nước kề lên miệng hớp nhẹ. Nước chè, hòa với hơi thuốc trở lên ngòn ngọt, lão vừa thưởng thức vừa chép miệng một cách vô tư, vừa nhìn qua làn khói mỏng lan trong nắng thu vàng và trên cao thẳm cả một bầu trời thu xanh trong. Bà quán nói:

- Lâu lắm rồi tôi mới gặp một khách hàng hút thuốc lào một cách điệu nghệ như bác. Bây giờ người ta xài thuốc lá, ít ai còn hút thuốc lào. Lão nhìn bà chủ quán. Lạ nhỉ, bà này có nét gì đó giống cô Nụ. Giống cái gì nhỉ. Đúng rồi con mắt và cái mồm. Con mắt một mí, to, tròn, ngước nhìn sáng như ánh chớp và cái mồm, có làn môi mọng, các cụ bảo là làn môi cắn chỉ. Nụ còn hơn bà này là tóc dài, cả một mảng tóc dày, óng bệt gót. Tự nhiên lão muốn lân la:

- Trông bà quen quen, không biết đã gặp ở đâu?

- Ôi dào! đường đời muôn nẻo, thiếu gì người gặp nhau. Tôi trông ông như đã từng là bộ đội. Đi đâu hay có việc gì mà dạt vào đây?

- Tôi về đường Phạm Đình, chỗ văn phòng bộ Z, nơi ông bạn vong niên công tác. Chẳng có việc gì, chỉ là lâu ngày về thăm nhau thôi.

- Ôi! Con đường ấy tôi quen lắm đấy. Bên này là phố buôn sầm uất, bên kia là vườn hoa. Con đường ấy như nét ngang của chữ H, sáu bảy giờ tối đã thưa người qua, sau vườn hoa là bờ sông Hồng, bến Phà Đen. Ngày trước giữa sông có một bãi nổi, về mùa heo gió này, cơ man nào là ổi chín.

- Trước bà ở phố Phạm Đình?

- Không. Tôi quen một người ở đó, rồi hai đứa yêu nhau. Những hương ổi, bờ sông, vườn hoa là vấn vương từ ngày ấy. Ông ấy con nhà cán bộ, được ăn gạo sổ, được đi nghiên cứu học tập ở nước ngoài, tôi đi thanh niên xung phong làm đường sắt Đông Anh - Thái Nguyên, rồi về làm sân bay Nội Bài. Ông ấy về nước lấy vợ, tôi vội vàng đi lấy chồng. Bây giờ nghỉ hưu rồi, nhà mặt đường, chị vợ bắt ngồi trông cửa hàng bán rượu, bánh kẹo. Thỉnh thoảng vẫn trốn vợ nhảy xe buýt ra đây hút thuốc lào. Ông ấy rít điệu nghệ như ông vậy đó. Rít rồi lên cơn hen, chảy cả nước mắt, nước mũi, rụt cổ, thở khò khè…

Trả tiền nước, bà lão không nhận, lại còn dặn với:

- Ông qua đó tiện thể ghé vào nhà hàng rượu, bánh kẹo XY, xem lão có còn ngồi đấy không? Hen thế, vợ lại trẻ, mấy hôm nay trời trở gió không khéo lại ngỏm rồi cũng nên. Lúc nào về bác lại ghé vào uống nước, thường nhật tôi cứ phải ngồi đây đến chín giờ đêm.

Chao ôi, tình cũ không rủ cũng về. Cái bà lão bán nước và cái ông lão về hưu bán rượu, tình và nghĩa nồng nàn lắm thay.

May mắn. Lão đến cơ quan thì gặp Tứ. Cái nết vẫn thế, ánh mắt ngời niềm vui, nụ cười trẻ trung và cái bắt tay rất chặt của lính. Vóc dáng Tứ có vẻ bệ vệ hơn, người to, mặt béo nhưng nhìn kỹ thì màu da ung ủng, vàng vàng, bệu bệu. Lão nghĩ có thể Tứ ở phòng điều hòa lâu, ngồi xe máy lạnh nhiều nên cớm nắng.

Tứ tiếp lão như thượng khách: ăn nhà hàng sang, ngủ khách sạn cao cấp, cho lái xe đưa lão đi chơi, đi thăm đây đó đủ các danh lam, thắng cảnh, phố phường. Trưa, tối về cơ quan Tứ đã chờ sẵn đưa lão đi thù tạc. Có điều lạ, Tứ không mời lão về nhà riêng chơi lần nào cả.

Hôm lão đòi về, Tứ hỏi:

- Lâu nay anh có về thăm chị Nụ không?

- Ờ… Quả thực… bận quá… tớ chưa…

Lão tự ngượng với mình. Những ngày nằm viện, lão đã kể cho Tứ về tình yêu giữa lão và Nụ. Lão vẫn ước ao đất nước yên hàn rồi làm lễ cưới. Thế rồi lão mãi đánh nhau, mãi học hành, ra trường lão cưới cô sinh viên cùng lớp. Lão là kẻ phụ tình…

Tứ biết tỏng điều đó, nhưng vẫn muốn lão phải gặp lại chị Nụ như lời Tứ nói là: “Thể hiện sự đàng hoàng, có trước có sau của một người lính”. Hắn nói như vầy: “Em sẽ bảo lái xe đưa anh về thăm chị Nụ, sau đó đưa anh về nhà luôn, khỏi phải xe đò, xe khách vất vả. Thế nhé, sáng mai 8 giờ xe xuất phát. Cậu lái xe của em biết nhà chị Nụ rồi”.

Lão chợt giật mình. Hôm nọ đến giờ, đi hai ba xe, cậu lái xe nào đã biết nhà Nụ? Cậu ấy là người làng hay là bà con thân thích thế nào với Nụ? Trong lão cuộn dâng tình cảm tươi rồi của tuổi trẻ. Ngày ấy, anh lính trẻ Phan Trung Lưu về đóng quân ở làng Hà, tiểu đội ở trong nhà bà Dần và ở đó nảy nở mối tình giữa binh nhì Lưu và cô Nụ con gái gia chủ. Tình vụng trộm, gặp nhau vội vàng vì còn chiến tranh, song không ngăn được những lời ước hẹn một mai này…

Những cuộc hẹn hò dưới sao khuya, bên ao làng, cạnh gốc cây vối già, dẫu ngắn ngủi cũng đủ để lại cho họ những rung cảm đầu đời lưu luyến mãi. Sau này, lão kể chuyện đó cho nhiều người trong đơn vị về tình yêu trong sáng tuổi hoa niên của mình.

Hôm sau, khi chỉ còn lão với chú lái xe, lão hỏi:

- Hôm qua anh Tứ bảo cậu biết nhà cô Nụ?

- Vâng. Cơ quan cháu nhiều người biết. Chả là thời kháng chiến cơ quan sơ tán về đấy. Sau này, hòa bình rồi, các thủ trưởng vẫn về thăm, giữa cơ quan và địa phương vẫn thường xuyên liên hệ. Từ ngày thủ trưởng Tứ về cơ quan, lại biết thêm hoàn cảnh cô Nụ. Thế là hàng năm chúng cháu và cơ quan vẫn về thăm địa phương và thăm cô Nụ.

- Cậu nói thế nào? Sao lại là hoàn cảnh cô Nụ? Cô Nụ hoàn cảnh thế nào?

- Tội lắm chú ơi. Cô ấy lấy chồng muộn. Nghe đâu như chờ ai đó. Sau hòa bình mãi rồi mới lấy một chú thương binh. Cô ấy sinh nhiều lần nhưng không nuôi được bởi chú ấy bị chất độc da cam. Thuốc thang mãi mới sinh được cô con gái, lại bị bệnh ngớ ngẩn rồi chết mất. Sau đấy lại phát hiện ra chú ấy bị ung thư. Chạy chữa không khỏi, chú ấy mất đã mấy năm nay. Nhà khánh kiệt chẳng còn gì. Cô ấy lại đau yếu luôn. Tháng trước cháu nghe nói cô ấy phát tâm thần…

Đường quốc lộ vượt qua đê rồi rẽ phải, làng Hà kia rồi. Dẫu đã xa bao nhiêu năm, nhưng cảnh cũ vẫn còn vương vấn khiến lão bồi hồi. Lão cố nhớ xem cây đa làng ở đâu và gần đó có ngôi đình mái cong rêu phủ. Bên đình là cây vối già đứng cạnh bờ ao. Sân đình và ao rộng, tạo nên khoảng trời đêm với biết bao những vì sao lấp lánh. Ở đó lần đầu trong đời lão hò hẹn với một người con gái…

Lần đầu ngồi cạnh nhau, Nụ cứ luôn tay xé những cánh lá vối rụng nghe xạc xào trong đêm vắng. Và khi lần đầu lão cầm tay Nụ toàn thân nàng run lên. Một làn hương dịu nhẹ tỏa lan, ngọt ngào quyến rũ và thanh khiết, cho lão cảm giác ngây ngất, đê mê, để đến mãi sau này anh tân binh Phan Trung Lưu mới hiểu đó là hương sả, hương chanh hòa quyện được tỏa lan từ mái tóc dài óng mượt của Nụ.

Làng quê xưa, nay đã đổi thay, ngoài sức tưởng tượng của lão.

Đường về xã đã rải nhựa, đường thôn đã rải bêtông. Những cột điện, những đường điện, những bóng đèn cao áp, những cần ăngten tivi nhấp nhô, và cũng nhấp nhô nhà mái bằng mái nhọn, mái ngói, mái bêtông. Làng Hà bây giờ khác hẳn làng Hà ngày trước. Bây giờ phải gọi là phố Hà, thị trấn Hà, bởi vóc dáng hình hài khác hẳn xưa kia. Lão đang ngỡ ngàng thì xe dừng kít ngay ngã ba đường. Cậu lái xe nói thì thầm.

- Chú thấy chưa? Chị Nụ đó. Đang ngồi dưới gốc cây bàng đó.

Trước mặt lão là người đàn bà điên. Tóc tự cắt trọc mọc lởm chởm. Da đen cháy, một màu đen man dại vì đã được dãi dầu mưa nắng nhiều ngày. Đôi tay gầy đen đúa, khẳng khiu, cáu bẩn.

Trước mặt chị là cánh võng tết bằng những cây cỏ may xơ xác, trên đó lót những lá bàng khô màu đỏ bầm. Giữa võng là một hòn đá cuội trắng, tròn như quả cam. Cánh võng được buộc một đầu vào gốc bàng và đầu kia buộc vào chiếc cọc tre đóng tạm bợ. Chị vừa lắc võng vừa ru:

“Mẹ thương con có hay chăng

Thương từ khi thai nghén trong lòng

Nắng sớm chiều mưa dầm

Chín tháng so chín năm…”

Chị vừa ru, vừa khóc, cách khóc của người điên. Khóc không thành tiếng mà hai dòng lệ như vô tình cứ chảy hoài, chảy ngoằn ngoèo trên khuôn mặt đen xạm, cáu bẩn, kéo thành một vệt dài xuống cằm, xuống cổ, xuống cặp vú để trần teo tóp, dăn deo. Ngừng ru, chị nhặt những quả bàng rụng đã được vun thành một đóng trước mặt, chọn những quả chín vàng khươm nhằn vỏ rồi khẽ khàng bón cho hòn đá. Vừa bón vừa nói nựng:

- Con yêu, con ngoan của mẹ. Con chóng lớn khôn, đi học trường làng. Con ăn cho no, con ngủ cho ngoan.

Lão đứng chết lặng trước người điên. Lão cố nhớ xem trong cái hình nhân quái dị trước mặt lão, nét nào còn giữ lại của cô Nụ ngày xưa. Cô chẳng còn gì. Tất cả đã bị tàn phá. Không phải là sự tàn phá của thời gian. Chị lão, em gái lão và vợ lão nữa, có già đi, có khác xưa nhưng vẫn giữ được cái gì đó vấn vương của thời xuân sắc. Nhưng ở Nụ thì bị xóa sạch, xóa hết, xóa hoàn toàn. Trong lòng lão trào dâng những nỗi niềm đắng cay, chua xót, ân hận, dằng xé?

Sau một hồi, nén cơn xúc động, lão bước đến gần bên cánh võng và nói khẽ:

- Nụ à, Nụ còn nhớ anh không? Chị ngước nhìn lão.

Ôi con mắt ngước nhìn lên, vẫn nguyên con mắt ấy, trong một giây, ánh mắt trở về với lão, một thủa tình tứ đắm say. Nhưng chớp mắt qua nhanh, nhường lại cho ánh nhìn điên dại:

- Chẳng nhớ ai. Người là ai mà tôi phải nhớ. Nhớ ai, ai nhớ. Ha… ha… ha. À, ta có nhớ. Ta nhớ người bí mật, rồi chị hát:

“Từ ngày anh đi đường cày em đảm đang,

Ruộng cấy chăng dây…”

Lão đến gần chị hơn và nói khẽ khàng hơn:

- Em ơi, anh là Lưu đây, anh Lưu đây.

Chị giật mình, nhìn lão thảng thốt. Nhưng cũng chỉ trong giây lát thôi, rồi ánh mắt trở nên man dại hơn. Chị quát:

- Láo. Cùng với tiếng quát là nhịp thở gấp và lời nói dứt khoát.

- Người không được xúc phạm đến anh Lưu. Anh Lưu cao ráo, đẹp trai, đội mũ đính sao, mặc áo Tô Châu, chân đi giày vải. Anh Lưu mắt sáng như sao, lông anh lưỡi mác, hàm răng trắng đều tăm tắp, nụ cười hiền như đất, ai cũng mến yêu.

Nước còn giặc anh Lưu còn đi đánh giặc

Chiến trường giục giã bước hành quân.

Bao giờ hết giặc, anh Lưu về, anh Lưu làm ông tướng, đầu đội sao, vai đeo sao, ngực đeo sao, đỏ rực, sáng ngời. Cả làng cả xã đi đón anh Lưu. Anh Lưu đánh giặc, anh Lưu đi cày, anh Lưu gặt lúa… Còn người mặt như cái thúng, bụng như cái thùng, chả tày móng chân anh Lưu. Đừng có nhận vơ là vợ thằng nhân nhớ. Anh Lưu là khánh là chuông còn người là mảnh chĩnh lót đường cho người ta xéo lên.

Nghe ra chửa. Cút. Xéo. Đừng có xúc phạm đến anh Lưu nhé. Anh Lưu của ta, anh Lưu của ta, không phải là ngươi, không phải là của các người.

Nói rồi chị hót tất cả đống quả bàng, hạt bàng ném rào vào lão, ném rào rào vào xe. Cơn gió thu chợt về làm xao xác rơi những lá bàng bầm đỏ và những quả bàng vàng mơ. Lão lên xe còn ngoái lại gốc bàng, ở đó Nụ đang cầm chùm lá bàng làm quạt, phe phẩy trên em nôi tết bằng cỏ may.

Dọc đường ra, cậu lái xe cứ lầm lũi lái, môi mím chặt im như thóc. Lúc ra đến đường quốc lộ, cậu ta mới nói:

- Chú biết không, chú Tứ cũng bị nhiễm chất độc da cam đấy. Chú ấy biết vậy nên không chịu lấy ai. Cả cơ quan ai cũng thương chú ấy.

Buồn quá. Một nỗi buồn se sắt, bùi ngùi.

Tự nhiên lão thấy hổ thẹn, như kẻ trốn chạy lương tâm. Lão tự thấy mình hèn nhát như một tên đào ngũ. Lão cảm thấy nóng mặt, rồi lão quát rõ to như ra lệnh:

- Dừng xe. Quay lại. Hãy đưa tôi về lại làng Hà.

Lão trầm ngâm nhìn qua kính xe, cả cánh đồng bạt ngàn lúa đang cong bông vào chắc. Những bông lúa gật gù, gật gù như đồng tình với quyết định của lão. Gió heo may, vô tư, dâng sóng lúa xạc xào.

Offline SUCSONG@  
#29 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:07:09(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Ký ức mùa hạ

Nguyễn Khai Phong

Ước mơ của tôi đã không thành sự thật. Người ấy sẽ không một lần nào nữa đi bên cạnh cuộc đời mình để cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, để cùng nghe gió sông Hậu ùa về, để cùng nhìn hoa điệp đỏ bờ sông...

Hoa nằm viện, sốt liên tục, cái nóng dồn lên vầng trán dồ, cái lạnh dồn xuống đôi chân, đôi tay xanh mét. Bệnh rất nguy kịch, nhưng nó vẫn bình tĩnh lạ thường, chịu đựng tất cả những viên thuốc đắng, những mũi tiêm xé thịt... Dù vậy, sức chịu đựng của con người cũng có hạn. Nó có thể xa tôi trong khoảnh khắc. Nghe nói, ngành y tế cũng chưa có thuốc đặc trị bệnh sốt xuất huyết mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm điều trị của đội ngũ y bác sĩ. Ðành vậy, còn nước còn tát, còn hy vọng...


Sau nửa tháng nằm viện, bệnh tình của Hoa đã giảm. Tôi sung sướng bồng Hoa ra hành lang lầu ba bệnh viện, lâng lâng nhìn con đường Cách mạng Tháng Tám mặt nhựa đen bóng, người và xe qua lại nhộn nhịp. Nắng chiều trải vàng thành phố. Gió xua nhẹ những đám mây trắng lang thang trên bầu trời trong xanh. Tôi xúc động, cúi xuống hôn nhẹ lên trán con, hỏi nhỏ:


- Con khỏe nhiều chưa?


Tay nó rờ lên trán, rồi nắm chặt tay tôi:


- Khỏe. Con hết nóng rồi, ba rờ trán con coi. Hết nóng rồi phải không ba?


- Ừ, hết nóng rồi.


- Con về được chưa ba? Con nhớ nhà, nhớ trường, nhớ cô giáo Hương. Con nghỉ học lâu quá, cô sẽ không cho con lên lớp?


- Ba đã xin phép cho con rồi, cô đồng ý mà! Tôi ngắt lời con để nó yên tâm điều trị chứ lòng tôi không yên. Tôi rất quý trọng nhà giáo không phải vì bản thân tôi đã từng đi dạy học và tham gia công tác quản lý giáo dục, mà có điều gì đó rất thiêng liêng... Biết vậy, nhưng cũng không phải là bất kỳ, nhất là có đôi lúc, thậm chí có một thời gian khá dài tôi phải đau đớn, phải băn khoăn về họ, mất lòng tin về họ? Ðiều này bắt nguồn từ những gì xảy ra ở quanh tôi, chuyện gia đình tôi có liên quan đến nhà giáo. Ðó là những năm hòa bình đầu tiên, miền nam hoàn toàn giải phóng - Hoa - con tôi bước vào lớp một, lớp học dời đổi luôn. Cuối năm học, hóa ra con gái tôi không có tên trong danh sách lớp. Lạ chưa? Vậy thì dạy gì, học gì? Cuối cùng, Hoa cũng được lên lớp, nhưng những năm học tiếp theo thì sao? Tôi biết việc học, việc lên lớp, việc ngồi lại lớp là chuyện bình thường nhưng sự thật thì không đơn giản như thế. Có người cha mẹ nào có thể yên lòng được khi nhìn thấy thầy giáo chạy xe đạp ôm, cô giáo bán hàng vặt vì đồng lương quá thấp, vì đời sống quá khó khăn, rã ngũ như lá rụng. Rồi nhiều, rất nhiều vụ việc khác nữa, không sao hiểu nổi... Có người cha người mẹ nào có thể yên lòng việc học hành của con em mình trong tình cảnh như vậy?


Như nghĩ ra điều gì, Hoa nói:


- Cô Hương có đến đây thăm con. Cô cũng hôn con như ba vậy, cô còn hỏi: ba có đến thăm con thường không? Con nói, thường lắm, ngày mấy lần đặng... Cô Hương thương con nhiều, nhiều lắm...


- Ừ, phải rồi, cô giáo là bà mẹ thứ hai mà!


- Nhưng cô thương con nhiều hơn các bạn. - Nó nói như để giải thích. Cô chăm sóc con nhiều hơn các bạn, thường nắm tay con, xoa đầu con, vuốt tóc con... Còn đối với các bạn khác thì cô không làm như vậy đâu. Có lần cô hỏi, mẹ mất, ba đi làm về chắc là bận rộn việc nhà lắm phải không?


- Con trả lời thế nào?


- Con nói, ba con bận lắm, đủ thứ việc, không rảnh tay. Nào là nấu cơm, chẻ củi, cho heo ăn. Nào là đêm đêm ba còn viết viết gì đó nữa, khuya lắm. - Nó dừng lại một lúc, bỗng nhiên hỏi: Con trả lời như vậy có được không ba?


- Ðược. Tôi gật đầu, không phải nói thêm một lời nào nữa vì đó là sự thật, một sự thật không thể chối bỏ. Tôi không có nhiều thì giờ, ngày làm không hết việc nên thường phải làm đêm. Không biết cô giáo Hương hiểu như thế nào về tôi mà lại mời tôi viết giúp cô một kịch bản ngắn để tham gia chương trình văn nghệ của nhà trường? Thú thật, tôi đã không một chút mặn mà đối với lời mời ấy vì những lý do như đã nêu trên. Hơn nữa, tôi viết văn xuôi, làm thơ được, còn viết kịch thì chưa một lần. Tôi cương quyết từ chối, nhưng cô ấy cũng đã nhắn gửi thông qua con gái tôi mấy lần...


- Con nhớ nhà quá, xin phép bác sĩ cho con về đi ba!


- Không nên đâu con. Khi nào bác sĩ cho phép thì con mới được về.


- Thì ba hỏi bác sĩ đi.


- Bác sĩ không cho đâu, bệnh con mới bớt mà, ráng ở lại bệnh viện ít hôm nữa, nếu con không còn sốt ba sẽ hỏi bác sĩ. - Tôi ngắt lời con vì lo sợ nó trở bệnh. Tôi nghĩ, Hoa đã thoát chết từ trong cuộc chiến tranh, bây giờ là thời bình không lẽ...


Khi Hoa chào đời thì mẹ nó bị băng huyết nặng và ra đi trong một đêm tối trời, pháo địch gầm dữ dội, bắn tung đất con rạch Xẻo Chồi - một vùng quê nghèo hẻo lánh - nơi cơ quan tôi làm việc. Thấy tình cảnh như vậy bà con ở đây đùm bọc, che chở cho nó. Theo năm tháng, đầu Hoa to dần ra, ai cũng băn khoăn cho tính mạng của nó. Hoa thường bị u đầu trầy trán mỗi khi trườn bò, tập ngồi tập đi, đầu nó gục xuống bất ngờ không gượng được. Có khi nó lăn từ trên giường xuống sàn nhà, đầu nện xuống đất như ai ném bịch muối, cái đầu to nặng đã hành hạ nó như vậy đó! Chưa hết, có lần Hoa hấp hối trên tay tôi vì đói và cảm lạnh, tôi ngỡ đã phải vĩnh viễn xa nó từ đó. Nhưng cuối cùng, vận may đã lại đến với nó. Hoa đã sống, lớn lên và đi học. Trong giờ học ở lớp nó rất chăm chỉ. Lúc ở nhà, cũng rất siêng năng, tự học tự viết một cách say mê. Dường như nó biết thân phận mình. Hoa không bao giờ bỏ học, trừ khi ốm nằm liệt giường. Vậy mà nó ít khi nhận được lời khen, trái lại thường bị bạn bè trêu chọc: "Hoa đầu dồ", "Hoa trán dồ". Lúc đầu nó giận, về sau thì dường như quen dần, nó chấp nhận thực tế. Ngại con gái tủi thân, tôi an ủi: "Ðầu, trán con chỉ hơi dồ thôi, bù lại con rất thông minh". "Ðầu con dồ, trán con dồ thật mà ba" - Con gái tôi không ngại những điều này.


- Xin phép bác sĩ đi ba! Hoa nhắc lại, giọng khẩn thiết, nét mặt buồn hiu.


Thấy vậy tôi cũng nao lòng, mặt khác tôi rất ngại nhà trường và lo cô giáo Hương không cho Hoa lên lớp như nó đã nói khi nãy, trong khi ngày bãi trường đang tới gần. Tôi đành đi gặp bác sĩ.


- Ba chở con đến trường để gặp cô giáo Hương, con năn nỉ cô cho con lên lớp. Bảy giờ sáng nay cô có mặt ở trường.


- Khó lắm. - Tôi lắc đầu, giọng cụt ngủn, bực bội. Vậy là nỗi lo lắng của con, nỗi băn khoăn của tôi đã thành sự thật. Ðầu năm học mới Hoa không được lên lớp, phải ngồi lại lớp cũ. Tin ấy như sét đánh đối với tôi và con gái.


- Bảy giờ sáng nay cô dự liên hoan bãi trường. Nếu ba thấy không tiện thì trưa nay ba chở con tới nhà cô. Nhà cô ở gần cầu số 2 đường 3 tháng 2, qua khỏi cơ quan giáo dục đào tạo, qua khỏi trường đại học, bên cạnh vườn ươm cây. Ba giúp con đi ba! - Nó nói, giọng nài nỉ, tha thiết. - Có xa lắm không ba?


- Xa lắm, chừng ba cây số, phải mất trên nửa giờ đi bộ. - Tôi xúc động nói, giọng trầm xuống. - Ba đưa con đến trường, trưa rước con về.


Hoa lên xe. Tôi để ý thấy nó lặng lẽ không nói gì, có vẻ lo lắng, dường như nó cũng cảm nhận được điều gì đó sắp xảy ra mà chính nó phải đương đầu. Mong muốn được lên lớp của nó là bình thường, có gì sai trái đâu, sao lại khó thực hiện đến thế?


Xe dừng trước cổng trường. Nó xuống xe, bước nhanh qua cổng phụ, tay vịn song sắt, nhìn vào văn phòng hiệu trưởng. Tôi nhìn theo dáng con... Không thể dùng dằng nữa, tôi phải đi làm, đành dặn con chờ tôi như thường lệ.


Sau khi giải quyết một số việc gấp ở cơ quan, tôi trở lại rước Hoa thì cổng trường đã khép chặt, vắng lặng. Vậy là Hoa không đợi tôi được, có thể vì phải chờ đợi lâu quá nên nó đã bỏ đi bộ về. Tôi đuổi theo, hy vọng nó còn lang thang dọc đường. Nhưng không... Tôi vọt nhanh về nhà cũng không thấy bóng dáng nó. Việc này chưa từng xảy ra bao giờ nên tôi rất lo lắng. Vậy là chuyện gì đã xảy ra? Nó ham chơi với chúng bạn hay đã gặp chuyện chẳng lành? Nhiều câu hỏi đặt ra không có lời đáp. Băn khoăn mãi, cuối cùng tôi cũng tự trấn an mình, tin và dựa vào sự khôn ngoan của nó. Giọt nắng đổ nghiêng từ phía tây qua tán mận hồng đào in lốm đốm trắng mặt sân. Ðã sắp tới giờ đi làm, tôi phải có mặt ở cơ quan như thường lệ mà Hoa vẫn biệt tăm. Sốt ruột, không còn lựa chọn nào khác, tôi tìm đến nhà cô giáo Hương. Tôi chạy đua với thời gian. Cũng may là có nhiều người biết cô giáo Hương nên việc hỏi thăm nhà cô không khó. Bà mẹ cô ra tiếp tôi và nói: "Trưa nay cháu Hoa có tới đây chơi, tôi kêu dùng cơm, nhưng cháu không ăn, nài mãi cũng không được. Sợ cháu tội nghiệp, lo cháu về đường một mình không tiện nên Hương đã đưa cháu về nhà rồi". Tôi tạm biệt bà mẹ trong tâm trạng buồn, vui, lo âu lẫn lộn.


Ðường về, nắng xế đổ lửa rát da mặt, cảm giác mồ hôi ướt áo, mồ hôi kết thành giọt lăn trên má, mằn mặn ở môi...


Thế là lần đầu tiên tôi đến nhà cô giáo Hương và cũng là lần đầu tiên cô ấy đến nhà tôi. Hoa phải chấp nhận ở lại lớp, cô Hương sẽ tiếp tục dìu dắt nó một năm nữa. Theo lời giải thích của cô, nó đã bỏ nhiều bài vở vì hơn nửa tháng nằm viện và thời gian nghỉ rải rác trong năm. Nó có thể lên lớp được, nhưng không nên ép. Cô giáo Hương nói đúng, dù chỉ là một phần sự thật. Tôi đành không thể nói gì hơn.


Câu chuyện của chúng tôi diễn ra có vẻ thân mật và cởi mở. Ðiều đó có thể do cô ấy đem lại. Cô ấy không ồn ào, nhưng có sức thu hút và thuyết phục lạ lùng, ít ra là đối với tôi. Tôi muốn níu giữ cô ở lại thật lâu nhưng không tiện. Tôi tiễn cô ra về, ngày cuối cùng của niên học đã kết thúc.


Mặt trời lướt nhanh về phía chân mây, chênh chếch hướng cầu Rạch Ngỗng. Những sợi nắng xuyên qua hàng cây Vườn Thầy Cầu, kéo những vệt sáng và dài, in trên mặt đường xi-măng khô trắng.


