Các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STIs) là nguyên nhân gây ra tỉ lệ bệnh và tỉ lệ chết đáng kể, ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Năm 1999, Who ước tính trên toàn thế giới hàng năm có khoảng 340 triệu người mắc các STI, tuổi chủ yếu từ 15 đến 49 tuổi, các bệnh mới phát hiện phổ biến là Giang mai, Lậu, Chlamydia và Trichomonas. Ước tính này không tính cho hàng triệu trường hợp nhiễm mới do virus như HPV và Herpes. Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa kỳ (CDC) ước tính ở Mỹ mỗi năm có khoảng 19 triệu trường hợp mắc mới, nửa số đó tuổi từ 15-24 tuổi, chi phí điều trị ước tính 14,7 tỉ USD năm 2006.
Chẩn đoán bệnh nhờ vào các khám xét lâm sàng và các xét nghiệm hổ trợ. Điều trị theo tiếp cận hội chứng hoặc theo chẩn đoán căn nguyên nhờ xét nghiệm đặc hiệu. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề kháng thuốc trong điều trị các STIs là một trong những thách thức lớn.
1. Bệnh Herpes sinh dục (Genital herpes).
Bệnh do HSV1 hoặc HSV2 gây ra, bệnh mãn tính, tái phát. Bệnh lây do tiếp xúc trực tiếp qua quan hệ tình dục với người nhiễm virus có triệu chứng hoặc không có triệu chứng. HSV1 thường mắc phải do quan hệ miệng - sinh dục. HSV2 chủ yếu gây loét sinh dục chỉ một số ít không có triệu chứng.
Acyclovir, Valacyclovir, Famciclovir được sử dụng điều trị Herpes sinh dục (CDC,2006). Có hiệu quả trong điều trị herpes sinh dục tiên phát, tái phát. HSV đề kháng với Acyclovir, Valacyclovir, Famciclovir rất hiếm, chỉ gặp đề kháng khi người bệnh suy giảm miễn dịch. Khi đề kháng với Acyclovir thì cũng đề kháng với Valacyclovir và Famciclovir.
Forcanet có hiệu quả điều trị khi Herpes sinh dục đề kháng với Acyclovir.
Vì thuốc có độc tính và giá đắt nên chỉ dùng thuốc trong trường hợp herpes lan toả da và niêm mạc.
Cidofovir dạng gel bôi tại chổ những thương tổn sinh dục cũng có hiệu quả tốt,(CDC, 2006)
Tỉ lệ đề kháng với Acyclovir trong phòng thí nghiệm ở những người suy giảm miễn dịch từ 0,1 - 0,4% nhưng trên lâm sàng thì tỉ lệ này là 5-6%. Tuy nhiên, những yếu tố nguy cơ liên quan đến đề kháng thì chưa được xác định. Chưa có đánh giá nào về kháng thuốc trong các trường hợp mắc HSV dai dẵng, đặc biệt là trên bệnh nhân HIV. Lan truyền các chủng kháng thuốc thì chưa có tài liệu nào đề cập đến.
2. Bệnh nhiễm Trichomonas âm đạo (Trichomonas vaginalis).
Bệnh do Trichomonas vaginalis gây ra, là bệnh đứng hàng đầu trong các bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục. Nhiều nam giới mắc bệnh không triệu chứng nhưng một số thì biểu hiện triệu chứng như một viêm niệu đạo không đặc hiệu. Phụ nữ nhiễm trùng có triệu chứng đặc trưng bởi dịch âm đạo nhiều, hôi, màu vàng xanh, ngứa,kích ứng âm hộ, cũng có một số không có triệu chứng hoặc triệu chứng không đáng kể.
Năm 1995, trên toàn thế giới có khoảng 170 triệu người nhiễm bệnh này (Who, 1995), ở Bắc Mỹ hàng năm có khoảng 5-8 triệu trường hợp (Upcroft, 2001), tỉ lệ lưu hành 3-10% trong toàn bộ dân số, 60% trong quần thể có hành vi nguy cơ cao (Sutton et al, 2006). Trichomonas có liên quan với các nhiễm trùng hậu phẩu đường sinh sản và nhiễm trùng do vở ối sớm, đẻ non, sẩy thai. Cũng giống như các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục khác bệnh làm thuận lợi cho nhiễm và lây truyền HIV.
