Nhiễm HIV-1 cấp
Marcus Altfeld và Bruce D. Walker
Người dịch: BS. Vũ Đình Phú
Nhiễm HIV-1 cấp biểu hiện ở 40 - 90 % các trường hợp như là một bệnh lý có triệu chứng
thoáng qua, với sự nhân bản của HIV-1 ở mức độ cao và đáp ứng miễn dịch đặc hiệu với
virus có xu hướng mở rộng. Với 14.000 trường hợp mới mỗi ngày trên thế giới, nhiễm HIV
cấp là một chẩn đoán phân biệt quan trọng ở những trường hợp sốt không rõ nguồn gốc, có
ban dát sẩn và hạch to.
Chẩn đoán nhiễm virus cấp thường bị bỏ sót ở phần lớn các trường hợp, vì bệnh lý do các
virus khác (“cúm”) thường được thừa nhận là nguyên nhân của các triệu chứng, và không có
kháng thể đặc hiệu HIV-1 phát hiện được tại giai đoạn nhiễm virus sớm này. Do đó, muốn
chẩn đoán cần luôn phải nghĩ đến nó khi có nghi ngờ trên lâm sàng, dựa trên những triệu
chứng lâm sàng và bệnh sử phơi nhiễm, kết hợp thêm những xét nghiệm đặc hiệu (phát hiện
HIV-1 RNA hoặc kháng nguyên p24 và kháng thể HIV-1 âm tính) để chứng thực chẩn đoán.
Chẩn đoán sớm chính xác nhiễm HIV-1 cấp là quan trọng, vì có thể ngăn chặn được nhiễm
virus cho bạn tình và bệnh nhân có thể được lợi từ việc điều trị tại giai đoạn sớm này của
nhiễm virus (xem dưới).
Dấu hiệu và triệu chứng
Sau giai đoạn ủ bệnh vài ngày đến vài tuần sau khi phơi nhiễm với HIV, hầu hết các cá thể bị
nhiễm biểu hiện với chứng bệnh cấp tính giống cúm. Nhiễm HIV-1 cấp là một hội chứng rất
không đồng nhất và các cá nhân biểu hiện triệu chứng nặng hơn trong giai đoạn nhiễm virus
cấp và khoảng thời gian của hội chứng nhiễm virus cấp dài hơn có xu hướng tiến triển nhanh
hơn tới AIDS (Vanhems 1998, Pedersen 1989, Keet 1993). Những triệu chứng lâm sàng của
nhiễm HIV-1 cấp được mô tả đầu tiên vào năm 1985 như là một chứng bệnh giống với chứng
bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn (Cooper 1985). Những triệu chứng phổ biến nhất
(xem bảng 1) là sốt, ban dát sẩn, loét miệng, bệnh lý hạch lympho (hạch to), đau khớp, viêm
họng, mệt mỏi, sút cân, viêm màng não vô trùng và đau cơ (Kahn 1998). Trong một nghiên
cứu (Hecht 2002), sốt (80%) và mệt mỏi (68%) có độ nhạy cao nhất cho chẩn đoán lâm sàng
nhiễm HIV-1 cấp, ngược lại sút cân (86%) và loét miệng (85%) có độ đặc hiệu cao nhất.
Trong nghiên cứu này, những triệu chứng sốt và ban (đặc biệt khi kết hợp), tiếp theo bởi loét
miệng và viêm họng có giá trị dự đoán dương tính cao nhất cho chẩn đoán nhiễm HIV-1 cấp.
Trong một nghiên cứu khác (Daar 2001), sốt, ban, đau cơ, đau khớp và vã mồ hôi ban đêm là
những yếu tố dự đoán tốt nhất cho nhiễm HIV-1 cấp.
Bảng 1: Những triệu chứng chủ yếu của nhiễm HIV-1 cấp
Triệu chứng Tần số Tỷ suất chênh(95% CI)
Sốt 80% 5,2(2,3-11,7)
Ban 51% 4,8 (2,4-9,8)
Loét miệng 37% 3,1 (1,5-6,6)
Đau khớp 54% 2,6 (1.3-5.1)
Viêm họng 44% 2.6 (1.3-5.1)
Mất ngon miệng 54% 2.5 (1.2-4.8)
Sụt cân > 2,5 kg 32% 2.8 (1.3-6.0)
Mệt mỏi 68% 2.2 (1.1-4.5)
Đau cơ 49% 2.1 (1.1-4.2)
Sốt và ban 46% 8.3 (3.6-19.3)
Trích từ Hecht FM và cộng sự. Sử dụng các xét nghiệm và triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán nhiễm HIV tiên phát. AIDS 2002, 16: 1119-
1129
Pha có triệu chứng của nhiễm HIV-1 cấp kéo dài 7-10 ngày, và hiếm khi dài hơn 14 ngày.
Bản chất không đặc hiệu của những triệu chứng đặt ra thách thức lớn cho thầy thuốc và nhấn
mạnh sự quan trọng của việc hỏi chi tiết bệnh sử phơi nhiễm.
Sửa bởi quản trị viên 03/08/2009 lúc 05:31:37(UTC)
| Lý do: Chưa rõ