Ði bên cạnh cô giáo Hương, tôi cảm thấy dễ chịu và thân thiết, không muốn rời xa. Ðể rồi suốt chặng đường về, hình ảnh cô giáo Hương cứ hiện ra trước mắt tôi. Dù đã quá thì, nhưng con người ấy vẫn níu giữ được tuổi xuân với vóc dáng gọn gàng thanh lịch, với nét mặt ưu tư và đôi mắt hình hột nhãn. Lời cô Hương còn văng vẳng bên tai tôi: "Hoa dễ thương lắm! Em nhớ đầu năm học, tóc tai nó lè phè lắm, tay thì lốm đốm mực. Anh biết em phải chăm sóc, dạy dỗ nó như thế nào không? Giờ thì Hoa sạch sẽ tươm tất rồi". Tôi thầm biết ơn cô giáo đã dành cho Hoa, cho gia đình tôi những điều tốt lành ấy. Tôi đã hiểu vì sao Hoa thường hay nhắc đến cô Hương, khen ngợi đủ điều, kính yêu rất mực. Tôi cũng không quên nhìn lại việc học hành của con cùng hành động liều lĩnh của nó - đến nhà cô giáo để xin lên lớp... Tôi cần phải có thêm thời gian để nghĩ đến chuyện nhà, về Hoa, và cả về cô giáo Hương nữa. Tôi cũng rất hối tiếc là mình đã quá vô tâm khi từ chối viết một kịch bản ngắn giúp cô tham gia chương trình văn nghệ nhà trường mà không có lời giải thích cho thấu tình đạt lý. Nhưng tất cả không phải đã quá muộn, trái lại mọi việc dường như mới là sự khởi đầu. Bất chợt, tôi nhận ra một điều gì như ngọn lửa đang nhen nhóm.


Thời gian qua mau. Hạ lại về. Hàng điệp bờ sông lại trổ bông. Ðã bao nhiêu lần, bao nhiêu kỷ niệm cùng với ngần ấy đổi thay không sao kể xiết. Trong ngần ấy đổi thay, Hoa - con gái tôi - đã là cô giáo, đã đi qua được cái thời học hành bầm vập. Còn cô giáo Hương... Mỗi khi nghĩ đến, tôi thành kính thắp nén nhang tưởng nhớ một kiếp người! Sao những con người như cô giáo Hương lại đi qua cuộc đời này vội vã thế? Có phải vậy không, hay đó chỉ là cảm giác bởi sự nuối tiếc, tình yêu thương vô hạn của người đang sống dành cho người đã khuất?


Ước mơ của tôi đã không thành sự thật. Người ấy sẽ không một lần nào nữa đi bên cạnh cuộc đời mình để cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, để cùng nghe gió sông Hậu ùa về, để cùng nhìn hoa điệp đỏ bờ sông...

Offline SUCSONG@  
#30 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:07:37(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Nửa vành trăng khuyết

Đỗ Kim Cuông

Tôi không biết chị Lụa buồn vì lẽ gì? Bị bà cụ Mít chửi cấm chị lấy chồng xa? Hay chỉ vì chị trót yêu một anh chàng đi bộ đội. Làng nào bây giờ chả có người ra trận? Nghe nói đã có người trên huyện đánh tiếng hỏi chị Lụa, nhưng chị kiên quyết không lấy. Bà cụ Mít càng giận... Bỗng chị Lụa bật khóc ngay trước mặt tôi. Rồi chị đứng dậy đi lên bờ đê... Tấm áo cánh nâu, chiếc quần thâm bó chặt lấy cơ thể phổng phao, cái bụng đã hơi căng đầy của người con gái...

- “... Mỗi trạm từ 20 đến 25 kilômét một ngày. Tiền công hai đồng bốn hào. Ngoài ra các cháu còn được cấp 5 lạng gạo... Anh Cấp - cán bộ của trạm sẽ chỉ huy cả toán. Mọi công việc hàng ngày, chuyện gì không biết các cháu cứ hỏi anh Cấp...”. Ông trạm trưởng trạm tư liệu nông nghiệp, một người đã ngót nghét tuổi 60. Da sạm đen, tóc bạc trắng như cước. Ông đang nói với chúng tôi, chợt vớ lấy điếu cầy, tranh thủ nhồi thuốc lào, châm lửa. Tiếng điếu cầy khô giòn vang âm trong căn nhà cấp 4, lợp ngói, ẩm thấp. Một con cóc tía - chắc nghiện mùi thuốc lào - nhảy ra từ dưới gầm tấm phản kê ở góc nhà, đứng giương mắt nhìn không hề e sợ. Yết hầu con ếch phồng lên xẹp xuống, nó há miệng đớp những đám khói thuốc lào phả ra mù mịt trong căn nhà. Ông trưởng trạm già, chiêu một hớp nước chè, nói tiếp: “Các cậu đang nắm giữ trong tay một đống tài sản quốc gia, mất mát hư hỏng bị đền đã đành, có khi còn ngồi tù. Kỷ luật đi đường là quan trọng. Anh Cấp thay mặt cho trạm nói gì, các cháu phải nghe nấy. Cấm cãi... Được chưa nào? Đồng ý thì ký vào đây”.

... Sáu con người đang đi xin việc làm chẳng ai hé ra một lời nào. Phải là quen biết lắm mới kiếm được công việc béo bở này! Ông chìa ngay ra trước mặt chúng tôi những bản hợp đồng làm việc. Những tờ giấy đánh máy chi chít vết bẩn dấu vân tay, vết mực. Có tờ còn bị xé một dẻo phía dưới. Ý hẳn ai đó đã tiện tay dùng tạm làm đóm thuốc lào.

Như một cái máy, tất cả chúng tôi đều ký vào bản hợp đồng. Một ngày 8 tiếng đi bộ, lương hai đồng tư, thêm nửa ký gạo. Hời chán. Chị gái tôi ngày hè đi xúc than từ xà lan đổ lên bến sông, gánh than vã mồ hôi, công chỉ được có một đồng hai. Mẹ tôi, bác tôi trần chăn bông, vò nan cả ngày chưa kiếm nổi một đồng. Dù tôi có phải lặn lội lên rừng, ngủ bờ rúc bụi cũng sướng. Ba tháng hè có được một chuyến đi lên rừng bằng tàu hỏa, ôtô coi ngó chim trời cá nước, sông suối. Làm gì cũng được miễn là có được vài chục đồng đã là oách rồi. Có tiền để mua sách, mua vở, bút mực không phải ngửa tay xin cha mẹ. Tự hào và kiêu hãnh lắm!

Cái gọi là “tài sản quốc gia” như ông già trạm trưởng nói té ra là sáu con trâu. Mỗi người phải có trách nhiệm chăn dắt đàn trâu đưa về xuôi phục vụ cho bà con nông dân cày cấy. Đang lúc chiến tranh, máy bay Mỹ bắn phá, trâu bò vận chuyển từ miền núi về xuôi không được phép đi tàu, đi ôtô mà phải dắt bộ. Con trâu là đầu cơ nghiệp tài sản của hợp tác xã chứ còn gì? Dù hợp tác xã đã có cả chục năm nay, ở miền xuôi con trâu, cái cuốc vẫn là chủ lực cày kéo.

Anh Cấp, một công nhân của trạm mới ngoài đôi mươi, trẻ khỏe có nước da rám nâu. Anh là chỗ quen biết với gia đình tôi. Chính anh gợi ý với cha mẹ tôi, cho tôi đi theo anh trong dịp hè làm kiếm tiền. Buổi chiều anh Cấp nhận người, nhận trâu và tiền bạc cho cả chuyến đi. Chúng tôi có một ngày để chăm sóc làm quen với đàn trâu rừng hung dữ vốn sống hoang dã, được mua từ các buôn bản xa đưa về. Buổi chiều, anh Cấp giao cho chúng tôi dắt từng con trâu để anh đánh số trên sừng, trên mông bằng những chiếc dùi có số đã hơ nóng trên lửa. Mỗi con trâu khi bị chiếc dùi sắt gí vào mông đều vùng chạy vì nóng. Mùi lông da trâu cháy khét. Những con số đã in hằn lên sừng, lên mông chúng như những số tù. Những người đi áp tải chăn dắt đàn trâu, anh Cấp cũng chỉ phát cho mỗi người một ngày 5 hào. Ngày nào phát tiền ngày ấy. Anh Cấp bảo vậy. Năm hào đủ để chúng tôi góp tiền mua gạo, thức ăn và tiêu vặt.

II

Công việc rong ruổi theo bầy trâu đi bộ tưởng nhẹ nhàng, dễ ăn hóa ra không đơn giản chút nào. Bầy trâu đi theo đàn rất chậm. Lại là giống trâu rừng, sợ người, sợ tiếng động. Lần đầu lũ trâu được quây thành đàn chưa quen nhau, chúng đánh nhau lộn bậy. Trên đường quốc lộ, chỉ cần có ôtô chạy qua, rít còi, những con trâu đã hoảng loạn chạy tứ tán. Chúng đâm bổ xuống ruộng, xuống ngòi, đạp lúa phá hoa màu... Lùa được đàn trâu trở lại hàng ngũ quả là vất vả. Phải sang ngày thứ ba, đàn trâu mới dần quen với cảnh đi bộ, không còn sợ xe ôtô, đôi khi chúng còn nghênh ngang đứng giữa đường tè vô tư, cọ sừng vào lưng nhau đùa giỡn, mặc tiếng còi xe rú như cháy nhà.

Chỉ có những ngọn roi tre, mềm vút lên mông, lên cổ và tiếng nạt nộ gắt gỏng của những người áp tải bầy trâu mới chịu phục tùng, đi vào hàng ngũ. Con trâu mộng đi đầu cả đàn. Con nọ nối đuôi con kia thẳng tiến. Trên đường chỗ nào có bãi cỏ, bầy trâu được thả ra cho ăn cỏ no nê, tắm mát trong những ao đầm ven đường. Đấy là những lúc chúng tôi được nghỉ ngơi đôi chút, ngắm nhìn những làng mạc cánh đồng sau vụ gặt đang cày vỡ, chờ nước. Bầy cò đậu trắng cánh đồng đi kiếm ăn trên các thửa ruộng vắng bóng người. Không ai còn để ý tiếng máy bay phản lực đang ném bom đâu đó ở ngả Hà Nội, Hải Phòng. Tôi quen dần với những bữa cơm chỉ có rau muống luộc chấm tương, chấm nước cua vào mỗi buổi sáng, buổi chiều. Buổi trưa cả toán đi làm thuê lót dạ bằng cơm nắm chấm muối vừng.

Anh Cấp, trưởng toán có vẻ quý tôi. Có thể tôi còn trẻ, lần đầu xa gia đình. Mẹ tôi gửi gắm tôi cho anh. Buổi tối đầu tiên anh ngủ chung với tôi. Quãng nửa đêm, anh gọi tôi dậy đi theo anh ra ngoài bãi thả trâu cho bày trâu ăn đêm. Anh còn bảo: “Hôm nào về tới làng Yên, anh cho em tha hồ ăn nhãn”.

Làng Yên nằm bên bờ sông Đuống. Hôm ấy, bầy trâu được lùa đi từ ba giờ sáng để tránh các trọng điểm máy bay Mỹ hay ném bom và qua cầu Sông Đuống. Bốn giờ chiều, đàn trâu đã về tới bãi cỏ chân đê. Phía ngoài sông, nước trên nguồn đổ về đục ngầu, dâng cao. Những cánh ruộng đay trồng trên đất bãi ven sông ngập nước. Cỏ lên xanh. Bầy trâu được bữa ăn thỏa thích. Mới tới làng Yên được một lúc, anh Cấp đã mất hút. Anh bảo phải đi trình báo với xã, với thôn. Đi liên hệ mua rơm và lo nơi ăn chốn ngủ. Chúng tôi sẽ dừng lại ở làng Yên thêm một ngày cho bầy trâu lại sức trước khi về xuôi. Đâu quãng sẩm tối, anh Cấp mới về. Đi theo anh còn có một cô gái trẻ, gánh theo gánh cỏ mật. Anh Cấp chỉ nói gọn lỏn: “Đây là cô Lụa, con cụ Mít bán nước ở cửa đình. Gia đình cụ Mít là cơ sở của trạm nông nghiệp. Bữa chiều các cậu khỏi phải lo cơm nước. Tối nay xã có chiếu phim, cho phép các cậu nghỉ ngơi, đi xem phim” .

Chị Lụa còn trẻ quãng mười tám, đôi mươi, gương mặt xinh xắn. Chị dỡ gánh cỏ lấy ra một rổ nhãn đãi chúng tôi. Bầy trâu ăn no, tắm mát, bụng căng tròn. Mỗi con được cột vào một gốc tre; con nằm, con đứng thảnh thơi, nhai cỏ. Bữa cơm chiều có canh cua đồng, cà bát muối và tép kho. Ăn xong, tôi không đi xem phim mà ra chân đê hóng mát. Bầy trâu phơi mình dưới ánh trăng chiếu hắt vào từ hướng ngoài sông. Làng quê thanh bình yên ả. Vọng lên tiếng sáo diều từ một nơi nào đó phía trong làng. Rặng nhãn dọc theo bờ đê quả sai trĩu cành. Tôi tìm đến một chân đống rơm cao ngất ngưởng nằm tựa vào bờ cỏ nhìn lên bầu trời dày đặc một dàn sao. Ngọn gió mát từ mặt sông đưa lên, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Có thể là gió lạnh làm cho tôi tỉnh giấc. Vẫn tiếng sáo diều vút lên trong vắt. Giữa đêm khuya thanh vắng càng lảnh lót vang ngân. Ỳ oạp tiếng ếch kêu phía đầm sen. Và giọng nói thì thào như gió thoảng ở ngay sát nơi tôi nằm... “Anh có yêu em thật không?”. Giọng nam thở gấp: “Lại chả thật. Mùa thu tới, thầy u anh sẽ mang lễ lên đây ăn hỏi em. Hai ta sẽ thành vợ, thành chồng”. Giọng nữ khẽ khàng: “Thật chứ? Anh có dám thề không?”. “Thề thì thề, sợ gì! Nhưng ngộ nhỡ anh đi bộ đội thì sao?”. “Lâu mấy em cũng chờ...”. Tôi nằm dán xuống cỏ. Nín thở, nhưng nghe rõ tim mình đập loạn. Anh Cấp và chị Lụa. Giọng nói của họ chớ có sai. Hèn chi anh Cấp mấy ngày nay nóng ruột, chỉ mong bầy trâu về đến làng Yên. Tôi nằm ở phía bên này đống rơm. Anh chị ở phía bên kia đống rơm. Có thể họ không biết tôi ngủ quên ở đây. Hoặc giả anh Cấp có biết tôi đang ngủ, cũng coi tôi là con nít. Mười lăm tuổi con nít chớ còn gì? Một lúc lâu sau, nghe tiếng hai người vật lộn, không đừng được tôi trườn nhẹ, ghếch đầu he hé mắt nhìn. Chỉ thấy tấm lưng trần của anh Cấp và tấm thân trắng lốp của chị Lụa nhập nhòa trong khoảng tối của tán lá nhãn đung đưa. Tôi tự cắn vào tay mình để khỏi hét lên. Tôi nhắm mắt lại, bịt tai để khỏi nghe thấy những câu đối đáp của họ, xen lẫn tiếng thở gấp. Chỉ đến khi, tiếng mõ khua lốc cốc của mấy người du kích đi tuần canh trên đê, đôi trai gái yêu nhau mới rời khỏi chân đống rơm đi lại phía đàn trâu cho chúng ăn cỏ.

III

Vào cuối tháng tám, tôi còn có một chuyến đi nữa trở lại làng Yên. Chỉ huy chúng tôi và bầy trâu 48 con không phải là anh Cấp mà một ông trung niên tên Cứ. Tôi chỉ nghe láng máng vào tháng 7, anh Cấp có giấy gọi nhập ngũ. Tôi đã quen với công việc và có chút ít kinh nghiệm làm bạn với bầy trâu rừng. Lòng thoáng chợt buồn vì thiếu vắng anh Cấp.

Những ngày đi đường, tôi mong ngóng từng đêm để tới được làng Yên. Đàn trâu về đến làng đã sẩm tối. Chị Lụa nhận ra tôi là người quen cũ, từng đi với anh Cấp về nghỉ ở nhà chị lần trước, nhưng trong bữa cơm chị không nói gì. Còn bà cụ Mít cũng ậm ừ cho qua chuyện và đôi mắt luôn dõi theo cô con gái từng bước một. Hình như ông Cứ không được bà cụ Mít tiếp đãi nồng nhiệt như anh Cấp bữa trước. Sau bữa ăn, cụ Mít ngồi tính chi ly từng hào để thanh toán tiền gạo củi, rau mắm, tiền cỏ trâu, tiền thuê bãi cho trâu nghỉ. Tôi buồn bã cầm tấm mềm mỏng đi ra bờ đê tìm đến gốc nhãn. Đống rơm to như cái nơm cá khổng lồ hao đi quá nửa. Tôi ngồi xuống dệ cỏ, ngửa đầu ngắm trời sao. Lòng buồn se sắt. Chị Lụa lặng lẽ tới bên tôi tự bao giờ. Bàn chân chị đi trên lớp cỏ êm ái không một tiếng động. “Anh Cấp đi bộ đội, chị có biết không?” - Tôi hỏi chị Lụa. “Anh ấy chẳng nói gì với chị, trước ngày đi anh ấy có lên đây được một tối, thưa chuyện với mẹ chị. Bà cụ chửi cho một trận, rồi cấm cửa...” “Đang thời chiến tranh mà chị...”. Tôi an ủi. Chị Lụa nhìn lên mặt đê, buông giọng buồn rầu: “Chị buồn lắm em ạ. Biết anh ấy bây giờ ở đâu mà tìm?”.

Tôi không biết chị Lụa buồn vì lẽ gì? Bị bà cụ Mít chửi cấm chị lấy chồng xa? Hay chỉ vì chị trót yêu một anh chàng đi bộ đội. Làng nào bây giờ chả có người ra trận? Nghe nói đã có người trên huyện đánh tiếng hỏi chị Lụa, nhưng chị kiên quyết không lấy. Bà cụ Mít càng giận... Bỗng chị Lụa bật khóc ngay trước mặt tôi. Rồi chị đứng dậy đi lên bờ đê... Tấm áo cánh nâu, chiếc quần thâm bó chặt lấy cơ thể phổng phao, cái bụng đã hơi căng đầy của người con gái...

Thêm một mùa hè nữa, tôi lại ngược rừng làm bạn với bầy trâu về xuôi. Vẫn những chặng nghỉ đêm sau khi đi bộ quãng đường 20, 25 km một ngày. Mùi trâu rừng hôi hám ám vào quần áo, lẫn vào giấc ngủ. Chỉ có điều khi đi qua những thành phố, thị trấn, làng mạc cả người và trâu lo đi cho nhanh để tránh những trận máy bay Mỹ đánh phá đường sá, cầu cống không theo một quy luật nào cả.

Đêm ngủ lại làng Yên, bà cụ Mít vẫn nấu cơm cho toán thợ, bán cỏ, rơm khô cho bầy trâu ăn đêm, keo kiệt tính từng xu gạo mắm... Khi tôi buột miệng hỏi: “Chị Lụa đi đâu, thưa bà?”. Chỉ nghe tiếng bà chít nước bã trầu qua kẽ răng và một giọng đay nghiến: “Bôi vôi, thả trôi sông rồi...!”. Tôi chạy ào ra ngoài bờ đê, úp mặt vào thân cây nhãn khóc tấm tức. Năm ấy tôi tròn 16 tuổi.

Thêm một mùa hè nữa qua đi. Tôi vào bộ đội. Rồi đi Nam. Gặp lính Công trường 4 ở Phú Vang, Phú Lộc; đụng với lính Công trường 6 ở Phong Quảng, đi với Sư đoàn 324 đánh điểm cao Dốc Chè, Cao điểm 360, căn cứ Động Tranh Bình Điền, chốt giáp ranh với lính Sư đoàn 325 ở bờ sông Ô Lâu, lên đường tuyến A Sầu. A Lưới đi nhận gạo đạn gặp lính cao xạ bảo vệ đường tuyến, gặp ai đồng hương tôi cũng dò tìm tin tức về anh Cấp. Cả một trung đoàn toàn là lính Hải Phòng, Thái Bình tăng cường cho chiến trường Trị Thiên trong chiến dịch Mậu Thân 68 không lẽ chết cả...

Cho đến một ngày khi tôi bị thương phải vào trạm phẫu Nhô bên bờ Bắc sông Bồ, tôi mới tìm được tung tích của anh. Anh Cấp vào Nam được điều về một đơn vị vận tải gạo dọc theo Khe Trăng, Khe Lu. Trong một lần đi tải đạn B41, anh Cấp đã bị lính Mỹ phục kích bắn chết ngày dưới chân Động Chuối. Y sĩ Nhô - Trạm xá trưởng đã đưa tôi tới nơi chôn cất anh Cấp. Hy sinh cùng với anh còn có 5 người lính vận tải. Những cơn mưa rừng tầm tã ở miền Tây Bắc Huế làm cho những ngôi mộ hao vẹt cả. Chỉ còn lại dòng tên anh được đục bằng đinh trên những mảnh sắt tây cắt ra từ thùng lương khô đã han gỉ.

IV

Anh cán bộ huyện Lắc đưa tôi đi thăm hồ cả buổi sáng. Hồ Lắc rộng nhất nước và đầy vẻ thơ mộng. Thỉnh thoảng trên mặt hồ nổi lên những hòn đảo nhỏ. Thấp thoáng bóng nhà sàn, nhà ngói có những cần ăngten bắt sóng truyền hình thấp thoáng bóng cây rừng.

Ở một ngọn đồi sát mép hồ ngôi biệt điện của vua Bảo Đại bao năm mưa nắng vẫn soi bóng xuống mặt hồ. Gần đây còn có trại nuôi voi của Hoàng cung. Vào mùa săn bắn, vua từng lên đây cưỡi voi đi săn, đi câu cá... Buổi trưa, mấy anh cán bộ huyện ủy đưa tôi vào ăn cơm ở Trường phổ thông cơ sở nội trú dân tộc. Anh hiệu trưởng Y Ban khoe với tôi: “Ở đây anh có đồng hương đó nghen!” - Y Ban chỉ cho tôi một cô gái ngoài 20 tuổi: “Cô Kim Thu, Hiệu phó chuyên môn của trường tôi”. Cô giáo Thu nghe nhắc tên ngẩng lên nhìn tôi, khẽ chào và có ý xin lỗi vì đang trao đổi điều gì đó với hai ba thầy cô giáo đang giờ nghỉ giải lao.

Khi tôi còn mải nhìn các cháu học sinh nội trú tập thể dục giữa giờ, bỗng giật mình nghe có người hỏi: “Có phải chú đi theo anh Cấp đến nghỉ ở làng Yên năm nào không?”. Tôi quay lại, sững sờ đánh rơi cốc nước đá... Trước mặt tôi là chị Lụa. Chị Lụa của hơn 20 năm trước ở làng Yên. Vẫn gương mặt bầu bĩnh phúc hậu. Tóc chị lốm đốm nhiều sợi bạc, đuôi mắt có chân chim. Chiếc chổi chị Lụa cầm trên tay đang quét lá rụng cũng rơi xuống sân.

Vậy là chị Lụa đã không chết trôi sông như lời nguyền của cụ Mít. Người đàn bà không chồng mà chửa đã chịu bao cơ cực tủi nhục để còn được sống tới ngày hôm nay, quyết chí đi tìm chồng. Hai mẹ con chị đã tới hàng trăm nghĩa trang ở các tỉnh dọc dải miền Trung và Tây Nguyên, làm đủ nghề để hai mẹ con khỏi chết đói, chỉ cốt dò la cho được tung tích của anh Cấp. Một ngày nọ, chị Lụa dắt con dừng lại bên hồ Lắc. Cô hiệu phó xinh đẹp nói giọng bắc: “Kim Thu là cô con gái rượu của chị”.

Offline SUCSONG@  
#31 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:08:17(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Dòng sông mẹ

Võ Tấn Cường

Dòng sông chia hai nhánh, một nhánh chảy qua thành phố và một nhánh chảy về phía biển. Bao lần tôi ngồi ngắm dòng sông suốt từ buổi bình minh đến hoàng hôn nhưng vẫn không khám phá được sự bí ẩn của lòng sông.

Tôi lớn lên bên cạnh dòng sông. Ba tôi làm nghề lái đò ngang. Tôi biết mình chỉ là con nuôi của một gia đình không con. Dù vậy, ba má rất thương tôi và tôi cũng thương ba má bằng tình cảm sâu nặng.

Thuở nhỏ, tôi nhớ mỗi lần tôi hỏi mẹ tôi đâu thì ba tôi thường chỉ tay về phía dòng sông và im lặng. Có lần ba tôi bảo: “Dòng sông là mẹ của con đó...”. Tâm hồn non nớt, tôi không hiểu nổi những lời ba tôi nói ngụ ý điều gì. Sau này, tôi nghe chị Huyền hàng xóm làm nghề chèo đò ngang bảo: “Cách đây mười bảy năm, giữa đêm trăng sáng ba em gặp một hài nhi bị bỏ rơi trong chiếc giỏ đặt giữa chiếc đò cạnh bờ sông. Ba em đem về nhà chờ mãi không có ai nhận. Lúc đó má em hiếm muộn đang khát khao một đứa trẻ. Hai người giữ đứa bé lại nuôi đến ngày khôn lớn. Đứa bé chính là em đó...”.

Chị Huyền lớn hơn tôi năm tuổi. Chị Huyền mồ côi cha, sống với người mẹ bị mù lòa. Thuở nhỏ, chị Huyền dạy tôi bắt chuồn chuồn cho cắn rốn để biết bơi. Chị Huyền bảo: “Cương nè! Sao em không đi thành phố học? Em cần phải có cuộc sống khác để sau này đổi đời”. Tôi nói: “Em không muốn đi đâu cả. Bên dòng sông này là cả cuộc đời của em rồi...”. Chị Huyền cất giọng xa vắng: “Chị nhiều ước mơ lắm. Chị muốn đi xa khỏi dòng sông này và làm nhiều điều mà mình mơ ước. Tiếc là không có ai lo cho má chị cả....”. Tôi nói: “Chị cứ đi đi... Em sẽ chăm sóc bác thay cho chị...”. Chị Huyền bảo: “Không được đâu em. Chị không nỡ bỏ má đi để tìm hạnh phúc riêng mình....”.

Tôi nhớ, một đêm trăng, tôi ra ngồi cạnh bờ sông thì gặp chị Huyền vừa chèo đò cập bờ. Gương mặt chị trông xanh xao giữa bóng trăng mờ ảo. Chị Huyền đến ngồi cạnh bên tôi. Chị thì thầm: “Chán thiệt. Có khi chị thấy thân xác mình thật dơ bẩn. Nhiều khi chèo đò về, chị xuống sông tắm và chị cứ bơi giữa dòng sông để nước mát gột rửa...”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Chị nói gì em không hiểu. Chị không nên khắc nghiệt với bản thân mình như vậy...”. Chị Huyền cất giọng nghèn nghẹn: “Lớn lên một chút nữa em sẽ hiểu. Em biết không. Chị chỉ còn em để tâm sự... Lúc này, má chị bị bệnh tim nặng. Không đủ tiền để lo thuốc thang. Chị không biết phải làm sao... Cương nè! Phải chi em lớn thêm vài tuổi nữa... chị sẽ... yêu em”. Chị Huyền ngả đầu vào bờ vai tôi. Dòng nước mắt nóng hổi của chị thấm ướt áo tôi. Tôi cảm nhận được lồng ngực xuân thì của chị run rẩy theo từng tiếng nấc.

Tôi nhớ trong một lần sinh con, má tôi bị băng huyết và lìa đời. Đứa bé cũng không sống nổi một ngày. Chiếc đò chở má tôi về giữa buổi trưa nắng gắt. Tôi ra bờ sông đón má. Khi ba tôi và ông hàng xóm khiêng má vào nhà, tôi chợt sững người khi trông thấy màu máu đỏ loang khắp khoang đò. Tôi không hiểu nổi máu ở đâu mà chảy nhiều như vậy. Hay là má bị thương? Cái màu đỏ cứ ám ảnh trong giấc ngủ của tôi suốt thời niên thiếu. Trong giấc mơ, tôi thấy màu đỏ loang khắp mặt sông và chảy theo thủy triều đỏ rực cả góc trời. Ký ức của tôi về má chỉ có vậy. Còn với mẹ - người sinh ra tôi và bỏ rơi tôi - thì tôi hoàn toàn không biết gì cả. Tôi nhớ có lần chị Huyền bảo: “Dòng sông bao la như lòng mẹ. Có khi nào em nghĩ rằng em sẽ bơi ra biển, bơi về phía chân trời để gặp mẹ không?”. Tôi đáp: “Nếu sông như lòng mẹ thì em chẳng cần phải đi đâu để tìm mẹ cả. Mẹ đang ở bên em và đang ôm em vào lòng...”.

Đêm trăng nọ, ngồi chơi đàn kìm và nhâm nhi rượu đế, ba tôi cất giọng trầm lắng:

- Con có biết tại sao ba lại làm nghề lái đò và sống bên dòng sông này không?

- Sao vậy ba?

- Hồi xưa cù lao này còn hoang vu lắm. Nơi đây là chỗ ở của những người bị bệnh cùi. Họ bị cách ly khỏi xã hội. Ông nội con từ miền Trung vô Nam đã chọn cù lao này để lập nghiệp. Bà nội đã sinh ba trên chiếc đò giữa dòng sông... Sau này lớn lên, sống cạnh dòng sông ba nhận ra dòng sông thật bao dung và rộng lớn như lòng mẹ. Thuở trai trẻ, ba đã lặn lội đi nhiều nơi kiếm sống nhưng cuối cùng lại trở về sống gắn bó với dòng sông.

- Ba ơi! Khi chiếc cầu bắc qua sông, những người làm nghề lái đò ngang chắc sẽ không còn việc làm...

- Con đừng lo... Vẫn còn nhiều người thích đi đò trên sông nước. Cảm giác được ngồi trên sông thật thú vị...

