Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline na74  
#1 Đã gửi : 11/02/2010 lúc 04:54:13(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Phóng sự điều tra:

Chất Da cam/ Dioxin - Di chứng dai dẳng (Phần 1)





Bốn chiếc máy bay C-123 rải chất làm
rụng lá xuống khu vực tại miền nam được
cho là có quân bắc Việt ẩn náu vào tháng
9/1965. (Ảnh do Không lực Hoa Kỳ
cung cấp/Chicago Tribune).
LTS: Vấn đề chất độc Da cam/ dioxin và những di chứng dai dẳng của nó tới những người lính Việt Nam và Mỹ bị phơi nhiễm và ở cả thế hệ con cháu của những người này từ bao lâu nay vẫn là điều nhức nhối của chính phủ mỗi nước. Dù nhiều cựu binh Mỹ đã nhận được những khoản bồi thường ở mức này hay mức khác từ chính phủ Mỹ, từ các công ty sản xuất chất hoá học nguy hiểm nhất mà con người đã từng tạo ra, nhưng ở bên này bán cầu, những người cựu chiến binh, người dân thườngViệt Nam và các thế hệ con cháu họ phải chịu  hậu quả nặng nề về thể xác và tinh thần từ chất độc Da cam/ dioxin vẫn bị chính phủ Mỹ, các công ty hoá chất Mỹ bỏ quên nhiều thập kỷ qua.

Báo Nhân Dân điện tử  tiếp tục giới thiệu đến bạn đọc loạt phóng sự điều tra do chính những nhà báo Mỹ thực hiện, phản ánh một phần nhỏ cuộc sống bất hạnh của những nạn nhân chât Da cam/dioxin Việt Nam đang bị chính phủ Mỹ lãng quên. Loạt phóng sự này được đăng trên tạp chí Mỹ, tờ Chicago Tribune với năm  phần được thực hiện ở cả Việt Nam và Mỹ cùng một loạt thước phim chân thực nhất về cuộc sống khó khăn không hy vọng của những số phận bị lãng quên này. 

Qua việc  phỏng vấn hàng chục nạn nhân Da cam/dioxin ở cả Việt Nam và Mỹ với những tài liệu được quân đội Mỹ công bố và các nghiên cứu số liệu khoa học cụ thể, chính xác, tờ Chicago Tribune đã cho người đọc thấy mức độ nguy hiểm của chất Da cam/dioxin tới sức khoẻ con người cũng như trách nhiệm của phía Mỹ cần có  hành động để góp phần khắc phục hậu quả nặng nề mà người dân Việt Nam đang phải gánh chịu. Loạt điều tra cũng vạch rõ sự lảnh tránh vấn đề này của chính giới Mỹ trong nhiều năm với lập luận “chưa rõ bằng chứng khoa học” về tác hại của chất Da cam/dioxin tới sức khoẻ con người, hoặc những quan điểm đổ lỗi cho khách quan vì những lý do sinh hoạt hoặc điều kiện vệ sinh môi trường kém.

Khoa học không phủ nhận việc dị tật bầm sinh, ung thư …là do nhiều yếu tố khác nhau, song cả trên khía cạnh khoa học và khía cạnh đạo lý, với độ lùi của thời gian, với việc công bố những tư liệu còn lẩn khuất, những kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất về mối liên hệ mật thiết  giữa chất độc hoá học mà quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam và những hệ luỵ lâu dài, tàn khốc tới các thế hệ người Việt Nam trong và sau chiến tranh, phía Mỹ không thể chối bỏ trách nhiệm chính trị và trách nhiệm nhân đạo của mình vì đã sản xuất và sử dụng những hoá chất chết người này.

Gác lại quá khứ hận thù, hướng tới tương lai, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Chỉ khi ứng xử  trách nhiệm với quá khứ,  người ta mới có trách nhiệm với tương lai. Và như thế, nhân quyền, công bằng, dân chỉ không thể chỉ là chuyện dạy dỗ người khác, không thể chỉ là lối ích kỷ hại nhân, không thể chỉ là độc quyền ban phát của nước giàu, kẻ mạnh.

Chừng nào những nạn nhân chất độc Da cam/dioxin Việt Nam vẫn chưa được phía Mỹ thừa nhận, bồi thường, chừng đó “nhân quyền” vẫn là cây gậy và củ cà rốt của cường quyền, là sự áp đặt giá trị sống theo khẩu vị của một thế lực để khoả lấp đi sự bất công vẫn còn ngự trị.

