Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


5 Trang«<345
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline A2066  
#81 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:13:21(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Bệnh trĩ
Có thể hiểu đơn giản là trĩ hình thành do sự giãn quá mức của các đám rối tĩnh mạch trĩ (ĐRTMT). Dù bệnh trĩ đã được biết từ lâu nhưng hiện nay y học vẫn chưa tường tận về bệnh nguyên và bệnh sinh. Tuy nhiên, một số yếu tố sau đây có thể tạo thuận lợi cho việc phát sinh bệnh:
- Áp lực trong ổ bụng tăng trong trường hợp ho nhiều do viêm phế quản mãn hoặc khuân vác, lao động nặng...
- Phải rặn nhiều khi đi tiêu do viêm đại tràng mãn hay táo bón kinh niên khiến áp lực trong ống hâụ môn tăng lên nhiều.
- Đứng lâu, ngồi nhiều cũng dễ bị trĩ do áp lực tĩnh mạch trĩ khi đứng tăng gấp ba lần so với khi nằm.
- Do u bướu vùng tiểu khung, u trực tràng hoặc do thai lớn tháng... có thể chẹn tĩnh mạch làm cản trở máu tĩnh mạch hồi lưu.
Triệu chứng
- Chảy máu trực tràng: Có vệt máu đỏ ở phân hoặc máu chảy nhỏ giọt hay thành tia khi đi tiêu. Khi bệnh nặng hơn, chỉ ngồi xổm là máu đã chảy ra, có khi máu chảy nhiều quá phải đi cấp cứu.
- Sa trĩ: Nếu sa trĩ từ độ 3 trở lên thì bệnh nhân rất khó chịu trong sinh hoạt.
Ngoài ra, một số bệnh nhân còn có cảm giác đau và nóng rát ở hậu môn, do bệnh đã có biến chứng như tắc mạch do huyết khối, sa và nghẹt búi trĩ, búi trĩ bị nhiễm trùng...
Một số bệnh nhân có thể gây chẩn đoán nhầm như ung thư trực tràng, viêm loét đại trực tràng, sa trực tràng, Polip đại trực tràng (có thịt dư ở đại trực tràng). Vì thế để chẩn đoán đúng bệnh, ngoài việc thăm khám trực tràng, bác sĩ sẽ cho làm nội soi hậu môn trực tràng hoặc X-quang đại tràng cản quang.
Trĩ được phân loại thành trĩ nội, trĩ ngoại:
- Trĩ nội nằm trong ống hậu môn, khi to ra sẽ sa ra ngoài và phân thành 4 độ: 1, 2, 3 và 4.
- Trĩ ngoại thì nằm ngoài ống hậu môn.
Ngoài ra còn có trường hợp trĩ hỗn hợp, là trĩ nội và trĩ ngoại liên kết với nhau. Tùy theo loại trĩ và độ sa trĩ bác sĩ sẽ chỉ định điều trị cụ thể; đối với trĩ ngoại, bác sĩ chỉ điều trị bằng thủ thuật hay phẫu thuật khi có biến chứng.
- Về điều trị nội khoa: Bác sĩ cho bệnh nhân dùng các loại thuốc làm tăng trương lực thành mạch, chống phù, chống viêm và giảm đau; nên dùng thức ăn dễ tiêu chống táo bón, tránh chất kích thích và các gia vị như ớt, tiêu, mù tạc...; tránh làm những công việc quá nặng nhọc và những công việc phải đứng lâu, ngồi nhiều; ngoài ra cũng cần điều trị những bệnh khác như viêm đại tràng, viêm phế quản...
- Về điều trị ngoại khoa: Có thể áp dụng các phương pháp sau:
+ Chích chất gây xơ vào gốc búi trĩ để làm xơ các tĩnh mạch. áp dụng phương pháp này không khéo có thể chích vào lớp cơ, dễ gây hoại tử và dễ nhiễm trùng nặng nếu không bảo đảm vô trùng.
+ Dùng tia hồng ngoại, dao diện... để làm đông búi trĩ bằng nhiệt hoặc dùng nitơ lỏng để làm đông bằng lạnh. Búi trĩ sẽ hoại tử vô trùng và rụng đi.
+ Thắt trĩ bằng dây thun: Búi trĩ hoại tử dần rồi rụng đi.
+ Phẫu thuật cắt trĩ nếu các búi trĩ sa quá lớn.
* Phương pháp thắt trĩ bằng dây thun
Thắt trĩ bằng dây thun là phương pháp khá mới và có nhiều tiện lợi, hiện đang rất thịnh hành ở Pháp và cho kết quả tốt nhất. ở Việt Nam, các bác sĩ đã điều trị rất thành công cho nhiều bệnh nhân, chưa có trường hợp nào xảy ra tai biến. Với bộ dụng cụ đặc biệt, chưa có trường hợp nào xảy ra tai biến. Với bộ dụng cụ đặc biệt, bác sĩ kéo búi trĩ ra rồi thắt dây thun ở gốc, búi trĩ thiếu máu nuôi dưỡng sẽ hoại tử dân rồi rụng đi. Ưu điểm của phương pháp này là thời gian điều trị rất ngắn, trung bình 5phút/ca, sau đó bệnh nhân có thể ra về ngay và vài ngày sau búi trĩ sẽ rụng.
Phòng ngừa
- Cần chú ý đến chế độ ăn uống. Tránh dùng nhiều thức ăn dễ gây kích thích và táo bón như: tiêu, ớt, hay gia vị có tính cay nóng - Không nên uống quá nhiều cà phê, rượu, tránh thuốc lá... Nên ăn các loại thức ăn có nhiều chất xơ (các loại rau), uống nhiều nước mát (atisô, rau má...)
- Tránh làm việc trong một tư thế kéo dài như ngồi, đứng lâu. Cần có chế độ thể dục vận động trong thời gian nghỉ giữa giờ nếu phải ngồi hoặc đứng lâu. Không nên khiêng nặng quá sức, hoặc sử dụng đến những động tác gồng, rặn quá nhiều.
- Người bình thường và cả người có bệnh trĩ sau khi đi cầu không nên dùng giấy báo để làm sạch, tốt nhất là dùng nước.
- Điều trị triệt để những bệnh có khả năng gây trĩ.