Buổi sáng hôm sau, cả cù lao nháo nhác bởi tin dữ lan truyền. Tôi điếng hồn khi nghe tin chị Huyền đã bị giết chết. Bên bờ sông, đám người lao xao chỉ trỏ và bình phẩm đủ điều. Tôi nhận ra xác chị Huyền với nửa thân người lõa lồ bị kẹt vào những rễ bần cạnh bờ sông. Có người ác miệng bảo: “Nhỏ Huyền chèo đò chỉ là cái cớ thôi. Nhỏ làm gái... Chắc là bị mấy tay lái sà lan hiếp và giết chết...”. Người khác lại bảo: “Con nhỏ này thích tắm đêm và hay bơi về phía cửa sông. Chắc là bị chuột rút”...

Sau đám tang của chị Huyền, mỗi lần ngồi cạnh bờ sông tôi cứ bị ám ảnh bởi hình ảnh của chị. Trong tâm hồn tôi chợt lóe lên ý định rời bỏ dòng sông để ra đi. Tôi tự hỏi: “Mình sẽ đi đâu? Tôi phải làm gì để linh hồn chị Huyền thanh thản chốn vĩnh hằng?”. Tôi thầm nói: “Sông mẹ ơi! Tôi sẽ đi và sẽ gặp dòng sông ở phía chân trời”.

Offline SUCSONG@  
#32 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:08:51(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Cỗ cưới

Vương Tường Phu (Trung Quốc)

Người thôn Hà Biên trước hết thấy hai cha con đi vào thôn, sau đó mới biết họ đến nấu cỗ cho nhà Bí thư Vũ Quốc Quyền.

Cha con họ là đầu bếp nhà quê, rất thông minh, chưa bao giờ theo học nghề đầu bếp mà tay nghề đều do tự suy nghĩ, tích luỹ mà có, vì thế họ không giống với đầu bếp chính quy. Bảy đĩa tám bát trên mâm cỗ do họ nấu bao giờ cũng có hương vị riêng chả giống ai, dân quê rất thích.

Trông bề ngoài, hai cha con đầu bếp này cứ như hai anh em, đều đẹp trai và cao lớn. Họ rất nổi tiếng ở vùng này, một là vì cỗ họ nấu ra không bao giờ đểnh đoảng; hai là họ bao giờ cũng nghĩ thay cho chủ nhà; ba là vì họ không phụ trách việc mua đồ nấu, nhà chủ có gì họ nấu những thứ đó, hơn nữa bao giờ cũng cố nấu cho ngon. Như thế là đủ không giống những đầu bếp khác rồi, vì thế mà dần dần họ được nhiều nhà mời nấu cỗ.

Tuy vậy, hai cha con vẫn nghèo lắm. Anh con đã từng ba lần có bạn gái, nhưng chỉ vì nghèo mà các cô đều chỉ quan hệ được một thời gian rồi lại rút lui. Người cha rất buồn về chuyện hôn nhân không thành của con nên ông thường trầm lặng. Anh con đương nhiên còn nóng lòng hơn cả cha, cũng ít nói nhưng không buồn bã như cha mà tự trọng và tự cao gần như đến mức bệnh hoạn. Nếu như anh ăn nói sởi lởi thì chuyện vợ con có lẽ cũng thành được rồi, nhưng anh lại không biết (hoặc không chịu) tán tỉnh các cô hoặc giở các trò chim gái ranh mãnh của những anh trai lơ ra... Đó chính là tính thật thà, thẳng thắn của cả hai cha con.

Ba bếp lò thật to được xây trên bãi đất trống ngoài cổng sau nhà Vũ Quốc Quyền, phía sau bãi đất trống này là bờ sông. Dòng sông lặng lẽ, lấp lánh trôi dưới ánh mặt trời. Ngoài ba bếp lò thật to ra, nhà họ Vũ còn cho người vác ba tấm cánh cửa của trường tiểu học về đặt cạnh bếp làm nơi để đồ nấu, thế là cũng đủ phô trương rồi.

Thịt lợn đều mua ngoài lò mổ, tất cả là ba nửa lợn trắng ngồn ngộn bày trên phản, tiết đọng chỗ cổ còn tươi nguyên. Dê có hai con, được dắt về để mổ tại chỗ. Lại còn hơn hai chục con gà nhốt trong lồng tre, hai ngày nay đã được cho ăn ngô nên béo ra trông thấy. Hai cha con người đầu bếp đứng cạnh phản sắp xếp những thứ sẽ đưa lên mâm cỗ. Ba tảng thịt lợn phải lọc xương trước tiên, xương lọc ra còn phải chia đôi, xương chân giò và xương ống bỏ chung vào một thau, còn xương sườn bỏ vào một thau khác. Hai loại xương này dùng để nấu hai món khác nhau. Xương chân giò còn để lại nhiều thịt, nấu một món mà dân làng thường thích ăn là món xương hầm, hầm xong cho khoai sọ, cà rốt vào hầm tiếp cho nhừ. Xương sườn chặt thành từng khúc, món người ta thích ăn hiện nay là sườn xào chua ngọt, lúc sắp đơm ra đĩa thì bỏ thêm dứa vào. Món sườn này trước hết ướp mắm muối gia vị, cho vào nồi đun chín đến tám phần thì vớt ra, để ráo nước, bỏ vào mỡ đảo cho thơm, như thế sườn chín mềm mà lại không nát. Cầu kỳ hơn nữa thì sau khi sườn chín rút xương ra, rồi nhồi trở lại đấy những lát khoai môn đã rán vàng.

Hai cha con đầu bếp là người biết giữ phép tắc, họ chỉ nấu bếp ở phía sau nhà chứ không hề bước chân lên nhà trên. Đó cũng là do cẩn thận, nhà trên sau này có xảy ra việc gì, như mất gì đó hoặc vỡ gì đó thì chẳng liên quan gì tới họ. Tối đến, hai cha con ngủ trong lán dựng tạm bên cạnh bếp.

Lúc này hai cha con đã thái xong thịt thành từng món, thịt ba chỉ thái thành miếng vuông con cờ, bỏ vào nồi xào cho chín để làm món thịt phù nhự; thịt vai và thịt mông đem băm nhỏ, viên lại mà rán hoặc nhồi làm nhân. Sáu miếng thịt nách và gối được anh con lọc ra, trải bằng bặn trên phản, rải đều quế, hồi vào giữa rồi cuộn lại, quấn chặt dây thành hình ống. Món thịt cuốn này chỉ có bó thật chặt thì khi chín mới thành hình, thái ra làm món thịt nguội mới bày cho đẹp được. Làm xong mấy món đó, hai cha con quay sang băm thịt chan chát trên thớt làm nhân bánh bao.

Làm xong gà, hai cha con ngồi xổm trên đất rửa cá. Cá chép này người nơi đây cứ gọi là cá phúc. Ơ đây nhà nào cầu kỳ, khi có đám đều dùng cá chép, còn nhà nào giàu có khi ăn cá chép thì cầu kỳ đòi hỏi món cá chép bọc lá sen bỏ lò, nghĩa là phải nhồi nhân thịt vào bụng cá, gọi là món cá phúc. Chả có lý do gì nhưng người ở đây thích gọi như thế thì ai làm gì được họ?

Cung cách chơi sang của nhà chủ khiến người cha xúc động. Ông vừa nhồi nhân thịt vào bụng cá vừa nghĩ thầm, không biết khi cưới vợ cho con, ông có mời nổi khách ăn món cá phúc bọc lá sen này không? Hay lúc đó chỉ có thể mua cá diếc và nhồi đậu phụ vào bụng cá? Rồi ông lại nghĩ, nhà này cưới con dâu như thế nào mà làm cỗ sang đến thế? Cô dâu mới có phúc làm sao! Còn anh con trai vừa nhồi nhân thịt vào bụng cá vừa nghĩ, không biết chú rể nhà này mặt mũi thế nào? Lớn tuổi hơn hay nhỏ tuổi hơn mình? Hai cha con mải miết theo dòng tâm sự của mỗi người rồi ngay sau đó là đến lúc phải làm thịt dê.

Dê đã giết từ hôm qua, ở đây thịt dê chỉ làm có hai món, một là món thịt dê hấp nhừ. Món này trước hết phải nấu gần nhừ thì lấy ra thái miếng dài bằng ngón tay, sau đó xếp ngay ngắn trên đĩa đem hấp. Thịt dê không được nấu nhừ quá, vì nhừ quá thì không thấy được tài nghệ thái thành miếng đều tăm tắp. Món thứ hai là dê hầm, đầu, cổ và xương dê bỏ cả vào nồi ninh nhừ với nước, buổi sáng hôm đón dâu thì khách khứa và họ hàng đều đến sớm để húp một bát dê hầm. Dê hầm tới lúc múc ra bát còn phải nêm rau thơm thái nhỏ xanh biếc và ớt tươi đỏ chói.

Lúc này, đám phụ nữ trong thôn tới giúp việc đã đến. Nhiệm vụ của họ là giúp nhà Bí thư Vũ Quốc Quyền hấp bánh bao, hấp màn thầu, hấp bánh đường, hấp bánh cuốn táo. Trước hết họ phải nhào kỹ bột cho kịp lên men, tối đem hấp bánh. Còn cơm thì ngày hôm sau mới phải nấu. Các bà các cô giúp việc ở bếp sân trước, nhưng họ đều kéo nhau ra bếp đàng cổng sau như đi tham quan, tham quan hai cha con ông đầu bếp thao tác từng món một, món nào món nấy được nấu đúng trình tự.

Mỗi lần nấu cỗ cưới là hai cha con đều cảm thấy phấn khích, vì là trên đời này lại có một đôi nam nữ cuối cùng đã đi tới hôn nhân. Đến tối tất nhiên là động phòng, động phòng tất nhiên là làm cái chuyện ấy. Anh con không thể nào không nghĩ đến cái chuyện tối hôm động phòng, có lúc cái bên dưới của anh phát cứng, ngỏng lên rõ cao. Lúc ấy anh trở nên bướng bỉnh lạ lùng, cha bảo làm gì thì anh chẳng bao giờ chịu nghe lời. Hầu như lần nào nấu cỗ cưới anh cũng bị kích thích, nhưng sự kích thích trên thân thể ấy qua một hồi rồi cũng xẹp, còn sự kích thích về mặt tinh thần thì không dễ xẹp đi như vậy. Nếu chú rể nhiều tuổi hơn anh thì anh ít bị kích thích hơn, nhưng nếu chú rể lại ít tuổi hơn anh thì sự kích thích ấy tăng lên gấp bội. Do làm cỗ cưới là làm cho người ta nên hai cha con thường có thể đứng riêng ra một bên mà bình tĩnh quan sát, và lúc đó họ hay so sánh bản thân với người ta. Kết quả so sánh hầu như đều nhất trí ở chỗ bất kể giàu hay không thì người ta cũng làm được cỗ cưới, chú rể sắp được động phòng. Kết luận cũng chỉ có một, đó là người ta hơn hẳn mình, hai cha con vì thế mà rất buồn lòng.

- Nhà họ Vũ làm cỗ cưới mới ra cỗ cưới chứ! Nghe nói thiếp mời gửi lên đến tận khu, ngày mai khách trên đó về hẳn là đông lắm!

Khi người đứng bên nói câu ấy, ông đầu bếp lại thầm nghĩ: "Bao giờ làm cỗ cưới cho con trai thì mời được bao nhiêu khách?". Thậm chí ông còn nhớ tới cô gái ở cuối sông. Cô gái có hai bím tóc thật to, vì hai bím tóc ấy mà bỗng dưng ông thấy thích cô, nhưng bây giờ cô đã lấy người khác rồi. Cô gái lấy ai vốn chẳng có gì đáng nói, đáng nói là chính hai cha con ông lại đi làm cỗ cho đám cưới ấy, cũng làm ở bếp dựng tạm lên trong lán đàng sau nhà. Họ nấu cỗ suốt một ngày, một đêm rồi lại một ngày nữa. Sau đó khách dự đùa bỡn, phá đám cô dâu vào động phòng, phá rất dai. Anh con trai bỗng nhiên mất tinh thần, chẳng nói câu nào, chỉ uống rượu, nhưng không thu dọn đồ đạc mà về cho sớm vì còn phải làm món canh cho cô dâu chú rể ăn vào nửa đêm trước khi động phòng. Theo lệ, bát canh cho cô dâu gồm một khúc dồi dài ba tấc kẹp giữa hai viên thịt, bát canh cho chú rể gồm một quả cà nhỏ đặt giữa một cái quẩy cuộn tròn rán vàng. Đấy cũng là trò đùa động phòng.

Trời đã tối. Người cha bưng bát cơm ngồi cạnh bếp mà ăn, vừa ăn vừa thầm tính toán, so sánh. Ông điểm một lượt tất cả những bữa cỗ cưới lớn nhỏ mà hai cha con đã làm trong năm nay và thấy cỗ cưới của nhà họ Vũ là to nhất. Không nói gì khác, vừa mới đây thôi, ông Ba ở trong thôn lại chở đến một xe hoa quả gồm dưa hấu và chuối tiêu. Hai món tráng miệng này càng tỏ ra vẻ sang trọng khác người của nhà họ Vũ.

***

Trời sáng hẳn. Khách lục tục đến. Đến sớm nhất là đám họ hàng của chủ nhà. Nồi canh xương dê trước lúc trời sáng đã được đun sôi lại. Hai cha con đầu bếp đã dậy từ lâu, đang thái rau thơm để vào một bát to, lại bỏ ớt vào chảo dầu sôi chao một bát to nữa. Ơ sân trước, đám phụ nữ giúp việc đã rán gần xong bánh bẻng, rán xong bỏ lên từng chậu một, đợi khách đến sớm ăn. Lệ làng này là ai đến trước ăn trước, dê ninh, bánh bẻng và còn hai món nộm, trộn sẵn trong hai cái chậu giặt quần áo thật to, bóng nhoáng vì trộn nhiều mỡ. Bữa sáng luân phiên ăn, người lần lượt đến, đến thì ngồi xuống mà ăn, ăn xong có thể về, đến trưa lại đến.

Phía sân trước, pháo đã được chuẩn bị sẵn, còn đội kèn trống đến hơi muộn. Đó là đội "Phúc khánh tân thời đại". Họ đến rồi cũng chưa thổi ngay, còn ngồi bên bàn thong thả ăn dê hầm, bánh bẻng. Hai cô gái trong đội chuyên hát những bài hiện đại, ăn mặc rất gợi cảm, khác hẳn lối quê. Áo các cô mặc rất ngắn đến mức sắp hở cả rốn. Bên dưới là váy, cũng rất ngắn, dưới váy ngắn là đôi chân rất dài đi tất nịt làm cho đường nét lồ lộ, mỗi khi các cô bước đi, chẳng những khoe đôi mông thây lẩy mà còn khoe phía trước lùm lùm một đám.

Tới gần trưa hôn lễ mới bắt đầu. Đi trước tiên để đón dâu là đội kèn trống, ai nấy cầm nhạc cụ, thổi một khúc rất nhộn nhịp. Người bên nhà gái khiêng tới một mái che thêu hoa mẫu đơn, dưới mái che là một cái ngai nhỏ.

Nhà họ Vũ cũng khiêng ra một cái ngai có mái che thêu, trong tiếng kèn trống rộn ràng. Hai cái ngai gặp nhau thì cùng được lật vải che ra, bên dưới tấm vải che là hai bài vị nho nhỏ. Hai bài vị này được đưa đặt lên bàn trước cửa buồng ngoảnh hướng nam ở sân trước, rồi lập tức được người ta dùng chỉ đỏ buộc vòng quanh.

Không ai chú ý đến cha con ông đầu bếp cũng có mặt ở sân trước. Họ lên đây vì rất muốn được xem mặt cô dâu chú rể. Cũng chẳng ai để ý thấy cha con ông đầu bếp bỗng tái mặt đi lui về phía sau nhà, vội vội vàng vàng thu dọn những dụng cụ nhà bếp mang đến rồi bỏ đi luôn. Mọi người đang mải dồn cả về sân trước xem hai cái bài vị đang được người ta nâng lên cho vái trời đất, vái cha mẹ. Tất nhiên người làng đều biết nhà Vũ Quốc Quyền làm đám cưới âm cho con trai ốm chết năm mười bốn tuổi, bốn năm trôi qua đến nay đã mười tám, vừa vặn đủ tuổi kết hôn như luật quy định. Vừa hay thôn bên có cô gái cũng mới chết vì bệnh máu trắng, hai nhà bèn kết thông gia. Đám cưới tổ chức vừa rôm rả vừa lịch sự, chỉ có điều tới trưa, khi khách khứa ngồi vào bàn, vợ Vũ Quốc Quyền mới phát hiện hai cha con đầu bếp đã biến mất.

Phạm Tú Châu dịch

Offline SUCSONG@  
#33 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:09:36(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Ngoại hình dễ nhìn

Hoài Hương

“Ngoại hình dễ nhìn” như một ám ảnh và như cơn ác mộng, thậm chí như một ác quỷ kìm hãm giết chết những hy vọng trong Khuê. Khuê không trách hờn cha mẹ sinh ra cô, không được xinh đẹp như người khác. Cô chỉ hận người đời tại sao lại quan trọng cái vẻ ngoài đến thế.

Cầm một xấp các thông báo tuyển dụng, Cát Khuê, cô bạn tôi nhăn nhó tội nghiệp, nói như muốn khóc:

- Xem đi, tất cả các điều kiện, nào vi tính, ngoại ngữ, bằng cử nhân, cái nào cũng vượt chuẩn, nhưng khi vào phỏng vấn thì... “ngoại hình dễ nhìn”, mình trượt dài dài. Chẳng lẽ xấu là chịu thiệt thòi vậy sao? Điều này không biết khi nào mới tìm được việc làm đỡ tủi hổ với đời, báo hiếu cha mẹ...

Nói xong, Khuê ngồi thần ra lẩm bẩm: Ngoại hình dễ nhìn... Tại sao?

Chúng tôi cùng học một lớp ở trường đại học, Khuê được nhiều người ngưỡng mộ vì trong suốt những năm học ở trường toàn đứng nhất khoa, chỉ hiềm một nỗi Khuê không phải là người con gái dễ nhìn, dù tính tình nhu mì hiền hậu tốt bụng. Khuê thông minh, có lẽ do ông trời bù đắp cho việc thiếu nhan sắc. Bạn bè trong lớp quý mến Khuê, nhưng hình như ai cũng ngại, ít khi nào rủ đi chơi cùng. Mấy năm học đại học, không ít lần Khuê buồn khi những cuộc giao lưu, hội khoa, hội trường, chẳng có ai đến bắt chuyện làm quen. Đôi lần tủi thân, Khuê bỏ về phòng ký túc, hoặc tìm cớ tránh những cuộc hội hè gặp gỡ đó. Dần dần, Khuê như một kẻ độc hành trên đường học vấn với các danh hiệu thủ khoa, xuất sắc, tài năng... và gần như không có mối quan hệ thân tình nào ngoài các bạn cùng lớp. Khuê không còn để ý đến chuyện nhan sắc của mình. Khuê cũng chỉ cười thầm khi ở xung quanh cô mọi người bình phẩm này nọ. Duy nhất có tôi, là Khuê cởi mở thân thiện, có lẽ tôi cũng là một người con gái ngoại hình vừa phải, không bắt mắt, luôn chịu khó ở bên Khuê chuyện trò. Khuê hay tìm tôi mỗi khi gặp điều gì đó cần chia sẻ.

Tốt nghiệp đại học, chúng tôi đứa nào cũng lao đầu vào kiếm việc làm, và như phép mầu thần kỳ hay do chính ngành học của chúng tôi đang là thời thượng, “hút hàng”, mà không bao lâu sau gần như đa số chúng tôi đều có nơi có chốn, nơi “ngon”, nơi ít “ngon” hay không “ngon” lắm, nhưng tạm thời ổn định, không phải long đong vất vả. Tôi may mắn có người thân làm quan chức trong một bộ nên cũng dễ dàng vượt qua kỳ thi tuyển để trở thành công chức nhà nước, thế là vui quá rồi.

Còn Khuê, cô bạn thời sinh viên của tôi, đang đau khổ vì cái gọi là “ngoại hình dễ nhìn”, chướng ngại vật tưởng nhỏ nhưng thật sự là một bức tường thành chắc chắn khó có thể vượt qua trong cửa ải tìm kiếm việc làm, chưa nói đến chuyện tìm kiếm một cuộc hẹn hò tình yêu.

Khuê kể tôi nghe trong sự ấm ức tức tưởi về những lần đi xin việc, hy vọng rồi thất vọng. Nhiều lần như thế, Khuê nghi ngờ về chính mình có gì đó không ổn. Khuê tìm đến trung tâm tư vấn tìm việc cho sinh viên ra trường. Chị thư ký ở văn phòng sau khi nghe Khuê trình bày nguyện vọng, xem các văn bằng của Khuê, vỗ vai Khuê nói chân tình: “Chị biết em là một người có khả năng, có thể rất giỏi, thích hợp cho rất nhiều vị trí ở các công ty lớn, nhưng có một điều chị nói thật - ngoại hình của em là cản trở lớn và duy nhất để em khó tìm việc”. Khuê không tin, không lẽ “ngoại hình dễ nhìn” quan trọng hơn cả khả năng trình độ. Khuê không nản lòng. Để có thể tiếp tục chờ đợi xin được nơi làm việc hợp với chuyên môn đã học, Khuê tạm thời làm gia sư cho mấy đứa trẻ lớp 8, 9 con nhà khá giả. Dạy được vài tháng, không hiểu sao, cha mẹ mấy đứa trẻ trả Khuê thêm 2 tháng tiền công và lịch sự từ chối không để Khuê dạy nữa. Khuê không biết vì sao nhưng khi chào bà giúp việc nấu ăn, cô nghe bà nói: “Cô giáo đừng buồn, bà chủ không nói gì nhưng bọn trẻ bảo không thích học cô vì cô giáo xấu quá, học không vào”. Khuê nhói lòng... Đến trẻ con còn nói thế... Khuê cay đắng cả cõi lòng. “Ngoại hình dễ nhìn” như một ám ảnh và như cơn ác mộng, thậm chí như một ác quỷ kìm hãm giết chết những hy vọng trong Khuê. Khuê không trách hờn cha mẹ sinh ra cô, không được xinh đẹp như người khác. Cô chỉ hận người đời tại sao lại quan trọng cái vẻ ngoài đến thế. Những câu nói từ xưa đến nay không lẽ mất ý nghĩa “cái nết đánh chết cái đẹp”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”... Buồn rũ người một thời gian, Khuê suy nghĩ... “Ngoại hình dễ nhìn”... Đã thế... Cô quyết tâm phải làm sao cho được như chính cái tên Cát Khuê mà cha mẹ khi sinh ra đặt cho cô, gửi gắm một kỳ vọng tương lai sáng ngời... Khuê nắm chặt tay tôi, lắc mạnh, mắt long lanh sáng rỡ, nói như lên đồng:

- Bọn mình phải đầu tư vào ngoại hình, đầu tư như người ta bỏ vốn kinh doanh. Phải đi chỉnh sửa thẩm mỹ, phải chưng diện đúng mốt, phải đẹp như diễn viên người mẫu, phải làm cho đàn ông quỵ lụy quỳ gối trước mình, phải làm các ông chủ tranh nhau có được mình làm nhân viên... Phải cho ít nhất một tên đàn ông đau khổ vì không yêu được mình... Phải... Phải...

Tôi là người nhát gan, thích sự yên bình, và bởi vì tôi chưa phải gặp hoàn cảnh trớ trêu buồn thảm như Khuê, nhưng tôi chia sẻ những bức xúc của Khuê và đồng tình với cách nghĩ của cô. Chúng tôi bàn ngay việc thực hiện. Tôi, không ai khác sẽ giúp đỡ Khuê cả tinh thần, vật chất cho công cuộc chỉnh sửa thẩm mỹ ngoại hình. Tôi đưa Khuê hết số tiền tiết kiệm trong 2 năm làm việc, đủ để chi dùng cho “dự án” của Khuê. Tôi không nghĩ đơn thuần giúp Khuê, mà còn muốn qua “dự án” này thử nghiệm cái gọi là “ngoại hình dễ nhìn” nó sẽ thay đổi như thế nào số phận cuộc đời của cô bạn mình và tôi không hiểu mình nghĩ thế có đúng không...

Cuộc chỉnh sửa bắt đầu, tôi còn hồi hộp hơn cả Khuê, bận rộn chạy đi chạy về, tới lui chăm sóc Khuê những ngày phải nằm ở thẩm mỹ viện. Sau ba tháng cực hình của Khuê, vất vả của tôi là một Khuê có gương mặt đẹp hoàn hảo. Khuê ôm chầm lấy tôi khóc nghẹn ngào: “Cảm ơn... cảm ơn...”, còn tôi ngây ngất ngắm Khuê như ngắm công trình của chính mình tạo ra trong niềm vui khó tả.

Không lâu sau, Khuê chạy tới tôi, hào hứng kể: “Có nơi mình đến phỏng vấn, họ không hỏi về chuyên môn, chỉ nhìn rồi cười hỏi vớ vẩn mấy câu, xong gật đầu OK liền. Nhưng có tới mấy nơi nhận nên tha hồ lựa chọn... Ngoại hình dễ nhìn có khác!”. Mấy tháng sau, Khuê lại gặp tôi hớn hở: “Mình bỏ chỗ cũ rồi, lương ít quá mà lại làm việc nhiều. Mình vừa được tuyển vào làm PR - giao tiếp công cộng của một liên doanh nước ngoài, lương tính bằng đô la, lên xe xuống ngựa, lắm kẻ săn đón...”. Tôi mừng cho Khuê.

Được nửa năm, Khuê rủ tôi đi ăn, lần này Khuê trịnh trọng đưa trả tôi số tiền giúp Khuê ngày trước, Khuê khuyên tôi bắt chước cô. Khuê còn nói nếu tôi đồng ý, Khuê đưa tôi đi nước ngoài làm còn đẹp hơn nữa... Tôi lắc đầu: “Ừ để sau này tính, chưa vội”. Khuê lại khoe: “Bây giờ mình sang liên doanh khác làm rồi, chỗ cũ ông sếp không biết ga lăng chán chết, lại già xấu, chỗ mới này lương cao hơn, sếp trẻ chịu chơi, mình hay được mời đi ăn cùng”. Sau đó Khuê còn nhiều lần chạy tới tôi, mỗi lần là một thay đổi chỗ làm, chỗ sau “ngon” hơn chỗ trước, vì thật sự Khuê là người có năng lực không chỉ “ngoại hình dễ nhìn” nên các ông chủ thích mẫu nhân viên như vậy, Khuê ngày một thăng tiến.

Nhưng có lần Khuê buồn buồn kể tôi nghe: Làm việc lương cao được sếp quý mến nhưng phiền phức lắm. Ngày trước xấu xí chẳng ma nào thèm nhìn, nay người này người kia theo đuổi, có người lương thiện, có kẻ lợi dụng với ý đồ xấu, cứ phải tránh như tránh dịch bệnh. Đã thế đồng nghiệp nữ lại ghen tuông khi thấy các sếp có cảm tình với Khuê. Họ không nghĩ là Khuê làm được việc có lợi cho công ty, chỉ nghĩ Khuê có “ngoại hình dễ nhìn” nên quyến rũ mê hoặc các sếp... Mỗi lần đi công tác cùng sếp là Khuê căng thẳng như sắp vào phòng thi chỉ sợ điều tiếng gì xảy ra... Và rồi nếu ai tới với Khuê, cô lại sợ không biết họ yêu tài năng trí tuệ con người mình, hay chỉ vì cái “ngoại hình dễ nhìn”... Khuê cảm giác như Khuê không thể yêu được, dù nhiều khi cũng muốn có tình yêu chân thật của người nào đó, nhưng ám ảnh về “ngoại hình dễ nhìn” còn làm Khuê nghi ngờ. Khuê lại lao vào kiếm tiền, với trái tim không biết rung động với ai. Vết thương thời sinh viên làm Khuê không thể quên được, những lần tủi thân một mình ở phòng ký túc trong lúc bạn bè đi vui chơi, chỉ vì Khuê xấu xí.

Bẵng đi một thời gian, tôi không gặp Khuê, nghĩ mọi việc chắc cũng ổn, vì có gì là Khuê đến tôi rồi. Vào một chiều gần tan giờ làm thì Khuê điện hẹn gặp, nghe giọng Khuê là lạ, tôi gặng hỏi nhưng Khuê bảo cứ gặp nhau rồi biết. Chúng tôi hẹn nhau ở quán cà phê quen thuộc, kín đáo và ấm cúng tha hồ nói chuyện không sợ bị làm phiền. Đã lâu không gặp, tôi và Khuê tíu tít hỏi thăm nhau. Rồi Khuê nhìn tôi lắc đầu: “Chán chết, vẫn cứ mộc mạc thế này ma nào ngó, nên đi về một mình phải lắm. Cô phải thay đổi tư duy đi. Bắt chước Khuê này, có đủ thứ mình muốn, đàn ông theo cả đàn tha hồ chọn...”. Tôi nhìn Khuê trầm trồ: “Đẹp quá, đàn bà còn mê nữa là đàn ông. Mà này đã có mối tình nào chưa, ưng ý ai chưa?”. Khuê cười thật hồn nhiên: “Có chuyện này buồn cười lắm, không kể mà để bụng thì chết mất, mà chỉ có kể được ở đây thôi”. “Nào kể đi”. Tôi nhiệt tình giục và hào hứng ngồi nghe.