Phần 1 mang tên gọi: “Đối với nước Mỹ, một số lượng lớn nạn nhân vẫn bị lãng quên” cho thấy các quan chức Mỹ vẫn phớt lờ vấn đề dai dẳng thậm chí cả khi hậu quả xấu đối với sức khỏe con người đang lan rộng.

Phần 2 với tên gọi: “Sự xúc phạm gây tổn thương” cho thấy đối với các cựu chiến binh Mỹ tại chiến tranh Việt Nam, bất công đi liền với đau thương. Các cựu chiến binh đã phải chờ đợi hàng năm và đấu tranh với các tổ chức thiếu trách nhiệm để có được bồi thường thương tật.

Phần 3 mang tên: “Được sinh ra trong tranh cãi” phản ánh về việc đâu là vai trò của chất làm rụng lá trong tỷ lệ những trẻ sơ sinh bị khuyết tật cao ở Việt Nam vẫn còn là câu hỏi hóc búa hàng thập kỷ sau chiến dịch rải hoá chất của Mỹ đã chấm dứt.

Phần 4 với tựa đề: “Chất độc vẫn dai dẳng” cho thấy các căn cứ không quân Mỹ cũ ở Việt Nam vẫn bị ô nhiễm nặng chất làm rụng lá, nhưng chính phủ Mỹ làm qúa ít để tẩy rửa các khu vực này.

Phần 5 kết thúc với chủ đề: “Chất diệt cỏ nguy hiểm hơn người ta nghĩ”. cho thấy rằng những quyết định của quân đội Mỹ và các công ty hoá chất từng sản xuất ra các loại chất diệt cỏ dùng trong Chiến tranh Việt Nam, đã tiến hành việc rải hóa chất một cách nguy hiểm hơn là cách thức mà lẽ ra, họ đã phải làm.

Sau đây, NDĐT xin giới thiệu tới bạn đọc phần 1 của loạt phóng sự này:

Phần 1: Di sản chết người của chất độc Da cam: Đối với nước Mỹ, một số lượng kỷ lục chất khai quang độc hại vẫn đang gây ra những thiệt hại lớn. (Việt Nam, 4/12/2009)

Người cha Đỗ Đức Dịu ôm ngửa cô con gái Đỗ Thị Hằng, 19 tuổi bị di chứng chất độc Da cam dioxin từ người cha. (nguồn: Kuni Takahashi/ Chicago Tribune,  25/7/ 2009, Quảng Bình)

Tại trung tâm bang Indiana, có hai chị em gái đang phải vật lộn ngày này qua ngày khác, khổ cực với những cơn đau từ cột sống và não gây nên. Họ đều ngoài 30 tuổi, nhưng cơ thể lại đang dần dần teo đi.

Cách đó hàng ngàn dặm, giữa những cánh đồng lúa Việt Nam, một người cha đang giữ chặt cô con gái 19 tuổi khi cô quằn quại trong cơn đau co giật do chất độc trong não cứ cuộn lên từng hồi trong suốt 4 năm qua.

“Các bác sĩ đều nói họ rất thông cảm, nhưng họ không thể chữa cho con tôi”, người cha nói. “Họ nói rằng tôi nên đưa con bé về nhà và con bé sẽ không thể sống lâu được nữa”.

Các cô gái này đến từ những nền văn hóa khác nhau, từ những quốc gia cách nhau hơn 8.300 dặm (gần 13.500 km). Những người cha của họ đã chiến đấu ở hai đầu chiến tuyến trong Chiến tranh Việt Nam, nhưng họ đều có điểm chung khi cùng hứng chịu di sản “dai dẳng” của chất độc Da cam và những chất hóa học làm rụng lá khác mà quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam nhiều thập kỷ trước.

Chứa chất độc dioxin, được coi là chất độc hại nhất mà con người từng tạo ra, chất làm rụng lá có liên quan tới nguy cơ cao các căn bệnh ung thư phức tạp, các di chứng bẩm sinh và các căn bệnh khác khiến  chính phủ Mỹ ngày càng mất nhiều tiền bồi thường cho những cựu binh Mỹ và gia đình họ.  

Khoản tiền trả trợ cấp tàn tật cho cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tăng 60% từ năm 2003, lên con số 13,7 tỷ USD năm 2008 và đến năm 2009 chiếm đến một nửa số tiền bồi thường mà Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ phải trả cho tất cả cựu binh Mỹ trong mọi cuộc chiến. Khoản phí bồi thường trung bình cho cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam cao hơn 41% số tiền bồi thường cho cựu binh Mỹ trong Chiến tranh Thế giới II và hơn 35% cho số lính Mỹ tham gia Chiến tranh Triều Tiên. Khoản trợ cấp thương tật này không bao gồm khoản chi phí trị giá hàng tỷ USD chăm sóc sức khỏe cho cựu binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam.