- Vận động thể dục thể thao sẽ giúp điều hoà nhu động co giãn ở ruột, giúp tiêu hoá tốt (ít vận động, nằm nhiều cũng dễ có nguy cơ gây táo bón là một nguyên nhân sinh bệnh trĩ).
- Sau cùng là đối với phụ nữ, việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch cũng góp phần vào việc phòng tránh được nguy cơ gây bệnh trĩ.
BS Lê Văn Đương, Thái Hiệp
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#82 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:13:39(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Chương 11: Các loại sốt thông thường
Phân biệt các loại sốt
Sốt là khi nhiệt độ cơ thể cao hơn bình thường. Có nhiều căn bệnh khác nhau, đều chung một triệu chứng sốt. Để chữa bệnh đúng hướng, điều quan trọng là phải biết phân biệt bệnh này với bệnh kia. Sau đây là một số bệnh cấp tính quan trọng, trong đó sốt là một dấu hiệu nổi bật:
Bệnh sốt rét: Bắt đầu đột ngột với nhiệt độ lên cao và rét run. Sốt kéo dài độ vài giờ. Khi nhiệt độ xuống thì cơ thể ra mồ hôi. Thông thường cơn sốt cứ cách một hoặc hai ngày một lần. Giữa các đợt sốt người bệnh cảm thấy dễ chịu nhiều hoặc ít.
 Sốt thương hàn: Bắt đầu như khi bị cảm lạnh. Nhiệt độ mỗi ngày tăng một ít. Mạch tương đối chậm. Đôi khi tiêu lỏng và kiệt nước. Run rẩy hoặc nói sảng, tinh thần lơ mơ.
Sốt phát ban: Tương tự sốt thương hàn. Có phát ban giống như trong bệnh sởi với nhiều vết thâm tím rất nhỏ. Tình trạng rất nặng.
Viêm gan: Người bệnh không muốn ăn. Không đòi ăn hoặc hút thuốc. Buồn nôn. Mặt và da trở nên vàng; nước tiểu màu da cam hoặc nâu; phân trắng. Sốt nhẹ. Người rất mệt.
Viêm phổi: Thở nhanh, nông. Nhiệt độ tăng nhanh. Ho có đờm xanh, vàng hoặc lẫn máu. Có thể đau ngực. Bệnh rất nặng.
Bệnh thấp: Thường thấy nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên. Đau khớp. Sốt cao. Thường xảy ra sau viêm họng. Có thể đau ngực với nhịp thở ngắn. Có thể có những cử động bất thường ở chân và tay.
Sốt hậu sản: Bắt đầu sau khi sinh hoặc sinh được nhiều ngày. Khởi đầu sốt nhẹ, về sau thường sốt cao lên. Ra huyết hôi ở âm đạo, đau và đôi khi ra máu.
Ngoài những bệnh nguy hiểm trên, còn nhiều bệnh khác có thể gây ra những cơn sốt và những triệu chứng tương tự, không phải bao giờ cũng dễ phân biệt. Nếu có thể, nên tìm sự giúp đỡ của bác sĩ.
Bệnh sốt rét
Sốt rét là một trong những bệnh truyền có số người mắc cao nhất thế giới, chủ yếu ở các vùng nhiệt đới. Bệnh do ký sinh trùng Plasmodium gây ra và được truyền từ người này sang người khác do muỗi đòn xóc Anopheles.
Loại ký sinh trùng này được phát hiện vào năm 1980 tại châu Phi. Khi ký sinh trùng xâm nhập cơ thể sẽ vào gan và tiếp đến là hồng cầu, làm bể hồng câu, liên tục gây nhiều biến chứng và dẫn người bị bệnh đến tử vong. Tại Việt Nam, loài thường gặp và gây tử vong nhiều là ký sinh trùng Plasmodium falciparum.
Triệu chứng
Sau khi bị muỗi mầm bệnh đốt từ 7-14 ngày, bệnh nhân sẽ lên cơn sốt trong vài hôm với những triệu chứng như mệt mỏi, nhức đầu và sốt nhẹ. Sau đó xuất hiện cơn sốt điển hình với rét run khoảng từ nửa giờ đến một giờ, rồi sốt cao 39-400C, nhức đầu chóng mặt, buồn nôn và những triệu chứng khác. Cơn sốt kéo dài nhiều giờ và kết thúc khi bệnh nhân vã mồ hôi và trở lại trạng thái bình thường. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời trong 2-3 ngày từ khi sốt, bệnh sẽ biến chứng.
Biến chứng thường gặp nhất là: hôn mê, co giật (thể ác tính não) suy thận cấp (thận không còn hoàn thành được chức năng thải chất độc trong cơ thể ra ngoài qua nước tiểu; chất thải gia tăng trong máu) và bệnh nhân sẽ tử vong trong vòng 7-10 ngày. Biểu hiện trên lâm sàng là nấc cụt, đi tiểu ít. Bệnh nhân còn có dấu hiệu vàng da niêm đi kèm hoặc rối loạn chức năng nội tiết như giảm chất đường glucose trong máu. Các biến chứng khác ít gặp hơn - nhưng tử vong rất cao - là phù phổi cấp, sốc, tiểu ra huyết cầu tố, thiếu máu nặng.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#83 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:14:29(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Sốt rét (tiếp)
Điều trị
Hiện nay tại vùng Đông Nam Á, trong đó có nước ta, ký sinh trùng sốt rét P.falciparum đã kháng lại hầu hết các thuốc sốt rét được sử dụng trước đây như Choloroquine (Delagyl, Nivaquine), Sulfadoxine - Pyrimethamine (Fansidar) với tỷ lệ trên 90%.
Để khắc phục tình trạng đó, Tổ chức Y tế thế giới đã nghiên cứu phác đồ điều trị sốt rét với các loại còn hiệu quả là Artemisimin và các dẫn xuất (là chất chiết xuất từ cây thanh hao Artemisua annua), Quinne, Mefloquine. Tại Việt Nam, chương trình quốc gia phòng chống sốt rét đã ứng dụng điều trị sốt rét bằng phác đồ này. Tỷ lệ trên 95% khỏi bệnh trong đợt điều trị đầu tiên (với thời gian khỏi bệnh từ 3-4 ngày).
