Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline da1lanyeunhau  
#1 Đã gửi : 13/05/2008 lúc 09:29:02(UTC)
da1lanyeunhau

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 19-11-2007(UTC)
Bài viết: 347

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 8 lần trong 6 bài viết
<blockquote id="a31fa745"> <blockquote id="f44b8010"> <p><strong><font color="#000066" size="3"><span id="_ctl4_lblTua">Hãy ra khỏi cánh rừng chân trời phía trước</span></font></strong><br /><font size="1"><span id="_ctl4_lblChuong"></span></font></p><span style="BACKGROUND-IMAGE: none; WIDTH: 500px"> <div align="justify"><font face="Verdana, Arial, Sans Serif" size="2"><span id="_ctl4_lblCachLam"></span><br /><span id="_ctl4_lblBai"><font face="helvetica">Người ta vốn tin rằng có những con số may mắn, những con số rủi ro, những con số linh thiêng và những con số đáng nguyền rủa. Khi quân xúc xắc gieo xuống, đố ai biết nó lăn theo hướng nào. Người công dân thứ sáu tỉ trên hành tinh của chúng ta sẽ mang quốc tịch nào đây ?... đó là câu trả lời của một đấng linh thiêng không nhìn rõ mặt. <br />Trong khoảng thời gian chờ đợi, tôi xin mạn phép giả dụ rằng đứa bé mang con số đặc biệt kia sẽ chào đời tại một vùng đất đói nghèo khốc hại xứ Somalia hoặc trong một cung điện lộng lẫy như Buckingham, hai địa danh có thể tạm coi như địa ngục trần gian và thiên đường cõi thế. Nếu đứa bé đó cất tiếng khóc chào đời dưới mặt trời bỏng giãy Somalia, âm thanh đầu tiên tưới rót vào tâm hồn nó sẽ không phải giai điệu của bài hát ru mà là tiếng đạn bom, tiếng vo ve của những bầy ruồi, tiếng vỗ cánh của lũ chim ăn xác. Mùi vị đầu tiên nó cảm nhận sẽ không phải mùi hoa cỏ, mùi lúa chín, múi trái cây mà là mùi máu tươi và máu khô, mùi thối rữa của các tử thi và mùi thối rữa của thực phẩm trong khẩu phần thường trực... Nếu đứa bé ấy may mắn sống sót cho đến tuổi trưởng thành, tôi cầu xin Thượng Đế đã dung dưỡng sinh linh ấy ban phát cho nó khả năng nhận thức về thân phận của mình cho dù trí não nó chưa kịp nở bừng đã tàn héo và mê mụ đi trong sự tê liệt của cùng khốn và nhàm chán. Nhận thức về thân phận của chính mình là phẩm chất quan trọng để làm người. Những người lùn Pygmée trong rừng tin chắc rằng toàn thể nhân loại đều trần truồng và ăn những con sâu như họ. Những công dân các nước cộng sản trước đây cũng đinh ninh rằng trên toàn cầu, giá trị con người được đong đếm bằng số lượng thực phẩm nhà nước phân phối mỗi tháng và số phận công dân được quyết định bởi các nghị quyết đảng chứ không phải bằng pháp luật. Như vậy, đương nhiên đứa bé Somalia cũng sẽ tin rằng số phận con người vốn là thế : vốn sinh ra giữa một cặp đùi gầy guộc và bẩn thỉu, vốn phải chịu đựng đói khát và bị xua đuổi, bị tàn sát như một loài vật yếu đuối hay sâu bọ nếu như nó không đủ khả năng để hiểu rõ thân phận chính mình. Xin Thượng Đế hãy cho nó ơn huệ ấy. Xin hãy mở to đôi mắt nó, hãy cho nó cơ hội nhìn thấy một cuộc sống khác nhân loại khác vì chỉ như thế nó mới ý thức được chính mình. Người ta phải ra đi mới có trở về. Trở về với chính mình là cuộc trở về khó khăn và quan trọng nhất.Trong trường hợp thứ hai, nếu đứa bé được sinh ra ở Buckingham, cuộc sống của nó được định vị giữa nhiều lớp rào chắn, những lớp rào kiên cố được dựng lên nhằm tránh cho nó những hiểm hoạ rủi ro của cuộc đời đầy biến động và ô nhiễm. đứa trẻ may mắn kia được chuẩn bị để trở thành một tiểu thiên thần. Tôi cầu xin Thượng Đế hãy ban cho tiểu thiên thần ấy một trí tưởng tượng siêu việt. Để tâm hồn nó có thể vượt qua những lớp rào chắn của cuộc sống phù hoa chạm tới những cõi đời khác, xúc cảm những nhân loại khác, thấu hiểu rằng có những gian truân và những khổ đau nó không hình dung nổi... Trí tưởng tượng cũng là một phẩm chất cao quý của con người. Không có nó, chắc chắn con người không thể cảm thông, không có tình thương, sự khoan dung, lòng nhân hậu. Không có các hội cứu tế, tương tế, từ thiện. Không có mẹ Teresa và các bà xơ. Trí tưởng tượng khởi đầu cho một chuỗi những cảm xúc, suy tư, những giả thuyết trí tuệ, sự ăn năn và những ý định tốt đẹp nhằm cứu vớt phần nhân loại đắm chìm trong cùng khốn và mê muội. Đôi khi sự thiếu hụt trí tưởng tượng có thể dẫn đến những tội ác ngoài ý muốn. Một đứa con chủ trại mười bốn tuổi lần đầu tập bắn đã nhằm đúng trán đứa bé khác bởi vì nó không hình dung một con người có thể rúc giữa đám gai nhọn, nó ngỡ đó là con chồn con cáo hoặc loài thú nhỏ nào đó sống ven rừng. Đứa bé kia rúc giữa đám gai nhọn vì muốn đánh cắp những mẩu gỗ bên trong hàng rào của chủ trại. Gia đình túng bấn và mẹ nó giao cho nó phận sự phải kiếm cho đủ củi về đun. Sự việc thật giản đơn. Một tiếng súng nổ. Và một sinh linh lìa bỏ cõi đời. Có ai nghe thấy tiếng thở dài của Thượng Đế chăng ?... Tôi chưa nghe thấy. Trí tưởng tượng