Khuê sau mấy lần đổi công ty, không phải vì chỗ làm không tốt mà vì chính “ngoại hình dễ nhìn” gây phiền phức cho Khuê quá nhiều, cả về phía chủ lẫn nhân viên đồng nghiệp. Khuê tìm tới một công ty có lời thông báo tuyển nhân viên không có dòng chữ “ngoại hình dễ nhìn”. Khuê nộp hồ sơ và được gọi phỏng vấn rất nhanh không phải đợi lâu. Ngày phỏng vấn, Khuê cố tình ăn mặc giản đơn, song cũng hơi hồi hộp. Bước vào phòng tuyển dụng, một cái bàn dài có 4 người, 2 nam, 2 nữ, 2 nam còn trẻ chừng hơn Khuê vài tuổi, đẹp như diễn viên điện ảnh, 2 nữ thì, Khuê nghĩ ngày xưa thời chưa thẩm mỹ viện chắc mình cũng thế. Người nam ngồi đầu bàn lên tiếng: “Tôi là giám đốc công ty, trực tiếp phỏng vấn...”. Sau khi hỏi Khuê ba câu về chuyên môn, giám đốc mặt lạnh băng nói gọn: “Cô được tuyển dụng, sáng mai tới phòng nhân sự nhận việc” và ra dấu Khuê đi ra.

Những ngày đầu làm việc, Khuê hơi lạ về thái độ của vị giám đốc trẻ, không khi nào nhìn Khuê mỗi khi Khuê vào phòng trình tài liệu, cứ cắm cúi xem, viết gì đó, chỉ ra dấu tay cho Khuê để tài liệu trên bàn và đi ra. Khuê hơi tự ái, mình đẹp thế này, bao nhiêu người ở công ty cả nam lẫn nữ đều khen, nhiều đồng nghiệp nam có ý hẹn hò ăn uống với Khuê, thế mà một câu nói, một cái nhìn của giám đốc không hề có. Khuê tò mò tìm hiểu...

Càng tìm hiểu, Khuê càng thấy đây chính là mẫu người đàn ông mà Khuê mơ ước. Một người đàn ông giỏi giang thành đạt, độc thân nhưng không thấy bồ bịch chơi bời, người đàn ông đứng đắn. Khuê cũng thấy ở công ty, nam nhân viên nhiều hơn nữ, và các nữ nhân viên thì hình như mỗi Khuê là ngoại lệ, họ đều không có “ngoại hình dễ nhìn”. Khuê chưa hề yêu ai, dù có khá nhiều người ngỏ lời, trái tim Khuê luôn nghi ngờ và chưa lành vết thương thời sinh viên. Khuê biết vì Khuê đẹp nên đàn ông thích Khuê, chứ không phải vì Khuê giỏi, nên Khuê càng giữ gìn. Khuê muốn một người đàn ông yêu Khuê không phải vì bên ngoài. Vẻ bề ngoài của Khuê là sự giả tạo, là do thẩm mỹ viện mà có. Một người đàn ông yêu Khuê, con người của Khuê. Chính sự lạnh lùng thờ ơ của vị giám đốc trẻ đã làm cho tim Khuê rung lên những cảm xúc khó tả. Khuê thầm yêu anh ta lúc nào không rõ, âm thầm lặng lẽ hướng về anh ta, và cũng âm thầm ấm ức bởi sự lạnh nhạt vô tình của vị giám đốc trẻ. Khuê chỉ có thể chứng tỏ mình bằng cách làm việc, đem hết khả năng của mình để mang lợi nhuận về công ty nhằm cho giám đốc chú ý, nhưng Khuê chỉ luôn nhận được những bao thư trong đó là phiếu lĩnh tiền thưởng có chữ ký vô cảm của giám đốc mỗi khi hoàn thành công việc. Khuê cứ như người mắc bệnh tương tư, yêu đơn phương đến đau đớn nhói buốt trong tim, Khuê tìm cách tiếp cận giám đốc, chưng diện trang điểm thật đẹp cũng không ăn thua... Và một hôm, ma xui quỷ khiến thế nào, Khuê đi như mộng du lên phòng giám đốc dù chẳng có ai gọi hay có việc gì. Đến trước cửa phòng, cánh cửa khép hờ, Khuê định vào gặp giám đốc và nói hết tình cảm của mình rồi sau đó có ra sao thì ra..., chợt Khuê sững người, trong phòng giám đốc có tiếng động lạ, tiếng người rì rầm, tiếng thở..., Khuê đẩy nhẹ cửa và sửng sốt không tin vào mắt mình, trên chiếc ghế nệm tiếp khách, giám đốc và trợ lý nam đang ôm nhau, cuộn vào nhau, áo quần xộc xệch. Họ say sưa đắm đuối không còn biết gì đến xung quanh... Và như có một dòng nước lạnh ngắt dội vào đầu Khuê, Khuê bừng tỉnh. Thảo nào giám đốc không cần tuyển nữ nhân viên “ngoại hình dễ nhìn”, giám đốc không thích Khuê. Khuê đã chạy như bay về phòng mình và ngồi cười đến chảy nước mắt.

Nghe xong, tôi cũng ôm lấy Khuê mà phá lên cười.

Offline SUCSONG@  
#34 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:10:17(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Sao đổi ngôi

Nguyễn Xuân Hải

Một tháng sau chúng tôi ra tòa. Tòa cố gắng hòa giải, nhưng cả tôi và Lẫm đều ương ngạnh. Đến phần phân chia tài sản, Lẫm chỉ xin một phần nhỏ số tài sản mà vợ chồng tôi đang có, hoặc một số tiền đủ để chuộc lại nửa căn phòng cơ quan chia cho anh ta ngày trước. Tôi chẳng có cách nào khác, đành phải đau xót nhìn năm chục ngàn đôla trong sổ tiết kiệm rơi vào tay Lẫm.

Tôi là một phụ nữ giỏi giang. Họ hàng hai bên nội, ngoại thường khen tôi như vậy. Có lần bà cô ruột còn chỉ vào mặt chồng tôi mà nói rằng: “Cái ngữ cù lần như anh mà không lấy được chị vợ tài giỏi như cháu tôi thì đến kiếp sau cũng chả có cửa cao nhà rộng mà ở”. Tôi nghĩ, mọi người nói đúng phóc.


Minh họa của Phạm Minh Hải


Ai ai cũng biết, hồi mới cưới nhau, chúng tôi phải ở một nửa gian phòng của khu tập thể cơ quan. Tất tần tật việc ăn, ngủ, nấu nướng bó gọn trong sáu mét vuông. Nửa còn lại là một đôi vợ chồng trẻ khác. Đêm đến, người nhà này trở mình, nhà bên kia nghe thấy. Lắm đêm, bên kia hú hí, hứng chí cười rinh rích thì hoặc là Lẫm (tên chồng tôi) nằm im không nhúc nhích, hoặc là bỏ ra ngoài hiên hút thuốc. Thành ra, khi vợ chồng nhà kia đã “úp rá” đi chợ rồi mà bụng tôi vẫn lép kẹp như con cá rô đực. Chẳng thể nào cải tạo được cái tính vừa nhát vừa cả nể của Lẫm, tôi quyết định tính kế dời chỗ ở.

Trước khi có sự đồng ý của chồng, tôi đã sang nhà hàng xóm tỉ tê sự lợi hại, hơn thiệt. Cuộc thương lượng của tôi thành công ngoài dự kiến. Nhà hàng xóm đã dốc toàn bộ hầu bao tích cóp gồm ba chỉ vàng và hơn triệu bạc giúp đỡ vợ chồng tôi dời đi để thông phòng. Tôi làm cái sự đã rồi khiến Lẫm bị bất ngờ. Ban đầu Lẫm không đồng ý. Tôi phải nhờ đến bà cô góp lời mãi mới xuôi. Không ngờ chỉ với ba chỉ vàng của nhà hàng xóm và hai chỉ vàng của hồi môn ngày cưới, tôi đã làm một cuộc đổi đời.

Tôi tìm được một cái nhà tận ngoại thành thuộc loại “mua mà như xin”. Ngôi nhà vốn là cái lán coi vịt của một ông nghiện rượu, tọa lạc trên đám ruộng méo mó, bắc giáp bãi tha ma, nam giáp vùng sình lầy cỏ mọc lút đầu. Ban đầu chúng tôi cải tạo ngôi nhà bằng cách thay các bức phên thưng bằng tường gạch ba banh, lợp ngói ximăng thay cho những tấm giấy dầu. Sửa sang nhà xong, tôi đón bà cô lên, vừa là để trông nom nhà cửa, vừa giúp việc tăng gia và lấn đất.

Bà cô tôi là người khỏe mạnh, tham lam và nhiệt tình với toan tính mở mang điền thổ của tôi. Chỉ sau hơn một năm, từ mảnh đất ban đầu hơn hai trăm mét vuông, tôi và bà cô đã cơi nới thêm hơn trăm mét nữa. Chồng tôi là người dửng dưng với đất cát, lại chán cái cảnh đi làm xa, nhà hiu hắt, thường tìm cớ ở lại cơ quan mỗi tuần một, hai buổi hoặc xin đi công tác.

Bỗng một ngày kia, người ta về cắm đất xây dựng khu đô thị mới trên cánh đồng chiêm khê mùa thối bên cạnh nhà tôi. Biết tin này, người trong làng ùa ra tranh thủ dựng nhà, trồng cây để có cớ xin tiền đền bù. Vậy là gia đình tôi có đồng minh và ngôi nhà vốn là cái lều vịt bỗng trở nên có giá. Từ sáng đến tối, ôtô, xe máy của những tay buôn bán bất động sản liên tục kéo đến gạ mua ngôi nhà chúng tôi đang ở. Tôi cũng tiếp nhưng chỉ là để thăm dò giá trị của nó để có động cơ tiếp tục mở mang bờ cõi.

Cho đến khi khu đô thị mới mọc lên tòa nhà chung cư cao ngất ngưởng đầu tiên thì khu đất của gia đình tôi chiếm giữ đã có tới ngót nghét sáu trăm mét vuông. Chưa hết, tôi còn là người khởi xướng và tham gia đoàn đại biểu của dân sở tại kéo lên Ban quản lý dự án đô thị mới đòi thêm quyền lợi. Ban quản lý dự án đã phải nhượng bộ bằng cách bỏ tiền ra làm đường bê tông, lắp đặt hệ thống cáp điện chiếu sáng, điện thoại, ống nước ngầm đến từng hộ dân xung quanh. Khi đã có cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm vào loại cao cấp, tôi mới quyết định bán đi một nửa diện tích. Phút chốc, vợ chồng tôi trở thành tỷ phú. Ngôi biệt thự nội thất Đức, ngoại thất Pháp do tôi đứng tên chủ hộ, hai chiếc xe @, một cho Lẫm, một cho tôi và cuốn sổ tiết kiệm hơn năm chục ngàn đôla Mỹ đứng tên Lẫm, hoàn toàn là tiền “mỡ nó rán nó” từ cái lều vịt ban đầu.

Nhưng tôi vẫn là người phụ nữ bất hạnh.

Từ khi trở thành chủ nhân của ngôi biệt thự, tôi luôn luôn là trung tâm trách móc của cả bên nội lẫn bên ngoại. Thoạt đầu là bà cô ruột của tôi. Một tháng sau khi khánh thành ngôi biệt thự, bà cô tôi từ quê xách lên đôi gà, nói là mừng nhà mới, nhưng thực ra là ngỏ ý muốn xin tiền để sửa sang lại cái nhà ở quê. Ngẫm ra, để có cái biệt thự hôm nay, công của bà cô tôi không phải là nhỏ. Tính sơ sơ thì bà cũng có đến trên dưới hai trăm đêm cùng tôi xe xỉ than, xe đất về lấn đầm. Nhưng khi bà cất lời xin tôi mười triệu thì lập tức tôi nhìn bằng con mắt khác. Cứ cho rằng bà ta giúp tôi hai trăm công, mà công cơm nuôi ở quê là hai mươi ngàn đồng một ngày, thì cũng chỉ được bốn triệu. Sau vài giây như bị điện giật, tôi bỏ lên trên nhà nói là để bàn thêm với chồng, nhưng thực ra là để cho nguôi cơn bực. Sau khi đã tạm hạ hỏa, tôi mở két lấy ba triệu mang xuống đưa cho bà và nói:

- Tiếng là nhà cao cửa rộng thế nhưng chỉ được cái xác ngoài chứ bên trong thì rỗng hoác rồi. Vả lại toàn bộ việc chi tiêu bây giờ đều do nhà cháu quyết hết. Mà cô còn lạ gì tính anh ấy nữa… Cô thông cảm cầm ba triệu, sau này có điều kiện, cháu sẽ…

Bà cô tôi cũng không phải là người vừa. Bà nói xa nói gần đến cái công cùng tôi ăn trộm đất ruộng, xúc trộm xỉ than để lấn cái thổ này. Bà còn tỏ ra thông thạo trong việc tính số đất lấn ấy ra cây, ra chỉ. Người nói đi, kẻ nói lại, ỏm tỏi cả nhà. Chồng tôi ở trên gác vừa bước xuống, chẳng biết đầu cua tai nheo ra sao đã bị bà cô tôi nói bóng, nói gió, xỉa xói một hồi. Sau khi ném toẹt cọc tiền tung tóe ra nhà, bà cắp nón đứng dậy. Chồng tôi lắp bắp... Hình như anh ấy muốn giữ bà lại để phân bua điều gì đó. Nhưng bà không thèm nghe mà đùng đùng bỏ đi. Ra đến cổng, bà chỉ tay vào mặt Lẫm mà đay nghiến:

- Cái ngữ cù lần như anh mà không lấy được chị vợ tài giỏi như cháu tôi thì đến kiếp sau cũng chả có cửa cao, nhà rộng mà ở.

Lẫm lặng đi như Từ Hải chết đứng. Rồi dường như xấu hổ trước những ánh mắt và đôi tai xoi mói của hàng xóm, chồng tôi bỏ vào nhà, lên phòng riêng đóng cửa suốt cả ngày hôm ấy.

Sau cái đận bà cô ruột tôi muốn “dây máu ăn phần”, tôi tiếp tục phải đối phó với đám chị em gái bên chồng. Lần lượt ba bà chị và cô út dẫn con cái lên tham quan cơ ngơi của chúng tôi. Sau những ngày ăn dầm ở dề, hoan hỉ chúc tụng, khen ngợi, họ đưa ra ý kiến: đưa mẹ lên ở cùng vợ chồng tôi. Họ bảo, mẹ ở cùng cậu mợ, vừa là để trông nom nhà cửa vừa là để cùng hưởng chút sung sướng tuổi già. Việc này thì tôi không thể từ chối vì xưa nay bố mẹ phải ở với con trai chứ mấy ai ở với con rể. Rồi chẳng cần vợ chồng tôi chuẩn bị, ngay sau khi đoàn chị em của Lẫm về được năm ngày, cô út đưa luôn mẹ chồng tôi lên.

Từ khi có bà cụ, nhà tôi trở thành trung tâm đưa đón khách ở quê. Hết họ hàng đến hàng xóm, lấy cái cớ lên thăm bà cụ để đi xem phố xá mà không phải lo nơi ăn chốn ở. Cứ mỗi lần tiếp đón một món khách nợ là một lần tôi rã rời chân tay, bải hoải đầu óc. Dồn nén mãi sự bực dọc trong lòng, cuối cùng tôi cũng nói toạc ra với Lẫm:

- Anh xem, lúc mình túng thiếu cơ hàn, chẳng chó nào thèm đoái hoài, chẳng đứa nào thí cho một đồng, một cắc. Vậy mà, sao bỗng dưng bây giờ họ hàng, xóm làng kéo đàn kéo lũ lên đông thế.

Lẫm thủng thẳng trả lời tôi:

- Vậy theo em, nhà mình nên trở lại cái cảnh nghèo hèn xưa để không ai ngó ngàng tới hay là tiếp tục được nở anh nở mặt với quê hương xóm làng như bây giờ?

Tôi điên tiết:

- Có mà tối anh, tối mắt. Mà nói thật lòng nhé, ngay bà cô ruột tôi công lao là thế mà khi toan tính lợi dụng là tôi cắt phéng…

- Và em đã để tiếng ác cho anh. Anh định khi nào rỗi về xin lỗi cô.

- Dẹp cái trò cao đạo ấy đi. Cứ cái đà khách khứa như thế này thì đến của như núi cũng phải hết.

- Vậy theo em anh phải làm gì?

- Anh cứ để tôi. Tôi sẽ nói huỵch toẹt ra rằng đây không phải là nhà trọ, không phải là nhà từ thiện. Phải nuôi một bà mẹ già cũng tốn kém và khốn khổ lắm rồi.

Tôi không ngờ cuộc cãi lộn của vợ chồng tôi hôm ấy, mẹ chồng tôi nghe thấy hết. Nhưng bà không nói ra mà nuốt đau vào lòng một cách nhẫn nhục. Mấy hôm sau, bà nằng nặc đòi về quê. Lẫm vặn hỏi căn nguyên, bà bảo:

- Tôi sống ở quê có con, có cháu, có hàng xóm láng giềng quen rồi. Còn ở đây, dẫu có nhà cao, cửa rộng, ăn sung mặc sướng, nhưng suốt ngày vong vóng một mình, buồn lắm phát bệnh.

Lẫm lựa lời giữ bà ở lại, bà gắt:

- Bao giờ anh chị có cháu, không mời tôi cũng lên.

Câu nói ấy của mẹ chồng tôi đầy hàm ý và động chạm đến nỗi lo hơn một năm nay của tôi.

Chồng tôi lấp lửng:

- Thì mẹ cứ ở đây, năm nay chúng con sẽ cố...

Mẹ chồng tôi không nói gì. Nhưng đến tối, khi tôi đang lúi húi ở bếp làm cơm nước thì bà bỏ đi. Suốt đêm, chồng tôi chạy đôn, chạy đáo tìm. Gần sáng mới thấy bà ở góc nhà chờ một bến xe. Ngày hôm sau bà đổ bệnh nằm liệt giường. Sau một tuần chăm sóc mẹ chồng ốm, soi gương, tôi phát hoảng vì sự xuống cấp nhan sắc của mình. Tôi nói với Lẫm phải thuê “Ôsin”. Lẫm đồng ý, nhưng lại muốn về quê đón người làng. Lẫm bảo, người làng vừa là chỗ tin tưởng để giao nhà, giao cửa, vừa là để có người thân thuộc trò chuyện để mẹ đỡ buồn.

Chị “Ôsin” do em gái Lẫm dẫn lên hơn chồng tôi một tuổi nhưng trông như một mụ khọm già. Nghe đâu hồi còn bé, Phẩm (tên chị) là bạn chăn trâu với Lẫm. Lớn lên, Phẩm đã nhận trầu cau của một anh bộ đội cùng làng. Nhưng sau lễ ăn hỏi mấy tháng anh bộ đội ấy hy sinh ở biên giới tây nam. Từ ấy đến nay, Phẩm vẫn ở vậy.

Phẩm không chỉ lo việc chăm sóc người ốm mà mọi việc như giặt giũ, nấu nướng, lau cửa, lau nhà, đến việc tưới cây, cho chim, cho cá cảnh ăn… Phẩm đều vơ lấy làm tất. Hình như chị sinh ra chỉ là để làm việc, mà việc gì chị cũng làm rất nhanh, rất chu tất.

Từ khi có chị, mẹ chồng tôi phục hồi sức khỏe từng ngày. Bà vui vẻ hẳn lên và trò chuyện với chị cứ như là con cái trong nhà.Và tôi để ý, chỉ sau hơn ba tháng ở nhà tôi, chính nhan sắc của Phẩm cũng thay đổi. Làn da đen đúa và nhăn nhúm ngày nào của chị đã trở nên mịn màng. Gương mặt của chị ngày thêm đầy đặn, tươi tắn. Cả cái dáng lòng khòng của chị ta cũng biến mất. Hôm chồng tôi mua tặng Phẩm bộ quần áo, chị ta mặc xong, tôi phải giật mình. Phẩm đã lột xác thành một phụ nữ khác, cao ráo, khỏe mạnh và đằm thắm.

Mẹ chồng tôi ngắm chị và khen:

- Trông cháu bây giờ, chả khác thời con gái là mấy… Chứ cái Minh nhà bác, hơn cháu có một tuổi mà trông như mẹ sề.

Chị Phẩm đỏ mặt lí nhí:

- Bác nói thế chứ, được mẹ sề như chị Minh mới là hạnh phúc. Thân phận cháu có nằm mơ cũng chả được.

Rồi chị bỏ xuống nhà bếp. Mẹ tôi nhìn theo, nói với vợ chồng tôi:

- Người cao ráo, óng ả thế là mắn đẻ phải biết. Chỉ tiếc là nhà nghèo, lại mang tiếng là đã có chồng nên nhỡ nhàng đến giờ.

Lẫm cắt ngang:

- Mới ăn hỏi sao đã gọi là đã có chồng được.

Mẹ tôi:

- Khổ, ở nhà quê là thế. Con gái cứ nhận trầu cau của ai đó rồi là đám con trai chúng nó lảng hết.

Lẫm giọng vui vẻ:

- Bây giờ nhà nước đã cho phép phụ nữ không chồng mà vẫn có quyền được sinh con, làm mẹ cơ mà. Chị ấy cứ mạnh dạn xin ai mà đẻ lấy một đứa rồi nuôi có hơn không.

Mẹ tôi cười:

- Ở nhà quê, cánh thợ cày, phó mộc đều con đàn cháu đống rồi. Ai người ta chịu cho. Mà có ai cho, chắc gì đã nhận. Chả ai đẹp trai và tốt như chồng sắp cưới của nó…

Từ sau cuộc trò chuyện ấy, tôi thấy Lẫm trò chuyện với chị Phẩm nhiều hơn. Lại có lần tôi bắt gặp Lẫm đứng rất lâu trên ban công nhìn Phẩm tưới mấy chậu cây cảnh ở trước sân với ánh mắt trìu mến lắm. Lo xa cái sự “lửa gần rơm” giữa Lẫm và Phẩm, tối hôm ấy tôi bàn với Lẫm:

- Bây giờ mẹ đã khỏe, nhà mình chả cần thuê “Ôsin” nữa.

Tôi không ngờ Lẫm phản đối một cách quyết liệt:

- Mẹ đã khỏe nhưng việc nhà lút đầu. Liệu em có cáng đáng nổi không? Hay lại bắt mẹ phải quần quật từ sáng đến tối!

Chuyện không mướn Phẩm làm “Ôsin” cũng là cái cớ để tôi trút tất cả nỗi bực dọc chất chứa bấy lâu. Ban đầu, Lẫm còn giữ thái độ nhường nhịn, bất cần như mọi lần vợ chồng va chạm. Nhưng sau vài câu xóc óc của tôi, anh đã phản công lại. Tôi phát hoảng vì hôm nay anh đã nói toẹt ra rằng, sống với tôi dẫu có cả nhà vàng cũng chẳng có hạnh phúc. Rằng chỉ vì ham làm giàu mà đã hai lần tôi lén đến cơ sở nạo thai chui, tước bỏ quyền làm mẹ của mình để đến bây giờ cứ trơ ra.

Cuộc cãi vã của chúng tôi mỗi lúc thêm ầm ĩ và đã lọt ra ngoài. Ngay sáng hôm sau, cũng giống như cách ứng xử của mẹ chồng tôi hôm trước, chị Phẩm xin về quê với lý do nhớ nhà. Chồng tôi chẳng có cớ gì để giữ Phẩm lại. Nhưng khi Phẩm thu xếp hành lý thì mẹ chồng tôi cũng một mực đòi về. Khi hai người bước ra khỏi cổng, Lẫm lên phòng lấy mũ áo rồi xăm xăm bước theo mà chẳng thèm nói với tôi một lời. Một tuần sau Lẫm mới vác mặt về nhà, nhưng đó là bộ mặt đầy khiêu khích. Tôi điên tiết, trút tất cả những lời cay độc lên đầu anh ta rồi ném toàn bộ đồ đạc, quần áo của anh ta ra ngoài sân. Lẫm không thèm nhặt mà bình thản châm lửa hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Khi tôi không còn lời nào và cũng không còn hơi sức để rỉa rói nữa, Lẫm nhếch mép hỏi:

- Vậy thực ra cô muốn gì và cần gì?

Tôi gào lên:

- Tôi muốn ly dị. Tôi không muốn nhìn thấy cái mặt đần độn của anh nữa!

Lẫm lạnh lùng:

-Vậy cô viết đơn đi.

Tôi lao lên phòng đọc sách. Phải ba lần xé đi những dòng chữ xổ ra trong nỗi uất ức đến tận cổ, tôi mới viết xong được lá đơn. Lẫm không thèm đọc mà ký luôn và nói:

- Dẫu cô có viết gì thì tôi cũng ký. Miễn là sớm để cô khỏi phải nhìn thấy mặt đần độn của tôi.

- Vậy thì ngay từ giờ phút này anh hãy cút ra khỏi nhà này! – Tôi thét lên.

- Phải đợi tòa xử nữa chứ. Nhưng ít ra tôi cũng phải có được một nửa căn phòng như ngày trước. Không có nửa căn phòng ấy tôi biết sống vào đâu?

Một tháng sau chúng tôi ra tòa. Tòa cố gắng hòa giải, nhưng cả tôi và Lẫm đều ương ngạnh. Khi tòa hỏi đến việc phân chia tài sản, Lẫm chỉ xin một phần nhỏ số tài sản mà vợ chồng tôi đang có, hoặc một số tiền đủ để chuộc lại nửa căn phòng cơ quan đã chia cho anh ta ngày trước. Tôi chẳng có cách nào khác, đành phải đau xót nhìn năm chục ngàn đôla trong sổ tiết kiệm rơi vào tay Lẫm.

Ròng rã ba năm từ khi ly dị, tôi không gặp và cũng không muốn quan tâm tới anh ta nữa. Cũng trong ba năm ấy, tôi mới thấy cuộc sống của mình tẻ nhạt và trống rỗng. Những ngày đầu biết tôi là chủ một biệt thự lớn, lại vừa ly dị chồng, một số lão, phần lớn là đã có vợ và tuổi cỡ “đầu” năm, “đầu” sáu tìm đến ve vãn, tán tỉnh. Sợ không giữ được mình, mắc bẫy sẽ mất nhà hoặc sẽ bị mẹ con lũ sư tử cái đến đánh ghen, tôi đành phải về đón bà cô tôi lên ở cùng. Bà cô tôi cũng là người bộc tuệch bộc toạc, chả để ý chuyện ngày xưa, lại nai lưng ra vun vén cho tôi. Biết tôi chỉ còn mỗi khoản lương công chức còm lại quen chi tiêu như các quý phu nhân giàu có, bà cô liền hiến kế:

- Hay là bán quách cái nhà này đi mua vài miếng đất như ngày xưa. Cô còn sức khỏe, cô sẽ lấn thêm. Bán đi lại bộn tiền mà chả phải chia chác cho thằng chồng đù đần nào nữa cả.

Tôi chua chát:

- Buôn đất giờ khó lắm rồi cô ạ. Mà cháu cũng ngoài bốn mươi, nghĩa là đã bước sang cái tuổi toan về già rồi. Nhiều tiền cũng chả để làm gì. Chi bằng bán nhà đi, mua một căn hộ ở chung cư nào đó. Tiền dôi ra đem gửi tiết kiệm dưỡng già.

Và tôi đã làm theo dự định ấy. Cô cháu tôi dọn về căn hộ chín mươi mét vuông, tầng ba của khu chung cư vừa mới xây xong ở phía tây thành phố. Nhưng vừa như bất ngờ, vừa như trời xui đất khiến, hai ngày sau khi chúng tôi dọn về nhà mới, tôi gặp Lẫm ở trong cầu thang máy. Cái làn trên tay anh ta lỉnh kỉnh đồ ăn và sữa cho trẻ con.

Ba năm gặp lại, chẳng thấy vui cũng chẳng còn buồn, tôi hỏi:

- Anh cũng ở đây à…

Lẫm đỏ mặt:

- Ở cách nhà Na một phòng. Hôm qua mẹ tôi trông thấy Na, về nói, tôi định hôm nào sang thăm...

Tôi nhìn xuống cái làn trong tay Lẫm, hỏi trống không:

- Có vợ mới rồi hả?

Lẫm cười, vẫn nụ cười vừa ngây ngô, vừa chân thành mà cách đây mười lăm năm anh ngỏ lời yêu tôi.

- Mẹ bắt tôi phải có cháu nối dõi tông đường. Phẩm mới sinh được ba tháng nay, một thằng cu kháu…

Lẫm nói chưa hết câu, tai tôi đã ù đi. Mắt tôi nhòa lệ. Thang máy đã dừng ở tầng ba, tôi không nhấc nổi bước chân. Lẫm toan đưa tay kéo tôi ra nhưng không hiểu sao, lại rụt lại. Thang máy lại tiếp tục chạy lên tầng trên. Một mình tôi trong khoang cầu thang lạnh lẽo. Thang máy dừng lại ở tầng chín. Tôi bước ra ban công mà chẳng biết mình đang ở đâu và sẽ đi đâu. Đêm đã buông tự lúc nào. Những ngôi sao đổi ngôi như sà xuống trước mắt tôi. Thân phận tôi có khác gì ngôi sao vừa biến mất sau vệt sáng cuối cùng kia. Nghĩ về chúng tôi bật khóc

Offline SUCSONG@  
#35 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:10:53(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Bí đỏ

Nguyễn Quỳnh Nga

Tín đứng trên lưng chừng đồi cát, đôi mắt anh ôm trọn lấy ngôi làng sau bao năm xa cách. Thân thuộc quá, như từng gốc cây bụi cỏ này bàn chân vừa mới giẫm hôm qua vẫn đang còn dấu dép...