Phòng ngừa
Hiện nay, ở ta và trên thế giới, điều trị sốt rét cơn rất đơn giản và hiệu quả; nhưng một khi sốt rét đã biến chứng thì điều trị lại vô cùng phức tạp, tốn kém và tử vong khá cao. Chính vì vậy, công tác phòng ngừa là rất quan trọng.
Đối với người sống trong vùng không có sốt rét lưu hành - là vùng không có muỗi trung gian truyền bệnh - như ở các thành phố, thị trấn; khi đi vào vùng có nhiều núi rừng đầm lầy như ở các tỉnh Bình Phước, Đắc Lắc, Cần Giờ... cần được tham vấn về các biện pháp phòng chống cá nhân như mặc áo quần dài vào ban đêm, dùng thuốc xua muỗi loại xoa hay đốt, nằm màn, uống phòng ngừa.
Đặc biệt chú ý: khi bị sốt, cần đến ngay cơ sở y tế để được xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng để chữa trị kịp thời trong vòng 3 ngày đầu (nhiều bệnh nhân đã tử vong tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới chỉ vì ngủ qua một đêm tại các vùng có sốt rét sau khi bị sốt không đến ngay y tế để được xét nghiệm máu và điều trị mà tự mua thuốc uống).
BS Trần Tịnh Hiền  (Trung tâm Bệnh Nhiệt đới TP HCM)
Bệnh sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm cấp tính do siêu vi Dengue gây ra. Bệnh lây do muỗi vằn (Aedes Aegypti) hút máu truyền siêu vi từ trẻ bệnh sang trẻ lành. Muỗi vằn sống trong nhà, thích hút máu cả ngày lẫn đêm.
Bệnh sốt xuất huyết thường xảy ra tại các nước trong vùng nhiệt đới. ở nước ta, bệnh tập trung ở các tỉnh Nam bộ (70%) và duyên hải miền Trung (28%). Bệnh xảy ra quanh năm và thường thành dịch lớn vào mùa mưa. Lứa tuổi mắc bệnh thường là trẻ em. Hiện nay, chưa có thuốc đặc hiệu chữa trị và thuốc phòng ngừa bệnh này.
Sốt xuất huyết ở trẻ em
Các triệu chứng khả nghi bệnh sốt xuất huyết là sốt cao liên tục từ 39 - 40 độ C trong 3 - 4 ngày liền; có dấu hiệu xuất huyết ngoài da, chảy máu cam, chảy máu nướu răng; đau bụng, nôn ói, chân tay lạnh. Khi nghi ngờ sốt xuất huyết, cần đưa trẻ em đi khám bệnh ngay.
Trường hợp nhẹ, được bác sĩ chỉ định điều trị tại nhà, cần cho trẻ nghỉ ngơi, tránh chạy nhảy; cho ăn nhẹ (cháo, xúp, sữa...); cho uống nhiều nước, uống dung dịch Oresol, nước trái cây càng tốt; hạ sốt với Paracetamol, lau ấm khi sốt cao; tuyệt đối không cạo gió, cắt giác, quấn kín, cữ ăn... Theo dõi bệnh chặt chẽ, khi thấy dấu hiệu: trẻ li bì, vật vã, chân tay lạnh, ói nhiều... cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay.
Để phòng bệnh sốt xuất huyết cần cho trẻ mặc quần áo dài tay, ngủ mùng (kể cả ban ngày), đậy kín lu, hồ, vại... không để chỗ cho muỗi sinh sản, trong nhà dọn dẹp ngăn nắp, sạch thoáng, không để nước đọng.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#84 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:15:04(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Sốt xuất huyết ở người lớn
Trước đây, bệnh sốt xuất huyết chỉ phổ biến ở trẻ em nhưng gần đây, nó đặc biệt gia tăng ở người lớn.
Với sốt xuất huyết ở người lớn, bệnh nhân cũng sốt cao đột ngột, liên tục và thường kéo dài 5-6 ngày; nhiệt độ ở mức 39,5-40 độ C, ít kèm ớn lạnh; một số trường hợp chỉ sốt vừa, dưới 39 độ C (có thể dùng thuốc hạ sốt trước khi nhập viện). Ở mức độ nhẹ, kèm với sốt, bệnh nhân nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi, có thể có biểu hiện xuất huyết, buồn nôn hoặc nhức mỏi toàn thân như cảm cúm; nặng hơn có đau cơ, đau khớp, xuất huyết nặng...
Sau khi sốt từ 3 đến 5 ngày thường thấy dấu hiệu chảy máu. Nếu nhẹ chỉ xuất hiện các chấm đỏ li ti như vết muỗi cắn nhưng không biến mất khi ấn mạnh lên; hoặc xung huyết da niêm rõ, đặc biệt là niêm mạc mắt sậm, da mặt ửng đỏ, xuất hiện các vết bầm da tự nhiên hoặc sau một đụng chạm nhẹ. Nặng hơn, bệnh nhân có thể chảy máu chân răng, chảy máu cam, ói ra máu hoặc tiêu tiểu ra máu tươi...; bệnh nhân thường chảy máu kéo dài, khó cầm và xuất hiện khối máu tụ to dần. ở phụ nữ trong độ tuổi kinh nguyệt có thể thấy kỳ kinh sớm hơn hoặc rong kinh dài ngày hoặc cường kinh (mất máu nhiều trong kỳ kinh); có khi vừa dứt kinh, 2-3 ngày sau lại có kinh trở lại...
Vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 6, bệnh nhân thường thấy đau bụng, gan sưng to, bụng hơi căng. Đau dưới mũi ức hoặc dưới sườn phải và thấy tức khi ấn vào. Ngày thứ 5, thứ 6, khi sốt bắt đầu giảm, bệnh nhân có thể bị sốc: người mệt, đờ đẫn, lo lắng; tiểu ít hoặc không có nước; da lạnh, nhất là ở các chi; môi tái nhợt hoặc tím; mạch nhẹ hoặc không bắt được, huyết áp giảm thấp hoặc có khi không đo được. Lưu ý sốt càng nặng nếu có xuất huyết kèm theo; tuy nhiên, so với trẻ em, ở người lớn ít thấy dấu hiệu bứt rứt, bất an (trừ khi có xuất huyết nặng).