là sản phẩm của con người nhưng đồng thời lại là một trong các vật liệu cấu tạo nên con người. Nó không dành riêng cho các diễn viên. Lượng diễn viên chuyên nghiệp so với tổng số nhân loại quá nhỏ bé. Trí tưởng tượng là một tiêu chuẩn đo tính người. <br />Không phải vô cớ mà người ta định nghĩa : Con người là con vật ảo tưởng. <br /><br />Vì sao chúng ta lại ảo tưởng. Bởi chúng ta là Con Người. Giữa một loạt các khái niệm : trí tưởng tượng, ảo tưởng, hi vọng, ước mơ, utopie và hallucination không có những ranh giới với các đồn biên phòng được canh gác nghiêm cẩn. Chúng là những miền đất giáp ranh và những no man’s land chúng chơi trò đổi chỗ giống như các bóng ma đùa rỡn lúc vào đêm. Trong tiến hoá, mọi sinh vật thường không thoả mãn với các điều kiện sẵn có của chúng mà luôn luôn tìm kiếm một môi trường khác để kiến tạo những ổ sinh học tốt hơn cho bản thân. Chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta cũng trăn trở năm này qua tháng khác, khắc khoải ngày đêm để tìm kiếm cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cái mà nơi sinh vật là " ổ sinh học tối ưu " nơi chúng ta gọi là Sự hoàn thiện. Đó là khuynh hướng chủ đạo của cuộc nhân sinh. Nhưng sự hoàn thiện là chân trời đối diện, chúng ta càng tiến đến, nó càng lùi ra xa. Nó là Thượng Đế không nhìn rõ mặt, là vị thần toàn năng và bất tử nhưng chỉ toàn năng và bất tử khi được che khuất bởi những đám mây dày đặc trên đỉnh Olympe để người đời sáng tạo gương mặt mình theo nét vẽ của họ. Vậy vì cớ gì chúng ta mãi theo đuổi vào trò chơi vô tận này. Cuộc đuổi bắt mà kẻ theo đuổi khốn khổ là chúng ta đây biết chắc chắn rằng chẳng bao giờ tới đích... Vâng... Chúng ta theo đuổi vì chúng ta biết rằng đó chính là bản chất đời sống. Ngoại trừ một bộ phận nhân loại đắm chìm trong đói khát nhục nhằn chết chóc, chỉ dám tìm kiếm sự tồn tại chứ không tìm kiếm cuộc sống thật sự và cuộc tồn tại đó chỉ ngang giá với sự tồn tại của cỏ cây, còn những ai ý thức về thân phận người, về nhân cách và thấu hiểu ý nghĩa cuộc sống đều phải dấn thân vào trò chơi đó. Chúng ta sống là để tìm kiếm một Thượng Đế không nhìn rõ mặt, một giá trị mới đang còn ẩn náu nơi chân trời xa ngái, sau những lớp mây và những đám sương mù. Con người chẳng bao giờ sống đủ với những thứ họ đã nhìn thấy trước mắt, họ đã nắm trong tay, họ đã cất vào các ngăn tủ. Con người sống bởi Cái sẽ đến. Cái sẽ là. Tất cả những lao động nhọc nhằn, thử nghiệm, ước mơ, khắc khoải, hi vọng và tìm kiếm không ngưng nghỉ là để tìm kiếm một cái mới, tốt đẹp hơn, cái chưa nhìn thấy. Sống là phiêu lưu. Không cuộc phiêu lưu nào hứa hẹn một kết quả chắc chắn. Chúng ta nhảy xuống biển bơi tới bãi bờ phía trước vì nghe thấy tiếng gọi của Thượng Đế vọng trong chính tâm hồn khao khát của chúng ta chứ không vì một cú điện thoại tại một hải cảng đã chờ sẵn bên kia bờ đại dương. Biển nào cũng dung chứa xác tàu bè và hài cốt người dưới những lớp sóng màu lam. Biển nào cũng có những bầy sirène và các tam giác quỉ. Và như thế, khả năng sai lầm của con người là thứ rất khó kiểm soát và thường chỉ được nhận diện sau khi sự việc đã xảy ra. Giờ đây, hẳn còn có những người ngẩn ngơ tự hỏi : Vì sao giữa lòng châu âu thế kỉ 20 lại nảy sinh ra những lò thiêu người -- giữa mảnh đất mà nền văn minh Hi-La cổ đã tẩm đậm và phù trợ, nơi tâm hồn con người được thanh lọc và thăng hoa trong ánh huy quang của thời Phục Hưng, nơi trí óc con người được chiếu rọi bởi Thế kỉ ánh sáng ?... Thế đấy. đã từng như thế. Vậy các công dân của thế kỉ mới, xin các vị hãy dè chừng. Lớp vỏ của nền văn minh rất đỗi mong manh, nó có thể bị gãy vỡ ở những nơi và vào những lúc ta ít ngờ tới nhất. Người xưa nói : Bóng tối ở ngay dưới chân đèn. Chúng ta thường mắc bẫy ở những nơi ta tin chắc rằng vô sự. Con người sáng tạo ra ngôn từ nhưng lại bị chính ngôn từ lừa mị dẫn dắt và họ biến thành nô lệ của một tôn giáo, một hệ tư tưởng hoặc một đảng phái. Từ khát vọng vươn lên một thế giới tốt đẹp hơn, họ đã rơi xuống bãi lầy ở nơi đó giữa bùn đen, họ phải chấp nhận trở thành những kẻ tàn ác, đểu giả hoặc đớn hèn, trong cả hai chiều hướng tính Người đều giảm thiểu và tính Không Người gia tăng bù vào khoảng trống. Đây không phải trường hợp của vài cá nhân, thậm chí vài ba triệu người. Đây là lịch sử buồn của ngót một nửa nhân loại đã sống dưới thể chế cộng sản trong già nửa thế kỉ vừa qua... Vậy thì những công dân tương lai của hành tinh, xin các vị hãy biết cảnh giác với các luận thuyết và các ngôn từ, chúng ta tinh khôn hơn loài vật nhưng chúng ta mỏng manh hơn chúng. Loài vật không suy nghĩ, chúng tìm kiếm và kiến tạo những ổ sinh học mới theo bản năng, trong bản năng ấy Thượng Đế đã cho chúng một khả năng tiên liệu. Chúng ta là con người, chúng ta sáng tạo nên ngôn ngữ xây thành đắp luỹ cho thế giới người