Làng Tín nằm trong thung lũng, trước mặt là đồi cát, sau lưng là núi trọc đầy trảng cây bụi. Con đường đất độc đạo dẫn vào làng đầy bụi đỏ và những trảng cây bụi ăn lan ra cả mặt đường lẹm như phải tay người thợ cạo tóc vụng. Được gọi là làng ven biển nhưng muốn ra biển, người làng Tín phải vòng qua đồi cát trước mặt, dọc theo con đường đầy cỏ tranh và những cây mai biển còi cọc rực vàng vào độ cuối đông lành lạnh.


Làng nghèo, trẻ con ít học, suốt ngày bám mặt ngoài những ruộng đất cát trồng hoa màu và ra bờ biển cào lá phi lao rụng về đun bếp. Phi lao mọc thành rừng chắn gió ven biển, bọn trẻ chỉ cần cào một lúc đã đầy sọt. Chúng gối đầu lên cát, nằm san sát nhau như những quả bí đỏ tháng tám. Mặt đỏ bừng vì nắng.


Làng Tín nổi tiếng vì giống bí đỏ, từ thời mở đất đã lưu truyền câu chuyện nửa hư nửa thực về sự tích loài cây này. Thuở đó, có một người con gái Thuỷ thần vì quá yêu chàng trai miền biển mà đã trái luật cha, cùng chàng trai lên ở đất liền. Thuỷ thần giận dữ, năm ấy biến tất cả nguồn nước trong làng thành nước mặn. Chàng trai đi lên núi cao để tìm nước ngọt về cho dân làng, đi miết mà không tìm được. Nàng thương chàng, hoá phép thành dòng suối mát chảy ngầm trong đá. Đến khi chàng về thì không còn kịp nữa, chàng trai thương nhớ người yêu, khóc mãi rồi gục xuống trên bờ cát nóng. Mùa thu năm ấy, chỗ chàng trai nằm mọc lên một loài cây lạ. Hoa vàng rực, thân dây leo và có quả khi chín màu vàng, ngọt và mát. Người làng nói hương vị của loài bí đỏ này kết tinh từ vị ngọt của nước suối, có vị đậm đà của biển, của nước mắt đôi trai gái ấy mà thành. Bí trồng đất làng Tín, ngon không làng nào bì được.


Tín không về làng vội. Anh đi theo đường mòn ra phía biển. Tháng ba, biển lạnh đến u buồn. Trời vừa ngả chiều mà sương đã chùng xuống, rịn từng giọt trên lá như người đàn bà mau nước mắt. Tín bốc một nắm cát, cát trắng ẩm ướt, anh thấy mặn nơi đầu lưỡi. Chỗ gốc cây anh ngồi, nơi cao quá đầu người một chút, vết khắc vẫn còn, trăng trắng trên vỏ cây xù xì, thâm xỉn. Cái cây này quá thân thiết với Tín, thân thiết như bàn tay người con gái hồi nào mềm ấm, run rẩy trong tay anh...


***

Miên đang tưới nước cho ruộng bí đỏ đang độ sung sức nhất. Hoa vàng rực khắp cả cánh đồng và những ngọn non dài vươn lên trong nắng. Miên gánh hai thùng nước, nước từ cái roa nhỏ tơi như mưa nhảy trên lá, trên hoa rồi lẩn nhanh xuống cát. Chân Miên trắng lẳn như củ sắn vừa mới bóc thoăn thoắt bước giữa hai vồng bí nhịp nhàng, mỗi bước chân Miên làm những tay leo như chiếc lòxo xanh non rung lên nhè nhẹ.

Trời sâm sẩm tối, khi đom đóm đã bắt đầu túa ra từ các bụi cây, bay lập loè, Tín mới thấy Miên tấp tểnh đi về trên triền cát hâm hấp nóng. Cát lẫn vào các kẽ chân, bám vào lai quần còn có cả những bông cỏ may khô roong vì nắng. Lửa bắt đầu lật đật cháy, bóng hai mẹ con Miên đổ vào vách nhà. Mặt nàng ánh đỏ cô đơn. Chồng Miên chết biển đã ba năm rồi, khi con bé Mai vừa chớm ngậm dây rau của mẹ. Tín còn nhớ lần ấy, Miên xấp xoã chạy, chân lẫn trong cát, cỏ tranh cào bắp chân toé máu. Nàng không khóc được. Mắt lạnh băng không chớp. Tín thương lắm, Miên như cánh chuồn ngủ đông đến mụ mị cả người rồi sang xuân không còn đủ sức để tung cánh bay lên được nữa.


Thực ra, Tín đã thương Miên từ lâu lắm rồi, thương từ khi Miên còn son rỗi. Cả hai đã đôi lần hẹn hò nhau bên giếng Cát đầu làng, nơi dòng nước chảy từ khe đá ngọt lành tụ lại trên cát mà không bao giờ vơi cạn. Đó là vùng đất thiêng, là nơi hò hẹn của những đôi lứa yêu nhau, đã vốc nước uống trên tay nhau thì suốt đời không thể nào quên được. Ngày trước, Miên đã uống nước trên tay Tín. Hôm ấy, lần đầu tiên trong đời, Tín được cầm tay một người con gái. Bàn tay anh run run lồng vào áo, chạm vào vú nàng. Cặp vú tròn vổng, căng và ấm như ức con bồ câu chợt chấp chới vụt khỏi tay anh...


Miên phủ phục trên người anh, đôi mắt đen nhưng nhức, bàn tay bối rối hết gỡ ra rồi lại tết vào bím tóc lấm cỏ. Miên không muốn về nhà, về nhà bây giờ là đồng nghĩa với việc mất anh mãi mãi. Ngày mai đây, Miên phải lấy chồng. Hai gia đình đã có giao ước. Chồng Miên là thợ lặn. Anh khoẻ mạnh và rắn chắc như cây gỗ lim..., chỉ tiếc một điều, vẻ đẹp đó không làm Miên thổn thức. Tâm hồn Miên, trái tim Miên đã quá thân thuộc với mùi mồ hôi của Tín, thân thuộc đến mức có cảm tưởng như đã lẫn vào nhau...


Miên lấy chồng đúng vào ngày lập thu. Suốt đêm ấy, trời lắc rắc mưa nhưng sáng ra lại hưng hửng nắng. Miên ngồi như phỗng, chẳng buồn quan tâm cô thợ trang điểm vẽ những gì trên mặt mình... Miên nghĩ rồi đây, làm cách nào cô có thể trở thành người xa lạ với Tín. Tín sẽ không hiểu được vì sao người con gái đã uống nước suối trên bàn tay ram ráp to bè của mình rồi mà vẫn có thể thương được người khác. Nghĩ thế, thương Tín quá, Miên lại khóc. Lũ trẻ hàng xóm thích thú đu đưa nơi cửa sổ mà ngó vào ngưỡng mộ cô dâu đẹp. Đưa con ra đến cổng, bố mẹ Miên cười giòn, mặt đỏ như tô son vì ăn trầu, uống rượu. Chỉ có Miên là cứ vừa đi vừa khóc. Bao nhiêu nước mắt đã chảy từ đêm qua đến giờ, mắt húp lại, bàn chân bước trên ruộng bí đỏ hàng trăm lần, quen như da thịt mình mà sao Miên cứ vấp hoài, suýt ngã.


Riết rồi cũng quen, ngón tay Miên đã đeo nhẫn cưới lấp lánh rồi thì làm sao còn có thể gỡ ra được. Mà dẫu có thể gỡ bỏ được thì dù Miên có lặn sâu xuống đáy giếng Cát cũng không thể nào gột nổi vết ngấn nó để lại... Làm sao có thể là Miên như ngày xưa nữa. Biết vậy, Miên yên phận. Thôi không muốn giẫm chân lên lối cỏ quen, thôi không ra đồng trồng bí đỏ nữa, chỉ sợ tâm hồn như chiếc chăn mỏng có thể bị thổi lật tung. Miên ngồi nhà vá lưới thay chồng. Bàn tay khéo léo thắt từng nút cước trắng. Từng cụm, từng cụm treo đầy sân trông như mây vậy.


Từ hôm trời bắt đầu ngả rét, chiều nào Tín cũng ra ngồi trên bãi đá trước biển. Anh sợ những buổi chiều chập choạng trong nhà mình, cái khoảng thời gian tranh tối tranh sáng làm cho căn nhà vách đất bỗng nhiên rộng mênh mông. Sống một mình từ lâu rồi, nhưng không hiểu sao từ đợt Miên đi lấy chồng, Tín không muốn trở về nhà nữa. Mỗi lần đỏ lửa là mỗi lần Tín thấy bóng Miên rung rinh trên vách. Miên ngồi khâu áo, mắt nhìn anh, Miên vừa cười vừa cắn chỉ may, trông hiền như một người vợ thảo. Nghĩ thế, mặt Tín đỏ bừng, không phải vì hơi rượu nồng, không phải vì ánh lửa. Anh cảm thấy hơi nóng toát ra từ ngực, từ mắt, từ tóc. Người Tín đột nhiên ướt rịn mồ hôi, rân rân như kiến bò. Anh nằm ngửa trên nền gạch, mái hiên thủng lỗ chỗ lấp lánh ánh trăng đan qua kẽ lá rọi xuống người làm anh bừng tỉnh, miếng vá cồm cộm trên vai anh nhưng nhức. Từ trên mỏm đá này, anh có thể thấy Miên mỗi chiều vác lưới ướt, nước chảy xuống chân nàng từng dòng, lặng lẽ đi sau chồng một quãng. Đôi mắt u tối, sâu như biển, mọng nước.


Nhà Miên dọn ra cuối làng, chỗ con đường mòn ra biển. Chỗ con đường mọc đầy cỏ tranh và hàng rào trồng toàn xương rồng trổ bông trắng. Chồng Miên hiền lắm, thương vợ lắm. Hiền đến nỗi dù không yêu anh, Miên vẫn thấy thương thương lạ, nên mỗi lần vào trong xóm vô tình gặp Tín là Miên lại che nón đi thẳng.


Nhưng tránh mãi rồi cũng có lúc phải gặp nhau. Nào có ghét bỏ gì nhau mà quay lưng cho đành. Miên đã uống nước trên tay Tín rồi, dẫu không muốn, hình ảnh anh cũng không thể nào bay đi như bông gòn tháng sáu vậy. Đó là một buổi chiều, khi những con giơi đã bắt đầu rời tổ, chấp chới bay vạch nét đen giữa bầu trời. Miên ngồi ở mỏm đá, bó gối chờ chồng. Còn Tín, chờ ai, anh cũng không biết nữa. Hai người ngồi lặng bên nhau. Được một lúc, Miên thở dài "Từ mai, đừng ra đây ngồi nữa nhé!".


Tín nghe lời Miên nhưng cũng tối hôm ấy chồng Miên lỡ hẹn. Anh đã không trở về. Bàn tay Miên cào trên cát rớm máu. Miên không khóc, lặng im như đá suốt đêm cho đến khi thấy bụng quặn đau và cơn buồn nôn ập đến, Miên mới bừng tỉnh bước về nhà. Bàn tay đặt xuống vùng bụng đã bắt đầu tròn lẳn.


Ngày Miên sinh con bé Mai, bí đỏ chín vàng ngoài đồng. Cơ man nào là quả, chen chúc nhau dưới ruộng, bò lên cả mặt đường vụng về. Dây bí khô, xù như sợi dây thừng bở. Lũ em Miên, đứa lớn 17, đứa nhỏ lên 6 đang hì hục làm, mồ hôi vã ra như tắm. Tín cũng ra làm. Anh xếp những quả bí lên xe rồi chở về nhà, Tín đi ngược nắng, cả khuôn mặt lấp lánh đỏ. Bố mẹ Miên đang ngồi nghỉ trước hiên, anh lặng lẽ gật đầu chào rồi xếp những quả bí xuống nền đất phía tây cạnh phòng Miên đang nằm. Không hiểu sao, lúc ấy Tín lại ghé chân nhìn qua cửa sổ. Con bé đang bú, bàn tay Miên vỗ nhẹ lên lưng con. Đôi mắt nó đen nháy, anh nhìn không chớp mắt, cứ nghĩ con bé như vừa bước ra khỏi bức tranh thánh trong nhà thờ xứ nào đấy. Nhìn thấy cảnh ấy, mẹ Miên thở dài, tiếng thở nóng, nặng nhọc như người sắp cảm. Anh không nói gì, bàn chân chần chừ, định nói một câu đùa tếu táo nào đó với cụ nhưng lại không nghĩ ra câu gì. Anh vội ra ngõ.

** *


Sang tháng này, con bé Mai đã ba tuổi. Hết mùa lạnh rồi sang mùa nắng, Miên cứ gửi con ở nhà mà đi tìm chồng. Lũ em Miên thay nhau trông con cho chị. Miên lặn lội hết làng biển này đến làng biển khác để hỏi tin chồng. Trước lúc đi, anh chẳng để lại cho mẹ con nàng cái gì cả. Không một lời nhắn, không một miếng áo dạt vào. Đi là đi, quay lưng dứt tình như không vương vấn gì với nhau cả. Nước mắt Miên đã khô rồi, như lòng suối mùa cạn. Miên lại trồng bí đỏ. Mùa này, bí tràn xanh cả vùng cát trắng. Những trái non đang căng sữa, da chớm những vạch vàng bổ dọc trên vỏ quả xanh non. Bé Mai chỉ biết cười, đôi mắt ướt như mắt thỏ con. Miên ôm lấy con mà lắc: "Mai, con yêu mẹ không?". Con bé im lặng, chớp đôi mắt ướt, gật đầu. "Không được gật như thế - Miên oà khóc - Con phải gọi mẹ, gọi mẹ đi!". Không có tiếng trả lời, chỉ có gió thổi u ơ vào những bụi cây. Miên ngồi xoài giữa đất, đấm vào ngực mình. Trong suốt thời gian mang thai con, Miên đã không nói một lời. Có lẽ trời bắt tội Miên, bắt tội kẻ đã lấy chồng rồi mà vẫn nghĩ đến người đàn ông khác.


Hôm ấy, hai mẹ con Miên đang làm ở ruộng bí. Mùa thu hoạch, bí đỏ nằm lăn trên bờ vàng ruộm. Miên đang xếp bí lên xe bò. Con bò vàng đứng im, miệng nhểu nhảo nhai cỏ rối. Mai ngồi trong nón mẹ, hai tay cầm hai nhánh cỏ gà đánh vào nhau. Thấy Tín, đôi mắt thỏ ánh lên. Anh bế thốc con bé hôn lấy hôn để rồi đặt con bé ngồi lên lưng bò, lặng lẽ xếp bí cùng Miên. Miên không nhìn anh, nói như thở: "Anh làm thế, mẹ con tôi sẽ bỏ đi".


Miên tuột khỏi tay anh. Tín thấy mình trở nên thừa thãi. Anh bước chậm sau mẹ con Miên. Miên đi trước, bước chân thình thịch như trút xuống đất cả nghìn đá tảng. Anh bứt một đám cỏ lông chông thả lên trời. Anh biết, nếu anh không ra đi, nếu anh cứ mãi thế này, mẹ con Miên sẽ bỏ làng mà đi mất. Phiên chợ sẽ không còn người bán ngọn bí đỏ, sẽ không còn con bé mắt thỏ nhìn như hút hồn anh nữa... Miên thoáng vấp ngã rồi vội vàng bước tiếp. Bóng tối duềnh lên nhanh như nồi cơm đang sôi chưa kịp mở vung.


Tín không về nhà, anh cứ thế bước đi. Sau lưng anh là mẹ con Miên và bóng tối dâng đầy.


***


Tín ngồi trên mỏm đá khi đêm xuống. Sóng dập vào đá, bục, oàm oạp, rào rào từng đợt. Anh di chân vào đám vỏ hà bám chặt trên đá. Chắc ai đó vừa mới cạy hà lúc sáng sớm, vỏ trắng lấp lánh xà cừ. Nước dâng đến chân xâm xấp, anh mới trở về làng. Ngang qua ruộng bí đỏ. Bí còn non, lác đác hoa, dây chưa vươn ra khỏi luống còn trơ đất trống. Anh vào làng, ngay con đường mọc đầy cỏ tranh, lấp lánh sau hàng rào xương rồng có bóng một người con gái. Tín cảm thấy tim mình bị bóp chặt đến nghẹt thở. Đêm tối không rõ mặt người. Người đó đang rút quần áo đã khô trên dây phơi ngoài sân, trông thấy anh chợt sững lại, chân bước giật lùi rồi bất ngờ lao lại ôm chầm lấy anh. Tín chỉ kịp nghe: "Chú ơi, mẹ con đã...". Đó là con bé Mai ngày nào. Không có tiếng khóc, chỉ bờ vai mảnh như một nhành liễu run rẩy tựa vào anh...


Tín theo chân Mai vào nhà. Nhà tối thui, chỉ một ngọn nến nhỏ leo lét cháy ngay bàn lớn làm anh sững người. Bức ảnh của Miên đang cười. Anh gục ngã. Anh đã qua bao nhiêu đêm tối, sống trong bao nhiêu mộng tưởng mà kỷ niệm về đôi mắt đó, nụ cười đó không chút phai mờ, vậy mà giờ đây, tất cả ngay trước mắt anh mà lại nhoè đi. Anh ôm con bé vào lòng, nước mắt xót rát gương mặt sạm nắng...


Tín đi ra ruộng bí, mấy lần suýt ngã. Tín đi ra giếng làng vục nước uống đến căng người mà không thấy đôi chim bồ câu nào bay lên. Tín đi ra phía biển, thấy đầy vỏ hà trắng xoá. Anh nằm ngả xuống cát, bứt một bông cỏ ngậm lên miệng mà không thấy thần nông, chỉ thấy Miên đang tưới nước. Những quả bí to tròn. Miên đi giữa hai vồng bí, bàn chân Miên trắng lẳn như củ sắn vừa mới bóc...

Offline SUCSONG@  
#36 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:11:29(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Suối Miền Xía

Vũ Xuân Tửu

Lửa cháy lên. Đôi má Mùi Say đỏ căng như quả cà chua chín. Tôi giơ tay nhẹ ấp lên, cảm thấy nóng rực. Mùi Say nghiêng đầu tránh. Tôi trườn theo, xô nghiêng bên cạnh, không may đạp cái ngọc lăn tòm xuống suối. Tôi toan nhảy xuống vớt thì Mùi Say ngăn lại: “Thần suối Miền Xía không cho ăn rồi”.

Đội chiếu bóng của chúng tôi men theo bờ sông, bờ suối mà ngược đường lên thượng huyện. Chú ngựa ô lặc lè thồ máy móc, phông vải, xăng dầu.

Tiếng móng sắt lóc cóc gõ trên những phiến đá và in hằn dấu chữ “u” ngược trên những vệt đường mòn. Tôi phe phẩy mũ lá đi bên cạnh, thỉnh thoảng lại lấy cái rút dép bằng cây mai, mà Mùi Say tặng để tút lại quai cao su. Đội trưởng vắt khăn mặt bông lên cổ, thỉnh thoảng lại lau mồ hôi, lặng lẽ cất bước. Tay thuyết minh vểnh mỏ lên mà phì phèo điếu thuốc lá Tam Đảo bao bạc. Khói thuốc thơm thơm tỏa ra, át cả mùi mồ hôi ngựa. Cùng với khói thuốc, hắn còn tuôn ra cả thơ:

- Vậy, thuyết minh tôi có thơ, rằng: Ba người, một ngựa/ Ngược đường vùng cao/ Xin với đồng bào/ Ba cơm, một cỏ.

Đội trưởng nghe vậy phì cười. Hắn được đà phởn lên, khoa chân múa tay như gánh tuồng rong:

- Các bác Ủy ban cho báo ba suất cơm, một suất cỏ nhá.

Chúng tôi cười vang. Hình như chú ngựa ô cũng hiểu được tích trò có liên quan đến dạ dày của mình, nên cũng hý lên mừng rỡ. Cả đoàn lặng lẽ đi. Chốc chốc, tôi lại thò tay nắn nắn cái gương trong túi áo ngực, tưởng tượng cái cảnh Mùi Say soi gương và liếc nhìn mình, lòng như mê đi. Ngoài ngựa thồ máy móc, mỗi người chúng tôi còn khoác một balô đựng đủ thứ hàng, nào kim khâu, chỉ thêu, quần áo, giấy bút, muối, dầu... mà đồng bào các bản nhờ mua ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh huyện. Năm ngoái, khi tôi cầm cái maniven nhỏ xíu quay máy chiếu phim, thì cả bãi nhao nhao lên: “Quay làm rồi, quay làm rồi, ngồi xuống xem.”. Tay thuyết minh bật cười hơ hớ trong micrô, khiến đội trưởng phải hắng giọng nhắc nhở. Từ đó, tôi mang danh là anh “Quay làm”.

Vó ngựa lộp cộp ngược đường. Suối róc rách chảy xuôi. Bông gạo bay tỏa lên cả mũ áo và thồ hàng. Những ngôi nhà sàn của người Tày quần tụ dưới chân đồi, nom như đàn gà đang ấp ui bên nhau. Thấp thoáng trong mây là những ngôi nhà cheo leo trên vách núi của người Mông, nom như những tổ chim đại bàng, đầy vẻ kiêu hãnh. Đội chiếu bóng của chúng tôi hành quân đến bản người Dao Tiền trong chân núi. Dưới bản, có suối Miền Xía chảy qua. Có dễ nửa năm rồi, đội chiếu bóng của chúng tôi mới trở lại. Mùi Say liệu còn nhớ đến anh “Quay làm” hay là đã lấy chồng rồi.

Trời không mưa, mà nước suối Miền Xía lại lên to. Chúng tôi đang loay hoay định dỡ máy móc xuống thì bỗng thấy đoàn người Dao Tiền ào ra, hò reo chào đón và hăm hở khiêng máy móc về bản.

- Đội chiếu bóng về rồi.

- Anh “Quay làm” vào rồi.

Nhưng nghiêng ngó mãi, chẳng thấy Mùi Say đâu, tôi đâm ra hoang mang mà không dám hỏi. Tay thuyết minh oang oang như lệnh vỡ:

- Cô Mùi Say đâu nhỉ, sao không đón anh “Quay làm”?

Có tiếng đám con gái nhao nhao hỏi lại bằng tiếng Kinh chưa sõi:

- “Con ma quay làm” bắt mất hồn rồi.

Cả bọn tinh nghịch nhìn tôi, rồi phá lên cười, khoe những cái răng vàng lấp lóa trong nắng. Những tiếng “A lúi, dế” ngân dài, âm vang vào vách núi. Làm sao mà bọn này biết được bụng Mùi Say? Có khi cô ta kể, con gái chả giấu được chuyện tình. Nhưng tôi có kể cho ai đâu? Giấu vàng, giấu bạc thì được, chứ ai giấu được tình yêu.

Năm ngoái, cũng đêm chiếu phim xong, trưởng bản đãi cơm rượu, cả đội chiếu bóng say chỏng vó, đến nỗi sáng hôm sau tỉnh dậy, thấy nước ngập cả bãi chiếu phim, mấy can xăng trôi mất. Thế là chúng tôi đành nằm chờ, để nhờ dân quân cưỡi ngựa ra huyện mà thồ xăng vào, cho chạy máy nổ, mới “quay làm” được. Dòng suối chảy qua đây lạ lắm. Nguồn nước từ trong núi chảy ra, có hôm không mưa to, không gió lớn mà nước suối bất chợt tràn lai láng khắp đôi bờ.

Trong khi đợi xăng, chúng tôi đi gặt lúa giúp nhà trưởng bản. Trong bản, đến mùa vụ, người ta cũng “pụi công” cho nhau. Có khi cả bản cùng đến giúp một nhà, rồi gia chủ mổ lợn đãi cơm, cứ như đám cưới. Tôi cầm chiếc cào cỏ nương uốn bằng lưỡi dao, nom như hình bàn tay khum khum, thận trọng cào cào vào đám cỏ bên gốc lúa, như mèo bới bếp, khóm lúa nghiêng đi. Mùi Say cúi xuống, nín thở, vốc một nắm đất vun vào gốc lúa, cái lưng ong óng, cái cổ trắng ngần lấp dấp mồ hôi, trên gáy áo đính đến bảy đồng bạc tròn, có khắc hình sao tám cánh. Tôi đang lúng túng vì sự vụng về của mình, chưa biết hối lỗi thế nào, thì Mùi Say bảo:

- Đây là “hồn lúa”, đến vụ gặt, anh nhớ đến mà khiêng về.

Bọn thanh niên xôn xao:

- Anh “Quay làm” sắp thành ông chủ nương rồi!

Tôi bâng khuâng lặng nhìn Mùi Say. Mùi Say cũng đau đáu nhìn tôi, hàng cúc bạc như đôi vầng trăng khuyết cũng phập phồng theo nhịp thở dồn. Gió núi lay lay tấm khăn đội đầu có thêu ấn Bàn Vương. Trên sườn núi bên kia, thấp thoáng những bông hoa chuối rừng, đỏ thắm như môi đang hé cười.

Bụi đất bám đầy hai ống quần kaki của tôi, dày như mo nang và cũng phủ đầy sà cạp của Mùi Say như quết sơn. Cả đoàn “pụi công” ra về, mà chúng tôi còn đứng mãi để phủi quần và xà cạp, rồi lững thững xuống suối. Mùi Say thở dài, hỏi:

- Xăng về đầy, anh lại đi “quay làm” ở bản khác à?

Tôi gật đầu, tự dưng cũng cảm thấy buồn buồn. Nhìn những con bướm trắng cứ bay quẩn xung quanh.

Cái gấu váy in hình răng cưa đỉnh núi dập dờn trên mặt nước, khiến tôi xao xuyến. Mùi Say ngất ngây nhìn tôi, hát đố: “Cái đếm được lá cây là gió”. Tôi đáp: “Cái đong được anh là em”.

Mùi Say bẽn lẽn nhìn xuống dòng suối. Tôi khẽ nói: “Lần sau về, anh sẽ tặng em một dòng suối trong lòng bàn tay”.

Mùi Say ngơ ngác không hiểu. Tôi giơ tay lên, bắt chước con gái, yểu điệu vuốt tóc mà ngắm vào lòng bàn tay như soi gương. Mùi Say chợt hiểu và nhoẻn cười:

- Đến lúc ấy thì em già rồi, ai mà tìm làm gì?

Tôi cất lên một khúc hát của người Dao: Em bay lên trời, anh cũng đuổi/ Em trốn vào sao, anh cũng tìm... star

Tôi vốc nước toan uống, Mùi Say liền lội sấn tới ngăn lại:

- Tháng năm ta, không được uống nước lã, có thuồng luồng chết đấy.

- Nhưng dưới vùng xuôi người ta còn ăn hoa quả “diệt sâu bọ” cơ mà?

- Không biết đâu mà... Người già bảo thế.

Mùi Say rân rấn nước mắt. Tôi ôm lấy hai bàn tay ấm mềm đưa lên môi, không muốn buông ra.

Tự dưng, suối lại dâng nước lên cao ngập đến nửa váy chàm, những hình răng cưa đỉnh núi vật vờ dưới làn nước trong xanh.

- Suối lạ? - Thế mới gọi là suối Miền Xía! Miền xía là đàn bà.

*

Bản Dao Tiền nằm lưng đồi, nhà như cái tổ chim treo chênh vênh, nửa nền bên đồi là đất, nửa nền bên sườn đồi lát bằng cây gầy và ván gỗ. Trong nhà, lúc nào cũng tôi tối, âm ẩm. Hôm nay, trưởng bản đi cúng. Tôi ngồi ở nhà một mình, cảm thấy tênh tênh buồn, bèn lôi các hộp phim ra lau chùi cho sạch bụi. Mùi Say đang ngồi ngoài hè, kẹp hai hạt lúa vào ngón tay để tỉa lông anh, thấy tôi đang tở phim ra soi, cũng bèn ghé vào xem và hồn nhiên thốt lên: “Em thích cái anh bộ đội vác ống bắn, làm nổ tung cả hàng rào thép gai”.

Tôi cười cười giải thích: “Đấy là bộ đội đánh bộc phá, mở cửa cho bộ binh xông lên diệt đồn”.

Xem cuốn phim Liên Xô, Mùi Say lại ngây thơ hỏi:

- Thế mà ngựa phi, người chạy, chim bay được nhỉ? Tôi chỉ cho Mùi Say xem từng khuôn hình, đây là cảnh một chiến sĩ hồng quân đang ôm hôn một cô gái vùng núi Kápca. - Bé như ngón tay mà cũng biết “quay làm”...

Tôi cảm thấy hơi thở nồng ấm của Mùi Say bên tai, tiếng nói cũng thơm thơm, hình thêu dấu ấn Bàn Vương trên đầu khăn thõng vào tận cổ áo mình. Tôi quàng tay ôm lấy tấm lưng thon. Mùi Say nghiêng đầu, cái khăn rơi xuống, mớ tóc xổ ra như một dòng suối, chảy tràn qua lòng. Tôi luồn tay bế thốc lên, Mùi Say như lả đi. Tôi đi bảy bước đã vào gian trong và đặt Mùi Say lên giường. Mùi Say chợt tỉnh, thảng thốt kêu lên: “Không “quay làm” được đâu”.

- Ngoan nào...