Ngoài ra, bệnh nhân còn có dấu hiệu suy gan như vàng da, vàng mắt, men gan trong máu cao. Ngoài những biểu hiện thấy được, bác sĩ còn dựa vào kết quả xét nghiệm máu để định bệnh khi thấy có tình trạng cô đặc máu và tiểu cầu giảm (biểu hiện cho khuynh hướng dễ chảy máu). ở người lớn chẩn bệnh khó hơn do các triệu chứng ít rõ rệt và người lớn thường mắc các bệnh mãn tính, có thể làm nặng thêm bệnh sốt xuất huyết hoặc dễ nhầm với các bệnh có dấu hiệu và triệu chứng tương tự nhưng xử trí hoàn toàn khác (như bệnh nhiễm trùng huyết nặng, thương hàn, sốt rét, viêm gan siêu vi...)
Do bệnh sốt xuất huyết ở người lớn chỉ mới gia tăng vài năm gần đây nên chưa thể kết luận gì về tỷ lệ tử vong, ở trẻ em thường do sốc không hồi phục, tái đi tái lại; còn ở người lớn nguyên nhân thường do xuất huyết nặng, khó cầm. Người lớn thường nhập viện trễ nên tình trạng xuất huyết đã nặng, góp phần làm tăng tỷ lệ tử vong.
Điều trị tùy theo độ nặng nhẹ của bệnh. ở độ 1 và 2, bệnh nhân có thể điều trị ngoại trú bằng thuốc giảm sốt thông thường, uống nhiều nước đặc biệt là nước trái cây, ăn thức ăn dễ tiêu và nghỉ ngơi... Tuyệt đối không dùng thuốc giảm sốt thuộc nhóm Aspirin vì sẽ gây chảy máu nặng hơn. Bệnh nặng hơn ở độ 3, độ 4, có tình trạng sốc hoặc xuất huyết nặng, bệnh nhân cần nhập viên để được theo dõi điều trị và cấp cứu kịp thời.
Hiện nay, chưa có thuốc chủng ngừa sốt xuất huyết, vì thế biện pháp ngừa bệnh đơn giản nhất là tránh không để muỗi đốt bằng cách áp dụng các biện pháp: ngủ mùng, dùng nhang hoặc phun thuốc trừ muỗi... và nhất là phải giữ cho nhà cửa luôn thông thoáng, sạch sẽ, san lấp ao tù và các vũng nước đọng, tích cực diệt lăng quăng, diệt muỗi...
BS Lê Thị Thu Thảo (Trung tâm Bệnh nhiệt đới TP HCM)
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#85 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:15:24(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Chương 12: Phòng và trị bệnh ung thư
Những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh ung thư
- Những người thường hay thức khuya: Tế bào ung thư là tế bào phát sinh đột biến trong quá trình sinh sản tế bào bình thường. Ban đêm lại là thời điểm tế bào sinh sản tốt nhất. Ngủ không tốt, thân thể rất khó khống chế được sự phát sinh biến dị của tế bào mà sẽ hình thành tế bào ung thư.
- Những người mắc bệnh huyết áp cao: Theo một số công trình nghiên cứu khoa học do nhóm Gs. John Parker và cộng sự, Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (Mỹ) trên 30.000 nam thanh niên Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ung thư và tỷ lệ tử vong của người mắc bệnh huyết áp cao hơn 4 lần những người có huyết áp bình thường.
- Những người hay nín tiểu, đại tiện: Nguy cơ ung thư bàng quan (bọng đái), tỷ lệ thuận với bệnh sỏi thận. Trong nước tiểu có một loại chất có hại đối với các sợi cơ của bàng quang và đó là nguyên nhân gây ra đột biến ung thư. Trong phân cũng có nhiều chất độc hại, số vật chất độc hại này thường kích thích niêm mạc ruột sẽ dẫn đến đột biến ung thư. Vì vậy biện pháp phòng ngừa bệnh ung thư là mỗi khi mắc đại tiểu tiện là phải đi ngay.
- Những người có cơ địa dị ứng (allergy): Kết quả điều tra nghiên cứu trên gần 40.000 người Mỹ, chủ yếu là những người có cơ địa dị ứng với các loại dược phẩm hoặc thuốc thử hóa học, cho thấy những đối tượng này dễ mắc bệnh hơn so với những người không có cơ địa dị ứng. Nếu những người con gái đã từng có cơ địa dị ứng thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến vú cao (30%) so với những chị em bình thường. Nếu những người con trai đã từng có cơ địa dị ứng thì cơ hội mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao (41%) so với những người đàn ông bình thường.
- Những đối tượng thiếu sinh tố (vitamins): Các nhà khoa học người Thụy Sĩ cho rằng những người có hàm lượng sinh tố ít thì dễ mắc bệnh ung thư hơn. Đối với những người bị thiếu sinh tố A thì nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi tăng gấp 3 lần; đối với những người thiếu tiền sinh tố A (caroten) thì khả năng mắc bệnh ung thư dạ dày tăng 3,5 lần; và các bệnh ung thư khác tăng gấp 2 lần. ở những người bị thiếu sinh tố C (cevitamic acid) thì khả năng mắc bệnh ung thư bàng quang, ung thư thực quản, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư tuyến thượng thận tăng gấp 2 lần...
- Những người có lượng cholesterol quá thấp: Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Oxford (Anh) đã chứng minh một nhân tố quan trọng gây tử vong cho những phụ nữ có tuổi chính là lượng cholesterol quá thấp.
- Con cái của những người mắc bệnh ung thư: Nếu là con cái của những người mắc bệnh ung thư thì cơ hội mắc bệnh tăng gấp 5 lần so với người khác.
Nhìn chung, đời sau của những người mắc bệnh ung thư thì rủi ro mắc bệnh cao hơn những người bình thường.
Hoàng Duy Đức
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#86 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:16:02(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Ung thư khoang miệng
Thể thường gặp của ung thư miệng là ung thư biểu mô tế bào gai, hình thành trên lớp bề mặt của miệng. Một khi những tế bào gai này bị suy giảm chức năng bảo vệ, chúng sẽ sinh trưởng nhanh chóng và vô tổ chức, tạo thành các khối u.
