Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


3 Trang<123
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline SUCSONG@  
#41 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:14:59(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Ðêm không nghe tiếng sóng

Ðào Thị Thanh Tuyền

Anh có đúng 22 năm để trở lại nơi này. Nếu không phải là đại biểu có tham luận trong hội nghị ngày mai chắc có lẽ anh không bao giờ đến đây. Ban chiều, khi chiếc xe rẽ ngoặt vào con đường chính, tim anh như muốn vỡ tung, kỷ niệm cũ và nỗi day dứt mơ hồ nào đó thi nhau vò xé lòng anh.

Hai hàng đèn cao áp mầu vàng sáng rực soi rõ từng đám cỏ bên vệ đường. Có một con rắn mối đi ăn đêm chạy xẹt ngang thật nhanh từ bên này; đến giữa đường tim mầu trắng nó khựng lại, ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi tích tắc phóng vụt vào bãi cỏ phía đường bên kia. Chỉ có anh và chiếc bóng đen ngắn ngủn đồng hành. Anh dừng lại lấy trong túi áo cái bật lửa và điếu thuốc rồi ngồi xuống. Trên bầu trời đen chiếc đĩa tròn sắc nét mầu trắng dõi theo anh qua những con phố mờ tối giờ nhòe đi nhợt nhạt. Anh nhìn quanh những con đường mới nằm trong khu quy hoạch chạy vuông vức như ô bàn cờ. Vẫn còn những khu đất trống đầy cỏ lau chen lẫn những khu nhà đã được xây cất tử tế, có ánh đèn vàng hắt ra từ những ô cửa sổ. Một con chó hoang như vừa chui ra từ lùm cỏ lau nào đó chạy tới phía anh, nó dừng lại dỏng tai, giương mắt nhìn anh như muốn làm quen. Anh huýt sáo và đưa bàn tay vẫy, con chó ngần ngừ một lúc rồi chầm chậm bước tới. Ðến gần chỗ anh ngồi, nó chăm chăm chờ những tín hiệu tỏ vẻ chấp thuận cho nó tới gần hơn nữa. Thấy anh không còn vẫy tay hay huýt sáo con vật dè dặt nằm xuống cách xa anh khoảng hai thước. Nhìn con chó tự dưng trong anh có một cảm giác cô đơn và hụt hẫng lạ thường. Anh nhìn về phía trước mặt, ánh đèn sáng chói nơi anh ngồi nhấn chìm khu rừng dương và biển trong một màn đen. Như vậy, anh đã đi bộ hơn năm cây số từ khu phố cũ để về lại nhà khách nằm trong khu vực quy hoạch mới này của thị xã.


Anh có đúng 22 năm để trở lại nơi này. Nếu không phải là đại biểu có tham luận trong hội nghị ngày mai chắc có lẽ anh không bao giờ đến đây. Ban chiều, khi chiếc xe rẽ ngoặt vào con đường chính, tim anh như muốn vỡ tung, kỷ niệm cũ và nỗi day dứt mơ hồ nào đó thi nhau vò xé lòng anh. Anh đã trải qua năm năm của thời tuổi trẻ không buồn, không vui ở đây. Con phố chính cắt đôi thị xã chạy dài từ quốc lộ 1A về phía biển bị chắn bởi khu quân sự cũ và rừng dương cùng một cồn cát làm đường ranh phố - biển ngày xưa thường ngăn bước chân khám phá của anh. Anh không thích biển nơi đây, không có núi che chắn, nó bao la và mênh mông quá dễ làm anh choáng và ngộp thở. Cho đến một ngày, không chịu nổi sự tĩnh lặng luôn mang dáng vẻ uể oải của nó, những bài giảng nhai lại kèm theo những khuôn mặt học trò vô cảm, anh ra đi.


Những con đường trong phố vẫn còn nguyên hàng cây xà cừ thật lớn chạy ngang dọc như những nhát dao băm vằm tim anh - sự thay đổi chậm chạp nơi đây làm lòng anh càng thêm trĩu nặng. Phải chi nó khác đi nhiều so với ngày xưa để anh có cảm giác mình đang đến một nơi hoàn toàn xa lạ. Ðã vậy, những tấm băng-rôn ghi dòng chữ chào mừng đại biểu về dự hội nghị như vả nhẹ vào mặt anh, thị xã vẫn đang bao dung mở rộng tấm lòng đón anh - một kẻ đã từ chối và bỏ chạy để bây giờ nhìn lại mọi việc diễn ra trong cuộc đời như một "nhãn tiền" mà ở tuổi hai mươi ngày ấy anh làm sao biết được!


Ra trường năm hai mươi hai tuổi anh nhận quyết định về dạy học ở một trường trung cấp nằm trong thị xã. Cùng về với anh đợt ấy có Khoa và Bích, hai người là bạn học cùng trường. Anh và Khoa là dân thành phố còn Bích là người địa phương. Học trò đa phần là các em học sinh vừa tốt nghiệp lớp 9, bộ đội phục viên hay cán bộ đi học. Anh dạy môn phụ nên dù có đầy nhiệt huyết cũng không thoát khỏi tâm trạng chán nản. Còn Khoa, tuy dạy môn chính nhưng do gia đình ở thành phố tương đối khá giả, phải về đây Khoa cũng chẳng phấn khởi gì. Chỉ có Bích là thoải mái vì cô được về gần nhà và được dạy môn chính.


Anh và Khoa ở cùng phòng trong khu tập thể. Biết tâm trạng buồn chán của hai người, sáng nào lên lớp Bích cũng tranh thủ đi sớm gần nửa tiếng tạt vào lôi anh và Khoa lên lớp. Có hôm cả hai trùm chăn kín mít mặc cho Bích gõ cửa đến mỏi tay và luôn vùng dậy khi nghe giọng cô bắt đầu nghèn nghẹn nước mắt.


Nhiệt tình của Bích dần cảm hóa được hai người, cô kéo anh và Khoa từ trong đống chăn mền bèo nhèo trên chiếc giường đơn ở khu tập thể những ngày nghỉ cuối tuần để ra phố, về quê, ra biển hay về nhà cô - một ngôi nhà nằm trên con phố chính có cây xà cừ xòe tán rộng phủ trùm hết vuông sân thượng, có những buổi sinh hoạt gia đình đầm ấm cùng những món ăn ngon do chính tay mẹ cô làm thết đãi hai người. Ba Bích, một người đàn ông vui tính và chân thật, thích chơi cờ; thỉnh thoảng ông vẫn nói đùa anh và Khoa là Sơn tinh và Thủy tinh, ai thắng ông liên tiếp ba ván sẽ được ông gả con gái. Không bao giờ anh hay Khoa thắng được ông, nhưng chắc có lẽ khi ấy cả hai người chẳng ai có ý nghĩ muốn thắng ông liên tiếp ba ván...


Một học kỳ, hai học kỳ rồi những học kỳ sau đó trôi qua trong bình lặng và tẻ nhạt vô cùng đối với anh. Những lá đơn xin việc anh gửi về thành phố mong được chuyển một công việc làm khác ngày càng ít hy vọng; sự tự tin trong anh mòn dần, có đôi lúc biến thành mặc cảm, tự ti hay những buồn vui vô cớ. Anh đem tất cả những muộn phiền ấy trút hết cho Bích. Cô yên lặng hàng giờ nghe anh tâm sự, cố gắng cùng anh tưởng tượng về một tương lai khá hơn cho anh, thế nhưng cuối cùng bao giờ cô cũng nhận từ anh một gáo nước lạnh hất đi vùng vằng: "Em làm sao hiểu hết được những điều ấy!". Anh chẳng thèm đếm xỉa những nét buồn u ám đến tội nghiệp trên gương mặt Bích, anh chỉ biết loay hoay với những trăn trở cho riêng mình.


Một buổi tối thứ bảy, Khoa đã về nhà. Anh cảm thấy rất ngột ngạt trong căn phòng mười sáu mét vuông, anh lôi chai rượu ra uống một mình. Những suy tư về một tương lai không có viễn cảnh gì sáng sủa ở thị xã nhỏ bé và hiu hắt này thi nhau dằn xé, anh có cảm giác mình như con cá bị bủa trong tấm lưới chật hẹp, càng vẫy càng bị bó chặt. Ðang lúc cực điểm của sự bế tắc thì Bích đến. Như người chết đuối vớ được chiếc phao, anh ôm lấy Bích và trút hết vào cô những nỗi buồn, những bế tắc. Bích dịu dàng vuốt ve anh xoa dịu dần sự căng thẳng. Khi sợi dây đã chùng, cô nhận thấy anh chẳng hề yêu cô; cô chỉ là một từ hay một cụm từ điền vào dấu ba chấm đang bị khuyết trong cuộc đời anh, cô lặng lẽ rời khỏi căn phòng ấy và nuốt ực xuống cổ cảm giác buồn, tủi, đớn đau.


Cuộc sống là một chuỗi thất vọng rồi hy vọng kéo dài theo dạng biểu đồ hình sin lay lắt kéo anh những giờ lên lớp vô cảm. Cho đến một ngày chuỗi hy vọng ở đỉnh điểm cao nhất là lúc anh nhận được sự chấp thuận về làm việc ở một viện nghiên cứu trung tâm thành phố. Cùng lúc đó, tất cả như nhấn chìm anh xuống điểm cực tiểu khi Bích đến báo tin có một mầm sống đang cựa quậy trong cô. Ðó là một đêm mưa. Tiếng mưa rơi đều đều trên mái tôn đưa anh từ từ rớt xuống đến tận cùng. Biểu đồ hình sin cuốn lại chập chờn dùng dằng trong anh, cuối cùng như một sợi dây nó kéo nhanh anh lên khỏi vực sâu với một lời từ chối quyết liệt: "Anh đã quyết định rời khỏi nơi này trong tháng tới!". Khi buột miệng nói xong câu đó, có lẽ lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy một đôi mắt khác thường như vậy từ Bích. Nó như một tấm thảm trải rộng được đan bằng những sợi dây thương yêu, oán hận, tuyệt vọng đến căm hờn và cuối cùng được gút lại ở đường biên bằng những sợi chỉ lạnh lẽo, vô hồn, không cảm xúc. Bích đứng lên, quyết liệt và mạnh mẽ. Cơn mưa bên ngoài đã hết, cầm tấm áo mưa cô rũ thật mạnh cố làm rớt hết từng hạt nước nhỏ rồi xếp lại một cách chậm rãi và bước rất nhanh ra khỏi căn phòng ấy.


Cuối cùng mọi việc kết thúc như có một bàn tay sắp đặt khéo léo. Ngày đám cưới Khoa và Bích cũng là ngày anh bước lên xe đò rời khỏi thị xã. Hôm ấy mưa rất to, những giọt nước mưa như những viên đá quất vào mặt anh đau rát và lạnh buốt; dù việc ra đi đã quyết định từ trước nhưng cái tâm trạng của người vội vã chạy trốn vẫn theo anh bao năm trời đằng đẵng về sau và đến mãi hôm nay.


Anh không gặp lại Khoa, Bích từ đó; tin tức của hai người thỉnh thoảng tạt vào đời anh như những cơn mưa bóng mây, khi thì nhỏ lúc thì ồ ạt. Họ đã có con, một bé gái xinh đẹp nhưng yếu ớt vì được sinh ra và nuôi nấng trong bối cảnh người mẹ bị đau ốm triền miên. Hai năm sau họ chia tay. Người ta nói họ không hợp nhau nhưng anh hiểu Khoa đã làm xong vai trò của mình. Khoa chuyển công tác về một thành phố trên cao nguyên và lập gia đình sau đó ít năm; còn Bích sau những chìm nổi trong cuộc đời, như một con bướm được thoát xác cô vươn mình đứng dậy, nghe nói mấy năm sau được đề bạt làm hiệu trưởng.


Anh bơi ngược bơi xuôi trong bể cuộc đời khi chìm, khi nổi cũng đến gần mười năm sau đó mới lập gia đình. Cuộc sống gia đình của anh sẽ hoàn toàn thuận lợi và đầy đủ nếu vợ anh mang đến cho anh những đứa con; thế nhưng, một năm, hai năm rồi năm năm hy vọng ấy càng ngày càng tắt, càng chờ càng mất. Vợ anh đòi đi khám, nhưng anh nhất quyết không chịu. Anh biết rất rõ điều này, anh yêu vợ thật sự và anh không muốn cô phải mang tâm trạng người có lỗi. Anh nhận phần thua thiệt về mình, đó là lần đầu tiên trong đời anh nhận mình là người bại trận : "Có lẽ anh đã lớn tuổi nên không thể có con được, nếu chúng mình yêu nhau thì sống như vầy cũng được rồi". Anh nói với vợ như thế. Và từ đó căn nhà của họ là hai thế giới riêng biệt, cô lao vào những đề án, những chương trình, những công việc ngoài xã hội; anh chìm đắm vào những trang sách dịch, những bản văn tự cổ, những tấm văn bia trải qua nhiều thế hệ, lút đầu sau những cuốn tự điển thật dày tìm lại quá khứ trong những trang tài liệu đã có hàng trăm năm. Cuộc sống của anh như con thuyền trôi chậm rãi, bình an trên dòng sông thời gian đưa con người về đến một cái đích cuối cùng nào đó. Thế nhưng ám ảnh về những đứa con vẫn không thôi rời bỏ anh, những giấc mơ của anh thường xuyên có những đứa trẻ bụ bẫm với nhiều tiếng bi bô không rõ nét hay những tiếng cười trong trẻo; thỉnh thoảng anh mơ thấy ngôi nhà trên con phố chính có cây xà cừ xòe tán rộng, trên vuông sân thượng đặt sẵn một bàn cờ, có anh và một người đàn ông đang thận trọng tiến thoái đẩy lui mong giành phần thắng cuộc, chung quanh lũ trẻ con chạy nhảy, chơi ô quan, chơi canh chuông, có đứa thụp xuống níu lấy người anh mong được anh che chắn trong một trò chơi trốn tìm... Tất cả những điều đó luôn dằn vặt anh như anh đã từng có những dằn vặt một thời trai trẻ ở cái thị xã buồn tẻ và uể oải ấy.