Chính phủ Mỹ sẽ chỉ phải trả khoản chi phí này nhiều hơn khi các nhà khoa học hiểu rõ hơn về các tác hại của chất dioxin, khi các cựu binh Mỹ phải chịu đau đớn đến cuối đời và khi những đứa con của họ được phát hiện cũng bị mang bệnh. Tháng 9/2009, có thêm hai căn bệnh được liệt vào danh sách các loại bệnh mà cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam yêu cầu bồi thường- sự mở rộng danh sách mà theo Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ ước tính sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới 200.000 cựu binh Mỹ và tốn hàng tỷ USD hàng năm.

Trong khi đó, một số lượng lớn người dân Việt Nam không được nhắc đến – gồm rất nhiều người thậm chí không sống trong cuộc chiến cũng đang phải chịu đựng những căn bệnh có liên quan chặt chẽ tới chất làm rụng lá. Hiện có hơn hàng chục nghìn người sống trong vùng nguy cơ mắc bệnh do chất dioxin vẫn tồn tại trong môi trường ở hàng chục căn cứ quân sự cũ của Mỹ.

Đã hơn 30 năm kể từ khi chất Da cam Dioxin được công khai thừa nhận là mối đe dọa tiềm tàng đối với sức khỏe con người, Chính phủ liên bang Mỹ đã xác nhận một số lượng kỷ lục những người bị lãng quên.

Cuộc đấu tranh đòi tiền bồi thường cho những căn bệnh mà các cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam phải chịu đựng đang đối mặt với sự trì hoãn và sự quan liêu của các quan chức Chính phủ Mỹ. Như làm tăng thêm sự thất vọng của họ, Chính phủ liên bang không bao giờ quan tâm đầy đủ đến tác hại của chất Da cam, và phớt lờ các yêu cầu nghiên cứu trên phạm vi rộng về vấn đề chất làm rụng lá ảnh hưởng như thế nào tới sức khỏe cựu chiến binh.

Tại Việt Nam, những đứa trẻ vẫn hát những bài hát về sự hủy hoại do chất Da cam gây nên, trong khi Chính phủ Việt Nam vẫn tự hỏi là làm sao Chính phủ Mỹ lại có thể hoàn toàn lảng tránh trách nhiệm khắc phục hậu quả tàn phá sức khỏe và môi trường của chất độc này, thậm chí ngay cả khi hai nước đang tăng cường phát triển mối quan hệ thương mại và quân sự. 

Từ khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ năm 1995, Quốc hội Mỹ mới chỉ chi sáu triệu USD cho các vấn đề liên quan tới chất diệt cỏ tại Việt Nam, mặc dù Chính phủ Việt Nam cho biết việc giải quyết hậu quả này cần đến hàng chục triệu USD. Quỹ Ford, một tổ chức nhân đạo chú trọng tới chất Da cam đã cung cấp 11,7 triệu USD.

Với sự hỗ trợ của Hiệp hội Báo chí điều tra, tờ Chicago Tribune đã có một tháng khảo sát tới tám tỉnh trên khắp Việt Nam để tiến hành gần 24 cuộc phỏng vấn người dân và các cựu chiến binh bị phơi nhiễm chất làm rụng lá.

Tờ Chicago Tribune đã sử dụng dữ liệu của các đơn vị quân đội Mỹ từng rải chất rụng lá xuống Việt Nam, phần mềm vẽ bản đồ và thiết bị định vị toàn cầu để chứng minh cho loạt phóng sự này. Tại Mỹ, loạt điều tra đã nghiên cứu hàng nghìn trang tài liệu của chính phủ Mỹ và khảo sát rất nhiều gia đình cựu chiến binh Mỹ để đánh giá tác động và tính toán cái giá phải trả cả về tiền của và những bất hạnh tinh thần.

Một số nhà khoa học vẫn còn nghi ngờ chất Da cam và các chất rụng lá khác là nguyên nhân trực tiếp của các căn bệnh. Nhưng với hàng trăm nghiên cứu độc lập được hoàn thành trong nhiều năm kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, đã có bằng chứng rõ ràng rằng những người bị phơi nhiễm các chất diệt cỏ có nguy cơ mắc phải các bệnh như bướu mô mềm hay ung thư hệ bạch huyết cao hơn người thường. Số lượng các dữ kiện y học liên quan tới chất rụng lá tiếp tục tăng cao.