Từ khối u này các tế bào ung thư sẽ xâm nhiễm vào các mạch, đi tới những vị trí xa của cơ thể tạo thành những u mới.
Vì vậy cần dự phòng, chẩn đoán và điều trị sớm ung thư miệng. Nếu bệnh nhân được chẩn đoán sớm, lúc u còn nhỏ, việc điều trị sẽ đơn giản và kết quả lại rất tốt. Ngược lại nếu u đã lan rộng, di căn xa, việc điều trị sẽ rất phức tạp và kết quả rất hạn chế.
Các tỷ lệ về thống kê ung thư miệng:
Ung thư miệng chiếm từ 5% - 10% tổng số các loại ung thư và chiếm 2% - 3% tổng số các bệnh nhân tử vong trong ung thư. Nhóm đàn ông trên 40 tuổi dễ phát hiện ung thư miệng. ở Việt Nam tỷ lệ ung thư miệng ở nữ giới cao có thể do ăn trầu thuốc.
Ung thư lưỡi thường gặp nhiều trong ung thư miệng.
Các nguyên nhân gây ung thư miệng chưa được xác định rõ nhưng các yếu tố sau có thể là chủ yếu:
- Hút thuốc lá trong một thời gian dài.
- Niêm mạc miệng luôn bị kích thích bởi một chiếc răng nhọn hoặc đôi khi do xương cá đâm vào.
- Niêm mạch miệng bị tác động do ăn trầu thuốc sau một thời gian dài.
- Ánh nắng là yếu tố quan trọng gây ung thư môi.
Ta có thể phát hiện những dấu hiệu báo trước ung thư miệng:
- Bất kỳ điểm sùi hoặc loét nào ở lưỡi, niêm mạc má hay lợi đã được điều trị 2 tuần mà không khỏi.
- Các điểm có màu trắng đỏ ở trong miệng hoặc trên môi.
- Có một điếm sưng tấy hoặc nổi một u ở bất cứ điểm nào trong miệng hoặc ở cổ.
- Cảm thấy khó khăn, trở ngại trong việc nói và nuốt.
- Có những tổn thương bị tái phát nhiều lần trong miệng.
- Bị tê dại hoặc mất cảm giác ở bất cứ điểm nào trong miệng.
Hầu hết các bệnh nhân bị ung thư miệng không có cảm giác đau ở giai đoạn sớm.
Triệu chứng đầu tiên thường là cảm giác khó chịu do kích thước của khối u gây ra.
Việc điều trị ung thư miệng sẽ đơn giản và đạt hiệu quả cao nếu bệnh nhân được điều trị ở giai đoạn sớm (lúc u còn nhỏ và chưa di căn xa) bằng phẫu thuật, tia xạ hoặc hoá chất.
Trà có thể chống ung thư miệng
Nghiên cứu trên 59 bệnh nhân có tổn thương tiền ung thư ở miệng, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Dược phẩm dự phòng Trung Quốc ở Bắc Kinh nhận thấy sau một thời gian được uống hoặc ngậm trà thì các tế bào tiền ung thư ngừng phát triển và các tổn thương ở miệng bắt đầu lành. Đó là do trong trà có nhiều chất chống oxy hoá (antioxidants) giúp làm giảm sự hình thành các gốc tự do có khả năng làm tổn thương tế bào.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#87 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:16:17(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Ung thư đại trực tràng
Ung thư đại trực tràng chủ yếu phát triển từ các tế bào tuyến của niêm mạch ruột già, xâm lấn vào thành ruột lan ra các tổ chức xung quanh. Di căn theo hai đường: đường bạch huyết tới các nhóm hạch, đường máu tới gan, phổi, xương... Ung thư sẽ gây các rối loạn bài tiết phân, gây cản trở bít tắc lòng ruột và chảy máu trong lòng ruột làm đi ngoài ra máu.
Nguyên nhân
Các u thịt của niêm mạc ruột già (hay polip) từ quá trình lành tính, thoái hoá thành ác tính đặc biệt ở người trên 45 tuổi. Nếu người có polip thì nguy cơ ung thư cao hơn hàng chục lần người bình thường. Polip dạng nhung mao có nguy cơ ung thư cao nhất.
Chế độ dinh dưỡng không hợp lý: quá nhiều chất béo, chất đạm động vật, ít rau hoa quả tươi. Những bệnh viêm nhiễm đại trực tràng chảy máu. Tình trạng loạn khuẩn do dùng nhiều kháng sinh đường ruột cũng thấy có liên quan đến ung thư đại trực tràng. Ta có thể nhận biết ung thư đại trực tràng qua các triệu chứng thay đổi về bài tiết phân:
- Hội chứng lỵ, mót rặn, đau quặn bụng, ỉa phân nhầy mũi hay gặp ở ung thư đại tràng sigma, trực tràng, hậu môn.
- Hội chứng ỉa lỏng nhầy mũi, bán tắc ruột chướn bụng, đau quặn, khi bài tiết được hơi thì hết, hay gặp ở các khối u đại tràng phải.
- Hội chứng táo bón, tắc ruột dần dần, rồi đi tới tắc ruột hoàn toàn hay gặp ở ung thư đại tràng trái. Ngoài ra ta có thể phát hiện khối u: khi sờ thấy khối u qua thành bụng thì ung thư đã ở giai đoạn muộn.
Phòng ngừa
- Giảm phần calo chất béo (có trong khẩu phần ăn) từ 40% xuống 25% - 30%.
- Tăng cường hoa quả, ngũ cốc nguyên hạt vào bữa ăn hàng ngày.
- Hạn chế thức ăn muối, lên men, xông khói, sấy khô (cá khô, xì dầu, thịt ám khói).
- Hạn chế tiêu thụ những gia vị vô bổ có thể gây ung thư như phẩm nhuộm, dầu thơm.
- Tránh những chất gây đột biến gien trong thức ăn như thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Thuốc kích thích tăng trọng.
- Không lạm dụng rượu, bia và các chất lên men rượu khác.
BS Thuý Phương
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#88 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:16:34(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Xơ nang vú có phải ung thư?