bởi chính ngôn ngữ rồi đôi khi chúng ta lạc lối chết ngạt trong các thành luỹ giống như kẻ xây một mê cung rồi bị cầm tù trong chính mê cung ấy chẳng tìm được lối ra. Hệ thống nhà nước kiểu Stalin đã sụp đổ trên căn bản nhưng bóng tối nhà tù Xibia còn trùm lên những giấc mơ hồi cố của tôi. Các vị, những kẻ hậu sinh, các vị có thể quên hết những cái tên hãi hùng của lịch sử : Hitler, Stalin, holocauste, goulag... Vâng, các vị có thể quên hết đi. đó là quyền của các vị. Nhưng chớ bao giờ quên khả năng có thể lầm lạc của con người. Bởi con người không quá hùng mạnh như hằng tưởng. Chúng ta không khoẻ như hùm beo gấu sói. Chúng ta không thể quay mọi chiều như con sâu, không chạy nhanh như đà điểu, không đánh hơi tài như chó, không cảm nhận và tiên liệu thời tiết nhạy bén như loài ong... Nhưng chúng ta sẽ mạnh nếu chúng ta biết sử dụng trí khôn. Và một phần rất cốt lõi của trí khôn được hình thành trên những nghiệm sinh trực tiếp và gián tiếp. Những kinh nghiệm khốc hại của thế hệ chúng tôi sẽ trở thành tài sản của các vị nếu các vị biết sử dụng. Lịch sử không tiến lên theo cùng một nhịp điệu, không đều đặn liên tục một cách máy móc. Nhưng đừng hi vọng cắt thời gian thành từng lát như cắt bánh mì. Nghĩ như thế là tự sát. Lịch sử có các bước nhảy, những chỗ thụt lùi, lúc nhanh lúc chậm, khi rực rỡ khi tăm tối... nhưng nói chúng vẫn là dòng chảy, và trên tổng thể, theo chiều lên cao. Con người càng ngày càng Người hơn, tự do hơn. Xa xưa, chúng ta sống thành bộ lạc và theo lệnh của kẻ cầm đầu bộ lạc chúng ta giết người của bộ lạc bên cạnh, cách chúng ta một cánh rừng. Sau rồi, sống theo đơn vị quốc gia chúng ta tiến hành chiến tranh với quốc gia bên cạnh theo lệnh quốc vương hay ngài tổng thống. Giờ đây, ngoài Mỹ còn có Liên minh châu âu. Không gian sinh tồn được mở rộng. Những thay đổi về cấu trúc hành chính đem lại chiều kích tự do mới cho con người. Càng ít phụ thuộc vào một hệ thống kín nào đó con người càng Người hơn, càng tự do hơn. Và cùng với những tiến bộ của nền văn minh con người ngày càng mạnh. Christophe Colomb phát hiện ra châu Mỹ với các thuyền buồm chứ không phải tàu du hành vũ trụ. Mỗi thời đại có chân trời riêng của mình. Đà bay của các công dân thế kỉ sau sẽ rộng hơn đà bay của chúng ta. <br /><br />Tuy nhiên, tôi vẫn thường nghĩ tới hình ảnh con người đầu tiên rời bỏ cánh rừng tiền sử, phóng tầm mắt lo âu về chân trời phía trước. Anh ta có sợ hãi chăng ?... Hiển nhiên là có. Anh ta đã quen ẩn trong hang đá, núp dưới vòm cây, quen cái ổ sinh học được định vị. Giờ đây anh ta rời bỏ chốn ấm êm đó, tiến về bình nguyên... Một không gian xa lạ. Trống trải. Mênh mông. Không nơi trú ngụ. Một bầu trời hoang vu kinh hoàng. Không cành lá, không chim chóc. Một bao la ngập lụt. Nhấn chìm. Hù doạ. Sấm sét. Bão giông. Mặt trời thêu đốt... Nhưng con người sợ hãi đó đã cố vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, vươn thẳng lưng cất bước. đẹp thay. Dũng mãnh thay hình ảnh đó. Tổ tiên chúng ta đã khởi đầu lịch sử bởi khảnh khắc đầu tiên rời bỏ cánh rừng, tiến về phía bình nguyên. <br /><br />Từ đó tới nay bao nhiêu trang sử đã lật qua ?... Bao nhiêu nước đã chảy trôi dưới những chân cầu ?... Nhưng tôi vẫn muốn nhắc lại hình ảnh của tiền nhân. Bởi mãi mãi sống vẫn đồng nghĩa với hiểm nguy. Và mỗi khi mường tượng tới cuộc dấn thân của những công dân tương lai tim tôi vẫn thắt lại vì khắc khoải và đâu đó, giữa mớ cảm xúc và ý tưởng hỗn độn trong óc não tôi, có cái gì như tiếng kêu câm nín, có cái gì như nỗi lo âu không thể cất lời, có một nỗi sợ hãi ẩn náu dưới tiếng thét điên cuồng thúc hối : Ra đi !... Vâng. Như thế đấy... Và phải chăng đó chính là thân phận vĩnh cửu của con người ?... Bởi thế, tôi xin chúc những con người của ngày mai có đầy lòng can đảm để ra khỏi cánh rừng và tiến về phía chân trời phía trước. <br /><br />Dương Thu Hương <br /><font size="1"><br />Bài viết này được xuất bản trong tập Những lá thư gửi cho người công dân thế giới thứ 6 tỉ (Letters to the Six Billionth world Citizen) sẽ phát hành cuối năm 1999 cùng một lúc tại Hà Lan, Đức, Đan Mạch, Israel, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Ai Cập và ấn Độ. Dương Thu Hương là tác giả Việt Nam được mời viết, cùng với các nhà văn Ariel Dorfman, Salman Rushdie, Antjie Krog, Maryse Condé, Nawal El Saadawi, Connie Palmen, Pramoedya Ananta Toer, Buchi Emecheta, Dubravka Ugresic, Gyorgy Konrad, Marianne Fredericksson, Eduardo Galeano, Meir Shalev.</font></font></span> </font></div> <div align="left"><font face="Verdana, Arial, Sans Serif" color="#666666" size="1"><br /></font></div></span></blockquote></blockquote>
Nhận là một niềm vui nhưng cho đi lại là hạnh phúc tuyệt vời...
Quảng cáo
Offline da1lanyeunhau  
#2 Đã gửi : 13/05/2008 lúc 09:41:23(UTC)
da1lanyeunhau