Tranh cãi kéo dài chung quanh vấn đề các chất diệt cỏ ở cả hai nước là sự nhắc nhở nghiêm túc về những hậu quả không thể lường trước của chiến tranh ở thời điểm nước Mỹ đang lún sâu vào cuộc chiến lâu dài tại Iraq và Afghanistan.

Nhà dịch tễ học Jeanne Stellman, người có nhiều thập kỷ nghiên cứu chất Da cam cho Hội cựu chiến binh Mỹ và Viện khoa học Quốc gia Mỹ nói: “Chúng ta không biết câu trả lời cho câu hỏi: Điều gì đã xảy ra với các cựu chiến binh Việt Nam?”. “Chính phủ Mỹ không muốn tìm hiểu câu trả lời này bởi như thế sẽ phải gánh nghĩa vụ pháp lý quốc tế và các vấn đề khác chung quanh chiến tranh hóa học, và  Chính phủ Mỹ sẽ thắng vì họ mạnh hơn, trong khi mọi người lại ngày càng già hơn và cũng bởi có nhiều cuộc chiến mới để lo lắng hơn.”

Sự phòng thủ chết người

Quân đội Mỹ bắt đầu rải chất diệt cỏ xuống miền nam Việt Nam năm 1961, khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang và Mỹ dường như bị ám ảnh bởi mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam, một đất nước nhỏ bé bên bờ Biển Đông, bị chia cắt một nửa với miền bắc theo chủ nghĩa cộng sản. Được dẫn dắt bởi nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc Hồ Chí Minh, những người cộng sản đã chiến đấu để tái thống nhất đất nước bằng việc làm sụp đổ chính quyền miền Nam Cộng Hòa được Mỹ bảo trợ.

Tài sản giá trị nhất của những người lính chiến đấu chống Mỹ có lẽ là thiên nhiên của miền nam Việt Nam. Những khu rừng nhiệt đới ba tầng tán phủ trùm các triền núi, những tấm thảm ruộng lúa và những khu rừng rậm rạp bao trùm chiến trường nơi ranh giới giữa “kẻ địch” và người dân thường không rõ ràng.

Thiên nhiên tươi tốt cho phép các lực lượng bắc Việt Nam tấn công, củng cố lực lượng và ẩn náu vào thảm thực vật dày đặc cùng với sự nuôi dưỡng của người dân địa phương.

Để chống lại điều này, quân đội Mỹ đã dử dụng chất hóa học làm rụng lá nhằm phá hủy các pháo đài tự nhiên bảo vệ quân địch. Trong hơn 10 năm, các lực lượng Mỹ và miền nam Việt Nam đã rải gần 20 triệu gallon (1gallon~3,8L) chất diệt cỏ xuống đất nước đông nam châu Á, đủ để trải thảm hồ Michigan bốn lần. Phần lớn việc rải chất hóa học này diễn ra ở miền nam, nhưng cũng có ở cả những khu vực biên giới với Lào và Campuchia.

Mặc dù chất Da cam là chất diệt cỏ được sử dụng rộng rãi nhất, thực tế có cả nửa tá chất diệt cỏ mang màu sắc khác như Trắng, Xanh nước biển, Đỏ tía, Hồng và Xanh lá cây. Khoảng 65% số đó chứa chất TCDD-một dạng dioxin có độc tố cao, trong khi đó có hơn 1 triệu gallon chất diệt cỏ màu xanh nước biển chứa thạch tín.

Quân đội Mỹ đã ngừng sử dụng chất Da cam vào năm 1970 sau một nghiên cứu của Viện Y tế Quốc gia chỉ ra rằng chất hóa học được tìm thấy trong một số hợp chất đã gây ra những dị tật bẩm sinh trên cơ thể động vật thí nghiệm. Ngay sau đó, Bộ trưởng Y tế Mỹ đã cho ngừng việc sử dụng hóa chất này tại nước Mỹ, hợp chất chứa dioxin được biết tới như chất 2,4,5-T.

Mặc dù vậy, việc rải chất hóa học này hạn chế hơn vẫn được tiếp tục tại Việt Nam một năm sau đó, nhưng chỉ với số chất diệt cỏ không chứa dioxin. Chương trình diệt cỏ với tên gọi “Operation Ranch Hand” chấm dứt vào năm 1971, bốn năm trước khi chiến tranh Việt Nam hoàn toàn kết thúc.