Xơ nang tuyến vú - còn gọi là thay đổi sợi bọc tuyến vú - không phải là ung thư. Đó chỉ là hiện tượng thường gặp dưới ảnh hưởng của nội tiết tố nữ ở phụ nữ từ 30 đến 50 tuổi. Kết qảu nhiều nghiên cứu cho biết trên 60% các cục u trong vú phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không phải là ung thư; trên 90% phụ nữ tuổi tiền mãn kinh có xơ nang tuyến vú và được xem là một biểu hiện của quá trình lão hoá. Tuy nhiên xơ nang tuyến vú thường bị nhầm với ung thư vì cũng xuất hiện những cục "bướu" và thường xảy ra ở độ tuổi phụ nữ dễ bị ung thư vú nhất. Nếu có sự phối hợp tốt giữa kinh nghiệm của bác sĩ và các phương tiện chẩn đoán như siêu âm, nhũ ảnh, chọc hút tế bào bằng kim nhỏ, sinh thiết... thì tỷ lệ chẩn đoán nhầm sẽ rất thấp.
Nguyên nhân
Trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt, dưới tác động của nội tiết tố nữ estrogen và progesterone, mô tuyến vú giãn nở, giữ nước lại và căng lên, những vùng có mật độ chắc hơn bình thường sẽ cho cảm giác như "bướu". Sau khi hành kinh, các cảm giác này giảm dần rồi trở lại bình thường. Qua các chu kỳ kinh nguyệt, sự kích thích lặp đi lặp lại làm cho mô vú trở nên chắc và hình thành các nang nhỏ chứa dịch trên các ống sữa bị tắc hoặc bị giãn; nhất là ở người mất sự quân bình giữa hai nội tiết tố nữ như phụ nữ ở thời kỳ tiền mãn kinh hoặc những người thường xuyên bị stress... Khi đó, tuyến vú có những vùng bất thường tạo thành những cục "bướu" hay những mảng chắc gồ lên dưới da hoặc những hạt rất nhỏ rải rác khắp 2 vú.
Xơ nang tuyến vú thường có ở cả 2 vú, nhất là 1/4 phía trên ngoài và phần dưới vú. ở phụ nữ tiền mãn kinh, các nang bị xơ có thể to lên và gây cảm giác khó chịu như bị căng tức, rất nhạy cảm khi sờ vào, có cảm giác nóng bỏng và đau lăn tăn, có khi đau nhiều đến nỗi hạn chế cử động và khó nằm sấp... nhưng sau khi mãn kinh, hiện tượng này thường giảm dần và mất đi. Trong một số trường hợp xơ nang tuyến vú phát triển thành nang to, tròn, chắc, di động, chứa dịch loãng trắng đục, tạo cảm giác căng căng khi ấn lên và có thể đau khi khám. Cảm giác đau và kích thích cục "bướu" thường tăng và giảm trước và sau khi hành kinh khoảng 1 tuần. Loại nang này thường biến mất sau vài lần hút dịch hoặc sau mãn kinh và không chuyển sang ung thư.
Phụ nữ cần làm gì để phòng bệnh và phát hiện cục "bướu" ở vú?
Mỗi thán phải tự khám vú, tốt nhất là một tuần sau khi có kinh; nếu đã mãn kinh thì chọn một ngày cố định trong tháng. Dùng đầu ngón tay kiểm tra toàn bộ vú 2 bên, từ trên xuống dưới và cả vùng hố nách. Qua những lần đầu tự khám, phụ nữ sẽ cảm nhận và "làm quen" với mật độ mềm hay chắc hay lổn nhổn ở vú và khi có bất kỳ một sự thay đổi nào trong vú sẽ được nhận ra ngay.
Khi phát hiện có "chuyện lạ" trong vú thì cần đến bác sĩ khám và theo dõi ngay. Phụ nữ từ 30 đến 40 tuổi nên đi khám vú 3 năm / lần và từ 40 tuổi trở đi nên siêu âm hoặc chụp nhũ ảnh mỗi năm một lần.
Điều trị
Tùy trường hợp cụ thể, việc điều trị có thể là:
- Theo dõi và làm giảm cảm giác đau và khó chịu tại chỗ: uống thuốc giảm đau và vitamin E; tránh dúng thức ăn thức uống có cafein như cà phê, trà đặc, sôcôla hoặc nước uống có ga; chườm nóng tại chỗ, dùng nịt ngực cho thích hợp. Cần lưu ý: một số thuốc thoa có chứa progesterone hoặc thuốc uống có nội tiết tố nữ thường không có hiệu quả và tác dụng phụ của thuốc có thể gây buồn nôn, rối loạn kinh nguyệt, tăng cân hoặc nổi mụn.
- Nếu chỉ có một cục u hoặc các xét nghiệm không cho chẩn đoán rõ rệt, bác sĩ cho mổ sinh thiết hoặc làm xét nghiệm giải phẫu bệnh để chẩn đoán xác định.
- Nếu bướu là nang chứa dịch, bác sĩ sẽ rút hết dịch ra và làm xét nghiệm tế bào học để xác định rõ hơn tính chất bệnh.
- Theo dõi định kỳ 6 tháng đến 1 năm / lần vì có khoảng 1% - 5% trường hợp xơ nang tuyến vú trở thành ung thư.
TS Nguyễn Sào Trung (Đại học Y dược TP HCM)
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#89 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:16:54(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú
Ung thư vú là bệnh thường xảy ra ở phụ nữ tại các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, phụ nữ bị ung thư vú chiếm tỷ lệ gần 0,17 phần ngàn. Trong đó nguyên nhân tiền sử gia đình có người "mắc bệnh" được xem là chủ yếu. Những chị em có họ hàng ruột thịt ở thế hệ 1 (mẹ, con, chị, em) với bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú thì có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn.
Ở phụ nữ chưa một lần sinh nở, mà sinh nở càng nhiều thì nguy cơ càng thấp. Phụ nữ đã "bị" cắt bỏ buồng trứng, nhất là bị cắt trước tuổi 35 thì thấy nguy cơ cũng thấp hơn. Phụ nữ sống độc thân có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao gấp 2 lần so với phụ nữ có chồng, các nữ tu sĩ mắc bệnh ung thư vú có tỷ lệ khá cao, chị em đẻ mắn ít có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú hơn so với chị em không "chịu" đẻ.