Metronidazole được sử dụng điều trị bệnh từ năm 1959 (Dunne et al, 2003) và có hiệu quả điều trị cao nhất. Tỉ lệ điều trị khỏi bệnh của Metronidazole trên bệnh nhân thường là 90-95% trên đối tượng mua bán dâm là 86-100% (CDC,2006),.
Đề kháng với Metronidazole được báo cáo từ năm 1962 bởi Robinson. Tỉ lệ đề kháng với Metronidazole trong phòng thí nghiệm là 2-10% (Schmid et al, 2001; Schwebke and Barriented, 2006), kháng chéo giữa các nitroimidazoles cũng được báo cáo (Crowell et al, 2003; Schwebke and Barriented, 2006). Các bác sỹ lâm sàng chẩn đoán kháng thuốc khi điều trị thất bại và loại trừ nguy cơ tái nhiễm.
Nếu thất bại với Metronidazole 2g liều đơn thì có thể điều trị Metronidazole 500mg hoặc 375mg 2lần/ngày trong 7ngày hoặc Tinidazole 2g liều đơn. Nếu thất bại thì điều trị Metronidazole hoặc Tinidazole 2g/ngày trong 3-5ngày.
Các trường hợp taí phát bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ tại bệnh viện để đảm bảo uống thuốc đúng và quản lý các nguy cơ tái nhiễm, làm xét nghiệm về sự nhạy cảm của vi khuẩn với thuốc (CDC,2006)
3. Bệnh giang mai (Syphilis).
Giang mai là bệnh toàn thân gây ra bởi xoắn khuẩn Treponema pallidum. Ở Mỹ bệnh có xu hướng tăng từ 3,7/100.000 dân năm 2002 lên 5,7/100.000 năm 2006.
Penicillin G có chỉ định điều trị trong các thời kỳ bệnh. Liều và thời gian điều trị phụ thuộc vào biểu hiện lâm sàng và từng thời kỳ bệnh. Trong nhiều năm không có bằng chứng cho thấy xoắn khuẩn đề kháng với penicillin (CDC, 2006)
Azithromycin đường uống có hiệu quả điều trị trong một số nghiên cứu (Hook et al, 2002; Riedner et al, 2005). Sự thuận tiện của azithromycin trong chương trình kiểm soát bệnh là sử dụng liều đơn trong điều trị giang mai giai đoạn sớm và bạn tình của họ (chưa có biểu hiện bệnh)
Xoắn khuẩn gây bệnh giang mai đề kháng với Macrolid được thông báo với tỉ lệ 22% ở San Francisco, 11% ở Baltimore, 13% ở xứ Seattle, 88% ở Dublin, Ireland (Lukehart et al. 2004). Ở Mỹ tỉ lệ xoắn khuẩn đề kháng với Macrolid chưa được xác định, nên macrolid không được khuyến cáo để điều trị bệnh giang mai và các trường hợp giang mai giai đoạn sớm được điều trị bằng macrolid cần phải được theo dõi chặt chẽ (Holmes, 2005; CDC,2006)
4. Nhiễm Chlamydia.
Chlamydia là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục có tỉ lệ lưu hành cao nhất ở Mỹ, năm 2006 có1.033.911 trường hợp được báo cáo, ước tính có 2,8 triệu mắc mới hàng năm, tỉ lệ 347,8/100.000 dân tăng 5,6% so với năm 2005. Các chuyên gia về STIs cho rằng những phụ nữ có tiền sử sẩy thai, chữa ngoài tử cung, viêm cổ tử cung đều có bằng chứng nhiễm chlamydia đường sinh sản không được điều trị.