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 19-11-2007(UTC)
Bài viết: 347

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 8 lần trong 6 bài viết

Bàn về hạnh phúc


Từ thuở ấu thơ chúng ta đã quen sống trong nhắc nhở. Trời vừa chuyển gió heo may, mẹ đã nhắc ta mặc thêm áo ấm. Ta vừa có một bạn mới, bố đã nhắc ta cẩn thận kẻo bị lừa. Bạn vừa gặt hái một thành công chưa kịp cười vui sung sướng, những người quen quan tâm tới bạn đã nhắc nhở ngay: chớ kiêu căng tự mãn! Ngay cả khi bạn đắm mình trong hạnh phúc, bạn cũng thường tự nhủ mình: chớ vui say quá đà, biết đâu tai ương sẽ ập đến...

Chúng ta quen sống trong nhắc nhở. Nỗi lo sợ nhìn thấy và nỗi lo sợ không nhìn thấy như đám mây đen luôn luôn lơ lửng trên đầu chúng ta.

Đời người ai mà chẳng có tai ương vận hạn. Thực ra trên đời này không ít người đã rèn luyện bộ thần kinh vững chắc đón chờ vận hạn tai ương đến, nhưng đáng tiếc con người chưa biết tìm niềm vui trong khoảng thời gian giữa hai đợt vận hạn tai ương luôn luôn rình rập. Chúng ta chú ý quá nhiều tới việc đối phó với vận hạn tai ương mà quên tự nhắc mình cần tận hưởng hạnh phúc.

Xin các bạn từ nay hãy chú ý tới niềm vui hạnh phúc.

Hạnh phúc có cần nhắc nhở báo trước không?

Nhắc nhở cẩn thận kẻo vấp ngã! Nhắc nhở chú ý đường trơn! Nhắc nhở cẩn thận kẻo bị lừa! Nhắc nhở chữ vinh liền chữ nhục... Ôi! Các nhà hiền triết đã nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta hàng vạn lẻ một lần, nhưng chưa bao giờ nhắc nhở chúng ta hãy thụ hưởng niềm vui hạnh phúc.

Có thể các bậc hiền triết, các bậc trưởng lão cho rằng, hạnh phúc chẳng cần nhắc nhở báo trước cũng chẳng chạy đi đâu được. Cũng có thể họ cho rằng, tự mỗi người đều biết quý trọng hạnh phúc của mình chẳng cần tới ai nhắc nhở và báo trước. Cũng có thể họ quá tôn sùng với lý tưởng cao siêu nên cho rằng hạnh phúc chẳng đáng quan tâm đến. Họ thường đứng trên vách đá cheo leo chỉ dẫn, nhắc nhở và cảnh tỉnh chúng ta né tránh tai ương sắp đến.

Nhưng khoảng thời gian trước và sau tai ương là gì?

Đó chính là hạnh phúc.

Thụ hưởng hạnh phúc đòi hỏi phải học tập, khi hạnh phúc sắp tới cần phải nhắc nhở hoặc dự báo trước. Con người có thể tự nhiên học được sự thụ hưởng của giác quan, nhưng con người không thể có khả năng bẩm sinh nắm biết được âm luật của hạnh phúc. Niềm vui của linh hồn và cảm nhận khoan khoái của giác quan là một cặp anh em sinh đôi, lúc quyến luyến nhau, lúc xa rời nhau.

Hạnh phúc là một loại hình rung động của tâm linh, nó giống như đôi tai nghe âm nhạc, cần không ngừng rèn luyện.

Nói theo triết lý, hạnh phúc là khi hết khổ đau. Tần số xuất hiện của hạnh phúc không ít như chúng ta nghĩ. Con người ta thường đứng nhìn cỗ xe kim mã hạnh phúc đi khuất xa rồi mới nhặt sợi lông ngựa vàng vương trên mặt đất và bảo rằng: ồ! Té ra ta đã nhìn thấy hạnh phúc.

Con người ta thường thích hồi tưởng lại dư vị của hạnh phúc, nhưng lại thường bỏ qua những thời khắc hạnh phúc tỏa hương thơm. Những lúc đó chúng ta thường vội vã bận bịu với công việc gì đó.

Trên Trái đất này, người ta thường dự báo bão xa bão gần; dự báo mưa đá; dự báo nạn châu chấu; dự báo động đất... nhưng chưa ai dự báo hạnh phúc.

Thực ra, cũng như vạn vật khác trên thế gian này, hạnh phúc cũng có những dấu hiệu báo trước.