Con chó hoang đã lần hồi nhích đến sát chân anh tự lúc nào, anh giật mình khi bàn tay bỗng chạm vào lớp lông mềm của nó. Búng tàn thuốc còn đốm lửa đỏ ra xa anh đứng dậy và đi về phía bóng tối. Chiếc bóng và con chó lại lẳng lặng theo chân anh trên con đường vắng. Hết con đường có hàng đèn cao áp, anh rơi vào vùng ánh sáng mờ nhạt của những bóng đèn nhỏ đủ soi đường cho anh xuống biển. Mặt trăng ló ra khỏi lùm dương như một con mắt tò mò cố dõi theo anh. Bóng cây in trên bờ cát những vệt đen lờ mờ xiên xẹo không hình thù. Không có một ngọn núi nào che chắn, biển lặng như một tấm thảm trải rộng. Không gian bao la và thoáng đãng làm anh ngộp thở. Xuống đến mép nước, anh thấy rõ những con sóng chạm nhẹ vào bờ cố không gây nên một tiếng động nào dù là tiếng xạc xào nho nhỏ. Gió se se mang cái lạnh gai gai của đêm đang chuyển dần sang ngày khác. Con chó lúc này đã mạnh dạn hơn, nó quấn lấy chân anh như muốn tìm một chút hơi ấm. Anh ngồi xuống bờ cát, con chó phục xuống nằm bên cạnh, anh lấy tay vuốt đầu con vật, được bàn tay người thương yêu nó duỗi mình dài ra và mọp sát đầu xuống cát.


Người ta có thể dối với bất cứ ai, giấu giếm nhiều người nhưng không bao giờ qua mắt được người mẹ. Tối nay anh đã đến ngôi nhà đó. Thời gian phủ một lớp mờ lên tất cả mọi thứ. Anh dựa lưng rất lâu vào cây xà cừ đã có dáng vẻ hơi cỗi vẫn xòe tán sum suê như tựa vào một người quen cũ. Qua khung cửa kính anh vẫn còn nhìn thấy bộ salon cổ ngày trước. Khi cánh cửa bật mở ra, một người đàn bà có gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc trắng, dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát nhìn anh chẳng có gì lạ lẫm hay ngạc nhiên:


- Tôi biết rồi cũng sẽ có một ngày cậu đến đây!


Không mời anh vào nhà, đứng dưới gốc cây xà cừ bằng một giọng nhẹ như gió thoảng bà đã nói với anh:


- Mọi việc qua lâu rồi, chúng tôi đã quên tất cả. Mong cậu hãy hiểu cho là giờ đây chúng tôi đang sống rất bình yên.


Cánh cửa sắt kéo lại, những bánh xe có lẽ từ lâu chẳng được tra dầu mỡ nghiến ren rét trên đường ray như nghiền nát quả tim anh. Ánh sáng bên trong vụt tắt trả lại bóng tối của cây xà cừ trùm kín lấy người anh.


Mặt trăng đã nghiêng chếch về tây. Con chó dưới chân anh đã ngủ từ lúc nào. Biển mênh mông là thế nhưng sao không hề nghe tiếng sóng? Cảm giác mỏi mệt thấm dần khắp người anh. Mọi thứ mờ ảo trước mắt. Anh đứng dậy trở ngược lên con đường đi về nhà nghỉ bỏ lại sau lưng bờ biển vắng và con chó hoang bằng bước chân của người đi trong vô thức. Thả người xuống chiếc giường nệm, anh nằm im cố lắng nghe tiếng sóng từ xa dội lại, thế nhưng chung quanh anh tất cả đều yên ắng. Anh đã có một đêm ở biển không hề nghe tiếng sóng.


Anh ngủ được chút xíu thì bị đánh thức bởi những âm thanh xôn xao ngoài hành lang. Hình như có một đoàn khách ở xa vừa đến. Mầu trời xanh thật nhạt bên ngoài khung cửa sổ đã kéo anh nhổm dậy. Biển gần đến nỗi anh tưởng mình có thể nhảy qua khỏi khung cửa kia là rơi ngay vào làn nước xanh lơ đó. Anh bước đến bên cửa sổ nhìn xuống đường. Dòng người đi biển sớm như những quân cờ di động, hàng dương kéo dài ngút mắt không có điểm dừng. Trời và biển xanh đến nao lòng, thị xã mang một vẻ đẹp hoang sơ và tinh khiết của một cô gái không hề có chút điểm trang. Anh nhìn mãi những mầu xanh được pha trộn một cách hoàn hảo trước mặt với đầu óc trống rỗng và giật mình khi có người gõ cửa phòng mời anh chuẩn bị đi ăn sáng để bắt đầu cho ngày làm việc đầu tiên.


HỘI nghị được tổ chức theo kiểu bàn tròn tọa đàm. Từng thành viên tham dự lần lượt được giới thiệu. Anh bị thôi miên vào góc cuối căn phòng, người ta vừa giới thiệu một đại biểu còn rất trẻ, cô vừa tốt nghiệp ra trường nhưng đã có nhiều công trình nghiên cứu đóng góp cho địa phương và hiện đang là giáo viên trường cao đẳng của thị xã. Một mái tóc xõa dài ôm bờ vai nhỏ nhắn, nụ cười e ấp và khuôn mặt ửng hồng vì thẹn. Anh giật mình. Có phải là tuổi trẻ của anh đó không? Một khuôn mặt quen lắm trong miền ký ức xa thẳm nào đó? Bên cạnh anh có tiếng một người giới thiệu với một người như muốn khẳng định thêm uy tín cho cô gái: "Con cô Bích, hiệu trưởng trường Trung cấp Y...". Sống lưng anh lạnh toát, tay anh run rẩy, đầu óc anh choáng váng. Mọi việc sau đó diễn ra một cách máy móc đối với anh, những ánh đèn flash lóe sáng, những ống kính đưa tới chụp gương mặt anh cận kề, bài tham luận và những câu trả lời phỏng vấn bên lề hội nghị... Ðầu anh ong ong, tim anh muốn vỡ tung ngàn mảnh... Ngôi nhà có cây xà cừ xòe tán rộng và câu nói của một người lại văng vẳng bên tai: "Giờ chúng tôi đang sống rất bình yên...". Anh đã làm dang dở một thời tuổi trẻ của cả ba người: anh, Khoa và Bích và đã gây nên biết bao sự việc rắc rối trong quá khứ ở đây. Anh không có quyền làm xáo trộn sự bình yên nơi này một lần nữa. Thị xã vẫn rất yên tĩnh cũng như đêm qua biển không có sóng đấy thôi!


Hội nghị còn tiếp tục một ngày nữa. Nhưng chiều tối hôm ấy, không chịu nổi những dằn vặt và nỗi buồn nặng trĩu trong tim, anh rời khỏi nhà nghỉ ngoắc một chiếc xe đò Bắc - Nam, vội vã giống như một ngày mưa cách đó 22 năm.


Chiếc xe đò dừng lại trước một quán ăn bên đường cho tài xế cùng hành khách nghỉ ngơi, ăn tối. Ðứng tựa lưng vào một gốc cây nhìn ra quốc lộ nhuộm mầu đen thẳm của đêm, anh nghe tiếng hát một người mù ai oán tả cảnh gà trống nuôi con và trách cứ ông trời sao bày vẽ chi nhiều bi kịch bắt người đời phải gánh chịu. Người chủ quán đang chế cà-phê cho khách nói bâng quơ một mình theo thói quen muốn tìm ai chia sẻ trong cái đám đông đang lặng lẽ đứng, ngồi chung quanh: "Ông ta mù hát rong kiếm tiền mà nuôi con gái tươm tất lắm. Con gái ông học rất giỏi, vừa thi đậu vào trường chuyên thị xã...".


Câu nói bâng quơ như nhát dao xắn vào quả tim nặng trĩu của anh. Không suy nghĩ gì thêm nữa, anh khoác vội chiếc túi du lịch bước ra đường cái vẫy một chiếc xe đò Nam - Bắc khác đang ngược về thị xã bỏ lại sau lưng vài câu suy đoán mơ hồ của đám đông...


Người phụ xe xếp cho anh một chỗ ngồi trên băng ghế sau cùng. Ngả đầu vào thành ghế, anh nhắm nghiền đôi mắt mệt mỏi. Quá khứ, hiện tại, tương lai hiện lên như một cầu vồng nhiều mầu sắc khi nhòa, khi tỏ. Những luồng gió đêm tạt vào xe mang theo cái mùi nồng nồng của rơm rạ và của đất hòa quyện với hơi người trong xe tạo thành một hơi ấm xoa dịu dần nỗi đau đớn trong trái tim anh. Biển trước mặt anh trải rộng đến vô cùng và xanh thẫm một mầu ngọc bích. Vẫn là đêm không hề nghe tiếng sóng.

Offline SUCSONG@  
#42 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:15:24(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Bỏ phố lên rừng

Lê Xuân Hoa

Dung đến Sa Pa giữa lúc chạng vạng của buổi chiều muộn sau hơn một tiếng đồng hồ bã bời trong chiếc commămgca lắc lư đổ đèo. Dung lôi thôi lếch thếch đi thẳng vào Trung tâm Khuyến nông.

Đã hết giờ làm việc, các phòng ban đều đóng cửa. Trụ sở của trung tâm là dãy nhà hai tầng lúp xúp nằm lọt thỏm giữa bạt ngàn cây xanh. Bảo vệ dắt Dung vòng ra phía sau, mọi người về hết rồi, chỉ còn mỗi chị Nhân- trưởng phòng hành chính ở đây, có lẽ cô cứ gặp chị ấy mà trình bày. Dung khẽ “dạ”, bước chân đạp lào xào trên lá.

Dãy nhà cấp bốn được dựng tạm bằng gỗ ghép lại nằm chơ vơ giữa khoảng sân rộng, chắc là nhà tập thể, Dung đoán thế. Thấp thoáng dáng người phụ nữ đang lúi húi xúc cám. Lũ lợn ỉn thả rông chạy lông nhông xung quanh, những cái mõm háu ăn khịt khịt liên hồi. Dung đứng lại, cầm giấy giới thiệu của ủy ban và tập hồ sơ lủng củng những văn bằng, chứng chỉ trên tay, ngập ngừng: “Dạ, cho em hỏi chị Nhân”. “Cán bộ mới về tăng cường à? Trời ơi nhỏ quá, chị tưởng em là sinh viên thực tập chứ”. Chị Nhân reo lên ngạc nhiên rồi hối hả cầm xâu chìa khóa xủng xẻng, lôi tuột Dung đi mà không buồn liếc qua đống giấy tờ bảo lãnh của Dung cho đúng thủ tục. “Nhà công vụ có năm phòng” chỉ mình chị ở, bây giờ thêm em nữa là hai. Chị ấn chiếc chìa khóa vào tay Dung: “Đi đường xa chắc mệt, em đi nghỉ đi. Phòng chị ngay bên cạnh, nếu cần em cứ gọi. Sáng mai chị sẽ đưa em lên gặp giám đốc”.

Luận án của Dung mất sáu tháng lọ mọ để nghiên cứu về atisô, một loại cây sinh trưởng ở vùng cao, có giá trị gấp năm lần cây lúa và đang được thị trường châu Âu quan tâm. Tốt nghiệp, Dung được thầy chủ nhiệm giới thiệu với Trung tâm Khuyến nông trên Sa Pa. “Đấy là nơi thích hợp nhất để gieo trồng những mầm cây atisô của em”. Khi rời Hà Nội, chỉ mình Lâm đưa Dung ra ga. Mẹ rầu rĩ, rên hệt như Dung đang đi vào chỗ tự đầy ải thân xác mình, người ta chạy chọt để về thành phố, mình lại đâm đầu về cái nơi heo hút ấy. Bố xoa đầu Dung bảo, cứ đi đi con, tuổi trẻ mà, con cần phải tự thể nghiệm, khi nào không chịu được thì về nhà. Lâm im lặng, không can ngăn, phản đối, cũng không tỏ thái độ ủng hộ, khuyến khích. Mãi đến lúc tàu chạy mới dúi cho Dung chiếc CD bỏ túi, để những lúc rảnh rỗi em có thể nghe nhạc. Dung nhoài người ra khung cửa sổ, chỉ thấy Lâm nhạt nhòa, nhỏ xíu trên sân ga.

Hóa ra Trung tâm Khuyến nông không thuộc thị trấn Sa Pa mà còn phải đi thêm 4 km đường rừng. Bao phủ là đồi núi, trung tâm rộng mênh mang, hoang vắng và biệt lập như một ốc đảo. Nhân viên trung tâm vỏn vẹn có chục người, cũng đầy đủ cơ cấu các phòng ban. Ngày đầu tiên đi làm, đích thân giám đốc đưa Dung xuống phòng thí nghiệm, trân trọng giới thiệu “Cán bộ về nghiên cứu dự án trồng thí điểm cây atisô trong chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi”. Dung rón rén ngồi xuống bàn làm việc, chỉ thấy bụi mờ trên giá. Ống thí nghiệm cái nứt, cái mẻ vứt chỏng chơ trên khay. Dung tá hỏa, phòng không có máy tính, không Internet, không email. Cả trung tâm mới có một điện thoại đặt trong phòng giám đốc, nhấc lên nghe chỉ thấy rọt rẹt, rọt rẹt. Nói chuyện mà cứ phải quát tướng lên như cãi nhau vì tín hiệu yếu, lúc bắt được, lúc không nên không nghe thấy gì. Dung đờ đẫn cả người, hốt hoảng. Dung không hề lường trước được cảnh tượng này. Không có dụng cụ thí nghiệm, không trao đổi thông tin với bên ngoài, chắc Dung chỉ còn cách gieo atisô xuống đất và cầu Trời khấn Phật, cây ơi nẩy lộc đi!