“Chúng tôi là kẻ bẩn thỉu”

Gần bốn thập kỷ sau, trên con phố tĩnh lặng tại Brownburg- Indiana, Carrie Price-Nix và Amanda Price Palmer đã chấp nhận cuộc sống đau đớn kéo dài và tàn tật vĩnh viễn. Trong hơn 20 năm, hai chị em nhà Price phải trải qua 41 lần phẫu thuật, trong đó có năm lần phẫu thuật não, hai lần phẫu thuật cột sống và một lần cắt bỏ tử cung.


Cha họ, ông Stephen Price từng là một thợ máy thuộc Không lực Hoa Kỳ phục vụ trong căn cứ không quân đóng tại Đà Nẵng năm 1967. Thậm chí cho đến nay, khu vực này vẫn chứa lượng TCDD cao gấp 365 lần mức Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho phép.


Ông Stephen Price thời còn phục vụ trong không quân Mỹ tại Đà Nẵng. (Ảnh: do nhân vật cung cấp)

Ông Price chết vào tháng 4/2008 sau thời gian chiến đấu với căn bệnh bạch cầu, đái tháo đường và bệnh mụn cóc do nhiễm Clo, tất cả các bệnh này đều liên quan mật thiết với chất diệt cỏ được sử dụng tại Việt Nam. Ông bắt đầu nhận được khoản bồi thường tàn tật đầy đủ từ Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ vào năm 2005, sau hai năm chờ đợi  yêu cầu của ông được chấp nhận. Hai con gái của ông đều bị chứng dị tật cơ thể Chiari, một dạng khiếm khuyết cấu trúc não kèm theo bệnh nứt đốt sống, căn bệnh mà Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ thừa nhận là dị tật bẩm sinh có liên quan tới chất làm rụng lá ở đời con cháu của các cựu binh Mỹ.

Ông Price đã đệ đơn yêu cầu bồi thường cho cô con gái Price-Nix tới Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ vào tháng 7/2002. Sau ba năm sáu tháng, Price-Nix được nhận một phần bồi thường. Nhưng đến lúc đó, bàng quang của cô đã hỏng hoàn toàn, và cha cô thì đang hấp hối.


Carrie Price-Nix (trái) và chị cô Amanda Price Palmer mở phim chụp cắt lớp và so sánh các biểu hiện bệnh tại căn nhà ở Brownsburg, sau khi Palmer nhận được từ chối bồi thường từ Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ (ảnh: Chris Walker/Chicago Tribune, 1/12/2009).

Palmer, cũng với những vấn đề sức khỏe như cô chị đã phải mất sáu năm để yêu cầu bồi thường từ Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ. Chị gái cô, Price-Nix nói: “Họ đang chờ em chết đi”. Tuần trước, cơ quan này đã từ chối yêu cầu của Palmer, viện cớ rằng căn bệnh của cô không liên quan tới bệnh nứt đốt sống.

Tình trạng thoái hóa các cơ bụng của Palmer bắt buộc cô phải thực hiện việc đại tiện bằng tay. Price-Nix có một thiết bị điều hòa để điều chỉnh ruột và phải tự thông ruột hàng ngày.

“Chúng tôi là kẻ bẩn thỉu”, Palmer nói một cách tếu táo, rồi hai chị em cô òa khóc khi nhận thấy thực tế sẽ không có gì khắc phục được tình trạng này.

Cách rất xa Brownsburg, tại miền trung Việt Nam, tỉnh Quảng Bình, có cô gái Đỗ Thị Hằng, 19 tuổi cũng chịu các căn bệnh như hai chị em nhà Price. Cô thường xuyên lên cơn co giật do chất độc tích tụ trong não. Cô không thể đi lại và khó điều khiển được ruột.

Bố mẹ cô chưa bao giờ nhận được chuẩn đoán chính xác bởi hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam còn nhiều thiếu thốn, nhưng biểu hiện đau đớn ở Hằng cho phản ánh những người phải chịu đựng chứng nứt đốt sống.

Khi còn là một người lính chống Mỹ, người cha 58 tuổi của Hằng, ông Đỗ Đức Dịu đã đóng quân bốn năm tại Căn cứ không quân A So bỏ hoang của Mỹ tại một thung lũng nằm trên con đường mòn Hồ Chí Minh dọc biên giới với Lào. Các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã rải hơn 400.000 gallon chất diệt cỏ xuống thung lũng A lưới, tên cũ là A Shau.