Hạnh phúc thường mông lung, hạnh phúc rất công bằng dâng tỏa hương thơm tới chúng ta. Bạn chớ trông chờ hạnh phúc đến với bạn một cách ồn ào, phần lớn hạnh phúc đến với chúng ta đều lặng lẽ. Bạn cũng chớ nghĩ rằng hạnh phúc có thể tuôn trào xối xả như ta mở to vòi nước mà cần tĩnh tâm bình lặng thể nghiệm vị ngọt ngào của hạnh phúc.

Hầu hết mọi niềm hạnh phúc đều bình dị, hạnh phúc không giống như quả pháo sáng vạch một đường đỏ rực trên bầu trời cao thẳm. Hạnh phúc khoác chiếc áo choàng bình dị và bao trùm hơi ấm lên chúng ta.

Hạnh phúc không thích ồn ào, hạnh phúc thường xuất hiện lặng lẽ. Nó là mẩu bánh mì trong lúc đói lòng, nó là ánh mắt đồng cảm trong cơn hoạn nạn, là một lần vuốt ve vụng về của người cha, là một mảnh thư tình mềm mại của bạn gái... Đó là những niềm hạnh phúc nghìn vàng khó mua nổi, đó là những viên hồng ngọc rực rỡ gắn trên chiếc khăn lụa đã phai mầu.

Hạnh phúc có lúc trang điểm diễm lệ tinh nghịch đến với chúng ta. Dịp may, tình bạn, thành công, đoàn tụ..., những niềm vui đó gần giống như hạnh phúc nhưng không phải là hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ mượn chiếc áo khoác ngoài của những niềm vui đó rồi e lệ bước đến, bước đến thật gần ta. Khi ta gỡ bỏ chiếc khăn voan che mặt mới phát hiện hạnh phúc là cả một nội hàm sâu sắc. Hạnh phúc có lúc rất ngắn ngủi, không dài dằng dặc như khổ đau. Nếu ta chia khổ đau và hạnh phúc trong suốt cuộc đời con người thì thể tích của khổ đau là một khối khổng lồ, còn hạnh phúc chỉ là một mẩu quặng nhỏ xíu. Nhưng kim nam châm của cuộc đời sẽ chỉ về phía hạnh phúc, vì hạnh phúc là một thỏi vàng vô giá.

Hạnh phúc có mặt cắt hình thang, hạnh phúc có thể rộng mở cũng có thể thu nhỏ lại, chủ yếu là bạn có trân trọng hạnh phúc không?

Chúng ta hãy trân trọng hạnh phúc. Khi hạnh phúc đến, bạn hãy say sưa tận hưởng từng giây phút. Khoa học hiện đại đã chứng minh, kết quả của việc làm tập trung tư tưởng hơn hẳn kết quả những việc làm lơ đãng.

Khi mùa xuân đến, chúng ta hãy tự nhủ lòng: đây là mùa xuân, trong lòng chúng ta sẽ trào dâng những chồi xanh tình cảm.

Khi hạnh phúc đến, chúng ta hãy tự nhủ lòng: cần ghi nhớ thời khắc đáng quý đó, hạnh phúc sẽ quyến luyến mãi với chúng ta.

Như vậy, cuộc đời chúng ta có rất nhiều hạnh phúc.

Vì thế, khi được mùa, chúng ta hãy cùng bè bạn nhảy múa hát ca tận hưởng niềm vui được mùa. Hạt lúa bội thu đã đền đáp mồ hôi lao động của chúng ta, chúng ta có quyền đắm mình trong niềm vui đó. Hãy nhanh chóng xay lúa để nướng chiếc bánh mì thơm phức hoặc thổi nồi cơm gạo mới ngạt ngào...

Vì thế, khi chúng ta từ chân trời góc biển trở về sum họp với người thân, xin đừng vội nghĩ tới giờ phút chia ly sau đó, bởi lẽ trong những tháng ngày dài dằng dặc tiếp theo còn có vô số đêm khuya vắng vẻ để ta day dứt với nỗi buồn xa xứ. Hãy quý trọng từng giây phút sum họp với người thân, hãy biến những giây phút đó thành những giọt rượu cồn để đốt cháy lên ngọn lửa xanh của hạnh phúc. Chúng ta hãy nâng cốc cùng nói rằng: chúng ta đang hạnh phúc.

Vì vậy, khi chúng ta quây quần bên bố mẹ già, dù tóc bố mẹ ta đã bạc phơ, sức khỏe các cụ đã yếu lắm rồi, nhưng bạn hãy cam đảm tự nói rằng: tôi đang rất hạnh phúc. Vì sao vậy? Vì trời đất tạo hóa khôn lường, ắt có ngày bố mẹ bạn sẽ mãi mãi đi xa. Lúc đó bạn sẽ nhớ lại và ao ước giây phút tuyệt vời của hiện tại.

Hạnh phúc không cùng dạo bước sánh vai với tài sản, địa vị, uy tín, hôn nhân... của bất kỳ ai. Hạnh phúc chỉ là cảm giác trong tâm linh của bạn.

Vì vậy, khi trong tay bạn không có gì, bạn vẫn có thể nói rằng: tôi rất hạnh phúc, bởi lẽ bạn còn có một cơ thể khỏe mạnh. Và khi bạn không còn khỏe mạnh nữa, bạn vẫn có thể mỉm cười nói rằng: tôi rất hạnh phúc, bởi lẽ bạn vẫn còn một trái tim không ngừng đập. Thậm chí khi trái tim bạn đã ngừng đập, bạn ta vẫn có thể lớn tiếng nói với vũ trụ rằng: tôi rất hạnh phúc, tôi đã từng sống trên Trái đất này.

Thường xuyên tự nhắc nhở mình chú ý tới hạnh phúc sẽ giống như những ngày đông giá thường xuyên ngắm Mặt trời, chúng ta sẽ thấy lòng mình luôn ấm áp...