Nhìn Dung thần người vì lo lắng, đồng nghiệp cười vang, ngạc nhiên lắm hả em, rồi sẽ quen cả thôi, như bọn anh đây này, quanh năm suốt tháng lên lịch về vùng cao tập huấn nuôi trồng VAC cho già làng, trưởng bản, thế là xong. Thôi ngồi xuống đây làm lễ ra mắt, hôm nay em là trung tâm đấy. Rượu được rót đều ra các chén, sóng sánh và thơm như mật. Dung bị xếp vào giữa. Sau cái cụng ly keng một cái của trưởng phòng và lời tuyên bố dài dòng: “Hôm nay chúng ta vinh dự tiếp đón một trí thức trẻ tình nguyện về vùng cao xóa nghèo...”. Dung nhắm mắt uống liền một hơi và đặt cốc không xuống bàn. Tiếng vỗ tay vang lên từng tràng dài, không dứt. Mặt Dung đỏ nhừ, nóng bừng, Dung thấy đầu nặng trĩu. Rượu lại được rót ra, rồi lại uống. Dung uống liên miên không dám từ chối, sợ mọi người cho là gái thành phố không thật lòng. Nhưng chưa hết một vòng chào hỏi Dung đã đầu hàng. Dung đi thẳng về phòng, nằm vật xuống giường.

Chị Nhân đã ngoài bốn mươi, là trưởng phòng hành chính nhưng kiêm đủ thứ, từ kế toán, thủ quỹ đến văn thư, công đoàn. Chị về trung tâm từ những ngày đầu tiên mới thành lập. 15 năm gắn bó, chị đã chứng kiến biết bao sự đổi thay, bao đời giám đốc. Trước đây, chị Nhân là thanh niên xung phong, thoát ly từ năm 17 tuổi. 17 tuổi nhưng hồi ấy chị phổng phao lắm chứ không còi cọc như Dung bây giờ. Những tháng năm tuổi trẻ, vụt một cái qua đi từ lúc nào không biết nữa. Cả đời chị lúc nào cũng gắn bó với rừng, lúc nào cũng cắm cúi cây với cối, đến khi soi gương, giật mình vì tóc đã rụng, da đã nhăn. Chị Nhân ở vậy không lấy chồng. Thì bảo yêu đương vào lúc nào? Hồi thanh niên xung phong, một tổ rà phá bom mìn toàn con gái hơ hớ giữa rừng sâu, chỉ có những đoàn xe chở vũ khí, lương thực ra tiền tuyến. Giữa những cuộc gặp gỡ vội vàng, chớp nhoáng ấy cũng có đứa không giữ được mình nên mang bầu, lập tức bị đơn vị trả về địa phương ngay. Kỷ luật chiến trường nghiêm khắc lắm. Lúc ấy chị lại là tổ trưởng, là đảng viên nên phải gương mẫu. Nhiều khi cứ phải cắn răng lại mà tự nhủ, thôi cố cho qua cái đận này, đến khi hòa bình... Rồi hòa bình thật và chị được điều về đây, quá lứa lỡ thì cả rồi, trung tâm thì lèo tèo dăm ba người đều đã có gia đình. Nơi này heo hút lắm, cả năm cũng không có khách vãng lai. Hồi đầu chị hãi lắm, chị nuôi bầy lợn, dăm con gà. Nuôi cho vui cửa, vui nhà, cho có tiếng kêu. Nhiều đêm thức giấc chị chỉ thèm nghe thấy tiếng kêu của con lợn, con gà để tự an ủi là mình không chỉ có một mình.

Chị Nhân thương Dung lắm, chăm sóc Dung bằng tình thương của một người mẹ. Dung là con gái thành phố, học hành đàng hoàng lại dám bỏ cả gia đình, bỏ cả người yêu lên vùng cao làm việc. Chị tìm thấy sự sôi động, nhiệt huyết với cuộc sống của mình ngày xưa trong Dung. Nghe chị Nhân nói thế Dung chỉ cười. Nụ cười méo xẹo.

Trình dự án và thuyết phục mãi, Dung được giám đốc giao cho 1.000 m2 đất trồng thử atisô. Dung khấp khởi mừng thầm, vậy là atisô của Dung có cơ hội được phủ xanh vạt đồi này rồi. Nhận tiền để thực hiện dự án, Dung mới ngã ngửa, chi phí quản lý, hội họp, liên hoan và đủ thứ không tên khác ngốn mất gần nửa. Dung chỉ còn đủ tiền để mua cây giống, mọi thứ còn lại Dung phải tự lo. Tay Dung chỉ quen gõ bàn phím và nhấn chuột. Làm đất, gieo giống, ủ phân... cuối cùng lại đến tay chị Nhân. Hai chị em túi bụi ngoài đồi cả ngày. Dung lập cả nhật ký theo dõi tiến trình phát triển của atisô, cặm cụi so sánh với những kiến thức trong sách vở. 1.000 m2 đất, Dung thuộc từng nhành cây, mầm lá. Dung gửi cả mẫu cây về trường nhờ thầy chủ nhiệm phân tích thành phần và đánh giá. Dung đứng giữa đỉnh đồi, dõi mắt ra xa. Dung đã nhìn thấy sự lớn mạnh từng ngày của những mầm cây atisô. Dung đã có cả một vườn cây xanh mướt. Huyện cử một đoàn cán bộ về nghiệm thu. Dự án của Dung được thống nhất đánh giá tốt.



Và cũng nhờ atisô, Dung bỗng trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Dung được xuống huyện học cảm tình Đảng. Đâu đâu cũng nhắc đến Dung như một điển hình của sự tìm tòi, sáng tạo trong thanh niên. Dung bị vây kín bởi những buổi báo cáo thành tích. Những cuộc họp làm Dung phát ngấy. Atisô muốn thành sản phẩm xuất khẩu thu ngoại tệ còn cần đầu tư vào dây chuyền chế biến, đóng gói và bảo quản. Dự án giai đoạn hai của Dung vẫn chưa được phê duyệt. Đi đến đâu Dung cũng chỉ nhận được những lời hứa hẹn, sẽ xem xét, sẽ giải quyết. Dung đứng giữa những hàng cây atisô đã qua thời kỳ thu hoạch, lá cây dần ngả màu mà không khỏi xót xa. Chị Nhân vỗ về, phải bình tĩnh chứ em, một dự án lớn như thế cần phải có thời gian. Dục tốc bất đạt em ạ. Dung ngồi bệt xuống đất, tần ngần. Lúc nào cũng chờ đợi, Dung còn phải chờ đợi bao lâu nữa trong khi thị trường có chờ đợi Dung đâu!

Cuối cùng thì giám đốc cũng gọi Dung lên gặp, nhưng không phải để giải đáp thắc mắc của Dung. Trung tâm Khuyến nông chỉ có chức năng nghiên cứu giống cây và ứng dụng phương pháp mới. Việc thành lập công ty để chế biến và phân phối ra thị trường không phải là việc của trung tâm. Tôi biết cô rất có tâm huyết với cây atisô nhưng chúng ta chỉ dừng lại ở việc trồng thí điểm. Hay là cô thử nghiên cứu về đề tài khác nhé. Dung ngồi im trên ghế, mắt tròn xoe. Nhưng nghiên cứu phải đi liền với thực tiễn, nghiên cứu phải ứng dụng chứ ạ. Thế này nhé, cần phải hiểu rõ vị trí và khả năng của mình cô Dung ạ. Cô đang là đối tượng cảm tình Đảng, hành động phải thận trọng, đảng viên làm sao mà làm kinh tế được, thành lập công ty, tuyển dụng lao động, như thế là bóc lột đấy... Dung điếng người, ngồi bất động trên ghế.

Chi bộ Đảng họp để nhận xét giới thiệu đảng viên mới. Dung được mời đến để phát biểu ý kiến và nghe góp ý. Dung bảo mục đích em lên đây là muốn tìm một phương thức mới, muốn tạo ra một dây chuyền hoàn chỉnh từ đầu vào đến đầu ra của cây atisô. Liên quan đến bài toán kinh doanh, chức năng trung tâm chỉ để nghiên cứu chắc không còn phù hợp nữa, có lẽ phải thành lập công ty, đừng nghĩ công ty là bóc lột, chúng ta có doanh nghiệp Nhà nước đấy thôi. Không lẽ các công ty Nhà nước cũng là bóc lột cả sao? Mọi người ngồi nghe Dung phát biểu, bảo cần phải làm rõ tính cơ hội trong việc vào Đảng của Dung. Vào Đảng là để cống hiến cho lý tưởng cao đẹp chứ không phải vào Đảng để làm bước tiến thân. Dung có hộ khẩu dưới thành phố, có bằng cấp đàng hoàng, xin về vùng rừng núi chẳng qua là để lợi dụng danh nghĩa Nhà nước, lợi dụng Đảng để kinh doanh, để mưu cầu lợi ích cá nhân. Tai Dung ù đi, mắt Dung mở to. Những người nghi ngờ về tính cơ hội của Dung chính là những đồng nghiệp thân quen. Dung không hiểu nổi, cùng một hành động, cùng một người nhận xét mà tại sao lúc lại là tốt, lúc lại là xấu. Cũng chính những đồng nghiệp này đã từng hết lời ca ngợi việc Dung lên vùng cao là đầy nhiệt huyết, đầy trách nhiệm của trí thức trẻ đấy thôi.

Cuộc họp kết thúc, chỉ có tác dụng làm Dung bế tắc và hoang mang. Việc giới thiệu Dung vào Đảng cần tiếp tục xem xét. Dung đi lang thang một mình ra vườn atisô. Đêm nay trời trong và cao. Dưới ánh trăng bàng bạc, từng phiến lá xanh ánh lên, lấp lánh. Dung nghĩ về những tháng năm sinh viên với những hoài bão, dự định. Cây atisô của Dung, chắc lại trở về với ống nghiệm mà thôi. Dung gục mặt, thẫn thờ. Bất chợt có bàn tay đặt lên vai Dung. Dung ngước mắt nhìn. Chị Nhân ôm Dung vào lòng, vỗ về: “Mạnh mẽ lên chứ em, những chuyện thế này rồi em sẽ gặp thường xuyên”.

Nhưng rồi Dung không thể mạnh mẽ, những háo hức của cái ngày xách hành lý đi thẳng vào Trung tâm Khuyến nông Dung không tìm lại được. Hằng ngày ra vào nhìn hàng cây atisô lụi dần, Dung cứ thấy lòng mình thắt lại. Dung thu xếp đồ đạc, viết cho chị Nhân vài dòng rồi vẫy xe ôm xuống thị xã mua vé tàu về Hà Nội. Dung không dám đối diện với chị Nhân, người phụ nữ cả đời lặng lẽ hy sinh vì cuộc sống của mọi người. Dung được sinh ra vào một thời đại khác. Dung có những toan tính và những lý do riêng của mình. Dung cũng bị những điều kiện vật chất quyến rũ, chi phối. Dung không hành động không có mục đích. Dung muốn làm giàu. Dung không thể ở lại trung tâm, tiếp tục nghiên cứu khi Dung biết mục đích của mình không đạt được. Dung lên tàu, vội vã bỏ lại sau lưng Sa Pa với chập chùng gió, chập chùng mây.

Lâm ra tận sân ga đón Dung, lặng lẽ nắm tay Dung băng qua đám đông nhốn nháo mà không hề hỏi han. Nét mặt Lâm bình thản, chỉ như Dung vừa trở về sau một chuyến công tác xa. Dung nhón chân đi bên cạnh Lâm, bối rối đến ngạt thở vì sự ồn ã, huyên náo của phố phường. Lâm cười, siết chặt tay Dung “Về nhà thôi, em nhé!”. Dung ngoan ngoãn gật đầu. Đi mãi cuối cùng cũng chỉ có nhà mình là nơi trông ngóng, là nơi thúc giục trở về. Và Dung nghe giọng mình thật nhỏ, thật khẽ khàng “Vâng, về nhà thôi!”.

Và đêm ấy Dung đã mơ. Trong giấc mơ Dung thấy mình đem sổ đỏ nhà đi thế chấp vay tiền ngân hàng để thành lập công ty xúc tiến đầu tư nông nghiệp. Cầm giấy phép trong tay, Dung chỉ muốn khóc, atisô ơi, mau mau mà thành ngoại tệ đi thôi!

Offline SUCSONG@  
#43 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:16:16(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Truyện ngắn thứ 7

Đỗ Thanh Vân

Như ngôi sao mượn ánh sáng
Tôi mượn từ đời sống những ký ức để lớn lên.


1. Thụy khúc khắc ho, ấp mu bàn tay lên trán, thấy hâm hấp sốt. Chiều đã đổ ánh cuối ngày vàng vọt ngoài kia, mấy con chim hoang dại nào cất cánh xao xác lên trong tàn cây khế sai trĩu trịt. Khế chín muỗm rụng đầy mặt sân, cùng với lá khô bốc lên mùi ngái nồng dậy men.