Những nghiên cứu mới cho thấy các khu vực mà quân đội Mỹ cất trữ hóa chất diệt cỏ trong căn cứ không quân A So vẫn chứa hàm lượng lớn chất TCDD nguy hiểm.

Sau khi chiến tranh kết thúc, ông Dịu và vợ, bà Phạm Thị Nức có tới 15 người con. 12 trong số đó đã chết trước tuổi lên ba, tất cả đều mắc chứng bệnh như Hằng. Những ngôi mộ nhỏ bé nằm trên ngọn đồi cát đằng sau căn nhà mà gần như ngày nào ông Dịu cũng thắp hương cho những linh hồn bé nhỏ.


Ông Đỗ Đức Dịu thắp hương cho 12 đứa con nhỏ nằm trong những ngôi mộ trên đồi cát. (ảnh: Kuni Takahashi/Chicago Tribune, 25/9/2009)

“Tôi có thể nói tôi không biết tới tương lai, và cũng không biết tới hạnh phúc”, ông Dịu nói trong đau đớn.


Những vết thương vô hình

Hiện tại các cựu binh Mỹ chỉ nhận được tiền bồi thường cho các bệnh liên quan tới chất diệt cỏ sau cuộc chiến lâu dài, khó khăn mà ở đó ranh giới giữa khoa học và chính trị thường mờ nhạt.

Một phần của vấn đề này là bởi các cựu binh Mỹ trở về quê hương với những vết thương vô hình. Cuộc chiến của họ để nhận được sự công nhận và tiền bồi thường cho những căn bệnh liên quan tới chiến tranh, bao gồm cả tình trạng rối loạn tâm lý sau chấn thương, đã mở ra cánh cửa cho các cựu  binh của mọi cuộc chiến tranh. 

Ông Stellman nói: “Cựu binh Mỹ nhận được sự chăm sóc tốt hơn hiện nay chính là nhờ có những người anh em Việt Nam”.

Nhiều nghiên cứu khoa học mới, nhiều điều tra bền bỉ về sự can thiệp chính trị trong các nghiên cứu được chính phủ Mỹ tài trợ và khoản tiền trị giá 180 triệu USD cho vụ kiện của các cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam chống lại các công ty hóa chất, đã dọn đường cho Đạo luật chất Da cam ra đời năm 1991.

Giữa những điều khoản khác, luật pháp đã lập ra một danh sách “các bệnh liên quan tới chất diệt cỏ” mà các cựu chiến binh Việt Nam có thể được bồi thường.Danh sách này được gửi đến Viện Khoa học Quốc gia nhằm xem xét lại các nghiên cứu về các chất hóa học có trong chất diệt cỏ, và cứ sau hai năm lại đề xuất nhiều bổ sung vào danh sách đó. Các căn bệnh hay các dị tật bẩm sinh được đề xuất nếu nhiễm bởi chất làm rụng lá sẽ chắc chắn hơn là không làm tăng nguy cơ cho con người.

Kể từ đó, Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ đã bổ sung 15 căn bệnh cũng như 17 dạng dị tật bẩm sinh ở đời con cháu của các cựu binh Mỹ.

Một nguyên nhân khiến việc chậm bổ sung các loại bệnh là do Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ luôn dựa vào các nghiên cứu bên ngoài về điều kiện phơi nhiễm và các rủi ro công nghiệp thay vì  tiến hành một nghiên cứu dịch tễ học trên diện rộng ở các cựu binh, những người lần đầu tiên đệ đơn yêu cầu lên Quốc hội Mỹ vào năm 1979. Trong nhiều năm, cơ quan này nói sẽ không nghiên cứu tác động của chất diệt cỏ tới các cựu binh bởi không có cách nào để đo mức độ phơi nhiễm của họ.

 Tuy nhiên, theo Giáo sư Stellman- cựu giảng viên Khoa Sức khỏe cộng đồng của Đại học Columbia,  lời biện hộ đó không có giá trị lâu dài.

Cùng với vợ của mình, bà Steven, cũng là một giáo sư dịch tễ học đã thu thập được một cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về công việc rải chất diệt cỏ và sử dụng chúng để phát triển mô hình phơi nhiễm. Nghiên cứu này của bà đã hai lần được Viện Dược phẩm, một cơ quan độc lập gồm các chuyên gia dược chuyên đề xuất các chính sách y tế giúp Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ đưa ra các quyết định, công nhận.

Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ cho biết năm 2003 Bộ này đã chấp nhận mô hình phơi nhiễm trên theo lời khuyên của Viện dược phẩm và đang đánh giá độ chính xác của mô hình này.