Tất Thục Mẫn (Trung Quốc)
CHU CÔNG PHÙNG dịch
Nhận là một niềm vui nhưng cho đi lại là hạnh phúc tuyệt vời...
Offline da1lanyeunhau  
#3 Đã gửi : 13/05/2008 lúc 09:56:57(UTC)
da1lanyeunhau

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 19-11-2007(UTC)
Bài viết: 347

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 8 lần trong 6 bài viết

Cái Chết Như Một Phát Biểu


Trong mấy năm cuối thế kỷ người Nhật bỗng nhiên tự tử dồn dập. Người Nhật vốn đã hay tự tử, tự tử nhiều hơn các dân tộc khác; đến lúc này lại tăng vọt: năm 1998 so với 1997 tăng 35%, riêng trong giới trẻ mức tăng lên tới 85%. Vào năm chót của thế kỷ, càng thêm rần rộ. Nhiều kẻ lo ngại, đòi cấm sách dạy tự tử. Nhưng chủ trương cấm sách vừa xuất hiện, liền gặp ngay phản ứng. Sách đã bán ra hơn triệu bản, lắm người còn cho là nên được phổ biến rộng rãi hơn nữa, chính tác giả thì có ý kiến sách nên đưa luôn tới tay hạng độc giả dưới 18 tuổi: Rất tốt, rất có ích lợi. Không sảo Tự tử không trúng cách có thể bị nhiều đau đớn, đau đớn kéo dài, thậm chí có thể gặp trường hợp không chết được, thê thảm biết bạo Cẩm nang tự tử chỉ dẫn rành rẽ, không phải là sách thực dụng, hữu ích sảo

Vả lại mười phép tự tử của Turumi Wataru chẳng qua là một thêm thắt muộn màng: cấm đoán nó làm chị Người Nhật từ trước đây năm trăm năm, đã từng duyệt lại tục lệ cũ, hoàn thiện qui tắc, đặt ra bao nhiêu lề luật để tiến hành nghiêm chỉnh các cuộc hara-kiri. Thậm chí cái tiếng hara-kiri, nghe nôm na, cũng bị loại bỏ dần. Gọi là seppuku, tên có gốc hán văn, nghe cốt cách hợn

Tự tử như thể là một sở trường của dân tộc Nhật Bản: họ chết nhiều, họ chết có phép tắc tử tế.

Nói về cái nhiều, thì hiện tượng gia tăng tự tử gần đây ở Nhật người ta liên hệ nó với những thất bại kinh tế. Nhưng đó chẳng qua đôi ba chục nghìn người một nặm Như thế không đáng kể so với hàng vạn chiến sĩ và dân chúng đã từng ào ạt cùng nhau tự huỷ mình sau một thất bại chinh chiến trong quá khứ.

Kinh doanh thua lỗ: tự tử. Đánh giặc thất trận: tự tử. Yêu nhau gặp trục trặc, người Nhật cũng chết nhiều, và chết đúng phép tắc. Hiệp sĩ tự sát bằng phép mổ bụng; tình nhân muốn chết đúng cung cách phải tự buộc mình thật chặt từng cặp, rồi cùng nhảy xuống nước. Phép ấy gọi là sinju.

Doanh nhân, quân nhân, tình nhân tự huỷ mình, đối với những cái chết ấy chúng ta dẫu sao cũng ở ngoại cuộc. Đến như về cái tự tử của các văn nhân thì chúng ta không khỏi lấy làm nghĩ ngợi.

Văn nhân Nhật Bản cũng tự tử nhiều. Nhân cái chết gây chấn động lớn của Yukio Mishima độ nào, một tác giả có liệt kê danh sách mười nhà văn Nhật tên tuổi đã quyên sinh từ đầu thế kỷ. Vả lại chỉ hơn một năm sau Mishima, vị đàn anh lỗi lạc là Kawabata cũng tự ý ra đi luôn, gây tiếc thương khắp hoàn cầu.

Chuyện gì đã xảy đến cho các đồng nghiệp khốn khổ của chúng ta bên nước Phù Tang vậy cà? Họ gặp đàn áp tàn bạo quá đáng chẳng Họ bị khủng hoảng, bế tắc, nguồn sáng tác bị tắc nghẽn chẳng — Đâu có! Nào ai động chạm gì tới những danh nhân như họ đậu Mishima chọn chết ngay tại bộ Quốc phòng nước Nhật. Sáng sớm trên một chiếc xe mới toanh, nhà văn cùng bốn môn đệ kéo đến, trói gô ông tướng tư lệnh, tập hợp binh sĩ lại, Mishima ra bao lơn diễn thuyết một hồi, rồi trở vào phòng mổ bụng, đường đường lẫm liệt. Lúc bấy giờ chính Mishima đang độ sáng tác dồi dào, được hoan nghênh săn đón nồng nhiệt. Ngay hôm 25 tháng 11 năm 1970 ấy, vào lúc mờ sáng, ông ký tên vào trang bản thảo cuối cùng của một bộ truyện dài bốn cuốn, để sẵn trên bàn cho nhà xuất bản đến nhận, như đã hẹn. Còn Kawabata thì ông ngậm hơi độc, chết ngay trên đỉnh vinh quang của giải văn chương Nobel hiếm hoi ở Á chậu

Thất bại, khổ đau, không phải là yếu tố gây nên những cái chết này. Vậy có một sức huyền bí nào ở chính họ thu hút họ về cái chết chẳng có một sức thu hút khó hiểu như thế, tác động ở Nhật mạnh hơn ở mọi nơi khác chẳng Đố ai dám vỗ ngực giải đáp! Chỉ biết trong một số trường hợp dường như có thể nhận thấy những dấu hiệu mơ hồ...

Hôm Mishima tự sát tại bộ Quốc phòng, lát sau người vợ trẻ của ông nghe được tin dữ từ chiếc máy thu thanh gắn trong chiếc tắc-xi bà đang đị Khi bà xuống xe, ai nấy xúm lại hỏi hạn Bà bảo bấy lâu bà vẫn nghĩ có ngày ông sẽ tự sát, nhưng tưởng rằng một vài năm sau chuyện mới xảy ra; không ngờ sớm thế. Còn thân mẫu của nhà văn, bà cụ nói với thân hữu xa gần đến chia buồn: “Xin quí vị đừng thương tiếc. Bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời, anh ấy đã làm được điều mà anh ấy muốn lạm”

Hai người đàn bà gần gũi nhất với Mishima nghĩ thế. Xa cách ông như độc giả bốn phương thiết tưởng cũng đến tin thế thội Trong các tác phẩm ông có nhiều nhân vật tự tìm cái chết. Ông xoay trở trong đầu bao nhiêu tính toán, suy tưởng, về cái chết. Ông loanh quanh bên cái chết không rời được nó. Ông mân mê cái chết.