Ngoài ra, việc uống rượu của chị em (dĩ nhiên là ở chị em thường xuyên tiếp xúc với rượu...) cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo nguy cơ ung thư vú.
Nhìn chung, bệnh ung thư vú là loại ung thư ổ nông dễ tiếp cận chẩn đoán và nhất là chị em có thể tự khám ngực tìm những khối bất thường phát hiện sớm. Thường thì bệnh nhân tự đến cơ sở y tế xin được bác sĩ khám sau khi tự mình phát hiện khối u ở vú.
Biểu hiện lâm sàng của ung thư vú
Bệnh ung thư vú với biểu hiện là:
- Da trên u vú bị dính, núm vú tụt vào hay bị co kéo, có da đỏ, sẫm da cam, hoặc kích thước u vú, mật độ, độ di động, bị tiết dịch ở đầu vú (dịch có thể có màu trắng, đỏ hoặc vàng).
- Tại vùng nách, thường đòn cùng bên khối u có thể có hạch vùng và có khả năng lan tràn sang qua bên vú đối diện.
Chẩn đoán bệnh ung thư vú
Sau khi đã phát hiện dấu hiệu ban đầu trên lâm sàng như đã nói trên, khi đến cơ sở y tế chuyên khoa ung bướu, các bác sĩ sẽ cho chụp X quang tuyến vú. Để đánh giá và tiên lượng tình trạng diễn tiến của bệnh trước khi tiến hành điều trị, nhất thiết phải thực hiện thủ thuật làm mô bệnh học (histo pathology) giúp cho việc chẩn đoán xác định và phân loại (type) mô học, chọc hút tế bào cho phép chẩn đoán chính xác ung thư đến 95%.
Phương pháp điều trị ung thư vú
Phương pháp điều trị thông thường bệnh ung thư vú hiện nay ở Việt Nam là giải phẫu, chạy tia xạ, đến khi hạch nách cùng bên đã bị xâm lấn có thể tiến hành điều trị bằng hoá chất.
Hiện nay, người ta cũng đang được áp dụng phương cách tăng cường miễn dịch hỗ trợ trong điều trị ung thư nói chung, ung thư vú nói riêng như dùng tảo Spirulina, Phylamin, HTCK.
Tuy là loại ung thư có tính lan tràn toàn thân nhưng thực tế nếu phát hiện u (tumor) ở giai đoạn đầu, rồi được tiến hành chữa trị kịp thời, thì tỷ lệ sống còn sau 5 năm khá cao.
Cần phát hiện ung thư vú bằng cách tổ chức khám theo chương trình cho hàng loạt phụ nữ ở lứa tuổi có nguy cơ cao, nhất là hướng dẫn cách để chị em tự khám (self-examination) để phát hiện khối u ở vú đang còn nhỏ.
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#90 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:17:13(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
Tự kiểm tra để phát hiện sớm ung thư vú
Đối với phụ nữ, vú là vị trí dễ bị ung thư. Biện pháp hữu hiệu để cải thiện tỷ lệ sống sót khi bị ung thư vú là sớm phát hiện ra các khối u ở vú bằng cách tự kiểm tra.
Việc thực hiện gồm hai giai đoạn: Kiểm tra và xoa nắn.
I-Phần kiểm tra:
1. Ngồi một bên giường, không mặc áo. Thả lỏng 2 cánh tay khum vào lòng bụng và kiểm tra vú trước tấm gương lớn.
Chú ý đến những dấu hiệu bất thường sau:
- Kích thước và độ cân xứng của ngực;
- Trên làn da vú có dấu hiệu sưng phồng, nếu nhăn nhúm, những nốt tròn như đồng tiền, biến đổi về cấu tạo bên ngoài về màu da cũng như biến đổi về nốt ruồi.
- Vú bên này có thể khác một chút về kích thước và hình dáng với vú bên kia, nhưng sự khác nhau về màu sắc, nốt nhỏ trên da, lớp vảy hay vết loét cần được chú ý.
Nếu phát hiện ra các dấu hiệu khuyếch tán rộng mang gam màu xanh thì có thể nghĩ nhiều đến việc có sự tập trung máu nhiều hơn ở khu vực đó và cần đến bác sĩ chuyên khoa để theo dõi.
Hiện tượng núm vú tiết dịch ở phụ nữ chưa trưởng thành và không cho con bú là bất thường; núm vú thụt vào cũng là dấu hiệu nghi ngờ, đặc biệt là khi hiện tượng này mới xuất hiện.
Lưu ý: Khi thấy làn da có màu vàng sậm, lỗ chân lông lớn và sưng, đó là dấu hiệu tăng trưởng của ung thư vú. Kiểm tra cơ ngực bằng cách dùng hai tay ép vào hông. Có thể kiểm tra lần nữa sự cân xứng, kích thước, đường viền ngực, những nốt tròn như lúm đồng tiền, nếp da nhăn nhúm hoặc thụt vào.
2- Trong khi ép chặt hai tay vào hông, xoay người từ bên này sang bên kia để có thể thấy được các cơ ngực.
3- Đặt hai tay cao qua đầu hay sau ót. Động tác này có thể kiểm tra được những biến đổi về cân xứng và đường viền ngoài của mỗi bên ngực.
II- Phần nắn ngực:
1- Rửa tay sạch. Xoa nắn hai bên ngực cùng một lúc. Bắt đầu định vị trí bàn tay dưới xương đòn và xoa nắn dần xuống đến núm vú. Đôi khi có thể sờ nắn được một vùng cứng và thường đó là xương sườn. Để chắc chắn, nên nắn dọc theo bờ sườn để xác định rõ. Nếu vùng cứng này không tiếp giáp với bờ sườn, nên đến bác sĩ chuyên khoa để khám. Việc kiểm tra có thể thực hiện dưới vòi sen khi tắm vì da khi ướt sẽ làm tăng độ nhạy cảm của ngón tay.
2- Để đánh giá cơ và hạch bạch huyết ở vùng nách, nên thả lỏng cơ bằng cách để một cánh tay trên bụng với khủyu tay hơi cong. Bàn tay còn lại nắm lấy phần cơ gần hốc nách để xem có khối u không và xem các hạch bạch huyết có to không.