“Tôi ngạc nhiên là không ai theo đuổi mô hình này một cách hào hứng”, GS. David Savizt, một nhà vật lý của Trường dược phẩm Mount Sinai ở New York, là Chủ nhiệm nhóm nghiên cứu, đã phát thốt lên đầy kinh ngạc.

Vào tháng 8, Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ công bố một cuộc nghiên cứu trong ba năm về sức khỏe của cựu chiến binh Việt Nam, tuy nhiên nghiên cứu này lại không nhìn rõ khía cạnh khoa học của chất làm rụng lá như chất Da cam. Sau hơn ba thập kỷ kết thúc chiến tranh, kế hoạch mà nhiều cựu binh tin vào Chính phủ Mỹ đơn giản là ngày một lụi tàn dần.

Ông Paul Sutton, một cựu binh tại chiến trường Việt Nam và là cựu Phó chủ tịch hội Cựu chiến binh Việt Nam của Mỹ, đã nói rằng: “câu thần chú của Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ là hoãn, hoãn và hoãn cho đến khi chúng chết hết đi”.

Tướng Eric Shinseki đã nghỉ hưu, hiện đang làm Thư ký Bộ các vấn đề về cựu binh Mỹ đã phải thừa nhận mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa Bộ và các cựu quân nhân. Là người đã từng bị thương trong chiến đấu tại chiến trường VIệt Nam, ông Shinseki tuyên bố sẽ bảo vệ cho những ai xả thân vì đất nước.

Nhiều nghị sị của Quốc hội Mỹ cho biết hầu hết việc nghiên cứu về chất độc màu Da cam đang bị dồn ứ và trì hoãn đến mức bế tắc.

Nghị sĩ đảng Cộng hòa Bob Filner, D-Calif, Chủ tịch Ủy ban Cựu chiến binh của Quốc hội cho biết: “Tôi không nghĩ họ muốn biết câu trả lời”, “Chi phí tài chính quá cao khiến ai cũng phải khiếp sợ”.

* Phóng sự thực hiện bởi Jason Grotto từ Việt Nam và Tim Jones từ Indiana.

(Còn nữa)

THU TRANG biên dịch
theo: http://www.chicagotribune.com/

- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Quảng cáo
Offline na74  
#2 Đã gửi : 11/02/2010 lúc 05:09:46(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Chất Da cam/ Dioxin - Di chứng dai dẳng (Phần 2)



Phần 2: Sự xúc phạm gây tổn thương

Di chứng chất độc Da cam: đối với các cựu chiến binh Mỹ tại chiến tranh Việt Nam, bất công đi liền với đau thương. Các cựu chiến binh đã phải chờ đợi hàng năm và đấu tranh với các tổ chức thiếu trách nhiệm để có được bồi thường thương tật.

Jack Cooley đã đưa ra lý lẽ tranh cãi cuối cùng trong cuộc đời làm nghề luật cao quý của mình từ trên giường bệnh.

Bốn tháng trước khi đầu hàng căn bệnh đa u tủy, người cựu binh Chicago trong cuộc Chiến tranh Việt Nam và là một thẩm phán liên bang đã viết một yêu cầu dài 140 trang đòi công lý gửi tới Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ Thông điệp của ông Cooley tới cơ quan chính phủ này mang tính cá nhân và trực tiếp: Chất Da cam đang giết chết tôi, và các ông phải có trách nhiệm.

Bộ Các vấn đề cựu binh Mỹ đã trả lại yêu cầu của ông Cooley sau một tháng, và nói rằng ông thiếu bằng chứng cần thiết chứng minh đã phục vụ tại Việt Nam.

Ông Cooley đã có thể có nhiều tháng để định hướng con đường gian truân này. Nhưng với cuộc sống chỉ còn tính theo ngày của Cooley, gia đình ông phải nhờ tới một người bạn cũ, một thành viên của lớp Học viện quân sự Mỹ năm 1965. Người bạn này từng là chỉ huy nhóm quân Eric Shinseki, gần đây mới được bổ nhiệm làm thư ký của Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ

Những khó khăn nhanh chóng qua đi với yêu cầu của ông Cooley. Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ đã chi khoản tiền bồi thường ba tháng một lần với mức 2.700 USD trước khi ông Cooley chết ngày 21/7 ở tuổi 65 tại Evanston.