Đáng chú ý nhất là trường hợp truyện “Trung” (Yukoku). Thiên truyện ngắn xuất sắc ấy rồi đã được đưa lên màn ảnh. Chính tác giả đạo diễn và đóng luôn vai chính trong phịm Trong cốt truyện, sau một cuộc chính biến, một nhóm sĩ quan gặp thất bại bị trấn áp mạnh, chịu cực hình. Toàn nhóm thương tình, bỏ ra ngoài danh sách thụ hình tên một trung uý trẻ tuổi mới vừa cưới vợ. Trung uý Takeyama từ chối hảo ý của các bạn, chàng sẽ tự tử. Vợ chàng quyết định theo chồng. Trong khi chờ đợi chồng về nhà, nàng bình tĩnh lặng lẽ gói từng món quà, viết lời đề tặng gửi lại bà con, bạn bè... Người vợ là một diễn viên cực đẹp. Chồng về. Họ trao đổi vắn tắt. Trong thủ tục, người hiệp sĩ tiến hành seppuku được một bạn thân đứng kề giúp đỡ: chặt đứt cổ, cắt đầu để kết thúc nhanh chóng, vì lúc bấy giờ, sau cuộc mổ ruột, hiệp sĩ đã kiệt lực, không thể tự mình tiếp tục chu đáo. Trung uý Takeyama nhờ vợ đóng vai người bạn nọ, tiếp sức đẩy mạnh con dao vào cổ mình trong giai đoạn chót.

Dặn dò xong, vợ chồng trút bỏ xiêm ỵ Họ ân ái với nhau một lần cuối cùng. Cái bi thiết lẫn với hoạn lạc trên nét mặt hai người, diễn tiến sự việc tuyệt hảo cho đến lúc cuối cùng, thiếu phụ dùng lưỡi dao ngắn kết thúc đời mình bên cạnh chồng. Chàng trung quân ái quốc, nàng trung thành với chồng.

Cuộc ái ân là một thêm thắt, ngoài thủ tục chính thức: Mishima chu tất đối với nhân vật mình, đối với mối tình tha thiết và đau đớn của họ. Đến lượt ông, việc chuẩn bị cũng cẩn thận kỹ càng: ông tính toán từng chi tiết nhỏ nhặt. Lần này không phải vì không khí lãng mạn, mà là vì một không khí uy nghiêm cần thiết. Thủ tục seppuku lại được thêm thắt: bông vải sẵn sàng để ngăn chặn, sau nhát gươm mổ, ruột khỏi bung đổ ra lòng thòng vung vãi, bốc mùi ô uế, mất cả thể thống.

Mishima, trong tưởng tượng, đã mê say ve vuốt cái chết của chính mình lâu ngày, trước khi thực hiện. Cùng một thế hệ với Mishima, nhà văn Saiichi Maruya — cả hai cùng sinh vào năm 1925 — đưa ra một thi nhân cũng từng say mê mơn trớn cái chết của mình. Trong một thiên truyện ký, ông truy cứu về cái chết âm thầm của Taneda Santoka. Nhân vật này vừa là tu sĩ vừa là một nhà thơ haịku

Bình sinh Santoka đặc biệt say mê những cơn mưa thụ Ôi chao, cuối thu đầu đông, thỉnh thoảng một màng mưa nhẹ như khói phủ xuống mịt mù núi rừng, chợt đến rồi chợt đi, lát sau tan biến hẳn, bày ra cảnh núi xanh trùng trùng. Lá thu tuôn đổ, mưa thu mịt mờ... Ông thích khung cảnh ấy biết chừng nào! Yokoshigure, “mưa bay gió giạt”, ông yêu cái tiếng gọi vừa phát giác ra, ông nhẩm đi nhẩm lại không biết bao nhiêu lần, không chán.

Như thế chưa đủ. Mơ trong trí, đọc trong mồm chưa đủ. Thế chưa phải đã “sống” đủ cảnh mưa bay gió giạt. Làm mấy câu thơ haiku cũng không đủ. Ông đang ngồi chén tạc chén thù với bạn, chợt cơn mưa sa xuống đậm, mịt mờ; thi sĩ cao hứng nâng cốc tợp luôn bốn năm hớp rượu liền, quay lại bái tạ thịnh tình của bạn, thâm tạ cơn mưa hợp thời hợp cảnh, rồi xốc áo đứng lên bước khỏi tửu quán. Từ chối một chiếc dù đưa tận tay, người thơ muốn trực tiếp đón nhận những giọt mưa thấm lên mình.

Từ đó không còn ai biết gì về tung tích ông nữa. Cái đi hôm ấy là “đi” luộn Saiichi Maruya đã dẫn đây đó những ý kiến về nhà thơ Santoka bấy giờ, với những lời “tâm trạng chuẩn bị, đón chờ cái chết”, “một toan tính chết chóc, hay một toan tính tìm đến cái chết” v.v...

Nhân vật Santoka dù có dù không, tung tích Santoka dù đúng dù sai, thì trong tâm trí nhà văn Nhật Bản Saiichi Maruya đã có một cái chết thi nhân như thế.

Chịu chết thì rốt cuộc ai nấy cũng đến phải chịu thôi, thụ động chịu. Còn tự chết lấy, là một cách tỏ thái độ, một cách tuyên bố. Thường thường đơn giản. Hoặc: “Khốn khổ quá, hết chịu thấu!” “Hoặc đau đớn quá, tôi bỏ cuộc! Nhục nhã quá, kẻ này bất cần sống!” v.v...