Anh vừa về. Ngay khi cái dáng cao gầy đượm buồn của anh rẽ khuất phía bên kia mép tường đổ của căn nhà giải tỏa nửa chừng, Thụy kéo lê chiếc ghế dựa ra mép hiên, nằm ngả lưng xuống đó và bắt đầu ho một cách chậm rãi, khoan khoái. Vì chẳng còn anh ngồi đó câu thúc đủ chuyện, nhìn Thụy đầy lo lắng, trách móc đến độ mỗi lần muốn ho, Thụy phải hơi ngửa cổ về phía trước, nín thở, mặc cho mặt đỏ ửng lên và nước mắt chỉ chực trào ra. Bây giờ, Thụy nằm duỗi mình, nhìn lên trên những thanh sắt giàn đan ô, cây hoa tỏi mọc lan trên đó tím ngát. Thụy bất chợt nghĩ, cuộc sống lắm lúc như một giấc mơ dài, về cuối, người ta mới mơ màng nhận ra muôn đời muôn kiếp người chồng chéo lên nhau như tơ giăng. Ôi, giấc hoàng lương. Và anh, e dè nói với Thụy:
- Em có làm sao không? Ánh mắt của em lạ lắm, có vẻ sáng hơn bình thường?
- Hay là vì em đang yêu?
Thụy cười rầu. Anh lặng im.
- Yêu thì không đi kèm với ho và suy nhược. Nhìn em bây giờ giống cái bóng của bà nội anh.
- Tệ đến thế sao? Bà anh bảy tám chục tuổi rồi mà. Em thì mới hai mươi.
- Ừ, vậy mà mỗi lần hơi thấy mệt, bà lại giục chở đi khám bệnh ngay. Không như em, quá lì lợm và ỷ lại.

Thụy mỉm cười nhẹ tênh. Nếu mà cứ mãi mãi được ỷ lại vào một điều gì đó trong đời, chẳng phải tuyệt sao? Như bức tường có thể dựa vào bất cứ lúc nào, như chiếc giường có thể ngả lưng bất cứ lúc nào? Người lì lợm, đôi khi, lại là những người cố ảo tưởng một điều gì đó để dựa dẫm phía sau lưng.

Nhưng khi anh về rồi, Thụy cảm nhận rõ hơn cơ thể mình đang bất ổn. Ánh mắt Thụy về chiều đúng là thi thoảng có sáng long lanh khác lạ, thi thoảng ho gió, sốt nhẹ. Thời gian dài vừa qua, Thụy sút cân, không thiết ăn uống gì, thậm chí trở nên hiền lành rụt rè vì ngại không muốn va chạm với ai. Hơn cả, Thụy luôn thấy bất an, lo lắng, bồn chồn mỗi khi ngày đổ dần về đêm, đến độ một tiếng động lao xao ngoài bóng tối khu vườn cũng khiến Thụy giật mình. Tất cả những triệu chứng giản dị ấy khiến Thụy nghĩ đến lao - một kiểu lao nào đó mà tùy lứa tuổi mắc phải, phần nhiều vì tâm tưởng, chứ không phải vì chế độ ăn uống hay nhọc mệt lao động.

Có nỗi buồn nào cứ lớn dần mãi trong Thụy chẳng thể hiểu nổi nguyên cớ. Thụy chẳng có gánh nặng nào phải gánh, chẳng có bi kịch nào phải chịu, sẽ rất đáng bị ăn một cái cốc đầu nếu than thở với ai đó rằng Thụy đang buồn. Vì lẽ gì? Thụy đâm ngại giao tiếp, thói quen tâm sự với mẹ cũng trở nên lơ đễnh. Thụy ra sức kiếm đủ mọi cách để bỏ bữa, vì không muốn ăn uống. Đêm về, Thụy ôm lì lấy máy vi tính mà vào mạng hay viết lách, có khi đến hai ba giờ sáng, đành phải dùng lý trí mà lấn át cơn ngái ngủ. Bố mẹ đã quá sốt ruột khi nhìn con gái đi đi về về như bóng, ra sức nài ép, dậm dọa Thụy đi khám bệnh hay cắt thuốc bắc. Thụy chỉ cười trừ.

2. Khi Thụy bước vào phòng khám, sau một đợt dài bệnh nhân lấy số từ tờ mờ sáng, nữ bác sĩ độ ngoài ba mươi, người đậm với khuôn mặt quá tròn, đẩy nhẹ gọng kính lên cho khớp sống mũi:
- Xét nghiệm à? Có thấy triệu chứng gì không?
Thụy lặng lặng kể lại. Bác sĩ lắc đầu dòm chừng, và quay lưng nói gì đó với cô y tá, rồi đẩy cửa ngách sang phòng bên. Cô y tá hỏi Thụy có ăn sáng chưa, tỏ thái độ hài lòng khi biết Thụy vẫn chưa ăn gì, yêu cầu Thụy khạc đờm thật mạnh vào một khay nhỏ tròn dẹt bằng thủy tinh, sau đó đậy nắp lại và hí hoáy dán nhãn.

Công đoạn tiếp theo sau thật sự hấp dẫn với Thụy. Cô y tá, bằng cử chỉ rất thành thạo, tiêm vào tay Thụy, đoạn giữa cùi chỏ và cổ tay. Vết tiêm ngay lập tức tròn nhọn lên nho nhỏ như hạt đậu xanh, rồi cô ta rút từ túi áo bờ-lu ra cây viết bi xanh, vạch một vòng tròn đường kính độ chừng một phân quanh hạt đậu ấy.
- Rồi, cô cầm giấy này về đi. Đúng hẹn lại đến để biết kết quả.
Bước ra bãi giữ xe, nắng đã lên gay gắt, Thụy theo phản xạ khẽ nheo mắt lại tránh sáng, trong người dấy lên cảm giác nhẹ nhõm như trút được gánh khỏi vai. Ai cần biết kết quả chứ? Thụy bật cười. Ai mà thèm chứ? Chỉ cần đến được đây khạc khạc nhổ nhổ, yên chí người ta sẽ soi xét cẩn thận thứ chất dịch từ người mình; rồi được tiêm mấy thứ vớ vẩn gì đó, có lẽ vô hại. Thụy định quẳng hết mọi lo lắng đằng sau, quay trở lại với cuộc sống rộn rịp nhỏ bé đang đợi cô.

Thụy ở vùi trên thư viện đến xế chiều, bắt đầu thấy húng hắng ho lại, và ngây ngất sốt. Trở về nhà, điều đầu tiên Thụy bắt gặp là ánh mắt trách móc pha lẫn hoài nghi của mẹ:
- Con có ăn trưa không đấy?
- Dạ...
- Thế cái dấu gì ở trên tay đấy? Thôi chết!
Không sao hết. Thụy cố gắng an ủi và gạt nhẹ tay mẹ ra khi mẹ giằng lấy cánh tay Thụy. Chỉ là một vết kiến cắn, và đứa bạn nghịch ngợm đã vẽ lên đó vòng tròn bằng bút bi xanh thôi. Mẹ tránh sang một bên cho Thụy vào trong, bất lực vọng theo:
- Con làm gì thì làm. Đến bữa xuống ăn cơm nhé!
- Dạ.
Mặc dù thế, Thụy nằm xuống giường và thiếp đi cho đến khi mẹ đẩy cửa phòng vào, tay bưng khay cơm canh. Rồi ngồi đó đợi nhìn Thụy ăn.
- Mẹ làm gì thế? Sao phải bưng lên đây? Con không sao mà.
- Mẹ chỉ tin những gì mẹ nhìn thấy thôi. Con có chuyện gì không? Chuyện ở trường hay ở chỗ làm thêm? Hay là chuyện tình cảm?
- Không. Mẹ à. Con bình thường.
- Vậy thì ăn đi. Ăn nhiều vào.
Thụy lùa một mạch hai chén cơm. Nhiều lúc tưởng chừng nghẹn đến nơi, Thụy lại hớp một hụm canh, dồn cơm xuống. Mẹ nhìn theo kỹ càng không bỏ sót bất cứ chi tiết nào, nghi ngại. Mẹ khép lại cánh cửa rồi, nghe được tiếng dép quẹt nhẹ trên cầu thang xa dần, Thụy vào nhà tắm, móc họng, ói ngược ra.

Đồ mất dạy. Thụy tự nhủ. anh là đồ mất dạy. Chỉ có hạng không ra gì mới làm trò đó. À, mẹ anh bưng cơm lên tận phòng dỗ anh ăn, và anh lại ói ra, trong khi thân thể anh đang lành lặn, khi anh mới hai mươi tuổi đầu, khi mà mấy đồng lương làm thêm của anh chỉ đủ chi trả vớ vẩn và mẹ thì suốt ngày dỗ nghỉ làm ở nhà để mẹ cho tiền dư dả mà tiêu. Thụy giơ tay lên định tát cho mình một cái, chợt chựng lại, đập vào mắt Thụy, chỗ hạt đậu được khoanh tròn trên cánh tay đã ửng đỏ, hơi lan ra xung quanh.

3. Cầm trong tay tờ giấy ghi kết quả xét nghiệm BK+, Thụy tự trách mình. Nếu như không quay lại, có lẽ Thụy đã tránh được những lo lắng không cần thiết. Thực tế, việc mỗi buổi sáng phải ghé trạm xá uống một vốc thuốc trước mắt y tá khiến Thụy thấy phiền kinh khủng. Điều an ủi buồn cười là Thụy sẽ được khám chữa phát thuốc hoàn toàn miễn phí, chỉ phải đóng tiền thế chân một trăm nghìn đồng, đến lúc khỏi lại được hoàn trả. A, ra là nhiễm căn bệnh tầm cỡ quốc gia như bệnh lao cũng có ưu đãi khác thường. Thụy nhìn xuống cánh tay, vết đỏ đã lan ra bên ngoài vòng tròn bút bi.

Sáng nào Thụy cũng dậy sớm tập chạy bộ thể dục, lúc về tạt ngang trạm xá uống thuốc, rồi lại chạy về nhà. Mấy ngày đầu choáng thuốc, váng đầu không chịu nổi, nhưng sang tuần lễ thứ hai, Thụy đã thấy trong người dễ chịu hơn và bắt đầu ăn lại được. Gia đình hoàn toàn tin tưởng vào điều kỳ diệu mà thể dục thể thao đem lại, đến độ bố mẹ và thằng em trai nằng nặc đòi đi chạy bộ chung. Thụy lắc đầu. Cô muốn chạy một mình. Tất nhiên.
Những tứ truyện ngắn cứ ào ào tuôn chảy khi đêm về, Thụy tảng lờ chúng đi như kẻ làm ngơ thịt giữa mùa chay. Nằm trên giường, Thụy ép tay dưới gối và hít thở sâu, tưởng tượng về cái củ lao sậm màu dưới xương đòn bên phải đang nhỏ dần, mờ dần. Nếu nó lớn lên cũng chịu, Thụy làm động tác lè lưỡi trong bóng tối. Kệ anh. em không quan tâm nữa.

Điều quan tâm lớn nhất của Thụy lúc này là việc dành nhiều thời gian và tâm trí để lo lắng chăm chút cho chính bản thân mình, tập lắng nghe tiếng nói từ cơ thể còn-đang-phát-triển, lẫn trong những âm thanh xao động của cảm xúc. Một câu chuyện buồn đã trôi qua trong Thụy. Chưa bao giờ cô nghĩ đến lúc nào đó, mình đủ dũng cảm ngồi trước màn hình vi tính và lóc cóc gõ lại nó, chưa nói gì đến chuyện phơi nó lên mặt báo để mọi người nhìn vào. Thụy luôn cố quên và tự trấn an mình vô sự. Điều giả dối với chính bản thân, xem ra, còn nguy hại hơn sự lừa dối người khác. Một dạng của ẩn ức lớn dần lên trong Thụy, hiện nguyên hình là một củ lao sẫm màu. Những cô gái khác ở tuổi Thụy có như thế này hay không, Thụy không biết nữa. Thực sự, Thụy không tin lắm một đứa luôn dụng công lý trí hóa cuộc sống như mình, lại có lúc vướng bệnh vì một chuyện phiền lòng. "Cuộc sống là con đường dài, trên đó, người ta nghe và thấy những chuyện mà bản thân cứ ngỡ là chẳng gặp bao giờ. Anh chưa bao giờ nghĩ mình sẽ mến thương một cô bé thất thường như em!". Anh đã nói thế với Thụy, sau khi Thụy từ chối lời tỏ tình từ anh. Vì Thụy vẫn còn đau. "Cho em thêm thời gian. Để cho em kịp lớn nhé! Vì em chỉ mới hai mươi". Anh xách chổi ra mé vườn quét lá và khế. "Ừ, anh chờ."

4. Thụy nguyện rằng nếu anh có rời bỏ Thụy mà tan biến vào đời sống ngoài kia, Thụy vẫn sẽ đi đến tận cùng kỳ chữa trị kéo dài chín tháng, diệt cho đến hết những ô sậm trên bản phim chụp phổi của mình. Bản thân Thụy đã không còn ý nghĩa gì nữa trước sự lo lắng và tình yêu thương của gia đình. Thụy đâu chỉ vì mình Thụy được để mà thức đến hai ba giờ sáng viết hàng trăm điều lang thang vơ vẩn, trong đó không có lấy một dòng một chữ đá động đến điều Thụy đang thực sự nghĩ, và cũng chẳng gì gợi nhắc đến kỷ niệm buồn bã cố tránh né. Lâu lâu, trong yên ắng của ngày, Thụy tự mắng mình là con bé hèn nhát.