- Phong tục đấy lố. Nói đến phong tục, tôi cũng vội lồm cồm bò dậy và lặng lẽ bước ra gian ngoài. Mùi Say đi theo, tấm tức khóc như bị đánh đòn, vừa vấn tóc, vừa kể lể: “Anh không biết “Liêu chòi ca” à?”. Tôi vẫn lặng thinh. Mùi Say liếc nhìn tôi một cái sắc lẻm, rồi khẽ nói: “Tháng này, kiêng về chuyện buồng nằm, không được đập mạnh”. “Người ta lấy nhau rồi cũng phải kiêng à?”. Mặt Mùi Say đỏ như gấc, lí nhí nói trong hơi thở: “Không biết đâu mà... Người già bảo thế”. Tôi đùa: “Tiếc của mình thì bỏ đói người ta thôi”.

Mùi Say nghẹn ngào, hai dòng nước mắt ứa tràn trên mắt như bị vu oan: “Anh chưa biết qua suối bản em rồi...”.

Trong nhà có treo cái trống tang bồng, tang trống thót lại, hai mặt trống loe ra, nom như hai cái bát chiết yêu khổng lồ, dính chôn vào nhau. Mùi Say ôm trống tang bồng, vỗ lung bung tùng. Tôi lấy cái kèn tổ sâu pí pò thổi theo.

Chiều. Tôi cầm vợt, lội ngược dòng suối đi xúc cá. Mùi Say đeo cái ngọc lủng liểng bên hông đi theo. Mỗi khi tôi xúc được con cá hay con tôm, lại đưa cho Mùi Say bỏ vào ngọc. Cứ thế, hai chúng tôi mê mải ngược suối, đến khi nước dâng lên ngập ngang ngực, chúng tôi mới trèo vội lên tảng đá ven đồi thì nước đã trắng mênh mông cả thung lũng.

- Phải chờ nước cạn thôi.

Nửa buổi ngâm nước, đến giờ, tự nhiên tôi cảm thấy đói cồn cào: “Chết đói...”. “Thì nướng cá ăn”. “Lửa?”. Mùi Say cười cười, mắt đong đưa: “Người làm nên lửa mà”.

Hình như thương tôi đang đói ngấu, Mùi Say rút con dao bên hông ra, chặt củi khô, chụm lại thành đống và xòe bàn tay ra trước mặt tôi, ra hiệu xin lửa. Tôi thuỗn mặt, cười trừ, rồi ra vẻ hiểu biết, thao thao nói: “Hay là đánh đá lấy lửa? Trong phim, người nguyên thủy hay làm thế”.

Tôi săm sắn nhặt về hai hòn đá và đập vào nhau, bột đá bay trắng cả vạt áo. Mùi Say tò mò nhìn “người nguyên thuỷ” đang lấy lửa. Tôi đập mạnh một cái, lửa chẳng thấy, lại có máu bật ra. Mùi Say kêu rú lên, ôm ấy bàn tay ứa máu của tôi, nghẹn ngào khóc: “Em đùa ác anh rồi. Em làm hại anh rồi”. Mùi Say quài tay ra sau lưng, vặt túm lá cho vào miệng, nín thở nhai và đắp cho tôi: “Để em nướng cá đền anh”. “Lửa?”.

Đến lúc này, Mùi Say mới gỡ khăn đầu, lấy ra bao diêm “Thống nhất” có vẽ hình con chim bồ câu trắng.

- Đàn bà đi rừng, lúc nào cũng phải có con dao với hòm diêm.

Lửa cháy lên. Đôi má Mùi Say đỏ căng như quả cà chua chín. Tôi giơ tay nhẹ ấp lên, cảm thấy nóng rực. Mùi Say nghiêng đầu tránh. Tôi trườn theo, xô nghiêng bên cạnh, không may đạp cái ngọc lăn tòm xuống suối. Tôi toan nhảy xuống vớt thì Mùi Say ngăn lại: “Thần suối Miền Xía không cho ăn rồi”.

Lúc này, tôi mới nhớ chiếc gương tròn trong túi áo ngực, liền rút ra. Mùi Say rưng rưng, không nói nên lời.

Đêm ấy, chúng tôi lấy tảng đá làm giường, trải lá chuối làm chiếu, lấy áo làm chăn, lấy khăn đội đầu có dấu ấn Bàn Vương làm gối, lấy lân tinh trong rừng với sao trời trên núi làm đèn, lấy tiếng suối chảy làm nhạc, lấy của riêng góp làm của chung...

- Đói bụng à?

- Rốn dính lưng rồi.

- Đàn ông ăn no hay bỏ đi.

Tôi đặt tay lên cái bụng thon thon, ấm nóng của Mùi Say, khẽ hỏi: “Có sợ không?”. “Sợ thì không làm, làm thì không sợ”.

Mùi Say cười xòa, dụi đầu vào nách tôi như một con mèo. Tôi vuốt món tóc mai rủ sau vành tai của Mùi Say mà bảo: “Anh sẽ tìm ngựa hồng thật đẹp, cho em cưỡi về thăm nhà anh”.

Mùi Say vuốt ve cánh tay rắn chắc chuyên “quay làm” của tôi và khẽ cất tiếng hát: Đói lòng phải gánh lúc xa/ Lấy chồng dù có đường xa quản gì?/ Mỏi chân ta cưỡi ngựa đi/ Gặp sông vạt áo ta thì bắc qua.star

Tôi kéo vạt áo đắp cho Mùi Say và hỏi:

- Có con đặt tên là gì?

- Không biết đâu...

- Người già bảo, con trai đặt là Quay Làm, con gái đặt là Miền Xía.

Biết là bị nhại, nhưng Mùi Say lại cười khúc khích, đôi bầu vú ấm nóng và rắn chắc ấp lên ngực tôi. Khi tiếng chim từ quy ngừng hót, nước suối vừa cạn, chúng tôi vơ những tầu lá chuối rách nát ném xuống suối, rồi đợi bình minh về bản.

*

Đội chiếu bóng tốn hết hai chai dầu hỏa, biên bản ghi hết tập giấy kẻ với nửa lọ mực Cửu Long để kiểm điểm định hình thức kỷ luật tôi. Tay thuyết minh ra vẻ lõi đời:

- Cậu tội gì mà nhận, biết con ai?

- Tớ yêu là để lấy. Tớ phải có trách nhiệm với cô ấy, kể cả khi cô ấy quay mặt đi.

- Thế thì vào bản mà phát nương. “Hồn lúa” vẫn đang chờ người tới khiêng đấy.

Cái tin Mùi Say ngủ đêm ngoài rừng, khiến cả bản Dao Tiền cũng loạn lên như bị thả ma Ngũ Hải. Các đôi vợ chồng không được “quay làm”, để thầy cúng hành lễ tìm thủ phạm...

- Thần suối Miền Xía lại mang người cho Kiềm Miền (người Dao) rồi.

- Thần suối hay là anh “Quay làm” đã làm được to cái bụng Mùi Say?

- em thấy nó đi xúc cá cùng nhau đấy.

- Phải báo cáo Ủy ban thôi.

Dân bản báo cáo ủy ban thật. Nhưng may có đội trưởng chiếu bóng ra tay. Anh ta thương tôi, nên đã lặn lội vào tận xã, tự nguyện xin bản cho nộp phạt một con lợn ba gang, mười chai rượu quốc doanh, một tút thuốc Tam Đảo bao bạc và lại còn xin với Ủy ban hành chính xã cho tôi tá túc.

*

Bây giờ, đội chiếu bóng cũ của chúng tôi đã “hết phim xin kính chào pì noọng (tiếng Tày nghĩa là: Anh em)”. Chú ngựa “xanh lá cây” cũng đã thành cao “ngựa bạch”. Thay vào là một đội chiếu phim lưu động. Thỉnh thoảng, nhìn thấy chiếc xe u-oát chạy vào bản với những thùng máy kim loại, phông chiếu bằng nhựa trắng, khiến tôi bồi hồi. Tay đội trưởng béo tốt như quan huyện, giơ bàn tay chuối mắn, có đeo cái nhẫn vàng to như hạt ngô răng ngựa, ra hiệu xin uống rượu: “Hợp tíu”. Còn tay “quay làm” mặt búng ra sữa, đi giày Italia, vênh mỏ lên ngậm điếu thuốc lá Vinataba, chạy sán đến Mùi Say bên quầy hàng, bả lả hỏi: “Miền Xía đi xúc cá à?”.

Mùi Say chột dạ, như con chim bị tên nhìn thấy làn cây cong, vừa liếc nhìn tôi và khẽ nói:

- Nó đi Công trường thủy điện Miền Xía rồi. Cho bác gửi mấy bao hàng nhá? Rồi có “bồi dưỡng”.

- Để cháu xin ý kiến “sếp”.

Mùi Say cười như đón cơm mới, mở sẵn hòm tôn đựng tiền để chuẩn bị lót tay cho lái xe. Tôi cũng dợm chân định ra bốc hàng. Bỗng, chiếc xe uoát đóng cửa đánh “rầm” một cái như đổ cầu thích. Tiếng máy đề kêu khèng khẹc như khỉ trong hang, rồi từ từ bò cầu bêtông và lao bổ lên vùng thượng huyện. Mùi Say chưng hửng như đang gánh đứt dậu, nhướng mắt nhìn theo đám bụi đường quẩn lên mù mịt sau xe và lúng túng lấy khăn lau tủ hàng. Tôi thở dài, rít một hơi thuốc lào rõ to, tưởng như tụt cả nõ điếu, tiếng kêu roanh roách như bắn súng liên thanh.

Cái hòm tôn đầy tiền lẻ vẫn mở tênh hênh. Tảng đá phồn thực trước nhà vẫn xếp đầy những bao hàng. Suối Miền Xía vẫn khi đầy, khi vơi lặng lẽ chảy dưới chân đồi, thỉnh thoảng lại thấy có những tầu lá chuối rách nát trôi xuôi...

Offline SUCSONG@  
#37 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:11:59(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Bạn cũ

Phạm Thị Điệp Giang

Mẹ tôi gọi điện tới văn phòng: "Có đứa nào tìm con đấy. Nó hỏi mẹ số di động, thấy mẹ có vẻ ngập ngừng không muốn cho, nó nói, cháu không làm hại gì Hương đâu bác. Tự dưng mẹ thấy lo lo".


Tôi điểm đi điểm lại trong óc, không đoán ra nổi đó là ai. Mọi thứ đang bình thường, rồi bỗng chốc, một ai đó tìm gặp bạn và lại nói "không làm hại gì cả", bạn sẽ nghĩ gì?


Mẹ bảo: "Nó nói giọng Sài Gòn, cũng thưa dạ tử tế lắm". Bố bảo: "Thưa dạ tử tế cũng chẳng nói lên điều gì. Cái con Lan hay đẩy xe cho ông Tường đấy, cũng thưa dạ tử tế lắm".


Bố đang nói đến chị Lan cave. Trước tôi vẫn ngỡ là con gái ông Tường. Ông Tường vừa nghỉ hưu sớm hồi đầu năm, do một vụ đột quỵ. Ông mới chuyển tới khu tập thể tôi ở chừng hai năm nay. Bình thường, ông cũng không quan hệ với ai. Sáng có ôtô con tới rước đi, chiều, có ôtô con chở về. Sau vụ đột quỵ, từ một con người đầy quyền lực ở cơ quan, ông trở thành kẻ tàn phế, ngày đợi người tới bón đủ ba bữa cơm vào miệng; sáng, chiều cũng phải có người đẩy xe lăn cho ra ngoài hít tí bụi đường. Chị Lan là người đó.


Mẹ tôi bảo: "Thì đã làm sao? Ông cứ thành kiến. Con người ta, sông có khúc, người có lúc. Cũng vì hoàn cảnh mà nó phải vậy". Bố đặt cốc bia xuống bàn: "Tốt đến mấy, cũng vẫn là cave".


Từ ngày ông Tường đổ bệnh, bà vợ ông lại sinh ra đổ đốn. Sáng bà nói bà đi tập thể dục thẩm mỹ với mấy bà bạn. Tối bà nói bà đi tập khiêu vũ cổ điển. Có buổi tối nhà tôi đang ăn cơm, nghe điện thoại réo. Hoá ra, ông Tường gọi điện sang kêu bố tôi "cấp cứu" cho vì từ sáng đến tối bị nhốt trong nhà không một hạt cơm (bố tôi là trưởng khu tập thể). Đó mới là bữa bố tôi biết con gái ông Tường đi nước ngoài từ lâu, nhà ông giờ chỉ có ba người: bà vợ, chị Lan và ông. Bố tôi hỏi: "Thế cái Lan đâu lại để ông chết đói thế này?". Ông Tường mới ngậm ngùi trả lời: "Nó cũng đâu phải người ở. Vợ tôi thuê nó về ngày đẩy tôi hai vòng quanh phố buổi sáng và chiều. Cơm bữa sáng, bữa trưa nó lo.


Chứ từ 6h là nó đi đứng đường rồi". Bố tôi giận quá mới bảo: "Tôi chả thấy nhà ai như nhà ông, lại thuê cả cave về hầu". Ông Tường xót xa: "Nói thực với ông, tôi ốm đau, bệnh tật thế này, nhiều người đến ở nhưng không chịu được. May mà đến cái Lan, không hiểu vì nó cần tiền quá, hay vì nó quen chịu khổ rồi, mới lo hết cả mấy thứ việc khó làm ấy mà chẳng kêu ca gì. Sau này, chúng tôi mới phát hiện ra nó là cave, lúc đầu cũng bực, nhưng sau nghĩ đi nghĩ lại, thấy chỉ có nó mới chịu tận tụy chăm sóc tôi. Ngay cả nhà tôi bây giờ, ông thấy đấy...".


Kết thúc cả bữa tối, tôi vẫn chịu không tài nào nghĩ ra ai đã gọi điện cho mình. Bố mẹ vừa dọn bàn, vừa dặn tôi phải cẩn thận. Thời buổi này, trăm nghìn thứ làm người ta phải lo lắng.


"Cháu không làm hại gì Hương đâu", quái lạ, tôi thầm nghĩ. Chẳng làm hại gì, chỉ cần một câu nói thôi, đã đủ làm người ta mất ngủ mấy đêm. Ơ văn phòng công ty, cách đây gần 2 tháng, chị Lý một tuần liền đi làm với đôi mắt sưng vù. Đến một hôm, không nén nổi nữa, vừa tới cửa đã khóc toáng lên. Mọi người chạy tới hỏi, mới lập cập kể, chẳng hiểu sao, cả tuần liên tục, cứ có người gọi điện tới số di động, nói chị cướp chồng người ta, rồi cứ cụt lủn một câu kết thúc "anh không cẩn thận, bà tạt axít cho hỏng đời anh".


Cả trưa hôm ấy, chẳng ai đi ăn, chỉ ngồi nghĩ cách giúp chị Lý. Ai cũng biết, chị Lý hiền lành, tính tình đôn hậu, từ xưa đến nay không thù oán ai. Chồng chị Lý đi công tác nước ngoài hơn một năm nay, chị Lý ở nhà với bố mẹ chồng, chăm sóc thằng bé con quanh năm đau ốm. Cuối cùng, anh Tứ bảo vệ mới nói, một mặt cứ báo công an, một mặt, đích thân anh Tứ hàng ngày sẽ lĩnh nhiệm vụ đưa đón chị Lý đi làm. Khi công an điều tra ra, mới biết, bà "Hoạn Thư" kia nhầm số chị Lý với người khác.


Đấy, chỉ là vài cái chuyện cỏn con, người thực việc thực xung quanh, đã đủ khiến ta mệt mỏi. Cứ thu mình lại, bảo toàn sự yên ổn, đó là lựa chọn tốt nhất thời bây giờ. Như đang yên đang lành thế này, lại có người gọi tới, nói "không làm hại gì đâu", hỏi có còn ăn, còn uống, còn làm việc, ngủ nghê được như thường?


Ba ngày sau, đang gà gật trong giờ ngủ trưa ở công ty, tôi nhận được tin nhắn: "em đây. Đứa bạn khó khăn được anh cho 2000 ăn cơm đây. Còn nhớ không?". Tôi nghĩ thầm, chắc là nó rồi. Nó - là cái đứa gọi điện cho mẹ tôi đây mà. Nhưng biết được là đứa nào chứ? Tôi nhắn lại: "em mà lại tốt thế sao? Mà anh là ai?".


Chẳng phải lâu la, ngay bữa trưa hôm sau, tôi đã ngồi đối diện với nó. Phụng. Phụng Lâm Đồng. Phụng Lâm Đồng cùng lớp đại học. Nó vẫn thế, chẳng thay đổi gì. Tóc vẫn cứ hoe hoe vàng, mắt nâu, da trắng, như lai Tây. Tôi cười cười: "anh để lại câu nhắn mà làm cả nhà em sợ. em cũng mất ngủ mấy ngày nay". Nó cười phá lên: "anh có làm gì mờ ám không mà phải sợ ai? em chỉ muốn gặp anh vì nhớ, vì lâu quá, thế thôi".


Phụng kể, bố mẹ Phụng đã bán nhà ở Lâm Đồng, cả nhà đi theo bảo lãnh của anh cả, sang Mỹ sống đã được gần năm nay. "Có mỗi mình em ở lại, hàng tháng sống nhờ trợ cấp của ông bà già", Phụng lại cười. "Hôm bữa, mở album lớp mình ra coi, tự dưng em nhớ anh quá trời. em nghĩ anh chẳng nhớ cái vụ 2000 đâu, nhưng mà em nhớ. Hôm bữa em đói quá, mà không còn xu dính túi, anh móc túi lấy ra 2000, anh bảo em mua gì mà ăn, em mua được một suất cơm trong ký túc xá, ăn kỳ hết mới thôi". "Trời ạ, anh nhớ mấy cái vụ cỏn con đó làm gì?". "Nhớ chứ mậy. em tự nhủ với bản thân em rồi, em phải nhớ hết, ai giúp đỡ em cái gì, em phải nhớ để mà sau này trả ơn". "Ơn với chả oán. anh cứ nghĩ vậy, rồi cả đời không bứt ra được cái vòng ơn - oán ấy, lại sẽ bị nó đè nặng trên vai, không làm được gì đâu". "anh nghĩ vậy sao?". "Ừ". "Nghĩ vậy đâu được mậy. Chứ như bây giờ, nhiều đứa lớp mình tới nhà em chơi, rồi tụi nó kêu tại sao ngày xưa bạn bè không dám nói nhau nhiều chuyện, không chịu nghe, chịu giúp nhau, để giờ phải khổ thế này".


Tôi cười: "anh nói chuyện gì nghe to tát thế? Học đại học thì cũng lớn lắm rồi, sao không ý thức được cuộc đời của mình?". Phụng buồn buồn nhìn tôi rồi thở dài: "Thế anh không biết chuyện cái Thi vào viện phụ sản phá thai hả? Hôm nọ, nó tới nhà em rồi khóc, nói ngày đó dại dột, mà sao khi em biết chuyện, em lại không can nó?". Tôi lắc lắc cốc càphê đã loãng, chỉ còn lại mảnh đá nhỏ trong veo: "Chuyện đó cũng thường thôi mà. Vả lại, quan tâm làm sao hết? Mà tự mình không biết giữ mình thì...". Phụng lắc đầu, tỏ vẻ không hài lòng. Hai bàn tay nó đan vào nhau, ôm lấy chiếc ly, rồi nó thở dài: "Nếu ai cũng như anh, không quan tâm gì chuyện thiên hạ, thì sẽ ra sao nhỉ? Cho dù, nhiều khi em nghĩ, anh cho em 2000 đồng dạo nọ, có khi cũng không phải quan tâm hay thương xót gì, mà chỉ vì lúc đó anh tiện thể mà thôi...".


Tôi im lặng. Nhưng không suy nghĩ. Tự dưng tôi có cảm giác buổi gặp gỡ này sao vô duyên quá. Chúng tôi có thân thiết gì đâu, gặp lại sau vài năm, lại có thể ngồi nói những chuyện riêng tư như thân thuộc lắm. Mà những chuyện này, Phụng nói với tôi để làm gì?


Quán càphê ngay sát công ty, đã quá giờ nghỉ trưa nên khách vắng dần. Phụng cũng đã uống hết ly nước cam trước mặt. Nhưng có vẻ nó chưa muốn về, nên tôi cũng ngại, đành ngồi lại tiếp chuyện. Phụng kể đang sống trong một căn hộ rộng rãi, chỉ có một mình. "Hôm nào anh lên em chơi. Chỗ em rộng rãi lắm, nhiều đứa lớp mình cũng khoái qua em. Mà em lại rảnh, nhiều lúc buồn thúi ruột".


Thì ra, đến cả nửa năm nay, nhà Phụng đã trở thành "trung tâm buôn chuyện" của lũ lớp tôi. Toàn là dân tỉnh lẻ. Có đứa đang chờ thuê nhà mới, cũng tới ở chỗ Phụng. Có đứa người yêu bỏ, bỏ người yêu, cũng tới tìm Phụng. Có đứa thì cãi nhau với chồng, dỗi bố mẹ, cũng ra nhà Phụng. Tôi bảo: "Tụi anh thế mà vui nhỉ? em thì lâu cũng chẳng liên hệ gì với lớp mình, mà việc cứ đầu tắt mặt tối, không khi nào dứt ra được". Phụng xoay xoay cái cần hút nước cam trong tay: "Tụi nó bảo giờ anh làm to, đâu có tiếp xúc với ai đâu?". "em á?", tôi cười lớn, "to nhỏ gì anh ơi? Cũng chỉ đủ sống thôi mà. Có điều, tính em từ xưa vẫn vậy, ít giao tiếp lắm mà". "Ừ, em thấy anh không thay đổi nhiều. em nhớ, anh thẳng tính, yêu ghét rõ ràng lắm. Cứ như em đây, giờ mà nói dối anh, anh có giận không?".


Tôi nhìn cô bé phục vụ, chưa vội trả lời. "Nói dối, nhưng mà không có hại cho anh ấy, thì anh có giận không?" - Phụng lặp lại câu hỏi. "Cũng còn tùy mức độ anh ạ! Nhưng mà nói chung là, em không thích nói dối". Phụng lại xoay xoay cái cần hút, giờ đã bị bóp bẹp, có vẻ như nó muốn nói gì đó với tôi, nhưng lại ngại ngần không dám mở miệng. Còn tôi, thì vờ như không hiểu ý. Cũng may, một cuộc gọi của công ty đã giúp tôi "rút êm".


Lúc chia tay, tôi đòi trả tiền. Phụng nói: "em giờ nhiều tiền lắm, để em trả", tôi cười "Quán này quán ruột của em rồi, anh có trả tiền, họ cũng chẳng nhận đâu". Rồi khi ra cửa, tôi còn kịp vẫy mấy hàng hoa rong, mua cho Phụng một túm hoa cúc trắng.


Nghe tôi kể chuyện Phụng, mẹ tôi nói: "Con cũng phải xem chừng. Bạn bè 3 - 4 năm biệt tăm tích, giờ gặp lại, mọi chuyện nghe ra cũng không rõ ràng". Bố dẫn chứng: "Như thằng bạn con Chi ấy, may là nó lừa có mấy trăm".


Chi là chị con bác cả tôi. Cũng một bữa có người bạn - từng là bạn rất thân hồi còn học cấp 3 - ghé qua. Nhiều năm không liên lạc gì, gặp lại bạn thân cũ thì mừng lắm. Chưa kịp vui thì cậu bạn mới nói, đi xe vượt đèn đỏ, bị công an giữ, đang cần gấp ít tiền nhưng không có, nhớ ra có Chi nhà ở gần đây, nên vào vay tạm, bữa nào có sẽ trả lại Chi. Chị Chi vui vẻ đưa cho cậu bạn ba trăm nghìn. Mấy ngày sau, gặp một người bạn cấp 3 khác tới cơ quan giao dịch, kể chuyện. Anh này mới cho biết, cậu kia giờ nghiện hút nặng, suốt ngày "giở bài" vay tiền để "đút" công an lấy xe, bạn bè cùng lớp, ai cũng "dính" cả, có lẽ vì chị Chi là bạn thân, nên đến lúc không còn ai để lừa nữa, cậu ấy mới tìm đến.


Tôi miên man nghĩ, mấy lần định nhắn tin cho Phụng hỏi địa chỉ rõ ràng của nó, lại thôi. Suy cho cùng, chúng tôi gặp nhau, cũng chỉ là dăm ba câu chuyện, chẳng mất mát gì. Mà giờ cứ gọi điện, nhắn tin cho nó, bỗng dưng tạo lại mối quan hệ cũ, lại bạn bạn bè bè, ơn ơn huệ huệ, biết đâu lại rách việc ra.


Hơn ba tháng sau, lớp trưởng lớp đại học gọi điện tới báo ngày họp lớp, kỷ niệm 4 năm ra trường. Tôi có chuyến công tác Sài Gòn, lại không thể có mặt. Chiều hôm sau, về tới Hà Nội, tôi gọi điện rủ Dương - người bạn thân nhất ở lớp - đi uống cà phê, tranh thủ xem những bức ảnh chụp buổi họp hôm trước của lớp. Tìm mãi mà không thấy hình của Phụng, tôi mới hỏi: "Sao không thấy cái Phụng Lâm Đồng anh nhỉ?". Dương nhìn tôi ngạc nhiên: "anh không biết à? Bọn nó bảo nó sang Nga rồi. Đi chui. Giờ chẳng có tin tức gì cả". "Nó sang Nga làm gì? Bố mẹ nó ở Mỹ gửi tiền về, nó sống đàng hoàng lắm mà". "Ai bảo anh vậy chứ?". "Nó. Nó tìm em hồi ba tháng trước. Còn đi ăn với nhau mà.


Nó nói nó sống trong căn hộ rộng rãi lắm, bọn lớp mình còn thường xuyên tới nó chơi mà". "Làm gì có chuyện đó. Bố mẹ nó mất lâu rồi anh ơi. Nó còn ông anh trai, đang làm ở một quán càphê ở Hà Nội này. Nó tốt nghiệp xong rồi không tìm được việc làm, cũng lang bạt mãi. Vừa rồi, nó cũng tìm đến bao nhiêu đứa lớp mình vay tiền, nói là chữa bệnh. Nhưng giờ thấy bảo đi Nga rồi, chắc là chẳng đứa nào hy vọng nó trả tiền nữa".


Tự dưng, tôi có cảm giác hụt hẫng. Có phải Phụng đã dối tôi - đứa bạn nó bảo mang ơn vì 2000 đồng cho một bữa đói? Tôi như thấy lại Phụng, tóc hoe hoe vàng, da trắng, mắt nâu. Tôi nhớ lại câu hỏi, lời nói, cái giọng ngọt ngào của nó. Hoá ra, (có vẻ như) tôi chẳng biết gì hết. May mắn, hay không may mắn, là Phụng đã không chọn tôi như cậu bạn thân của chị Chi đã "lừa" chị ấy? Tôi mở máy, bấm số của Phụng, chỉ nghe tiếng báo hiệu không liên lạc được, bất giác, tôi hỏi Dương: "anh cũng chỉ nghe nói thôi, phải không?".

Offline SUCSONG@  
#38 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:12:50(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Vụn sao

Phạm Ngọc Tiến

16h15'. Thôi chết, muộn mất rồi. Còn chưa đầy cây số nữa là đến bệnh viện, đường lại bị tắc. Thế nào cũng bị càu nhàu. Không biết hôm nay bác sĩ nào trực buồng nhỉ?

Buồn cười thật. Cuộc đời thì dài nhưng ai cũng cố tranh cướp từng phút. Dù thời gian chẳng phải bao giờ cũng quý. Xe các loại ùn ùn. Bụi rực lên quánh lại thành từng đám vàng xuộm. Tiết xuân mà nực như mùa hạ. Người đông như nêm. Phải choài chân xuống đường đẩy xe, nhích từng tấc, chợt thấy nóng rát nửa người dưới. Quay lại, bắt gặp mắt của một ông trẻ. Trẻ lắm. Hắn có cái nhìn đong đưa, táo tợn đến tội nghiệp. Nhìn dại lắm chú mình ạ. Dù sao còn hấp dẫn được các chú là còn tàm tạm. Hôm nọ tắm cùng với cái Hương ở khoa, nó bảo:

- Ngân vẫn đẹp. Nhưng là thứ đẹp lạnh. Có thứ lạnh vì kiêu sa. Còn Ngân...

Nó không nói hết. Ôi dào, hơi đâu mà nghĩ. Nóng hay lạnh cũng vẫn vậy. Quái, đã đến giờ tan tầm đâu mà đông thế không biết. A, hoá ra có đám rước dâu phía trước. Buồn cười thật, bây giờ người ta đón dâu vào bất kỳ lúc nào trong ngày. Họ tuân theo giờ tốt. Cứ như thể vì thế mọi tai ương có thể tránh khỏi. Cứ việc tin để mà bíu vào nhau đến tóc bạc, răng long. Còn tin được là còn sống được.
Thoát rồi, một kẽ rộng nứt ra. Đoàn xe cưới đã tạt vào ngõ. Tốt quá. Thốc ga lên. Gió cuốn ào ào. Cùng quá là bốn rưỡi nhận trực. Muộn nửa tiếng đồng hồ. Cứ việc càu nhàu.

- Bác sĩ. Bác sĩ Ngân!

Người đàn ông to roành, mặt quen quen chắn ngay cổng. Dừng xe. Trông quen, nhưng chẳng biết là
ai. Ông quen mặt cười. Cả cái cười cũng quen:

- Chào bác sĩ Ngân!

Vẫn không tài nào nhớ nổi. Thật chán mớ đời. Ông "to roành" loay hoay. Có vẻ ông muốn bắt tay nhưng không dám vì phép lịch sự.