Có báo cáo cho rằng thất bại điều trị trên lâm sàng nhưng phân lập thì không ghi nhận được sự kháng thuốc (Jones et al,1999; Somani et al, 2000). Gần đây, Azithromycin là thuốc được chọn lựa điều trị trong nổ lực toàn cầu loại trừ bệnh mắt hột, chưa có khẳng định về sự kháng thuốc (Solomon et al, 2005)
5. Bệnh lậu.
Ở Mỹ, chương trình kiểm soát bệnh lậu quốc gia được thực hiện vào giữa năm 1970 nhưng tỉ lệ bệnh lậu vẫn chiếm 74,3% vào năm 1997, sau năm 1997 bệnh lậu lan khắp các vùng ở nước Mỹ, đến năm 2005 thì tỉ lệ bệnh này là 115,6/10000 dân. Ở Mỹ có 359.593 trường hợp mắc bệnh lậu (CDC,2005). Năm 2005, bệnh lậu tiếp tục tăng ở nam Mỹ, châu Phi, châu Mỹ, chủ yếu ở thanh niên, người lớn và tất cả các chủng tộc. Bệnh lậu là bệnh lây truyền qua đường tình dục đứng hàng thứ hai ở Mỹ, năm 2006 có 358.366 trường hợp mắc mới chiếm tỷ lệ 120,9/100.000 dân tăng 5,5% so với năm 2005. Lậu cầu là nguyên nhân chính gây viêm cổ tử cung, vô sinh, chữa ngoài tử cung và làm thuận lợi cho sự lây truyền HIV.
Điều trị và kiểm soát bệnh phụ thuộc vào sự đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh. Giám sát kháng kháng sinh của lậu cầu được thực hiện ở Mỹ vào năm 1986. Lậu cầu kháng kháng sinh lan rộng ở 26-30 thành phố ở Mỹ, phân lập trên bệnh nhân nam giới.
Kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai, penicillin là thuốc chọn lựa để điều trị lậu, hiệu quả điều trị là 100% (Hook and Handsfield, 1999). Từ năm 1950 đến giữa năm 1970, lậu cầu kháng thuốc ngày càng tăng. Năm 1975-1976 lậu cầu kháng với Penicillin nồng độ cao do sản xuất men betalactamase kháng qua trung gian plasmid được báo cáo ở Mỹ, Đông âu,
Philippines và Đông phi. Đầu năm 1980, chủng lậu cầu sản xuất penicillinase phân lập được ở các nước đang phát triển chiếm 50%, ở Mỹ là 11%, giữa năm 1980 chủng này lan truyền trên toàn thế giới (Sparling and Handsfield, 2000)
Năm 1985, lậu cầu đề kháng với tetracyclin nồng độ cao qua trung gian plasmid được báo cáo lần đầu tiên ở Mỹ 1985 (CDC,1985). Năm 2004, lậu cầu đề kháng với tetracyclin qua trung gian plasmid là 10,4% và qua chromosome là 3,9% (CDC, 2005).
Spectinomycin trong một thời gian dài được ghi nhận là thuốc điều trị lậu an toàn và hiệu quả, đặc biệt trên những bệnh nhân không hấp thu được cephalosporins hoặc trên những người không thích hợp với điều trị bằng quinolones. Lậu cầu đề kháng với spectinomycin hiếm gặp ở Mỹ có lẽ do thuốc đắt, phải tiêm trong cơ, tác dụng kém với nhiễm trùng hầu họng nên ít bị lạm dụng (Newman et al, 2007). Có ít trường hợp thông báo lậu cầu đề kháng với Spectinomycin (Ison et al,1983; Who,2000). Spectinomycin đề kháng qua trung gian chromosome được thông báo năm 1987 (Boslego et al, 1987). Gần đây, Spectinomycin không được sản xuất ở Mỹ và bất kỳ nước nào khác (CDC,2006), không biết lý do tại sao?
Sự đề kháng của lậu cầu với penicillin và tetracyclin qua 25 năm dẫn đến một thực tế là buông lỏng sự điều trị làm cho lậu cầu kháng các cephalosporins như: ceftriaxone, cefixime và các fluoroquinolones như ciprofloxacin, ofloxacin, levofloxacin. Các thuốc này được khuyến cáo là thuốc chọn lựa đầu tiên điều trị lậu không biến chứng (CDC,2006). Trong thời gian này, điều trị bằng ceftriaxone không thất bại nhưng với quinolones cũng có trường hợp thất bại.