Con bé hèn nhát mua cho mình một cái chén, một đôi đũa, một cái muỗng, một cái ly sứ xinh đẹp và giải thích rằng không có đủ tiền sắm cho cả nhà. Mẹ Thụy cười thông cảm, bẹo má con gái cưng. Thụy cứ thế quây riêng các thứ đồ dùng của mình. Cái khăn tay màu hồng nhạt viền hoa được lôi ra, Thụy cầm nó theo suốt ngày và điệu đàng che miệng mỗi khi ho hay nói chuyện. Bố Thụy cũng cười, chẳng hiểu gì. Chỉ duy có một vật bí mật được cất kín trong nhà tắm ở phòng riêng là cái lon sữa bò rỗng, xạm đen vì lửa. Thụy cẩn thận khạc nhổ vào đó khi cần, và đốt cháy nó.

"Anh sẽ chờ!". Và Thụy cũng chờ đợi bình thản. Sau chín tháng, đến kỳ hạn cuối cùng Thụy lận vào bóp một trăm ngàn đồng thế chân, cảm giác trống trải lạ kỳ. Như là chấm dứt một thói quen, hay là chia tay một người bạn thân.

Nắng đã lên lao xao, ngoài phố đông người. Thụy mơ hồ thấy những buổi sáng chạy bộ cùng với gia đình, những buổi chiều giữ thang cho anh vạt lá hái khế. Và, khi đêm về, biết đâu Thụy lại mở máy vi tính bắt đầu lóc cóc gõ lên bàn phím vết đau của mình, cho dù nó chưa lên da non.

Offline SUCSONG@  
#44 Đã gửi : 04/09/2007 lúc 06:16:46(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Và sững lại ở đâu đó...

Nguyễn Thu Phương

Khu lán trại thăm nuôi. Như mọi cuộc thăm, người đi thăm và người được thăm theo quy định ngồi đối diện nhau qua một cái bàn.

Mặt bàn rộng mênh mông, để có thể bày la liệt thức uống đồ ăn. Nói chung là anh và cô muốn nắm được tay nhau thì sẽ phải băng qua muôn trùng cách trở những phở, thịt bò, heo, chả lụa, nem nướng, cà phê, trái cây, bánh ngọt, kẹo... Tóm gọn lại là bao nhiêu yêu thương đã dồn hết vô bao tử.

Như với mọi đầu mối kinh doanh độc quyền, cô sẽ phải mua hàng hóa, thực phẩm, trái cây của căng-tin với một cái giá đắt gấp x lần giá ở thành phố, để gởi vô cho anh (với x là ẩn số bất bình mà chỉ những người trong cuộc mới thấm). Vì lý do, hàng mua ở thành phố lên bắt buộc phải dùng ngay, không được gửi vào (quá dễ hiểu, lỡ có “hàng trắng”, “hàng đen” nhồi nhét, giấu giếm trong đó thì sao, ai mà kiểm soát hết được!). Đọc tới đây, hẳn bạn đọc đã đoán ra cái trại mà cô cặm cụi mỗi tháng đi thăm anh là trại gì. Thưa vâng, chính là trại cai nghiện. Dành cho hai loại đối tượng nghiện ma túy: cai tự nguyện, hoặc cai cưỡng chế theo “nghị định hai mươi”.

Anh thuộc nhóm thứ hai. Do lẽ anh đã một mực che giấu, kiên quyết không tự nguyện cai cho tới tận khi bị bắt. Cha mẹ anh, vì quá giận dữ, buồn đau và nhục nhã nên đã tuyên bố từ bỏ, mặc kệ anh sống hay chết, hay cùng đường, hay bế tắc, hay tuyệt vọng, hay vất vưởng. Còn cô thì nghĩ tới nghĩ lui cũng không bỏ được. Bởi vì cô xót xa tội nghiệp cho anh, không biết có còn vì yêu...

Sở dĩ không biết có còn vì yêu không, là bởi dân nghiện ma túy là một dạng người rất khó để có thể chịu đựng nổi, đừng nói là để yêu. Dùng từ ngữ nặng nề phác thảo thì không đúng với bản chất nhân hậu, vị tha của cô, nhưng không dùng thì khó mà lột tả hết sự kinh khủng của anh trong suốt giai đoạn bê tha, tồi tệ và gớm ghiếc đó. Suốt hai năm, mọi khuyên ngăn của cô đều như nước chảy lá môn. Anh không mảy may nghe theo, dù luôn miệng nói hối hận và hứa hẹn với cô đủ mọi điều tốt đẹp. Đến lúc bó tay bất lực hoàn toàn, cô ngồi chảy nước mắt ngẫm nghĩ nọ kia, rồi lẩm cẩm tự trách. Hóa ra tình yêu của cô với anh không đủ mạnh (hoặc không đủ sâu), nên anh mới phải đi tìm kiếm thêm một thứ đam mê ngoài niềm đam mê của giới tính. Còn anh thì giải thích cụt ngủn rằng mình quá ngu dại khi nghĩ có thể chế ngự được “nó” – cho nên mới thử một lần, để rồi lậm luôn, không tài nào dứt khỏi “nó” được nữa...

Thời gian đầu anh vô đây đúng nghĩa thân tàn ma dại, mình hạc xác ve. Sau đó từ từ, anh có da có thịt và rắn rỏi (đen đúa, gân guốc) hẳn lên. Ấy là do anh bị buộc phải tham gia lao động chân tay, và rèn luyện theo những khuôn khổ giờ giấc và hoạt động tạm coi là khắc nghiệt (bởi trước đây ở nhà, anh chỉ biết ăn, vui, chơi và học). Vốn kiến thức (anh đang là sinh viên năm 2 Đại học Kinh tế) bây giờ giúp anh tự bảo vệ mình trong hoàn cảnh sống mới. Ví dụ như việc tự phòng tránh lây nhiễm AIDS, hay đơn giản hơn gấp trăm lần là phòng tránh bệnh... ghẻ ngứa, lác đồng tiền, nứt nẻ gót chân, nấm móng... Kiến thức cũng giúp anh đối nhân xử thế sao cho êm đẹp, để có thể hòa mình tồn tại được trong một cộng đồng quá ô hợp, chất chứa nhiều mâu thuẫn, gai góc và phức tạp. Ngoài ra, tri thức còn giúp anh phân biệt rõ ràng phải trái, đúng sai – khi mà lực lượng nhân viên phụ trách trại không phải ai cũng có học và tử tế.

Bên cạnh những tấm lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của những người thanh niên xung phong sẵn sàng chết sống vì lý tưởng, vẫn còn một số kẻ coi trại viên cai nghiện như một thứ cặn bã, muốn xử tệ, khinh bỉ, dập vùi sao cũng được. Và anh còn kể cho cô biết, rằng có một “thế lực đen” đang ngấm ngầm hoành hành trong trại. Và rằng, nạn cờ bạc, đánh đấm, xử tệ nhau theo kiểu giang hồ, đại bàng... là những thứ không thể tránh. Cho nên, phải tự giữ mình, tự kiểm soát, và tự vượt qua...

Còn cô, cũng muốn kể cho anh nghe về chuyện cô phải trốn lén gia đình để đi thăm nuôi anh mỗi tháng, nói dối là “đi thực tế” (nếu cha mẹ cô biết sự thật cô đi đâu, lẽ đương nhiên sẽ nổi giận, rồi cấm hẳn). Cô còn muốn kể chuyện mẹ anh, cứ gần đến ngày thăm nuôi là khóc ròng, nài nỉ ba anh cho đi. Nhưng ba anh vẫn kiên quyết không. Ông muốn trừng phạt anh đúng trọn một năm, để anh đủ đau, đủ buồn, đủ thấm thía. Và chắc hẳn là có biết nhưng ông đã phải làm ngơ, để mẹ anh âm thầm gửi gắm tiền bạc, dấm dúi dặn dò cô đủ thứ trước mỗi chuyến đi. Rồi thở than, nước mắt ngắn dài xót xa cho anh mỗi khi cô trở về.

Một tiếng rưỡi đồng hồ để gặp mặt nhau mỗi tháng. Có quá nhiều việc để làm, và quá nhiều điều phải nói. Thế rồi cũng không nói được bao nhiêu, chẳng chăm sóc nhau được mấy chút, để rốt cuộc lần nào chia tay cô cũng thấy thời gian sao quá ngắn. Nhìn anh lủi thủi cùng các trại viên bị “lùa” đi, vòng vèo theo những con đường rào chắn kỹ càng để về lại chỗ ở, cô nhận ra mình bắt đầu đếm lùi lại cái vòng thời gian cho một tháng mới. Thật kinh khủng, cả anh và cô sẽ phải trải qua ít nhất là bốn năm. Bốn năm của tuổi thanh xuân, sẽ có bao nhiêu điều hay, bao nhiêu việc tốt, bao nhiêu cái đẹp, bao nhiêu sự thú vị, bao nhiêu cơ hội hấp dẫn nếu anh cùng với cô sống lành mạnh ở ngoài đời. Bốn năm thăm thẳm, dằng dặc, mỏi mòn, bó chặt trong một cuộc sống cô quạnh, tù hẹp, khép kín. Đồng thời gây ra hiệu ứng buồn khổ lây lan cho những người thân, người yêu, người quen...

* *

*

Trong phạm vi các hoạt động sôi nổi chào mừng dịp kỷ niệm ngày thành lập Đoàn 26-3, cô được bình chọn là sinh viên tiên tiến. Số người tham gia chuyến giao lưu với học viên trường cai nghiện lên tới ba mươi tám người (chưa kể các phóng viên báo, đài), trong đó có cô. Thật là một tình cảnh éo le. Cô là đại biểu, là khách mời. Không ai biết cô có người yêu đang cai ở đúng cái trường mà đoàn sẽ tham quan, giao lưu, trao đổi. Cô sẽ đi lại đúng con đường mà mười một tháng qua tháng nào cũng phải đi, nhưng trong một tư thế khác. Cô buộc phải che giấu sự thật. Vì cô. Vì anh. Cũng may chuyến giao lưu chỉ dài hai ngày.

Khi đoàn đến nơi, cô nơm nớp lo những nhân viên của trại sẽ nhận ra mình. Nhưng may làm sao họ không hề nhớ (rằng cô gái gầy gò, khổ sở và đáng thương này đã không dưới mười lần xuất hiện ở đây trong một tư cách khác). Cô (tất nhiên cùng với cả đoàn) được hưởng những ưu tiên của đại biểu, của khách mời. Về chuyện ăn, chuyện uống, chuyện ngủ, chuyện nghỉ... Được đối xử tốt nhất trong khả năng người ta có thể chăm sóc. Nhưng quan trọng nhất không phải là những ăn, uống, ngủ, nghỉ đó. Mà là cô muốn hiểu sâu hơn, rõ hơn về “cái ruột” bên trong của trại, nơi anh đang từng ngày phải sống qua suốt bốn năm tươi đẹp của tuổi trẻ.

Khi cô là thân nhân đi thăm nuôi bình thường, cô bị hạn chế ở ngoài vòng rào dùng làm ranh giới của trại, bị cấm không được đưa điện thoại di động cho anh để anh nói chuyện với ba mẹ. Dù rằng cuộc nói chuyện đã được giải thích là vì mục đích ăn năn sám hối, và để cầu xin một sự tha thứ. Cô cũng không được quyền chụp ảnh hay quay phim anh, để đem về cho ba mẹ anh xem. Chẳng một nhân viên nào có thì giờ ngồi giải thích bất cứ điều khúc mắc gì cho cô. Tất cả chỉ là canh gác, theo dõi, nhắc nhở, và... bán hàng căng-tin giá cao.

Còn bây giờ, cô được hỏi và trả lời tận tình, cặn kẽ. Cô được tiếp xúc với tất cả những ai mà cô muốn, cô yêu cầu. Cô được thoải mái sử dụng điện thoại di động, máy chụp hình. Đêm giao lưu đó, những trại viên mặc đồng phục của trại (chắc là đã cố để chỉnh tề, nhưng vẫn thấy tội nghiệp vì sự nhếch nhác) hăng hái lên sân khấu hát ca vui vẻ. Đoàn khách mời cũng nồng nhiệt đáp trả bằng thơ, ca, chuyện kể, tâm tình... Khi đến lượt cô lên hát, cô đã cố ý chọn bài “Không còn mùa thu” của nhạc sĩ Việt Anh – là bài mà cả cô lẫn anh đều rất thích, rồi vừa hát vừa tranh thủ dõi tìm anh giữa bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu ánh mắt chăm chú bên dưới. Nhưng tuyệt nhiên không thấy. Cũng dễ hiểu thôi, lượng trại viên dồn tới hội trường tham gia buổi giao lưu chỉ khoảng vài trăm, là một phần rất nhỏ của toàn bộ quân số hai ngàn người. Tan cuộc giao lưu, cô thấy ở cuối khán phòng có một đám pê-đê môi đỏ mắt xanh. Hôm sau đem chuyện đó ra hỏi, cô được những người có chức trách giải thích là không thể cấm họ. Dù là pê-đê mà nghiện thì vẫn cứ phải cai, nhưng là cai ma túy, không phải cai việc nhập nhằng giới tính. Cô chỉ mong anh đừng dính dáng gì tới những người bất thường, cho dù có phải sống chung “một rọ” cùng họ...