- Bác sĩ không nhận ra tôi. Năm trước cháu Thuỳ nhà tôi được bác sĩ chữa khỏi viêm gan. Cháu đã thi đỗ đại học. Nhắc đến bác sĩ luôn. Tôi có cuốn sách mới in. Mang đến tặng bác sĩ. Tiện thể...
Nhớ ra rồi. Ông nhà thơ Hồng Tiến. Thảo nào thấy quen quen. Vì mặt ông hay hiện trên tivi đọc thơ, chứ không phải vì cái cô Thuỳ viêm gan nào đó. Ti tỉ bệnh nhân làm sao nhớ hết được. Cuốn thơ rất mỏng có tên là "Sao băng" và tít nhỏ ở dưới "Tập thơ tình chọn lọc". Bìa sách đẹp, giấy tốt nhưng chữ ông viết tặng quá xấu. Lại khó đọc. Khó hơn cả chữ bác sĩ kê đơn. Lạ nhỉ, tình mà như sao băng thì còn gì là tình. Nhưng cái tên gợi đấy chứ. Mặt ông cục mịch thế sao thơ lại có tên nho nhã đến vậy. Mặc kệ, cảm ơn nhé. Ông nhà thơ có vẻ tần ngần. Hay ông định tán tỉnh mình. Không phải. Điệu bộ trân trọng nhường kia không thể sàm sỡ được. Quả nhiên:

- Bác sĩ! Cháu Thuỳ muốn mời cô chủ nhật này đến chơi. Cháu liên hoan mừng sinh nhật.

Hay đáo để cái ông nhà thơ này. Vẫn không nhớ được mặt con bé.

- Cháu đỗ trường nào ạ?

- Cháu theo nghề của cô.

Suýt nữa thì bật cười. Lại một cô "từ mẫu" nữa xếp vào đội ngũ. Thì đến. Mặt ông nhà thơ rạng hẳn lên. Chắc ông phải yêu con lắm mới mừng được ra mặt thế kia. Ông đi rồi mới nhớ đã bao giờ biết nhà ông đâu. Khỉ thật, tội nghiệp cô bé viêm gan sẽ phải chờ đỏ cả mắt.

***

16h40'. Bác sĩ Tuấn đã gióng xe giữa sân. Đóng bộ nghiêm chỉnh đợi. Biết ngay mà. Cấm cẳn:

- Con gái, con đứa. Vô duyên. Giờ này mới vác mặt đến. Muộn gần một tiếng. Lỡ bu nó bữa bia rồi. Ế chồng là phải.

Bật cười:

- Bia ở đâu?

- Bệnh nhân mời.

- Ăn của cả bệnh nhân. Hèn thế.

- Ra viện rồi. Bố nó là "kễnh", giàu lắm. Một bữa bia nhằm nhò gì.

Ờ, nhằm nhè gì thật. Cái đầu xoăn vút đi. Học cùng khoá đấy. Hai con rồi. Chẳng biết hồi sinh viên tóc hắn có xoăn không nhỉ? Để ý đâu mà biết, vớ vẩn thật, xoăn tự nhiên hay sấy cũng ảnh hưởng gì đến mình. Đúng là vô duyên.

Phòng y tá ồn ào. Một đám quây tròn đánh tá lả. Quân trốn chồng, hết giờ vẫn không thèm về.

- em ù. Con zi tép. - Chút chút tiếng hôn gió - Đen tình, đỏ bạc. Căng với lão hâm suốt tuần nay.

- anh vơ hết tiền bồi dưỡng trực của các bà, căng cả năm vẫn lãi.

- Xì, em cho ván ù này. Thí nhé!

Cười như chợ vỡ. Đám tá lả túa ra. Mặt mũi đỏ gay. Phải học đánh mới được. Để tiêu diệt thời gian. Hoa bảo:

- Ngân đây rồi. Có một ông không già, không trẻ, không xấu, không đẹp, hỏi. em chỉ ra ngoài cổng. Nom mặt rõ quen.

Cái Hoa tủm tỉm. Rõ thật. Nó nghĩ mình có vấn đề với ông kia chắc. Người nó tròn ung ủng. Cả khoa Lây gọi nó là Hoa mít. Người tròn đến cái cười cũng tròn. Cả lòng tốt cũng tròn trịa, đầy đặn. Chắc lại vẫn ông "sao băng". Có điềm gì chăng? Hiền dô bảo:

- Lúc ba giờ chiều, Ngân có điện thoại. Tên là Yến, nhắn đi sinh nhật đứa nào đấy, bạn phổ thông. em cáu. Bảo dẹp hết cái trò nhăng nhít ấy đi, để yên cho nó lấy chồng. Bạn anh cười, tốt tính đấy.
Điều ấy thì khỏi phải bàn.

***

17h00. Tua một vòng. Các phòng bệnh vắng như chùa Bà Đanh. Mùa xuân, các bệnh lây hình như cũng nghỉ ngơi, chả bù cho mùa hè, giường bệnh xếp chật hành lang.Vắng lặng đi kèm với hoang hiu. Trước Tết, bệnh viện đã cho quét lại vôi tường. Lớp vôi vàng bợt, phủ vội, nom các khu nhà càng dài dại. Có khác gì ông già cũ kỹ khoác bộ cánh mới sặc sỡ. Sang xuân, lộc nảy tua tủa từ mấy cây bàng gầy guộc đứng ủ rũ trong sân. Một cơn gió nhỏ xoáy tít giữa đám lá non run rảy. Có tiếng la từ phòng cấp cứu:

- A, bác sĩ đây rồi.

Một ông béo nằm chật chiếc giường sắt. Bệnh nhân ỉa chảy.

- Bác sĩ. Tôi nằm từ chiều, được vài viên thuốc. Chẳng ai ngó ngàng gì cả. Tôi có bảo hiểm. Các người làm ăn thế này... Đừng đùa. - Nhác thấy mặt mình có vẻ nín nhịn, ông càng cao giọng - Tôi sẽ kiện. Đừng đùa.

Ông béo bị ngộ độc thức ăn. Ông la suốt buổi. Ông ỷ vào tấm thẻ bảo hiểm. Tốt thôi. Chẳng cần nó thì căn bệnh của ông cũng phải tống khứ bằng hết đám thiu thối nhồi nhét trong ruột.

Hết vòng tua, về phòng trực ngồi. Người sao thế này, cứ rấm ra rấm rứt. Sực nhớ đến quyển thơ. Hai sáu bài thơ, đọc một lèo. Chắc ông thi sĩ phải chắt cả đời yêu đương của mình mới lọc ra được ngần ấy. Cũng được, nhưng hiu hiu buồn. Đọc thơ lại nghĩ đến người. Thơ ông và người ông chẳng ăn nhập gì cả. Chẳng biết hồn ông diện mạo thế nào chứ mặt ông hơi bị khó coi. Hình như thơ ca là vậy.
Nó chỉ tìm những bộ dạng như thế để náu. Chắc nó không chịu được sự hào hoa phát tiết. Ngước mắt, trời sập tối từ bao giờ. Bộ chấn song gỉ trơ xương sắt. Sẽ phải giam mình hết đêm nay ở đây.

***

18h00. Thành "kem" ào vào. Gọi thế vì người gã đuồn đuỗn như một que kem. Thành là y tá. Đang trục trặc với vợ nên trực hộ người khác suốt. Gã đắm mình trong bệnh viện để thoát địa ngục gia đình. Gã bảo:

- Bà không đi ăn à? Cái gì thế này? Ôi, thơ tình. Đừng nghe chúng nó. Thơ thẩn chỉ đi lừa bọn nhẹ dạ cả tin thôi - Giọng gã hạ rất thấp - Lấy chồng đi Ngân ạ.

- Lấy ai?

- Ai cũng được. Đừng chọn. Thành chết vì chọn. Cứ lấy sẽ thấy mình rũ bỏ được nhiều thứ. Chẳng hạn....

Tay gã chỉ vào cuốn sách. Thoáng khó chịu.

- Cảm ơn nhé. Cái Tuyết đâu?

- Quên à, hôm nay thứ bảy, thằng bồ đến. Nó xin phép đi một lúc. Chắc là dẫn nhau đi ăn. Tình yêu bây giờ thế đấy. Thực chứ không mơ.

Đúng một cách tàn nhẫn. Chuyện của Công và mình cũng thế. Công sáng nhất trong đám người yêu cũ. Đám kia mờ nhạt, không nhắc. Chỉ còn Công như một ngôi sao. Lỡ làng vì thế chăng?

***

Ngược thời gian. Chỉ một chút thôi về Công. Hơn Ngân bảy tuổi. Cao ráo, khoẻ mạnh. Kỹ sư kinh tế. Vui tính và tốt bụng. Trai tỉnh lẻ về Hà Nội học và đậu lại. Thành phố vốn là ước mơ cháy bỏng của những người muốn rũ đi gốc rễ lầm lụi của mình. Công đã toại nguyện. Gặp Ngân, hẳn Công có thêm điều kiện để biến ước mơ kia thành sự thật. Nhưng không.

- Công này, em đã nhận quyết định phân công công tác. Một bệnh viện trung tâm thành phố.

- Chúc mừng Ngân.

- Mình quen nhau đã bốn năm. Em nghĩ kỹ rồi. Có lẽ anh nên rời bỏ căn hộ giường tầng.

- Anh sẽ ở đâu?

- Còn ở đâu nữa, chả bao lần...

Im lặng. Ngân vốn là con út của một gia đình công chức trung lưu. Công có thể ở rể mà không gặp bất cứ trở ngại gì. Tình yêu của họ đã được thử thách. Nhờ nhà vợ tuy chẳng mấy vinh nhưng lại chả chán vạn lần hơn chui rúc ở xó tập thể cơ quan xếp chật giường tầng. Vẫn im lặng.

Kết cục, Công từ chối cơ hội không phải ai cũng may mắn có được kia. Từ chối bằng một khát vọng chính đáng. Mặc nhiên đó là hành động của lòng tự trọng. Tốt thôi, cái đó là phẩm cách mà thời hiện đại ngày một hiếm dần. Nhưng Ngân biết rõ rằng đi quá giới hạn của kiêu hãnh, Công đã bị sa vào vòng quẩn của mặc cảm.

Công biến đi từ dạo ấy, hết vào Nam lại ra Bắc. Công hăm hở cố tạo cơ hội cho mình. Ngân biết sẽ mất Công. Dù vậy cô vẫn mong đợi gặp Công. Để làm gì, Ngân không biết nữa. Thời gian trôi, thấm thoắt những mùa xuân tươi xanh đã nối nhau đi không trở lại.

***

19h20'. Cái Tuyết về. Mặt mũi phởn phơ. Chẳng lẽ tình yêu như chiếc bánh mì mình đang nhai. Chắc nó đã nhai xong suất của nó. Không đúng! Nghĩ thế phải tội chết. Tuyết ngáp:

- Em cho thuốc xong rồi. Không có gì đặc biệt. Mỗi ông béo rên la, em vừa nạt, im thít. Em ngủ một lát, có việc, chị gọi.

Ngáy ngay. Tuyết, hăm nhăm tuổi, y tá trung cấp. Tuổi nó, mình còn vô tư hơn. Một cô, một cậu sinh viên ríu rít đi vào. Cả hai đều đẹp. Bỗng dưng cáu:

- Đi đâu từ tối? Tôi sẽ không nhận xét kết quả đâu. Thôi, đi xuống buồng làm bệnh án.

Hai cái bóng trắng khép nép khuất sau cửa. Thấy hối. Vô lý quá. Đừng giận chị nhé. Chuông điện thoại reng.

- A lô, khoa Lây đây.

- Khoa Lây à, nhầm máy, tôi xin lỗi.

Sập mạnh. Giọng đàn ông quá nhũn nhặn. Chán quá. Một sự nhầm lẫn chẳng ra gì. Vô lý, mình thì có ai gọi. Nhẽ ra nhiều đấy. Nhưng sao chán bọn họ đến thế. Hệt như một lũ gà khoe lông và rỉa cánh. Có tiếng ồn ào. Cô sinh viên hớt hải:

- Bác sĩ trực, có ca cấp cứu.

***

22h35'. Ổn rồi. Thằng bé đã thiêm thiếp ngủ. Gương mặt non tơ bắt đầu rạng lên ánh hồng. Khổ, ba tuổi biết gì. Gần hai ngày đi ngoài tuồn tuột. Mất nước trầm trọng, chậm chút nữa thì nguy. Bây giờ mới nhìn kỹ mẹ nó. Còn trẻ, phốp pháp. Kiểu dáng giống chủ sạp hàng ngoài chợ. Ngót chục món trang sức bằng vàng phân bổ khắp người minh chứng cho nhận định này. Bảo:

- Chị nuôi con phải cẩn thận. May đưa vào viện kịp.

Đợi có thế, chị ta oà lên:

- Vâng, đội ơn bác sĩ. Khốn nạn thân tôi, suốt ngày phơi mặt ngoài chợ. Chồng ơi là chồng, con ơi là con...

Nãy giờ anh chồng thấp thoáng ngoài cửa không dám vào. Chợt nhìn thấy bên mép tấm ga đắp con mèo bằng nhựa. Xinh quá. Thằng cu con lả thế vẫn ôm đồ chơi của nó vào bệnh viện. Con mèo nhựa vàng, mắt chẫu sơn xanh. Ngày xưa, một lần sinh nhật mình, Công cũng tặng con mèo hệt thế này.

Ôi mèo, tướng tinh của mình. Con mèo Ngân sinh năm Mão. anh đã sống mấy mươi năm. Không biết bây giờ Công ở đâu? Chỉ một chút mặc cảm nghèo hèn mà Công chạy trốn, để Ngân chơ vơ như con mèo nhựa bây giờ vương ngoài tấm đắp. Giật bắn mình vì tiếng người đàn bà gắt gỏng.

- Khốn nạn chưa kìa, chồng với con. Có vào trông nó để con này chợp mắt, mai còn kiếm miếng đút miệng hay không?

Giá không có khẩu trang đã bật kêu thành tiếng. Người đàn ông hấp hoảng chạy vào chính là Công. Anh ta đấy, trong một tư thế khép nép đáng phẫn nộ trước người vợ uy quyền. Mắt con mèo nhựa vàng bằng hai chấm sơn, chợt tuyệt vọng long lên xanh lè.

***

Không rõ giờ. Khuya. Sân thượng bệnh viện ướt đẫm sương. Có cảm giác bầu trời gần lắm, giơ tay là với được. Mùa xuân nhưng trời quang đáng ngờ. Gió thổi mạnh, sao dày đặc dạt cả về phía trời nam. Chợt thấy lạnh. Sao nhấp nháy, li ti. Không buồn, không vui nhưng vẫn oán ông nhà thơ. Người rấm rứt quá. Cuốn "sao băng" như là điềm gở. Chợt một ngôi sao đổi ngôi toé thành vệt sáng dài. Ngày xưa, Công bảo, mỗi người chỉ có một tình yêu. Mỗi tình yêu là một ngôi sao.

Lại một ngôi sao nữa toé ra. Vỡ thành ngàn, vạn mảnh. Chắc gì những thiên thạch nhỏ bé kia sẽ chết. Nó vật vờ đâu đó trong thiên hà. Tiếng của Thành "kem":

- Không biết bà Ngân biến đâu nhỉ?

Tiếng Thành khê đặc. Chắc gã vừa trút món nợ gia đình vào rượu. Tội nghiệp cho con bé viêm gan. Chủ nhật này nó sẽ đỏ mắt vì chờ đợi. Phải chi, mắt nó xanh thì tốt bao nhiêu. Nhưng biết làm sao được. Vẫn khối người chờ đợi, mắt không đỏ bao giờ.

Offline SUCSONG@  
#39 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:13:28(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Chiếc nhẫn ngọc

Trần Thùy Mai

Đó là chiếc nhẫn có số phận kỳ lạ mà vì ngốc nghếch hoặc tham lam, người ta đã luôn ngộ nhận về giá trị của nó. Một người đàn bà đã phải trả cho nó cái giá quá đắt, và một người đàn ông cũng suýt vì nó mà đánh mất hạnh phúc của mình.

Tuấn bước lên sân thượng khách sạn. Người đàn bà đang ngồi chờ anh. "Tên tôi là Manuelle, người ta thường gọi là Manu".

Làm việc với khách sạn hơn sáu năm, Tuấn đủ kinh nghiệm trong ngành du lịch để nhận biết khá nhanh về nhân thân của người khách lạ. Người đàn bà này lịch lãm, quen tiếp xúc với nhiều người. Tên tuổi như vậy, nói tiếng Pháp chuẩn như vậy, nhất định là dân Pháp. Nhưng mái tóc đen như thế thì người Pháp không có. Cũng không phải người Việt, người Việt không có đôi mắt này. Đôi mắt tỏa sáng huyền bí như mắt người Ấn hay người Mã Lai... Tuấn phân vân, nhưng anh không hỏi. Du khách đến khách sạn giống như đoàn lữ hành qua sa mạc, đến và đi với gió, họ thường không thích lưu lại dấu chân mình trên cát.

"Các bạn gái tôi giới thiệu anh. Họ bảo anh dễ mến lắm. Tôi đến đây chỉ có một mình".

Tuấn hiểu. Anh là một nhân viên khách sạn đẹp trai và khá khôn lanh. Nhiều nữ du khách đã trở nên thân thiết với anh sau một lần lưu trú. Anh luôn tìm hết cách để chiều lòng họ, và anh chẳng thiệt thòi gì. Nhưng hôm nay e phải chối từ: Mai là lễ ăn hỏi của anh. Sáng nay anh đã xin nghỉ, nhưng đúng một phút trước khi rời khách sạn thì nhận được tấm danh thiếp của người đàn bà lạ.

Tuấn nghĩ cách từ chối mà không phải nhắc đến vị hôn thê của mình. Anh là người sành tâm lý phụ nữ. Đàn bà, họ luôn muốn độc tôn, dù là trong mắt một người đàn ông xa lạ. Vả lại, Festival còn kéo dài đến hết tuần, mà đến ngày kia anh đã có thời gian rồi. "Thưa bà...".

Nhưng cũng đúng lúc đó người đàn bà mở miệng nói, nên theo phép lịch sự anh phải nhường lời cho phụ nữ. "Hôm nay tôi muốn đi một chuyến về phía tây. Các bạn tôi bảo anh có xe riêng rất tốt, phải không?".

Đúng vậy, anh đã mua xe để thêm thuận lợi trong công việc, cũng vì chiếc xe mà hiện nay anh còn mắc nợ ít nhiều. Anh rất muốn nhận chuyến đi này, nhưng không thể được. Liên rất hay hờn, vẫn thường giận dỗi bảo anh chỉ biết tham công tiếc việc, chẳng dành đủ thời giờ cho nàng. Anh đã lao đao nhiều lần suýt vuột mất cô bạn gái xinh xắn bé nhỏ, nếu bà mẹ nàng không luôn miệng bênh vực và tán dương ông con rể tương lai.

"Tôi sẽ không quên công anh". Manu nói, bà cử động hai bàn tay đang nắm lấy nhau trên mặt bàn, một cử động hết sức uyển chuyển làm nổi bật lên chiếc nhẫn ngọc xanh biếc. Theo Tuấn, cử chỉ ấy mang một ngụ ý khá rõ rệt. Thấy ánh mắt chàng trai, Manu hỏi rất tự nhiên:

- Anh có thấy chiếc nhẫn này đẹp không?

Tuấn gật đầu. "Ngọc lục bảo phải không?". Anh hỏi. Người đàn bà im lặng mỉm cười. Tuấn buột miệng:

- Phải đến ba nghìn đô-la?

Nói xong Tuấn chợt thấy ngượng, anh nhận ra mình đã có câu nói hớ hênh, không thanh lịch chút nào. Thật tầm thường, mình đã mở miệng hỏi giá tiền trong khi lẽ ra phải tán dương vẻ đẹp của nó. May sao Manu không có vẻ gì phản cảm với anh, bà ta chỉ vỗ vai chàng thanh niên với một vẻ bao dung:

- Anh sành giá cả như thế, nhất định biết rất rõ các thứ ngọc quý.

Tuấn lấy lại tự tin. Không biết tự lúc nào, anh đã quên mất lời cáo từ.

Tuấn cho xe lướt rất êm. Manu ngồi bên cạnh, cặp mắt sâu và đen nhìn đăm đăm về phía núi xanh trước mặt.

Điện thoại di động trong túi Tuấn rung nhẹ. Chắc chắn là Liên. Tuấn hơi bối rối, nhưng rồi anh quyết định để nó rung thoải mái cho tới khi tắt. Anh nhủ thầm sẽ cố xong mọi việc với Manu để về sớm, còn lý do để giải thích với Liên thì khi nào cũng sẵn có trong đầu anh, ngại gì. Tự thu xếp với mình như vậy, anh thấy yên tâm, nhận ra Manu đang hướng anh đi theo con đường dẫn lên A Lưới. Không sao, đường này anh cũng đã đưa du khách đi nhiều lần, khách nước ngoài rất thích du ngoạn những vùng đất hẹp trong sơn ao. "Chị muốn xem những vùng có người dân tộc phải không? Mình phải kịp về trước khi trời tối, ban đêm ở vùng cao không an toàn đâu. Tôi đã nhận trách nhiệm với khách sạn phải đưa chị đi về an toàn".

Anh đã nói dối, thói quen nói dối trơn tru không cần suy nghĩ. Đêm vùng cao ở đây chẳng có gì nguy hiểm cả, chỉ có điều anh đang cần về sớm. Manu xem chừng chẳng bận tâm mấy đến lời hăm dọa của anh, bà ta bảo:

- Tôi có bản đồ đây, tôi sẽ chỉ đường cho anh - Thấy Tuấn chưng hửng, Manu mỉm cười giải thích: Tôi là biên đạo múa ở Nhà Hát Trẻ thành phố S... Tôi đang dựng một vũ kịch trong đó nhân vật chính là cô bé Kalang - Nga, người Tà Ôi.

- Sao lại người Tà Ôi?

- Đúng vậy. Ở Pháp không có dân tộc ít người. Những đề tài về các dân tộc miền núi làm người ta quan tâm.

- Làm sao chị biết về người Tà Ôi, từ tít bên kia?
Manu cười, đưa bàn tay có chiếc nhẫn, lật cuốn sổ có một trang ghi chú những con đường núi với những cái tên Tà Ôi đã phiên âm. Viên ngọc trên bàn tay phản chiếu ánh mặt trời, xanh biếc. "Có nhiều cách. Thư viện. Cộng tác viên. Và cả trí tưởng tượng nữa".

Manu quây kính xe lên, lập tức phía bên kia Tuấn cũng quây kín cửa lại cho khỏi gió. Người đàn bà cởi áo khoác. Đôi vai trần nâu mịn hiện ra trước mắt anh trên chiếc áo hai dây. Từ đôi vai anh có thể tưởng tượng ra cơ thể mảnh mai lạ thường mà phụ nữ trung niên thường không có. Có cảm giác như vừa uống một ly bia, anh bốc lên, dận ga cho xe lao rất nhanh trên đường đèo. Manu đặt một tay lên vai anh, như muốn bảo anh chậm lại. Hơi ấm từ bàn tay xuyên qua lần vải áo. Điện thoại đúng lúc ấy lại rung khẽ trong túi anh. Những hồi rung kéo dài, nối tiếp nhau, dai dẳng, như muốn níu giữ anh lại. Nhưng xe đã tiến lên dốc đèo Aco, ra ngoài vùng phủ sóng.

* * *

Sau gần sáu mươi cây số chạy xe và hơn một giờ đi bộ, họ tới nhà mộ Tà Ôi giữa thung lũng hoang vắng. Tuấn phải rút dao nhíp cắt bớt những nùi dây leo quấn quýt bít lối đi để đưa Manu vào đến tận nơi.

Mặt trời nghiêng xuống chiếu vào cây cột lớn trong nhà mồ, rọi những tia dữ dội lên hình mặt người khắc trên cột. Phía sau cột cái, một dãy quan tài nằm cạnh nhau, mỗi quan tài là một thân cây đẽo vuông vức. Manu đến chỗ quan tài lớn nhất, đặt lên đấy bó hoa hồng trắng. Bó hoa đã hơi ủ rũ sau nửa ngày đường, nhưng vẫn rất thơm, thơm ngát.

Hoa hồng trắng của một người phương Tây nơi nhà mộ hoang vu này... Tuấn thầm nghĩ. Manu lấy ra một gói lớn, bà ta trầm tư một lát rồi mở gói, đặt lên nắp quan tài những nén bạc lớn. Tuấn đếm được tất cả ba mươi nén bạc.

Họ liên quan gì đến nhau, Manu và những người chết ở đây? Tuấn nghĩ thầm nhưng không dám hỏi. Manu đã xăm xăm trở ra giữa hai bờ cỏ tranh. Tuấn chăm chú nhìn vào mái tóc quăn cuốn cao trên cái ót đầy đặn. Anh chăm chú quan sát vẻ mạnh mẽ uyển chuyển kỳ lạ trong từng cử chỉ của người đàn bà: Vẻ bí ẩn bao quanh bà ta giống như một thứ men rượu, kích thích và gieo vào anh một sự hưng phấn mãnh liệt.

Trời đã sẫm chiều. Khi ra đến chỗ để xe hơi, Manu ngồi bệt xuống vệ cỏ. Tuấn trải tờ báo ra, bày mấy thức ăn khô có sẵn trong xe. Manu uể oải nhai mẩu bánh mì với một lát xúc xích. Phần Tuấn đã đói cồn cào, anh ngốn hết những thứ đã mang theo. "Manu, mình về thôi". Manu nhìn lên, mặt tái xanh. Lúc đó Tuấn mới nhận ra dưới vẻ mạnh mẽ và tự kiềm chế, người đàn bà đang xúc động cực độ. Anh hốt hoảng: "Manu, chị cần phải nghỉ một chút. Tôi đưa chị vào làng nhé?". Nghe câu nói của anh, Manu giật mình: "Khỏi cần, tôi không vào đâu, trên xe được rồi".

Tuấn lật ghế xuống, tạo thành hai cái giường song song. Manu ngả lưng xuống băng ghế sau, vẻ như kiệt sức. Tuấn giúp Manu kê đầu lại cho ngay ngắn, cởi giúp bà ta đôi giày đang bó chặt lấy cổ chân. Anh do dự không biết có nên giúp Manu nới những cái móc, cái cúc tế nhị hơn không. Rồi có lẽ được cảnh hoang vắng chung quanh khuyến khích, anh ôm choàng lấy Manu, ngực sát vào ngực người đàn bà. Hai bàn tay anh vuốt từ dưới gáy đến đôi vai, rồi dọc theo lưng, bằng cách đó anh làm cho người đàn bà thư giãn và tỉnh táo lại sau cơn xúc động. Mặt bà ta hồng lên, mắt mở. Tuấn cúi xuống, những lọn tóc rũ trước trán khiến khuôn mặt anh mang một vẻ buông thả mê muội. "Xem kìa, Tuấn, sao vậy?". Manu hỏi. Tuấn nói, không quanh co:

- Tôi thích chị.

Manu ngồi dậy, nói như hụt hơi:

- Cảm ơn, nhưng tôi không thể... Tôi lại có cảm tưởng như ở trong lễ pok ruông. Tôi sợ đến không thở được.

Tuấn bóp trán Manu, vầng trán giờ đây lạnh buốt, anh phải cố cho hơi ấm trong tay anh thấm vào.

"Đừng sợ, chị sẽ dễ chịu lại ngay thôi mà".

Trong tay anh, mạch cổ tay của Manu dần đập đều trở lại. Tuấn lấy tấm chăn có sẵn trong xe phủ lên người Manu. "Anh muốn biết pok ruông là gì phải không? Cứ ngồi với tôi một chút, tôi sẽ kể cho anh nghe".

Tuấn là người phóng túng, nhưng khi cần anh biết kiềm chế bản thân. Thôi không quấy Manu nữa, anh ngoan ngoãn ngồi bên bà ta trong tấm chăn ấm. Bên ngoài, sương xuống ướt ròng trên kính xe, chung quanh trời đất tối mịt thành một khối đen vô tận.

* * *

Kalang Nga vừa đi vừa thút thít khóc. Lúa đã về nhà rồi, chỉ còn nửa con trăng nữa là đến Tết. Tế thần Yang Tro xong, cả nhà sẽ được ăn cơm mới. Nhưng năm nay thì không được rồi. Nhà Aviet đã giục đón dâu, chỉ năm sáu bữa nữa là phải ra đi.
Kalang Nga mười hai tuổi. Cả bản làng khen cô đẹp, phơi phới như lúa đầu mùa. Những người già nói Kalang Nga giống mẹ. Mẹ chỉ còn là người đàn bà đen đúa, gầy còm sau nhiều năm vất vả. Vậy mà ngày còn trẻ mẹ Kalang Nga nổi tiếng đẹp nhất vùng, có tài dệt thổ cẩm rất khéo, cha Kalang Nga đã phải đi vay ở nhà Aviet để nạp tiền "văn" - tiền thách cưới - mới đủ. Vì món nợ ấy, Kalang Nga vừa lọt lòng đã được chủ nợ đặt cọc. Bây giờ, mẹ Kalang Nga đã chuẩn bị cho con váy, áo và chiếu nằm. Kalang Nga bứt tóc van vỉ. "Cho con ăn cơm mới ở nhà ". Mẹ Kalang Nga lắc đầu:

- Không được đâu. Nhà trai đòi đón dâu từ hồi con năm tuổi. Khất nhiều nhiều rồi, không khất thêm được đâu.