3- Với tư thế nằm, kiểm tra vùng ngực bên trái. Đặt một cái khăn hoặc một cái gối nhỏ dưới vai và lưng trái, để tay trái dưới đầu. Tư thế này giúp xác định rõ các cơ ngực. Dùng phần lòng bàn tay của 3 ngón giữa nắn ngực theo hình vòng tròn cho đến vị trí như số 12 của đồng hồ. Đối với những phụ nữ có ngực to, nên nằm nghiêng về phía trái để khám ngực phải và ngược lại. Có thể làm tăng độ nhạy của các ngón tay bằng cách thoa thêm dầu Lotion. Sau khi kiểm tra hết vòng ngoài của cơ ngực, nên kiểm tra phần cơ chung quanh núm vú và tiếp tục với cách thức trên cho đến khi toàn bộ ngực được kiểm tra.
4- Kiểm tra núm vú bằng cách dùng ngón trỏ và ngón giữa đè núm vú, nắn các vùng nằm sâu phía dưới (thường gọi là các "giếng"). Đây là vị trí thường có khối u.
5- Bóp nhẹ núm vú để xem có dịch tiết hay không. Bất kỳ dịch tiết nào ở người phụ nữ không trong thời kỳ cho con bú đều phải chú ý, nên đến bác sĩ khám ngay.
6- Sau khi kiểm tra xong ngực trái, tiếp tục kiểm tra ngực phải.
Tuy nhiên, bạn nên yên tâm vì khoảng 8/10 khối u là lành tính. Và chỉ có bác sĩ là người đưa ra chẩn đoán và cho hướng điều trị đúng đắn nhất...
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline A2066  
#91 Đã gửi : 03/12/2007 lúc 07:17:32(UTC)
A2066

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-10-2007(UTC)
Bài viết: 5.759
Đến từ: Heaven in hell

Được cảm ơn: 44 lần trong 36 bài viết
U xơ tử cung
U xơ tử cung là loại u lành thường gặp nhất của tử cung phụ nữ trong độ tuổi từ 30 đến trước mãn kinh. Người ta ước tính có khoảng 20%-30% phụ nữ trên 30 tuổi có u xơ tử cung.
Nguyên nhân
Nguyên nhân tạo u chưa được biết rõ. U xuất nguồn từ các tế bào cơ trơn của thân tử cung nên chịu ảnh hưởng của các nội tiết tố estrogen.
Triệu chứng
Triệu chứng rất khác nhau, tùy theo tình trạng u:
- Nhiều trường hợp u nhỏ không gây triệu chứng gì, chỉ được phát hiện tình cờ qua siêu âm bụng.
- Nếu u ở ngay dưới niêm mạc tử cung, dù nhỏ, u có thể gây rong kinh, rong huyết hoặc gây sẩy thai sớm.
- Nếu u ở gần eo cổ tử cung, u có thể chèn ép đường tiểu gây rối loạn tiểu tiện.
- Nếu u to, bệnh nhân sẽ có triệu chứng bụng to (như có thai), hoặc có cảm giác chằng nặng hay đau nhẹ ở bụng dưới, hoặc tiểu nhắt, tiểu khó, táo bón.
Điều trị
Có nhiều cách xử trí khác nhau tùy theo tuổi và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, tùy theo vị trí và kích thước của u.
- Chỉ cần theo dõi định kỳ 3 tháng một lần, nếu u nhỏ và không gây triệu chứng gì thì u có thể tự teo nhỏ dần sau tuổi mãn kinh.
- Điều trị bằng nội tiết tố với thuốc có chứa chất progestogen nếu u gây rối loạn kinh nguyệt mà chưa thể phẫu thuật ngay. Ví dụ: bệnh nhân còn quá trẻ, còn muốn có con, hoặc bệnh nhân có thêm bệnh khác (như tiểu đường...) ảnh hưởng đến việc phẫu thuật. Cách điều trị này chỉ là tạm thời nhằm điều trị rối loạn kinh nguyệt chứ không thể làm u nhỏ đi hay biến mất đi.
- Phẫu thuật: được dùng trong các tình huống như sau:
+ U to (cỡ thai trên 12 tuần): khi tử cung to thường sẽ gây các triệu chứng chằng nặng ở bụng dưới.
+ U gây chèn ép đường tiểu, gây tiểu nhắt, tiểu khó, làm thận trướng nước.
+ U gây rong kinh huyết hoặc cường kinh.
+ U lớn nhanh.
Tùy theo tình trạng u, tình trạng bệnh nhân, thường sẽ có 2 cách xử trí:
* Chỉ bóc nhân xơ: nếu bóc được ở bệnh nhân trẻ còn muốn có con. Mổ theo cách này sẽ giữ lại được tử cung (bệnh nhân có thể mang thai và sinh con) nhưng về sau u có thể tái phát. Khi đó phải mổ lại.
* Cắt bỏ tử cung: thường dùng cho bệnh nhân lớn tuổi không muốn có con, hoặc u quá to, hoặc tử cung có nhiều u, hoặc u ở vị trí không thể bóc tách. Trong phẫu thuật này, nếu bệnh nhân đã mãn kinh thường được cắt luôn 2 buồng trứng.
Lưu ý:
Người có u xơ tử cung vẫn có thể mang thai. Khi đó do ảnh hưởng của nội tiết tố thai kỳ, u xơ thường to và mềm hơn.
Sản phụ có u xơ tử cung dễ bị những rối loạn như: rối loạn tiểu tiện; sẩy thai; ngôi thai bất thường và nhau đóng bất thường; chuyển dạ kéo dài và khó; băng huyết khi sổ bụng; nhiễm trùng hậu sản. Do đó, sản phụ cần được theo dõi kỹ, nằm nghỉ ngơi nhiều, dùng thuốc chống co bóp tử cung hoặc progesteron. Nếu bị sẩy thai, cần phải nạo kỹ lòng tử cung để tránh sót nhau. Trong lúc chuyển dạ có thể phải mổ lấy thai kịp thời.
PGS Nguyễn Sào Trung
Bạn đang lo lắng về HIV,thời gian phơi nhiễm sắp hết. Bạn cứ ĐT Tuan mecsedec: 098.2727.ba.9.3. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
5 Trang«<345
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.