Đêm hôm đó là một đêm cô khó ngủ. Vì nhiều lẽ. Lạ giường lạ chiếu, lạ nơi lạ chỗ thì đã đành, nghĩ ngợi nhiều cũng có. Nhưng băn khoăn nhất là cô cố tưởng tượng trước, nếu như ngày mai tình cờ hai đứa chạm mặt nhau, giữa thanh thiên bạch nhật, giữa bao nhiêu người. Thì sẽ thế nào? Tất nhiên cả cô lẫn anh chẳng đứa nào mong một sự cảm thông theo kiểu thương hại, một sự quan tâm theo kiểu tội nghiệp, và những lời đàm tiếu xì xào chất chứa bao nhiêu nghi ngờ ẩn ý... Cô cũng không muốn anh phải khổ tâm khi đối diện với khoảng chênh quá sâu, quá lớn giữa hai người. Nhưng thật lòng là cô cũng có một chút ích kỷ khi nghĩ cho mình. Rồi sẽ thế nào đây khi người ta bỗng dưng phát hiện: Một sinh viên tiên tiến “điển hình” mà lại yêu đương “vớ vẩn” thế này!

Vậy mà rồi hôm sau... Đã không có cuộc tình cờ chạm mặt dễ gây khó xử nào hết. Cô theo đoàn đi thăm một đội không phải đội của anh. Cô theo đoàn vào tham quan khu trường học, nơi có thể là duy nhất có những giáo viên hết sức độc đáo: Đảm đương việc dạy học từ lớp một tới lớp mười hai, với đủ các môn! Cô theo đoàn vào xem trạm y tế, nơi có những bệnh nhân nhiều nguy cơ lây nhiễm hơn bất cứ đâu, đòi hỏi các bác sĩ tại chỗ phải tận tâm tận lực, và dũng cảm hơn gấp nhiều lần bác sĩ của đời thường. Cô theo đoàn quan sát khu bếp ăn sạch sẽ, ngăn nắp, đâu ra đó. Cô theo đoàn ghé trại mộc mỹ nghệ, mộc gia dụng, đồ sắt, xưởng may, khu lọc nước, khu sơ chế hạt điều, lò làm bánh mì, làm bún...

Một chi tiết rất dễ thấy là những hình ảnh to nhỏ cắt ra từ sách, báo, chụp các cô gái (đẹp) được dán chi chít trên rất nhiều mảng tường, ở khắp mọi nơi, kể cả trong... nhà vệ sinh. Trại cai nghiện toàn trại viên nam, hầu hết trẻ, khá nhiều chưa vợ. Sự thiếu thốn tình cảm thật kinh khủng, có thể là thứ thiếu thốn đáng sợ nhất cho chặng đường tu dưỡng bốn năm dằng dặc. Và cô chạnh lòng nhớ đến những cái siết tay vội vàng của anh mỗi lúc chia tay. Những nụ hôn lướt nhanh qua môi, qua má... Những va chạm tranh thủ nhưng thấm thía, sẽ là “vốn liếng tình cảm” để anh gặm nhấm dè sẻn rất lâu... Cô ứa nước mắt, lại không dưng ao ước: Trời ơi! Giá như có thể quay ngược được thời gian, để anh đừng bao giờ dại dột sai lầm thử qua “nó”, để rồi bị cuốn luôn vào vòng mê lụy. Giá như...



Đêm hôm đó là buổi tiệc tiễn đưa, vì sáng mai đoàn sẽ chia tay ra về. Đàn hát, chuyện trò, vui vẻ... gần như trắng đêm. Cô biết thêm những con người dày dạn phong sương. Rất kiên cường, giàu nghị lực, đậm ý chí và lòng quyết tâm, nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Những người đã gắn bó với màu áo xanh thanh niên xung phong suốt dọc thời gian ba mươi năm thành lập lực lượng. Họ xuất thân từ nhiều thành phần và hoàn cảnh xã hội, học vấn khác nhau, tâm tánh cũng muôn màu muôn vẻ, nhưng đều có chung một phẩm chất là sống rất lạc quan, và chịu đựng gian khổ vô cùng giỏi. Họ hoàn toàn có quyền đòi hỏi một đời sống an nhàn, thảnh thơi, sung sướng, sau bao nhiêu năm cống hiến không mệt mỏi. Vậy mà họ đã tự nguyện, đã xung phong gánh lấy trách nhiệm cai nghiện cho những người bị mắc nghiện... Bàn về lý tưởng rất dễ bị cho là giáo điều, khô khan, lên lớp, giảng mo-ran. Nhưng cảm nhận từ từ lại là một cách hiểu rất ngấm, để lưu dấu lại rất sâu. Cô thấy vô cùng tiếc cho anh, tiếc cho một phần không nhỏ những người trẻ tuổi bây giờ. Bị cuốn theo lối sống ích kỷ, hưởng thụ, buông xuôi, không mục đích, không lý tưởng, không ngày mai, họ không nhận ra những phần đời tươi đẹp nhất của mình đã bị tiêu xài uổng phí, vô dụng.

Cô nhủ lòng sẽ không đánh giá hay định mức cho bất kỳ một chuẩn mực khuôn phép nào. Chỉ mong anh sẽ ngộ ra nhiều điều. Cô tự hứa với mình sẽ đi suốt tới cùng bốn năm. Và điều quan trọng nhất, là cô sẽ tìm ra được một cách thức tế nhị nào đó, để không còn phải giấu giếm tình cảnh của hai người. Thì đã sao, cô là sinh viên tiên tiến, điển hình, nhưng lại có người yêu đang cai nghiện. Cái chính là cô tin anh sẽ có đủ nghị lực và bản lĩnh để xóa đi những vết đen trong quá khứ, và không bao giờ tái lại. Vì chính anh. Và vì những người thân, người quen, và cả vì người yêu của anh – cô!

Offline SUCSONG@  
#45 Đã gửi : 09/09/2007 lúc 05:08:33(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Italo Calvino

Con Cừu Đen

Dịch giả: Hoàng Ngọc Tuấn


Ở một xứ nọ, mọi người đều là kẻ trộm.
Ban đêm, mọi người đều rời nhà với chùm chìa khoá cùng chiếc đèn lồng có vải che, và đến nhà một người láng giềng để ăn trộm. Họ trở về lúc rạng đông, với nhiều của cải, và thấy nhà của chính họ đã bị mất trộm.
Vì thế, mọi người vui vẻ sống với nhau, và chẳng ai thiệt thòi gì, bởi kẻ này ăn trộm của kẻ khác, kẻ khác lại ăn trộm của kẻ khác nữa, và cứ tiếp tục như thế đến khi kẻ cuối cùng ăn trộm của kẻ đầu tiên. Việc mua bán ở xứ ấy tất nhiên là việc người mua và kẻ bán lường gạt nhau. Chính phủ là một tổ chức tội phạm chuyên ăn trộm của nhân dân, và nhân dân chỉ chăm lo ăn trộm của chính phủ. Do đó, cuộc sống rất thoải mái, chẳng có ai giàu và chẳng có ai nghèo.
Một ngày nọ, chẳng biết vì sao một người đàn ông trong sạch lại đến sống ở xứ ấy. Ban đêm, thay vì ra đi với bao tải và chiếc đèn lồng, anh ta ở nhà hút thuốc lá và đọc tiểu thuyết.
Kẻ trộm đến, thấy đèn sáng, nên không vào nhà.
Tình trạng này diễn ra trong một thời gian ngắn, và mọi người buộc lòng phải giải thích cho anh ta hiểu rằng ngay cả nếu anh muốn sống mà không làm việc thì cũng không có lý do gì anh lại ngăn cản những người khác làm việc. Mỗi đêm anh ở nhà nghĩa là ngày hôm sau một gia đình nào đó chẳng có cái gì để ăn.
Người đàn ông trong sạch khó lòng phản đối lý lẽ đó. Ban đêm, anh ta ra đi và sáng hôm sau anh ta về nhà giống như họ, nhưng anh ta không ăn trộm. Anh ta trong sạch, và bạn không thể làm gì khác để thay đổi bản tính ấy. Anh ta đi đến tận cây cầu và đứng nhìn nước trôi bên dưới. Khi về nhà, anh ta thấy mình đã bị mất trộm.
Chưa đến một tuần lễ, người đàn ông trong sạch không còn một xu dính túi, không còn gì để ăn và căn nhà trống rỗng. Nhưng đó chẳng phải là vấn đề, vì đó là lỗi của chính anh ta; không, vấn đề là thái độ của anh ta đã làm mọi sự đảo lộn. Bởi anh ta để những kẻ khác ăn trộm tất cả của cải của anh ta, mà anh ta lại không ăn trộm của ai cả, cho nên luôn luôn có kẻ về nhà vào lúc rạng đông và thấy nhà mình còn nguyên vẹn: đáng lẽ anh ta phải ăn trộm nhà ấy. Rốt cuộc, sau một thời gian ngắn, những kẻ không bị mất trộm thấy mình giàu có hơn người khác và không còn muốn đi ăn trộm. Tệ hại hơn nữa, những kẻ đến nhà của người đàn ông trong sạch để ăn trộm thấy nhà luôn luôn trống rỗng, do đó họ trở thành nghèo đói.
Trong lúc ấy, những kẻ đã trở nên giàu có lại nhiễm cái thói quen của người đàn ông trong sạch là đi đến cây cầu vào mỗi đêm để nhìn nước trôi bên dưới. Điều này làm sự rối loạn càng tăng thêm, bởi nó khiến cho nhiều kẻ khác trở nên giàu có và nhiều kẻ khác trở nên nghèo đói.
Thế rồi, những kẻ giàu có nhận ra rằng nếu đêm nào họ cũng đến cầu ngắm nước chảy thì chẳng mấy chốc họ lại trở nên nghèo. Và họ nghĩ: "Hãy trả lương để những đứa nghèo đi ăn trộm cho mình". Rồi họ viết hợp đồng, quy định mức lương, tính huê hồng theo phần trăm: tất nhiên họ vẫn còn là những kẻ trộm, và họ vẫn muốn lừa đảo kẻ khác. Và điều phải xảy ra là kẻ giàu càng giàu thêm và kẻ nghèo càng nghèo thêm.
Một số kẻ giàu trở nên quá sức giàu đến mức họ thấy không cần ăn trộm hay thuê những kẻ khác ăn trộm cho mình để mình được tiếp tục giàu nữa. Nhưng nếu họ thôi ăn trộm, họ sẽ trở nên nghèo, bởi những kẻ nghèo ăn trộm của họ. Vì thế, họ trả lương để những kẻ nghèo nhất trong đám nghèo canh giữ của cải của họ khỏi bị bọn nghèo lấy trộm, và qua đó họ hình thành lực lượng công an và xây dựng những nhà tù.
Nói tóm lại, chỉ trong vòng vài năm sau khi người đàn ông trong sạch xuất hiện, người ta không còn nói đến chuyện ăn trộm và mất trộm, mà nói đến chuyện kẻ giàu và người nghèo; nhưng họ vẫn còn là những kẻ trộm.
Con người trong sạch duy nhất chính là con người lúc đầu ấy, nhưng anh ta đã chết từ sớm, vì đói.
 
Italo Calvino  winking1923-1985) nhà văn Cuba
Offline SUCSONG@  
#46 Đã gửi : 09/09/2007 lúc 05:19:02(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Nguyễn Đông Thức

Trái Tim Con Rắn


     Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Thuật nín thở, lắng nghe. Nín thở, nhưng ông vẫn nghe thấy nó đang đập ở đâu đó trong người mình ồn ào, hối hả.
    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Càng nín thở, tiếng đập nghe càng rền rĩ. Bên cạnh Thuật, Trinh đã ngủ say, vẫn kiểu ngủ nằm sấp "thấy ghét", nhưng hôm nay Thuật đành bất lực nằm nhìn.
    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Vẫn nín thở, Thuật đè chặt bàn tay lên ngực trái. 
    Lồng ngực ông lặng thinh. Vậy thì cái gì đang đập, nếu không phải là nó, trái tim con rắn mà ông đã nuốt sống hồi chiều ! 
    Lưỡi dao phập xuống, cái đầu con rắn bị đóng đinh xuống mặt thớt nằm lại với hai con mắt trợn trừng. Thân hình vặn vẹo những co giật cuối cùng trong đôi tay của lão nhà bếp, phun những tia máu đỏ tươi xuống chiếc phễu cắm vào cổ chai rượu thuốc. Mũi dao nhọn rạch một đường nhỏ điệu nghệ, và ngón tay thành thạo thọc vào moi ra một quả tim nhỏ bằng ngón tay, còn thoi thóp thở. Nó dường như vẫn còn co bóp, khi đã yên vị trong chiếc ly nhỏ. Người ta đổ rượu thuốc đã trộn đều với máu vào ngập miệng ly. Đó sẽ là ly rượu bắt đầu cho buổi tiệc, và theo thông lệ, luôn được dành cho nhân vật quan trọng nhất.

    Hôm nay, đó là Thuật.

    Với Thuật, trái tim rắn ấy phải kể ở đơn vị hàng chục. Ngay từ trái tim đầu tiên được thưởng thức, thường thì mọi người đều cảm thấy cái gì đó nhờn nhợn, nuốt vội cho trôi, thậm chí còn có người từ chối cái quyền tiên chỉ. (ưu tiên), Thuật đã chứng tỏ sự lỳ lợm khác người của mình: Ông thò hai ngón tay vào ly rượu, nhón lấy trái tim rắn và cho vào miệng nhai chóp chép ngon lành, rồi mới chiêu cạn ly rượu để đưa tiễn nó vào dạ dày mình. Đặt ly xuống, Thuật há miệng cười, khoe hàm răng còn lem nhem máu. Hành động đó được tái lập từ trái tim thứ hai trở đi, và đã làm sáng thêm cái danh "chịu chơi "của Thuật.

    Nhưng chiều nay...