Lậu cầu đề kháng với fluoroquinolones ở châu Á, sau đó tăng lên và lan nhanh qua Đông
Âu, Canada và Mỹ (Who, 2006). Lậu kháng fluoroquinolones tăng lên ở đối tượng đồng tính luyến ái nam (MSM) và một số vùng ở Mỹ, vì thế CDC khuyến cáo fluoroquinolones không được sử dụng để điều trị lậu ở đối tượng MSM và một số vùng ở Mỹ hoặc những người đi du lịch nước ngoài trong thời gian gần, hoặc những người làm nghề mại dâm hoặc là mắc bệnh ở vùng có kháng fluoroquinolones (CDC,2004).
Năm 2007, lậu kháng với fluoroquinolones tiếp tục tăng lên ở đối tượng MSM và quan hệ khác giới ở Mỹ nên CDC khuyến cáo không được sử dụng fluoroquinolones kéo dài để điều trị lậu ở quốc gia này (Newman et al, 2007).
6. Bệnh Hạ cam mềm (Chancroid).
Chancroid là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục gây ra bởi Haemophilus ducreyi , bệnh phân bố khắp thế giới, phổ biến ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh, những nơi mà giang mai không phải là nguyên nhân chính gây ra loét sinh dục (Ballard and Morse, 2003). Hầu hết gặp ở nam hẹp bao quy đầu, 10% là nữ. Chancroid là đồng yếu tố lây truyền HIV giống các bệnh loét sinh dục khác (Jessamine et al,1990).
Bệnh ít phổ biến ở châu
Âu, Canada và Mỹ vì có 17 trường hợp bệnh được báo cáo trong 2005 (CDC,2006). Nhiều tác giả và CDC nhận định “có thể bệnh bị chẩn đoán bỏ sót?”. Chẩn đoán chính xác đòi hỏi phải xác định được H. ducreyi trên môi trường nuôi cấy đặc biệt mà môi trường này thì không có sẳn, không dễ mua trên thị trường, phương pháp này độ nhạy cho chẩn đoán là 80% (Trees and Morse, 1995). Chẩn đoán dựa vào lâm sàng thì khó chính xác vì có nhiều nguyên nhân gây loét sinh dục.
Ở Mỹ, Azithromycin 1g liều duy nhất, ceftriaxone 250mg liều duy nhất, erythromycin 2g/ngày x 7 ngày, Ciprofloxacin 1g/ngày x 3 ngày, các phác đồ này điều trị có hiệu quả (CDC,2006). H.ducreyi đề kháng với Sulfonamides trên toàn thế giới, một số chủng đề kháng với Trimethoprim (Schulte and Schmid, 1995). Một số chủng đề kháng với tetracyclin và penicillin và amoxicillin.
Tài liệu tham khảo:
1. Centers for disease control and prevention (2007), Sexually Tramsmitted Diseases Surveillance, Annual report,
Atlanta
2. Hillard Weinstock, David Trees and John Papp (2008), Antimicrobial resistance to Sexually Transmitted Diseases, Antimicrobial resistance and implications for the 21st century
3. Division of STD prevention (2007), Sexually Transmitted Diseases Surveillance 2006.
4. CDC (2007), Update to CDC ‘s Sexually Transmitted Diseases treatment guidelines 2006
Summary
Antimicrobial Resistance to Sexually Transmitted Infections
Acording to the World Health Orgazination (WHO), Sexually Transmitted Infections are the major global cause of acute illness, infectility, disability ang death with severe medical and psychological economic consequency for milions of men, women and infants. WHO estimated that 340 milions curable sexually transmitted infections occurred throughout the world in men and women aged 15 to 49 years: new cases of syphilis, gonorrhea, chlamydia and trichomonas. This estimated did not account for the milions of new cases of viral sexually transmitted infections such as human papillomavirus and herpes.
Major advances have been made in the clinical recognition, diagnosis and treatment of many sexually transmitted infections. New agents have advanced the treatment of these infections. However ,resistance remains a continual challenge, especialy, for the treatment and prevention of some sexually transmitted infections. The development of antimicrobial resistance among severe sexually transmitted infections is the challenge and implication for the 21th century.
Ngày 06/04/2008
|
Nguyễn Thị Thời Loan
|
http://www.quyhoandh.org.vn/quyhoandh/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=1&cat=76&ID=405
Sửa bởi quản trị viên 03/08/2009 lúc 11:50:04(UTC)
| Lý do: Chưa rõ