Dân tộc Nhật, họ chết lấy thì nhiều, và cái tuyên bố của họ thật phong phú, trong nội dung cũng như trong hình thức. Để phản đối họ dùng cái chết; để bày tỏ sự tán thưởng, họ cũng chọn chết! Vì nội dung phức tạp nên trong phô diễn cần lắm dạïng thức cho thích hợp. Hoặc một dàn dựng lâm ly tình cảm cho giai nhân tài tử, hoặc một cảnh hùng tráng xứng với đoàn hiệp sĩ quyết tâm, hoặc dáng cách ung dung thư thái khi thi sĩ đi vào cảnh thần tiên tuyệt mỹ...

Kể ra cái chết nào cũng là một cách phát biểu. Cái chết của muôn loài là phát biểu của Thượng Đế, của ông Trời. Trời phát biểu một định luật. Trời phát biểu đều đều, lặp đi lặp lại từ bao nhiêu tỉ năm, tỉ tỉ nặm Bỗng nhiên bị một loài động vật xuất hiện muộn nhảy ra đoạt lời ngang xượng Tự tử là cái riêng của con người.

Muôn loài không có loài nào tự phát biểu, chỉ có con người, một số người, ngẩng cao đầu “nói lên” một điều gì đó bằng cái chết của mình. Con người quả trên muôn loài. Con người tự đặt mình làm loài thứ muôn-lẻ-một. Lý Trần Quán đã nằm vào quan tài, đậy nắp lại, bỏ xuống huyệt, còn vỗ nắp quan bộp bộp, đòi mở ra để đọc một câu đối; một chiến sĩ cách mạng thời dân chủ có thể chê thái độ thờ vua mến chúa chống lại Tây Sơn là không thích đáng, chê ông nghè Lý chẳng qua nặng phần trình diễn, chứ không nói lên chính nghĩa gì cao cả. Mặc kệ, vượt lên trên chuyện chính kiến một thời, xét cách rộng rãi thì phải nhận rằng ông nghè Lý thuộc loài muôn-lẻ-một: không có con khổng tượng, con khủng long nào lại tự mình dùng ngay cái chết của mình làm phương tiện phát biểu, gạt phăng ông Trời sửng sốt ra một bên như thế.

Albert Camus đặt nặng chuyện tự tử: ông bảo: “Chỉ có một một vấn đề triết lý thực sự nghiêm trọng: đó là tự tử. Cho rằng cuộc đời đáng sống hay không đáng sống, ấy là giải đáp cái thắc mắc căn bản của triết học” (Huyền thoại Sisyphe). Camus có vẽ chuyện ra khổng có lớn lối quá đáng khổng Thường thường khi tự tử mấy ai suy nghĩ về giá trị của cuộc sống, mấy ai chú tâm vào vấn đề cuộc đời có đáng sống hay không đáng sống? Thật tình mà nói phần lớn các vụ tự tử chẳng qua là để bày tỏ một sự tuyệt vọng, một phẫn uất, một giận hờn, phản đối, oán trách, thù hận v.v... Kẻ tự tử không hơi đâu đánh giá cuộc sống nói chụng Vấn đề đặt ra không phải “Cuộc sống có đáng sống khổng”, mà là “Cuộc sống của tôi có đáng sống khổng có đáng công tiếp tục khổng” Đây không phải là một thắc mắc triết lý. Hẹp hơn nhiều. Ngay cả cái phát biểu của người Nhật — bất cứ là doanh nhân, quân nhân hay văn nhân — cũng không là một giải đáp triết học.

Đề tài phát biểu của con người hạn hẹp nhỏ bé, mà phong cách phát biểu thì điệu bộ, màu mè. Trong khi ấy ông Trời, ối ông Trời... Cái phát biểu của ông bằng cái chết, từ cái chết của con gián kẹt trong hộc tủ, của mấy con ruồi con muỗi tí xíu dính vào mạng nhện phất phơ..., cho đến cái chết đột ngột của nguyên cả một thành phố thoắt cái bị chôn vùi dưới núi lửa, nguyên cả một lục địa dưới mực nước bể dâng cao v.v... đều diễn ra giản dị, hồn nhiên, hững hờ. Ông Trời không phô trương, không trình diễn. Trời chọn những diễn tiến đơn sơ, chọn cách phát biểu vô cảm.

Cuối thế kỷ này người Nhật hình như có làm quá đáng trong việc tự chết. Người Nhật phát biểu nhiều quá, chận ngay lời phát biểu của ông Trời, làm ông tưng hửng, chúng ta tưởng tượng Trời hẳn phải nhăn mặt, gắt: “Bố láo!” Có thế chẳng E không có thế đậu Trước thái độ nhiệt liệt của con người — nhất là người Nhật — e Trời chỉ nhếch cười; khoan dung, quở khẽ: “Bố nhắng!” Rồi Trời hững hờ tiếp tục những hoạt động thường lệ. Thổi một hơi gió phất nhẹ lên mấy xác bướm tả tơi lẫn lộn giữa đám lá rừng, rung rinh chiếc mạng nhện trên đó dính mấy xác ruồi xác muỗi...; rồi Trời phát một tiếng nổ vừa phải (vừa đủ long trời, rung rinh vũ trụ) để tạo dựng thêm một cõi thiên hà mới, gồm những triệu triệu tinh tú (hành tinh, định tinh, vệ tinh, cùng đủ thứ linh tinh lổn nhổn); rồi Trời lại đều đều tiếp tục làm big bang bic biếc, cái nọ cái kia không ngừng nghỉ, vì thời gian không hề có chỗ cùng... Ở Trời, mỗi động thủ đều như nhau, không có bên khinh bên trọng. Ấy là phong cách phát biểu của Trời: Nói lên định luật là nói mà như không nói gì
Nhận là một niềm vui nhưng cho đi lại là hạnh phúc tuyệt vời...
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.