Cha Kalang Nga thì trừng mắt bảo con:

- anh làm dâu nhà Aviet là có phước lắm rồi, làm dâu nhà sang, được đeo dây Katteng ngàn sợi, không hơn ở nhà khó quanh năm ăn củ nưa à.
Người lớn đã nói vậy, Kalang Nga chỉ còn biết nuốt nước mắt thôi. Bên nhà Aviet đã nối thêm gian mới. Aviet Khất giàu có, nhiều vợ, nhiều con cháu, nhà dài đến chín gian. Kalang Nga chưa đến gần bao giờ, nhưng cô bé sợ ông ta, sợ lắm. Aviet Khất là người thợ săn hùng mạnh và cũng rất hung dữ. Một lần khi lên tám tuổi, Kalang Nga đã nhìn thấy người vợ thứ ba nhà Aviet bị xử tội. Người đàn bà bị buộc vào sau ngựa và bị kéo lê đi khắp xóm, thân hình đầy máu.

Một hôm trước ngày đón dâu, cô bé đã chạy đến nhà Pasieng Rêm, người lái buôn thường về xuôi buôn bán sau mùa gặt. "Bác Rêm, cháu có nhiều đồ quý, bác bán giùm cháu được không?" Cô bé vừa hổn hển nói vừa quỳ xuống, buông vạt váy mà cô đang lật lên, khư khư bụm lấy trước bụng. Một mớ hòn cuội trong, nhẵn bóng đổ ra trên sàn. Đó là tất thảy những viên cuội đẹp nhất mà cô bé Kalang Nga nhặt được trong những lần đi cõng nước ngoài suối trong suốt năm năm.

Pasieng Rêm ngạc nhiên. "anh muốn gì?". Kalang Nga năn nỉ:

- Cháu nghe nói bác về xuôi, đem vật quý của rừng về đổi gạo, muối, bạc. Cháu muốn nhờ bác đổi những thứ này lấy bạc.

- Những hòn cuội, người Kinh họ không thích, anh cất đi mà chơi. Vả lại mùa này ta không đi buôn, đã có ông bạn người Kinh đây đem saphia, nồi đồng, thanh la, muối lên cho ta rồi.

Hy vọng tiêu tan, Kalang Nga rã rời quỳ phục trên sàn, không đứng dậy nổi. Cô không biết rằng trong tư thế ấy trông cô rất đẹp, tấm zèng ngắn quàng từ ngực xuống đầu gối co lên để lộ đôi chân tròn và bóng mượt như thân chuối non. Nước mắt cô chảy từ cằm xuống vành ngực bầu bĩnh sau đường hoa văn căng tròn trên tấm thổ cẩm. Người lái buôn miền xuôi ngồi bên gùi hàng nhìn cô đăm đăm...
Khi Kalang Nga lượm lại những viên sỏi, buồn bã xuống đến chân cầu thang, một bàn tay giữ bờ vai cô lại.

"Tội nghiệp em. Em đừng sợ, tôi thương em lắm".
Trong bóng tối, trên bàn tay người đàn ông hiện ra một vật lấp lánh sáng. Một chiếc nhẫn màu xanh. "Ngọc đấy".

Lần đầu tiên cô bé thấy một vật quý như vậy. Hai mắt cô không thể rời khỏi ánh xanh huyền ảo của nó. "Em ra gặp tôi ở bờ suối ngoài bìa rừng. Tôi sẽ giúp em".

Kalang Nga đã nghe dân làng nói về saphia và ngọc. Chúng rất quý, chỉ những nhà rất giàu mới có được. Nhưng cô bé cũng hiểu, lời hẹn ngoài rừng có nghĩa là gì. Cô run lên, giọng khàn đi:

- Tôi sợ lắm.

- Đừng sợ. Tôi thương em lắm mà. Từ chiều mai em có thể trả cho Aviet Khết gấp bốn gấp năm lần tiền "văn", còn phải sợ ai nữa.

Kalang Nga vã mồ hôi ra, em không biết luật tục sẽ xử trí như thế nào trong trường hợp này. Em muốn về nhà hỏi mẹ, nhưng không thể được, viên ngọc xanh như có sức thôi miên. Cô bé đờ đẫn bước đến gần, mắt dán vào chiếc nhẫn.

Kalang Nga ra bìa rừng. Người đàn ông chờ cô bên bờ suối. Cô bé sợ hãi và đau rát. Dù xinh đẹp phổng phao, nhưng cô cũng chỉ là một đứa trẻ. Một đứa trẻ đã biến thành đàn bà. Từ nay cô là một dạng trẻ con - đàn bà; đàn bà vì hai lẽ, cô đã biết đàn ông và đã có nữ trang.

Nhưng món nữ trang không dễ bán. Pasieng Rêm lầm lì cầm chiếc nhẫn, soi trước ngọn lửa, rồi bảo:

- anh ngu quá. Đây không phải ngọc, chỉ là viên ve chai thôi. em trả anh ba đồng xu thôi.

Kalang Nga kêu lên thất thanh: "Không, nó là ngọc mà" "em đã bảo là ve chai" Pasieng Rêm giận dữ quắc mắt, nắm chặt nó vào bàn tay lão. Kalang Nga cũng không chịu thua, cô bé lăn vào, mắm môi, giật bằng được chiếc nhẫn. Cô quay mình, chạy băng băng xuống cầu thang, đuổi theo người đàn ông miền xuôi.

Ở cuối bản làng, gã miền xuôi đang buộc hai gùi hàng vào hông xe máy, chuẩn bị lên đường. Kalang Nga đâm bổ đến, tóc cô rũ rượi. "Pasieng Rêm bảo tôi, đây là chiếc nhẫn giả". Người đàn ông tức giận:

- Pasieng Rêm nói gian. Cái nhẫn đó quý lắm.

Kalang Nga lắc đầu, nước mắt đầy mặt:

- Tôi chỉ cần ba mươi nén bạc trắng thôi. Ông mua cái nhẫn cho tôi đi.

Gã lái buôn biết, cứ đôi co thế này thì dân trong bản sẽ đổ ra, tai họa sẽ ập xuống đầu cả hai. Bỗng một thoáng, trong óc người đàn ông lóe lên một ý nghĩ táo bạo, hắn ta xốc Kalang Nga lên, đặt ngồi lên xe trước mặt hắn và rồ máy...

Kalang Nga bị bắt cóc khi chưa về nhà chồng. Cha mẹ cô bé chẳng bao giờ có đủ tiền để trả của cho nhà Aviet.

* * *

Manu dừng kể. Trong đêm vắng, Tuấn nghe tiếng sương rơi lộp bộp trên trần xe.

"Rồi họ ra sao? Người Tà Ôi xử sự với họ như thế nào?"

"Luật Tà Ôi với tội bội hôn rất nghiêm khắc. Dù nhà gái có chạy đến góc biển chân trời nào cũng khó mà thoát, nhất định phải đền của cho nhà trai... Có khi còn bị chém giết... Pok ruông là như thế đấy". Cái rùng mình của Manu sát bên Tuấn khiến bất giác anh cũng thấy sởn gai ốc, cảm thấy như uy lực của ngôi nhà mồ Tà Ôi đang ngự trị đâu đây sát bên anh, trong bóng đêm.

"Còn Kalang Nga? Cô ta sau này ra sao?"

"Nhiều chuyện xảy ra với con bé, kể thì dài lắm. Cuối cùng, nó được đưa vào cô nhi viện của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá. Sau đó thì được một người Pháp nhận làm con nuôi".

Bên ngoài xe, bóng đêm loãng dần, tiếng sương rơi thưa đi. Những rặng cây xa xa lờ mờ hiện ra trước một quầng sáng đang ửng lên: Mặt trời sắp mọc.
"Kalang Nga lớn lên ở Paris, được học hành tử tế. Nó dần dần quên hẳn quá khứ. Khi mọi chuyện đã vượt quá sức một người, người ta chẳng còn cách nào hơn là quên đi để sống lại một đời khác.

Nhưng rồi sau nhiều năm, Kalang Nga bắt đầu có những thông tin từ nguồn cội của mình. Aviet Khết đã không giết và cũng không đòi nợ cha mẹ nó. Hóa ra ông ta không hoàn toàn khủng khiếp như nó tưởng. Trước chủ làng, ông ta nói họ không có tội".

"Kalang Nga kể với chị như thế sao?"

- Vâng. Theo tôi, ông ấy đã có suy nghĩ vượt hẳn những người cùng thời trong bộ tộc, ông đã phát hiện cái mà bây giờ ta gọi là trách nhiệm cá nhân.
Tuấn gật gù, không nói.

"Từ đó Kalang Nga không hề ngủ được, tâm thức Tà Ôi sống dậy trong nó. Nhiều đêm nó mơ thấy mình bị chủ làng kéo lê trên mặt đất trong lễ rửa nhục. Anh biết đấy, người Tà Ôi không chịu ảnh hưởng đạo Nho như các anh, họ không có những quan niệm về lễ giáo. Với họ điều quan trọng là luật tục. Kalang Nga không thể sống yên khi chưa đền cho Aviet Khết ba mươi nén bạc trắng..."

- Còn chiếc nhẫn? Nó là giả hay thật?

Manu đưa bàn tay ra. "Anh nhìn xem. Nếu quả thực nó chỉ là một hòn thủy tinh, thì có thể nói Kalang Nga là một con ngốc không?"

- Không những ngốc mà là điên! Nhưng dù sao cũng hiểu được, vì đấy chỉ là một cô bé miền núi chất phác, trong một hoàn cảnh rất bức bách.

"Còn anh?" Manu tủm tỉm cười.

Tuấn không hiểu người đàn bà muốn nói gì, anh hơi ngỡ ngàng. Nhưng đúng lúc đó, điện thoại di động trong túi anh rung lên, những hồi rung dài, nối tiếp nhau, dai dẳng và khắc khoải.

Bên ngoài xe, trời đã sáng bạch. Tuấn nhớ sực ra, giờ này chắc Liên đang cuống cuồng đi tìm anh. Đã sáu giờ sáng. Tuấn bứt tóc: "Trời ơi, mình điên, điên thật rồi". Giờ nạp lễ được ấn định là chín giờ. Từ đây về thành phố phải mất bốn giờ, nghĩa là anh đã cầm chắc trễ. Nhưng thôi hãy gắng một lần, nếu chạy xe nhanh, thật nhanh...

Anh không lý giải được vì sao ở ngoài vùng phủ sóng mà điện thoại anh lại bỗng dưng bắt được tín hiệu. Về sau Tuấn mới biết: Thật may mắn, ngày hôm ấy là ngày sóng di động bắt đầu được phủ rộng trên vùng rừng núi phía tây. Đã bốn mươi năm qua từ câu chuyện của Kalang Nga đến câu chuyện của anh, nhưng sức thôi miên của chiếc nhẫn màu xanh thì vẫn không hề khác.

* * *

Liên gần như bật khóc khi vào phút cuối Tuấn lao mình vào nhà, tóc tai phờ phạc vừa đúng lúc họ nhà trai đang tiến vào cổng nhà gái chuẩn bị nạp lễ. Suýt chút nữa thì đám hỏi đã được hoãn lại, nếu cha của chú rể không liều mạng nhất quyết cử hành, với niềm hy vọng ông con trai quý hóa sẽ về vào phút chót.

Mấy hôm sau, Tuấn đi làm. Manu đã rời Huế đi Hà Nội. Người quản lý chuyển cho Tuấn chiếc phong bì và một cái hộp nhỏ. Trên phong bì là tên người gửi: Nghệ sĩ múa Manuelle Hardy, nghệ danh Manu le Cygne. Tuấn nhíu anh: le Cygne trong tiếng Pháp chính là Kalang Nga trong tiếng Tà Ôi, nghĩa là con ngỗng trời (thiên nga).

Trong hộp là chiếc nhẫn màu xanh. Tuấn nhìn kỹ nó, nhưng thật lạ, không có vẻ huyền ảo như lần đầu anh nhìn thấy, hôm nay trông nó trơ trụi và thô thiển hơn nhiều lắm.

Anh mở phong bì, đọc thư:

"Đêm qua tôi đã ngủ được một giấc ngon lành, hơn mười năm nay tôi mới được ngủ như thế. Anh thực sự là một người bạn đường dễ mến, vì vậy tôi rất cảm ơn anh và muốn nhờ anh một việc nữa. Tôi gửi lại anh chiếc nhẫn này. Sau khi sang Pháp tôi vẫn khư khư giữ nó, rồi khi lớn lên, khi đã biết chắc mười mươi chỉ là một hạt ve chai, tôi vẫn không thể vứt đi được. Có lẽ tôi đã trả cho nó một giá quá đắt nên không thể chấp nhận cái ý nghĩ rằng nó là một vật vô giá trị. Anh hãy làm việc đó giùm tôi nhé".

Tuấn cầm chiếc nhẫn lên, đeo vào tay, không thấy nó phát ra ánh xanh lấp lánh nữa. Hóa ra vẻ huyền ảo ma quái ấy có nguồn gốc từ sự tham muốn trong anh, chứ không phải từ chính nó.

Anh về nhà, lúc đi ngang hòn non bộ trong sân, anh dừng lại. Manu không biết rằng anh cũng suýt trả cho nó một giá đắt, vì thế giờ đây cầm nó trên tay anh cũng lưu luyến một cách vô cớ. Nhưng phải nhận lời ủy thác của Manu thôi. Tuấn mỉm cười, thả chiếc nhẫn xuống chân hòn non bộ.

Lắng sâu vào lớp rêu, nó chỉ còn là một viên bi ve lấp lánh vừa đủ để cho lũ cá vàng ngắm nghía mỗi lúc lượn qua

Offline SUCSONG@  
#40 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:13:54(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Lương dân

Nguyễn Minh Sơn

Ba! Đôi mắt ba vẫn mở mà không còn nhìn thấy gì nữa. Miệng ba muốn nói mà không nói được nữa rồi. Con ước sao ba cất lên một lời. Dù chỉ một lời thôi. Điều ấy giờ đây thật khó khăn quá. Vĩnh viễn... Mãi mãi... Ba đã bỏ con đi. Bỏ con đi giữa một chiều thu vàng rực rỡ.

Trong căn phòng tối om phía sau phòng cấp cứu của bệnh viện, con đã vuốt mắt ba. Ba đã dạy con sống để đừng bao giờ sợ chết. Sao giờ đây con sợ cái chết đến vậy. Nó thật lạnh lùng, thật tàn nhẫn và khốc liệt. Ba dạy con, con người chỉ nên sợ sự sống để sống tốt hơn. Đừng bao giờ sợ chết. Chết là hết. Là chấm dứt. Dù lên thiên đường, xuống địa ngục hay về với ông bà tổ tiên thì cũng hết. Chấm hết!

Ba còn nhớ không? Năm con lên sáu tuổi ba tập bơi cho con. Trẻ con trong làng Khương Hạ này muốn biết bơi thì phải bắt chuồn chuồn cho cắn lỗ rốn. Ba đã ngăn con làm như vậy. Ba dẫn con ra bến Gành. Từ trên cao, ba thảy con xuống dòng sông. Con phải vật lộn để cứu mình. Con đuối sức. Con uống nước no bụng. Con giận ba... Ba vẫn thản nhiên cười. Cuộc đời như một dòng sông. Con phải biết bơi. Bơi mãi... Bơi mãi không ngừng nghỉ. Con lớn lên chút nữa ba bắt con đi giữ trâu, cày ruộng. Bốn giờ sáng, ba đã kêu con dậy ăn cơm. Trời tối om, mùa tháng mười lạnh căm căm. Con cưỡi trên lưng con trâu Sinh đi trước. Ba vác cày theo sau. Bao giờ ba cũng đi sau con. Ba biết con sợ ma giữa đồng không mông quạnh trong thời khắc "nhứt chạng vạng nhì rạng đông". Có lần, con cưỡi trâu đi cày trên Hóc Khóm. Con trâu già lười biếng đi chậm vô cùng. Ba la con tại sao để trâu đi chậm. Con bảo tại con trâu nó đi ngược chiều gió. Ba liền cười, không la rầy con nữa.

Thời buổi lúc đó thật khó khăn. Gia đình đói triền miên. Ba và con chỉ có một mo cau cơm độn sắn và gói muối tiêu để qua buổi trưa. Vậy mà khi nào ba cũng chỉ ăn một phần tư gói. Tất cả còn lại ba dành cho con. Con biết. Con nuốt cơm không trôi. Con nài nỉ ba ăn cùng con một miếng nữa ba cũng không ăn. Có lúc đi rừng, hai cha con vào trại Hòn Than một tuần mà chỉ có mấy lon gạo. Ba phải xuống suối bắt ốc đá, đào củ môn dóc, hái trái cây rừng để ăn thêm. Được con ếch to ba cũng dành cho con. Được chùm dâu sặt, trái vàng nhợ chín ba cũng dành cho con. Có đêm trời dông bão giữa rừng sâu chỉ có một mình ba với con. Ba chất một đống lửa to ngồi canh cho con ngủ. Nhưng con chẳng ngủ. Con nằm đó mà trong lòng buồn bã. Con thương ba vô hạn. Cuộc sống khi ấy sao mà tối tăm.

Một bữa con đi câu cá dưới suối, ba đẽo cây trên núi. Ba dặn con đừng đi quá xa. Hễ không nghe tiếng rìu đẽo nữa thì phải quay lại. Đó là trại mới. Cá nhiều quá. Con ham cá nên đi mãi đi mãi. Trong bụng con lúc đó nghĩ rằng ba với con sẽ được một bữa ngon. Bất ngờ con nhìn thấy dấu cọp còn ướt in trên bãi cát. Con chạy về báo với ba. Ba mắng con thằng này lì thật. Con cọp đó ba đã gặp nó ngày hôm qua. Vậy mà ba không báo cho cho biết. Ba sợ con nhát gan. Nhưng con chẳng bao giờ nhát gan đâu. Ba đã dặn kỹ con, gặp cọp phải nhìn trực diện vào mắt nó. Không được quay lưng tháo chạy. Con cọp nhìn vào mắt người, biết người đó có sợ nó hay không. Ba đã từng nhiều lần nhìn trừng trừng nhìn vào mắt nó và nó phải bỏ đi. Con cọp không đáng sợ. Chỉ nên sợ con người. Ba hỏi con biết cây gì độc nhất trên đời này. Con không biết. Ba bảo cây viết độc nhất. Con dặn hôm nào ba chỉ cho con để tránh cây đó. Ba nói cây viết là cây bút con cầm đi học đó sao lại không biết. Khi đó con cũng chưa hiểu nhưng sau này con giật mình. Con giật mình ba ơi... Ba đâu có học nhiều bằng con nhưng ba thấu thị như vậy.

Ba! Ba đã bỏ con ra đi giữa một chiều thu vàng rực rỡ. Giờ phút cuối cùng, con đứng cạnh ba nhưng con có biết đâu. Ba trăng trối với con, con cũng không biết. Ba nói chắc ba chết mất nhưng con cũng không hiểu ra. Con còn đùa với ba rằng chết gì, mai mốt ba còn uống được cả mấy chai rượu nữa. Không ngờ ba lại ra đi. Ba ơi! Chén rượu đời mà con nói ba không bao giờ còn uống được nữa. Khi đó con muốn nói với ba chỉ một lời cũng không được nữa rồi. Con ước sao khi đó ba chỉ cất lên một lời rồi thôi. Điều ấy sao khó khăn quá. Con biết ba không sợ cái chết nhưng giờ đây con lại quá sợ. Ba dạy con phải sợ sự sống để được sống tốt hơn chớ đừng sợ chết.

Năm 1970, gia đình mình sống ở gần đồn bà Lẫm. Ban ngày lính Sài Gòn vào nhà thăm dò. Ban đêm du kích cũng vào nhà nằm ở gầm giường. Ba vẫn thản nhiên. Người ta bắt ba đi lính ba trốn lính. Ba trốn biệt vào hố Cây Si để làm ruộng nuôi gia đình và bốn chị em. Gặp du kích, họ bảo ba lên rừng theo cách mạng ba cũng không đi. Ba nói mình không chống đối ai, mình không sợ ai, mình không bàng quan ngoài cuộc. Ba chỉ cần yên bình làm ruộng nuôi gia đình. Nông dân chỉ cần như vậy. Người dân chỉ cần vậy. Ba không học hành nhiều nhưng ba biết dạy con "quân tử phải phòng thân". Hồi đó ba mua được một cây súng lận lưng. Một bữa nọ lính bảo an từ dưới Đức Dục bất ngờ lên bắt lính. Má dọn cơm cho ba ăn từ bốn giờ sáng để ba trốn vào hố Cây Si. Đang bữa cơm lính ập vào nhà. Má ngồi đối diện quăng chén cơm giữa bàn. Ba vọt lẹ xuống nhà dưới quơ vội cây súng nhảy lên bực đất sau hè. Lính xả súng theo xối xả. Tưởng ba đã trúng đạn, má la lên. Không ngờ, chạy được một đoạn ba quay lại bắn trả. Bọn lính hoảng sợ không dám đuổi theo. Ba thoát chết nhưng bác Bốn Cầm thì không thoát. Giận cảnh trốn lính chui nhủi mãi, bác ra trình diện. Ba khuyên bác đừng đi lính. Bác bảo thôi đi cho rồi. Ba can vì sợ bác chết để lại đàn con không ai nuôi. Đúng như thật, chỉ một tháng sau bác chết dưới An Hòa...

Tuổi thơ con nghịch ngợm vô cùng. Đi giữ trâu trên hố Bà Lòng, con thả trâu ăn lúa chú Năm Thí. Giữ trâu trên Đá Ghe, con nhổ trộm sắn ông Bốn Lý nướng ăn. Mùa đông đói quá nên phải ăn trộm sắn để nướng. Buổi tối, đêm nào họp đội sản xuất người ta cũng nêu tên ba ra. Vì con để trâu ăn lúa, con hoang nghịch nên ba mới bị nêu tên. Ngày tất niên, con và ba còn phải lặn lội vào rừng đẽo gỗ để tháng giêng còn có cái cho gia đình sinh sống.

Ba ơi! Đó là một cái Tết đáng nhớ nhất đời con. Tết mà không có cái ăn. Hơn chín giờ đêm giao thừa rồi mà con và ba mới lê thê lếch thếch ra khỏi bìa rừng. Chiếc ba lô nhẹ tênh với một nhúm ốc đá mà sao nghe nặng trĩu. Con buồn. Con biết ba cũng buồn. Buồn cho cảnh bần hàn túng thiếu. Con đói. Con khát. Con liều mình vào đại một đám mía của mấy người ở Mậu Long trồng bẻ một cây vừa đi vừa ăn. Ba không chịu ăn. Ba la con đừng có đi ăn trộm. Một cây mía có đáng gì đâu mà ba phải la con? Sau này, con nhớ mãi lời ba. Đói cho sạch rách cho thơm. Đừng trộm cắp, đừng sống bất nghĩa bất lương...

Ba ơi! Ba nuôi con ăn học. Đói ba cũng bắt con đi học. Con đi chăn trâu lúc nào cũng lận lưng vài cuốn sách. Mải mê học bài con để trâu đi mất. Trâu ăn lúa người ta ba cũng không đánh con. Buổi sáng con đi cày với ba. Buổi chiều con đi học. Buổi trưa con không kịp đem cơm cho ba tận trong Chèo Bẻo, ba cũng không la con.

Con nhớ năm học lớp một giờ ra chơi con trốn xuống bến Đá tắm sông. Ba đã dạy con biết bơi vì xứ sở mình hay lụt lội. Không biết bơi nghĩa là phải chết. Mới sáu tuổi đầu con đã bơi như rái. Con vượt sông qua làng Đại Bình ăn trộm dưa gang. Giờ vào học bị trễ, cô giáo bắt quỳ xơ mít, đầu gối rớm máu. Ba ra tận nhà cô giáo rầy cô. Dạy học trò phải nghiêm khắc nhưng dạy bằng tình thương. Cô giáo xin lỗi ba, ba bỏ qua. Ba là người rộng lượng. Con hay đi đánh lộn với lũ trẻ trong làng ba cũng không rầy con. Nhiều hôm bị chúng nó đánh bầm mặt con cũng không dám khóc. Ba dạy con đã có bụng chơi phải có bụng chịu. Con biết, nếu con bị họ đánh mà khóc là bị ba đánh thêm. Thằng Phương bên nhà học cùng lớp hơn con bốn tuổi. Nó mạnh hơn con. Nó kéo bạn đánh con hoài. Nó là địch thủ của con. Nó là thằng con ghét nhất. Con nhớ Tết năm đó, con và thằng Bạn con của chú Bảy sắp xếp âm mưu. Hai anh em ngồi rình trong hàng chè tàu trước ngõ nhà nó. Sáng mồng một Tết, nó lơn tơn mặc bộ đồ mới đi ra. Hai anh em nhảy ra gùi cho nó một trận như đống giẻ rách. Đầu năm mới, bà ngoại nó sang tận nhà chửi ba không biết dạy con. Ba gọi con về đánh cho một trận nên thân bằng cả nắm hom tranh. Ba đánh con không phải vì quê mình vốn kiêng kỵ năm mới mà chọc cho người ta chửi. Ba đánh con vì tội chơi hội đồng.

Ba! Bây giờ con ra đời rồi. Người ta vẫn hay đánh hội đồng con nhưng con không bao giờ làm như vậy. Con sống vì ba. Vì lương tâm con người không cho phép như vậy. Làm vậy là bẩn thỉu phải không ba?

Ba đã sống vì con. Ba đã hy sinh tất cả vì con. Ba đã nuôi cho con ăn học đường hoàng. Cả làng mình lúc đó có mình con đi học. Mỗi tháng, ba nhịn ăn gửi tiền cho con học đại học ngoài Huế. Khổ ba cũng không kêu ca. Ba chỉ muốn biết con có học giỏi hay không. Và con đã học giỏi. Ba đã yên lòng nhưng bây giờ con chẳng yên lòng. Con đi học để làm gì? Học làm người con chỉ cần học ba. Ba là lương dân. Con học cả đời cũng không bao giờ hết được.

Ba! Con học để làm gì? Con đã ra đời với dăm ba chữ nghĩa. Con đã đi làm với vài chức phận cỏn con... Con đã lăn lộn giữa bùn đời ô trọc. Con đã chiến đấu với quân vô đạo để làm một lương dân như ba nhưng người ta không cho. Con đã ghét cái ác như kẻ thù cũng vì muốn được sống như ba. Con không kể với ba những nhọc nhằn của đời sống nhưng ba biết được. Ba là nhà tiên tri. Ba chỉ khuyên con nhẹ nhàng. Chỉ có người ngu, cái ác và kẻ xấu mới la mắng mình, mới hằn học với mình. Con nghe lời ba và con đã hiểu. Nhưng giờ đây, tất cả đều vô nghĩa. Tất cả đều phù phiếm ba ơi! Con chỉ cần ba nhưng ba không còn nữa... Mãi mãi...

Con là đứa con bất hiếu. Ba đã chết trong cô đơn. Ba đã nuôi đàn con lớn lên. Đứa nào cũng bay về thành phố sinh sống. Người thành phố không giống như người ở quê. Người thành phố không thuần phác. Con phải khuấy đục, con phải chuốc say mới sống được. Nhiều lúc con đã không giữ mình. Con cảm thấy có lỗi với ba. Con là đứa con bất hiếu. Con đã để ba ra đi trong sự cô đơn. Một mình ba kiên quyết ở lại quê. Ba bảo ba sống chết gì cũng ở đất này. Và ba đã toại nguyện nhưng con không toại nguyện. Ba đã chết trong nỗi cô đơn vò võ. Thằng Phương địch thủ của con ngày nào giờ đây mở quán rượu đầu làng. Nó đã kể cho con nghe tất cả. Ba hay la hay mắng nó vì nó hư hỏng, không nên người nhưng nó bao giờ cũng thương ba. Chiều nào ba cũng ra quán nó ngồi uống rượu một mình. Chiều nào ba cũng ngồi trên cùng một cái ghế ngóng ra đầu dốc. Nhất là những chiều cuối tuần... Ba biết con không về nhưng ba vẫn ngóng. Ba thương con, ba nhớ con mà ba chẳng bao giờ nói với con... Mỗi lần con về dài ngày ba lại hối thúc con đi. Ba sợ con bận bịu công việc. Khi con đi rồi ba lại ra quán rượu ngồi ngóng. Ba! Nhiều lúc con có bận gì đâu. Nhiều lúc con đã mải vui quên mất ngày cuối tuần lẽ ra phải về với ba...

Đêm trước con còn ngủ với ba. Sáng hôm sau ba lại hối thúc con đi. Nửa đêm, ba kêu khát nước và gọi con dậy nấu ấm nước chè. Nấu nước xong, con không sao ngủ được. Đó là lần hiếm hoi con đã bưng nước cho ba. Còn nằm thao thức và suy nghĩ... Trên đỉnh núi Cà Tang con mang trắng cứ tác nghe buồn buồn. Nó tác hoài tác mãi những phận đời, phận người. Ba thường kể cho con nghe đó là con mang thần. Không ai săn bắn được nó. Lông nó trắng như tuyết, mắt nó vàng rực rỡ như mặt trời... Mỗi lần nó tác thì trời đang nắng chuyển sang mưa, trời đang mưa chuyển sang nắng. Thời tiết không thay đổi mà nó tác hoài, trong làng Cà Tang tất có người chết. Đêm định mệnh đó con đã nghe nó tác mà con có nghĩ gì đâu. Con đã quá vô tâm vô tính...

Ba! Ba đã bỏ con đi trong một chiều nắng vàng rực rỡ. Ba đã ngủ một giấc nghìn thu kêu chẳng dậy nữa rồi. Con ước sao ba chỉ mở miệng nói với con một lời thôi. Dù chỉ một lời gì đó thôi. Điều ấy giờ đây sao khó quá ba ơi!

Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
3 Trang<123>
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.