    Thuật đã có cảm giác là lạ lúc kẹp lấy nó ở đáy ly. Dường như nó quẫy nhẹ như muốn tuột khỏi tay ông. Cảm giác chưa từng có ấy thoáng qua rất mau, và Thuật cho rằng có lẽ vì hai độ nhậu dữ dằn ở hai điểm khác kéo dài từ mười giờ sáng cho đến giờ, đã làm ông run taỵ Nhưng vừa cho nó vào miệng, thì rõ ràng nó lăn lên lưỡi của ông và tuột vào yếu hầu, rồi dường như dừng lại ở thực quản. Ngay lúc đó, ông đã nghẹn thở mất mấy giây. Ly rượu tống tiễn nó vẫn không làm ông thấy cổ họng mình thông suốt, như có gì cứ nghèn nghẹn trong đó.
    - Ủa sao anh Hai không nhai nó? Một tên đàn em vọt miệng hỏị
    Thuật trấn tĩnh rất nhanh, giả lả:
    - Thôi anh, cho lẹ đặng nhậu cho rồi. Dô đi!
    Bữa tiệc hào hứng với đám chiến hữu thân thiết và các em nhân viên mặc quần sọc, áo thun lỗ tận tình phục vụ, đã làm Thuật quên ngay cảm giác khác thường ấy. Cái quán này vốn có biệt tài đó. Vào đến đây, chuyện quốc gia trọng đại gì nữa, người ta cũng quên hết, nói chi đến cái chuyện cỏn con không nhai được tim rắn! Em nào cũng thơm như múi mít, ngồi sát rạt trong vòng tay, nân từng ly bia, đút từng miếng mồi cho mình, còn hai tay mình thì cứ tự do như chưa bao giờ được tự do như vậy. Rồi kết thúc bữa tiệc, anh thích thì em chiều, phòng riêng tại chỗ, có máy lạnh, giường đệm... Hố hố, có nào mà chẳng mê tít mắt!

    Thuật thường kết thúc hành trình một ngày nhậu của mình tại cái quán hẻo lánh này, chính là vì vậy. Để cho đầu óc nó thoải mái, đặng hôm sau mới làm việc tốt được. Chiêu đãi người ta nhân vừa "trúng" lớn, Thuật cũng dẫn lên đây. Mà được trả ơn, Thuật cũng gợi ý đến điểm "vui vẻ" này. Ai theo Thuật đến lần đầu, sau đó thảy đều giơ một ngón tay cái: Ông anh đúng là số một! Ngay chính vợ Thuật, Thuật cũng đã đưa lên đây. Từ lâu bà đã sợ Thuật như sợ cọp, vậy mà gần đây, chịu hết nỗi, dám sinh chuyện cự nự:
    - Ông đi đâu mà đi hoài, đêm nào cũng một hai giờ sáng mới về? Vừa vừa thôi, ít ra ông cũng phải tôn trọng tôi phần nào chớ! Rồi uy tín làm việc của ông nữa. Cái ghế ông ngồi không phải là muôn đời đâu. 
    Lúc đó là năm sáu giờ chiều, Thuật ghé về nhà tắm rửa và thay quần áo lịch sự, ngồi chờ một thằng bạn đến kéo đi "tham quan" nhà hàng nổi một lần cho biết. Cú điện thoại hẹn lại giờ chót của thằng bạn, cộng với lời cằn nhằn của vợ con, bất ngờ làm Thuật nổi điên. Ông kéo tay vợ ra xe:
    - Bà muốn biết tôi thường đi đâu phải không? Được rồi xin mời bà đi theo tôi!
    Ban đầu, các em thấy Thuật đi với vợ, chỉ dám thập thò sau quầy ngó ra. Thuật ngang nhiên gọi một lúc sáu em ra ngồi cùng bàn, ôm hôn mỗi em một cái ngay trước mặt vợ. Bà chủ quán đi ra, chào Thuật bằng kiểu chào thường lệ; đứng sau lưng, đặt hai bàn tay lên vai Thuật, cúi xuống cọ má với Thuật. Vợ Thuật xanh mét cả mặt anh, muốn ngất xỉu. Thuật rút tiền bo cho mấy em, rồi đuổi hết cả đám đi, xong mới nói với vợ:
    - Bà thấy chưa, ở đây chúng nó đẹp như vầy, trẻ như vầy còn bà già còm, lép kẹp như vậy, có biết mắc cỡ hay không mà đi ghen với tụi nó? Biết điều thì cứ ngậm miệng, mỗi tháng tôi phát tiền cho dư xài. Tôi còn ở với bà là phúc đức lắm rồi. Lộn xộn tôi dẹp luôn, cho treo mỏ cả lũ. Còn cái ghế tôi ngồi hả? Chắc hay không thì tôi tự biết, nhưng bà ráng mà cúng bái hàng ngày cho nó. Nghe chưa. 
    Thuật điềm nhiên ngồi ăn cho hết bữa, trong lúc bà vợ chạy ra ngoài vườn nôn thốc nôn tháo những miếng ăn vừa nuốt. Lần "giáo dục" kiểu đó đã có hiệu quả thấy rõ. Một tuần sau, vợ Thuật đến cơ quan tìm ông giữa trưa. Cửa phòng giám đốc chỉ đóng chứ không có khóa, vì đố thằng nào dám gnang nhiên bước vào! Thuật và một cô nhân viên đang ôm nhau trên chiếc đi văng dành cho giám đốc nghỉ trưa. Thấy vợ Thuật, cô gái sợ hãi toan vùng dậy. Thuật ghì cô ta lại, nói cứ bình tĩnh, không việc gì phải sợ. Rồi ông quay qua đuổi vợ về, mắng vợ là bất lịch sự, vào phòng không biết gõ cửa. Vợ Thuật chỉ nói được một câu: "Rồi trời sẽ tru đất sẽ diệt ông!", rồi run lập cập đi ra. Thuật cười hô hố.
 
    Bữa tiệc vẫn tiến hành náo nhiệt, mới đó mà đã qua thùng bia thứ ba. Hai tay Thuật giang ra ôm hai cô. Miệng Thuật thỉnh htoảng há ra để ực bia, để táp mồi, để cười khùng khục, để quay qua quay lại hôn hít trên mấy cái má hồng mịn màng thơm phức. Cứ mỗi lần đến đâỵ Thuật lại có cảm giác mình đang làm vua. Có đêm, Thuật kéo luôn năm em vào một phòng, quần nhau cho tới sáng. "Nhất dạ đế vương" cũng sướng đến đó là cùng! Hôm nay là ngày Thuật trúng lớn, vừa đẩy được mấy tấn nguyên liệu còn tốt mà Thuật chạy được quy thành phế liệu, nhậu hết cái nhà hàng này còn được, nói gì đến cái bàn tiệc chục thằng này. Dzô đi, dzô nữa đi! Còn bao nhiêu bia, nhà hàng cứ đem hết ra, cho tụi này tắm bia một bữa nhớ đời! Thằng Thuật này đã từng chi ba triệu cho một bữa tiệc ở đây, bằng lương một tháng của cả văn phòng xí nghiệp cơ mà! Tên kế toán trưởng hơi chợn, nhắc Thuật nên giữ lại một tấn cho bọn công nhân có việc làm, chứ hổm rày chúng nghỉ việc ăn 70 phần trăm lương, kêu trời như bọng rồi! Thuật trợn mắt, nói đồ ngu, ai có phần nấy. Người nào đã chịu nhiều gian khổ, sống chết, thì bây giờ phải được hưởng. Còn số thằng nào mạt thì ráng mà chịụ Đời này, ai ăn được thì cứ ăn. Đã chấp nhận cuộc chơi mà còn bày đặt chuyện lương tâm!
    Nỗi lo gợn lên, vào đúng lúc Thuật kê miệng húp chén cháo rắn được em Trinh bưng lên mời. Giữa ngực ông bất chợt nhói một cái đau đến nín thở. Kẹt cả hai tay, Thuật lắc đầu dùng cằm đẩy chén cháo ra. Cái gì mà đau như vậy? Thuật đổ mồ hôi khi cảm nhận dường như nó đang cựa quậy.  Nãy giờ, bao nhiêu là bia là mồi tống xuống, vậy mà nó vẫn kẹt lại ở khoảng giữa ngực là sao? Thuật bỗng thấy nhợn nhạo trong họng. Ông cố trấn tĩnh, từ từ đứng dậy, gạt hai em, bước ra vườn. Đến sau một gốc cây khuất, ông đưa mấy ngón tay vào miệng, móc họng cho ói ra hết những gì vừa ăn uống. Đó là một động tác quen thuộc mỗi khi Thuật muốn hồi phục để có thể ngồi tiếp tục chiến đấu trong những độ nhậu kéo dài. Nhưng lần này không phải do ông thấy mệt, mà là để tống cái của nợ đáng sợ kia. 
    Hoàn toàn yên tâm, Thuật bước vào bàn nhậu đầy khí thế trở lạị Mọi việc tiếp tục diễn biến bình thường. Thuật nói nhỏ vào tai Trinh, tối nay, anh chọn em làm hoàng hậu đó nghe. Trinh giả bộ trợn mắt, rụt vai, lè lưỡi. Cái lưỡi hồng dẻo quẹo đầy hứa hẹn, vậy mà làm Thuật liên tưởng đến cái lưỡi thở phì phì giận dữ của con rắn khi nãy, lúc nó đang bị lão đầu bếp lôi vào trò đùa trước khi chết.
    Cái nhói đau thứ hai xảy ra khi Thuật đã nằm trên giường, nhìn Trinh đang uốn éo cởi quần áo dưới ánh đèn hồng. Ông thánh cũng phải chào thua trước thân hình tuyệt mỹ của cô gái được phong làm hoa hậu ở quán này, vậy mà Thuật vẫn nằm yên, tay đè lên ngực. Máy lạnh chạy rì rì mà mồ hôi Thuật vẫn vã ra, ướt cả mặt đệm.
    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Đó là lần đầu tiên trong đời, Thuật nghe thấy những âm thanh quái đản ấy. Nó dội lên trên đỉnh đầu, rồi cứ thế bục ra. 
    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Rồi Thuật nhìn xuống bụng, chợt ré lên một tiếng, lồm cồm ngồi dậỵ Ông vừa trông thấy đầu con rắn quặc qua quặc lại giữa hai đùi mình. Thuật đưa tay bật đèn nê- ông, lúc đó con rắn biến mất. Ông nhìn quanh quất. Còn Trinh thì co rúm người, nhìn ông bằng con mắt sợ hãi. 
    - Gì vậy anh?
    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Thuật thở dài, tắt đèn, ôm lấy Trinh:
    - Không có gì.
    Khoảng vài phút sau, Thuật thở dài, xô Trinh ra, nằm vật xuống.
    - Thôi, hôm nay cho em nghỉ. Ngủ đi. 
    Trinh nằm xuống bên Thuật, và chỉ vài phút sau, cô đã ngủ ngon lành. Trong khi đó, tiếng đập ồn ào trong ngực Thuật vẫn cứ vang lên đều đặn.

    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Ở chỗ giữa ngực ông, có cái gì đó chư nhô lên thụt xuống. Thuật úp hai bàn tay đè mạnh lên chỗ đó. Nó vẫn cứ phập phồng dưới tay ông.
    Ịch ình, ịch ình, ịch ình...
    Thở hổn hể, Thuật ngồi bật dậy, kinh hoàng khi nhìn rất rõ giữa ngực mình nổi hẳn lên một khối u nhỏ. Thật nhanh, Thuật chộp lấy nó, nghiến răng bóp mạnh. Ông cảm thấy như nó đang vỡ ra bên trong lồng ngực mình. Một cảm giác đau chết người ập đến. Thuật lăn ra giường cố gắng lết đến bên Trinh, ông cố gắng vươn tay ra định chạm vào người Trinh để gọi cô dậy nhưng đã kiệt sức...

    Sáng hôm sau, Trinh thức dậy thấy Thuật đã chết cứng đơ từ hồi nào. Khi đem xác của Thuật đến bác sĩ pháp y thử nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận rằng Thuật chết vì nhồi máu cơ tim (heart attact). Ngực ông bị tím bầm, nổi hằn những vệt móng tay của chính ông cào cấu. 
    Nhưng khi giải phẫu tử thi, mọi người chứng kiến đều rởn tóc gáy khi thấy ở giữa lồng ngực trái tim của Thuật là một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu ngón tay, đã bị bóp bể ra làm haị
Offline SUCSONG@  
#47 Đã gửi : 09/09/2007 lúc 05:26:27(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Bài viết: 621

Fernando Sorrentino

Ân Oán Của Người Ăn anh

Dịch giả: Viên Cung


  Năm 1965, lúc đó tôi 23 tuổi đang là sinh viên sư phạm để ra làm một ông thầy dạy văn chương trung học . Sáng hôm đó là một buổi sáng sớm mùa Xuân, tôi đang ngồi học trong phòng mình trong căn hộ ở tầng 6 một tòa chung cư . Đây là tòa nhà chung cư duy nhất trong dãy phố .
Hơi lo ra, tôi ngồi học mà cứ thỉnh thoảng lơ đãng nhìn ra cửa sổ . Bên dưới nhà tôi là đường phố . Bên kia đường là căn nhà ngay góc đường của ông Sĩ-giang. Ông này khó tính nhưng nhà ông này có mảnh vườn tuyệt đẹp mà tôi cứ hay nhìn xuống . Kế bên nhà ông Sĩ-giang là căn nhà cũng rất đẹp của gia đình Bình-nam . Gia đình Bình-nam là gia đình hiền lành, thân thiện, luôn làm những chuyện tử tế  . Gia đình này có 3 cô con gái, mà tôi thì si tình cô lớn nhất, là Diễm-an . Sáng sớm lắm nên tôi biết Diễm-an chưa có ra ngoài nhà nhưng mà thỉnh thoảng tôi cứ liếc sang đó . Có lẽ chỉ vì trái tim sai khiến .
Theo thói quen, ông Sĩ-giang sáng sớm là đã tưới nước và dọn dẹp cho căn vườn yêu quý của ông ta . Căn vườn này nằm ngay trước nhà, có hàng rào sắt phía trước, cách đường phố phía dưới là 3 bậc tam cấp bằng đá .
Đường xá đang còn vắng tanh . Tôi thấy có một người đàn ông đang đi từ xa tới bên phía lề đường của nhà Sĩ Giang và Bình Nam . Tôi bị lôi cuốn vì ông ta có vẻ là một người ăn xin hay là dân du cư, áo quần là những tấm giẻ cũ kỹ đủ màu như cầu vồng .
Ốm yếu, râu ria, trên đầu thì đội cái mũ rơm màu vàng . Dù trời nóng, ông ta cũng khoác cái áo choàng rách rưới, xam xám . Ông ta còn mang thêm cái một bị lớn, dơ dáy . Chắc là để đựng đồ ăn xin được và thức ăn thừa .
Tôi tiếp tục nhìn theo tay ăn anh . Ông ta ngừng trước nhà ông Sĩ Giang, leo lên bậc tam cấp, rồi hỏi hay xin cái gì đó với ông Sĩ Giang qua khe hở của cái hàng rào sắt . Tính ông Sĩ Giang là một người thô lỗ , khó chịu cho nên trông ông có vẻ không muốn nghe người ăn xin nói gì mà chỉ hất tay đuổi ông ta đi . Nhưng ông ta cứ đứng nguyên đó nói gì không rõ . Rồi tôi nghe ông Sĩ Giang to tiếng :
- Đi ! Đi ngay ! Đừng có làm phiền nữa !
Tuy nhiên, không hiểu sao ông ăn anh cứ đứng đó, tay vịn vào hàng rào, kèo nài, lẩm bẩm . Giận dữ và mất hết kiên nhẫn, ông Sĩ Giang dùng hết sức đẩy mạnh ông ăn anh ra khỏi hàng rào . Kẻ ăn anh tuột tay khỏi hàng rào , trật chân lên bậc tam cấp, ngã chỗng chân lên trời, đầu đập mạnh vào bậc đá xanh .
Ông Sĩ Giang hoảng hốt chạy ra, cuối người lên lão ăn anh, tay để lên tim ông ta lắng nghe nhịp đập . Chắc không nghe thấy gì nên ông Sĩ Giang sợ hãi chạy xuống  chân ông ăn anh rồi nắm chân kéo ông ta sền sệt xuống lề đường . Bỏ ông ta nằm đấy như một người say rượu . Sau đó ông Sĩ Giang đi vào nhà, đóng khóa cửa vườn, cửa nhà lại, như là không biết gì xảy ra . Ông ta chắc cũng nghĩ rằng chẳng ai thấy cái tội ác vô tình ông gây ra cả .
Người nhân chứng duy nhất là tôi .
Không lâu sau đó có người đi ngang qua và thấy người ăn anh nằm chết bên đường . Cảnh sát đến và xe cứu thương được gọi đến . Xác người ăn anh được cho vào xe cứu thương va ` chở đi mất .
Mọi việc diễn ra như vậy . Ngoài người ăn anh thì đã chết, ông Sĩ Giang thì sống để bụng chết mang theo, chẳng ai còn nhắc đến cái chuyện người ăn anh chết đường chết chợ đó nữa .
Còn tôi, tôi rất cẩn thận không bao giờ hé ra một lời về chuyện này cho bất cứ ai . Có lẽ như vậy là không chính trực lắm nhưng tôi sẽ được gì khi tố cáo ông Sĩ Giang, người dù sao chẳng có làm gì xấu với tôi cả ?  Hơn nữa, cũng không phải ông Sĩ Giang cố tình muốn sát hại người ăn anh kia . Tất cả chỉ là chuyện vô tình , lầm lỡ . Tôi nghĩ để cho ông Sĩ Giang đã lớn tuổi phải gánh chịu những phiền phức, rắc rối với pháp luật, có thể còn phải đi tù về chuyện này thì thật có gì đó hơi bất nhẫn . Tốt hơn hết là để cho ông ta chịu sự phán xử của lương tâm ông ta .
Lâu dần tôi cũng quên đi cái bi kịch thương tâm đó . Nhưng mỗi khi gặp ông  Sĩ Giang tôi lại thấy xao xuyến bàng hoàng chút gì đó trong người vì nghĩ rằng ông ta không thể ngờ tôi là người duy nhất đã chứng kiến toàn bộ cái bí mật có lẽ ghê gớm nhất của cuộc đời ông . Sau đó tôi tránh mặt ông và không bao giờ còn dám nói chuyện với ông nữa .
                                           ***
Ba năm sau, tôi đã 26 tuổi, tôi đã lấy bằng sư phạm về ngành ngôn ngữ và văn chương Tây ban nha . Diễm-an không lấy tôi làm chồng mà lấy 1 kẻ may mắn khác . Tôi cũng chẳng biết kẻ ấy yêu Diễm-an hơn tôi hay là xứng đáng với nàng hơn tôi hay không .
Thời gian đó, Diễm-an đang mang thai, sắp đến ngày sinh nở . Nàng vẫn sống trong căn nhà tuyệt đẹp đó và chính nàng vẫn đẹp hơn bao giờ hết .
Một buổi sáng tháng 12 tôi đang dạy kèm văn phạm ở nhà cho vài em học sinh trung học , cũng trong căn phòng ngày xưa chứng kiến vụ án mạng . Cũng như ngày nào, thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn xuống con đường phía trước dưới nhà .
Bỗng nhiên tim tôi nhảy lên loạn xạ . Tôi tưởng như mình bị ảo ảnh .
Trên con đường trước mặt, có một người đang đi về phía nhà gia đình Diễm-an, chính là người ăn anh ba năm trước bị ông Sĩ-giang giết chết . Không thể lẫn lộn vào đâu được  . Bộ quần áo màu mè giẻ rách, chiếc áo choàng xám, cái mũ màu vàng, cái bị túi dơ bẩn .
Quên cả đám học sinh, tôi vội đi tới bên cửa sổ . Người ăn anh đang đi chậm lại , như là đang sắp đến nơi ông ta muốn đến .
"Ông ta trở về." Tôi nghĩ "Và trở về để báo thù ông Sĩ-giang đây ."
Nhưng ông ta không ngừng lại trước nhà ông Sĩ-giang . Ông đi băng qua hàng rào vườn nhà ông Sĩ-giang . Ông ta đứng trước cửa nhà của Diễm-an, mở chốt cửa rồi đi vào nhà .
Tôi điên lên vì lo lắng . Tôi bảo đám học trò :
"Tôi sẽ trở lại ngay !"
Tôi chạy ra thang máy và đi ngay ra phố, băng qua đường, chạy vội tới nhà của Diễm-an ,
Mẹ cô ta, đang đứng trong nhà, ngay cửa chính . Bà nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói :"Ủa ? Chào cháu ! Cháu đó ư ? Thật là một phép lạ !"
Mẹ Diễm-an luôn luôn có cảm tình với tôi . Bà ôm hôn tôi . Nhưng tôi chưa hiểu gì cả . Tại sao bà lại nói phép lạ gì ở đây ? Té ra là Diễm-an vừa mới lâm bồn . Và bà tưởng  tôi đến thăm đúng lúc . Ai trong nhà cũng vui mừng . Tôi bèn đành bắt tay chúc mừng kẻ đã đánh bại tôi .
Tôi chưa biết phải hỏi thế nào và đang suy nghĩ không biết có nên giữ im lặng cho qua luôn không . Rồi sau đó tôi nghĩ ra một cách . Tôi bèn vờ hỏi một cách hơi lơ đãng :
"Thật ra thì tôi bước vào nhà mà không bấm chuông vì tôi thấy một ông ăn anh với một cái bị to mà dơ dáy lắm lẻn vào nhà này . Tôi sợ ông ta ăn cắp đồ trong nhà ."
Mọi người trong nhà nhìn tôi ngạc nhiên : ăn anh ? bị túi ? ăn trộm ? Hầu như cả nhà đang ở trong phòng khách này từ nãy giờ nên chẳng ai hiểu tôi nói gì .
Tôi bèn nói :
- Vậy chắc chắn là tôi nhìn lộn rồi .
Sau đó họ mời tôi vào phòng của Diễm-an và em bé mới sanh . Trong hoàn cảnh này tôi chẳng biết nói gì hơn là chúc mừng nàng, hôn tay nàng, suýt soa nhìn em bé, và hỏi vợ chồng nàng đã đặt tên cho em bé chưa . Họ nói rồi, và tên bé là Duy-thành .
Trở về nhà, tôi ngẫm nghĩ :
"Đó chính là người ăn anh bị giết bởi ông Sĩ-giang . Chắc chắn . Vậy ông ta không trở về để báo oán mà chỉ để đầu thai vào làm con của Diễm-an ."
Tuy nhiên, 2 - 3 ngày sau, tôi thấy giả thuyết của tôi có vẻ kỳ quặc quá cho nên tôi cũng từ từ quên nó đi mất .
    
                                          ***
   
Có lẽ tôi cũng quên đi những chuyện không vui, hơi quái dị đó luôn nếu sau này vào năm 1979 không có một chuyện xảy ra làm tôi nhớ và liên hệ lại tất cả mọi việc xảy ra từ năm 1965 đến lúc đó .
Nhiều năm đã trôi qua . Tôi cũng đã qua tuổi thanh niên . Không còn nhiều ước vọng hăng hái như ngày xưa . Mỗi khi đọc sách cạnh cửa sổ tôi thường để tâm trí lãng đãng đây đó, mắt vãn thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ, bên kia đường .
Con của Diễm-an, Duy-thành, bây giờ đã 11 tuổi, đang chơi trên sân thượng của nhà nó . Trò chơi hơi có vẻ trẻ con so với số tuổi của nó . Có lẽ thằng bé không thông minh lắm . Tôi nghĩ nếu nó là con của tôi thì chắc nó sẽ nghĩ ra nhiều cách để giải trí thú vị hơn .
Nó đang đặt 1 đống lon không trên đầu bức tường ngăn cách 2 căn nhà và đứng cách xa khoảng 3 hay 4 mét, lấy đá cố chọi cho trúng vào mấy cái lon . Làm vậy, dĩ nhiên là các cục đá sẽ rớt hết qua vườn nhà bên cạnh của ông Sĩ-giang . Bây giờ thì ông ta chưa thấy nhưng tôi biết lát nữa đây ông ta sẽ nổi trận lôi đình khi thấy cả một khoảnh hoa trong vườn nhà ông ta bị đá rơi trúng làm bầm dập, gẫy nát .
Ngay lúc đó, tôi thấy ông Sĩ-giang mở cửa nhà và bưóc ra vườn . Lúc này ông già lắm rồi, bước từng bước chậm chạp, nghiêng nghiêng . Mỗi bước lại ngưng, mỗi buớc lại nhấc chân lên nặng nề . Nhưng ông ta không chú ý gì đến mảnh vườn mà lại đi thẳng tới cổng vườn, mở cổng rồi bước xuống bậc tam cấp bằng đá dẫn ra lề đường .
Trong lúc đó thì thằng bé Duy-thành, không nhìn thấy ông già, cuối cùng đã chọi trúng một cái lon . Cái lon văng lên, rớt xuống bờ tường vài lần, rồi rớt xuống vườn nhà ông Sĩ-giang với một tiếng "beng" lớn , có lẽ do trúng một bờ gạch hoạc chậu kiểng . Ông già đang đi chập choạng trên bậc tam cấp, nghe tiếng động bỗng giật mình quay lại . Ông bị mất thăng bằng rồi ngã quay trên bậc thềm, đầu giộng mạnh vào thềm đá xanh .
Tôi thấy hết . Nhưng ông già và thằng bé chẳng ai thấy ai cả . Chẳng hiểu tại sao, thằng bé bỗng ngưng chơi . Nó chạy đi mất . Chỉ vài giây sau, nguời ta bu lại chỗ ông Sĩ-giang té nằm đó . Trong chốc lát người ta xác định là ông đã chết vỡ sọ, do bị té bất ngờ .
Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi đi ngay ra cửa sổ nhìn qua bên kia đường . Xác ông Sĩ-giang được quàng giữa nhà . Nhiều người đứng hút thuốc và tụ tập trên lề đường trước nhà ông .
Mọi người bỗng im lặng, đứng tránh ra có vẻ bối rối khi có một lão ăn anh từ nhà Diễm-an bước ra, vẫn với bộ quần áo màu mè, cai áo choàng xám, cái mũ rơm màu vàng, cái bị túi dơ bẫn kia . Lão đi ngang qua nhóm người, chậm chạp nhưng từ từ khuất dần theo hướng mà trước đây ông ta đã theo hướng đó mà đến .
Cũng hôm đó, một tin buồn đến nhưng không làm tôi ngạc nhiên, là thằng bé Duy-thành bỗng nhiên không ai thấy nó ở trong nhà nữa .  Họ tìm kiếm mãi mà không bao giờ tìm ra dấu vết thằng bé . Tôi chỉ biết khuyên gia đình Diễm-an thường xuyên đặt hoa lên bậc thềm chỗ chỗ người đã tử nạn .
Một thời gian sau Duy-thành bỗng trở về nhưng không còn nói dược . Sau này nó phải  học lại từ đầu và tuy chậm nhưng vẫn phát triễn bình thường .

                                     - Hết -
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
3 Trang<123
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.