“Đó là sự xúc phạm làm tổn thương người khác”, con gái ông Cooley, Christina nói. “Nếu tướng Shiseki không phải là bạn của gia đình và là bạn cùng lớp tại Học viện quân sự, chúng tôi sẽ không bao giờ nhận được một hào nào hết. Chúng làm tôi nghĩ đến những người khác đang phải đấu tranh mà không có sự hỗ trợ nào”.

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc gần 35 năm, nhưng với rất nhiều cựu binh, cuộc chiến với bệnh ung thư, bệnh đái tháo đường, bệnh liệt rung Parkinson hay những căn bệnh khác có liên quan tới chất làm rụng lá được sử dụng trong cuộc chiến chỉ mới bắt đầu.

Cho đến năm 2007, Jack Cooley vẫn còn khỏe mạnh.

Đối với rất nhiều cựu binh, đó là cuộc chiến mới không mong đợi, rất lâu sau một cuộc chiến đã chấm dứt.

Chính phủ đã rất chậm chạp trong việc thừa nhận có mối liên hệ giữa thời gian phục vụ trong chiến tranh với những căn bệnh suy giảm sức khỏe đang tấn công vào những cựu binh Mỹ tại Việt Nam nhiều thập kỷ sau. Thậm chí khi họ chịu đựng những căn bệnh rõ ràng liên quan tới chất Da cam, những người này phải chờ đợi hàng năm trời để những yêu cầu bồi thường thương tật của họ đến được Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ

Cái chết của Jack Cooley do bệnh đa u tủy, một dạng của bệnh ung thư máu có liên hệ tới sự phơi nhiễm chất Da cam, đã mở cánh cửa vào các hoạt động bế tắc của Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ, cơ quan phán quyết cuối cùng cho những yêu cầu bồi thường thương tật liên quan tới chiến tranh.

“Sự thật là, những cựu binh quay trở về từ chiến tranh tại Việt Nam ốm yếu hơn rất nhiều so với những người đồng tuổi. Đã có điều gì đấy xảy ra ở đó.”, bà Linda Schwartz, ủy viên hội đồng các vấn đề cựu binh tại Connecticut và là tác giả của nhiều nghiên cứu mới đây về sức khỏe của các cựu binh nữ cho biết.


 Một người lính trao cờ cho Christina Cooley trong lễ tưởng niệm
cha của cô, Jack Cooley mất vì căn bệnh do phơi nhiễm dioxin.
(ảnh: Chris Walker/Chicago Tribune, ngày 12/9/ 2009)

Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ đã từ chối yêu cầu trả lời tướng Shinseki, người đã nói ông muốn thay đổi văn hóa của cơ quan này và biến nó thành cơ quan ủng hộ cho những người đã phục vụ đất nước.

Những ảnh hưởng tiềm tàng lâu dài của chất Da cam bắt đầu xuất hiện ở nhiều cựu binh Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, tình trạng dồn ứ các yêu cầu bồi thường thương tật ngày một lớn dần, mặc dù Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ đã tăng cường thêm 3.000 nhân viên để giải quyết những ách tắc này.

 “Có quá nhiều yêu cầu bồi thường”, ông Joe Moore, một cựu luật sư của Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ nhưng nay đã đại diện cho các cựu binh trong nhiều vụ việc chống lại cơ quan này, nói. “Đơn giản là họ đã không thể đưa ra quyết định kịp thời”.

Đáp lại vụ kiện hồi tháng 12/2008 được đưa đơn tại Toà án liên bang Mỹ, cố gắng tác động lên Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ giải quyết các khiếu kiện trong vòng 90 ngày, Chính phủ Mỹ đã công nhận rằng “những căn bệnh rõ ràng của các cựu binh Mỹ tại Việt Nam” đang được bổ sung vào danh sách.

Vụ kiện này được đưa đơn bởi các Hội cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam và Hội cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh hiện đại, lập luận rằng “có hàng nghìn người chết mỗi năm” trước khi Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ có những hành động đối với những yêu cầu bồi thường thương tật của họ. Vụ kiện cho thấy cơ quan này phải mất ít nhất sáu tháng để xem xét yêu cầu ban đầu và việc kháng án có thể kéo dài đến hàng năm.

“Đối với những sự trì hoãn đó, rất nhiều cựu chiên binh đơn giản là từ bỏ, chọn cách chấp nhận hơn là chịu đựng nhiều năm chậm trễ và đầy thất vọng”.

Hoặc là họ sẽ chết sớm. Theo dữ liệu của Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ, 58% trong tổng số 490.135 cựu binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam chết trước tuổi 60 từ năm 2000 đến năm 2007.

Một thảm kịch ba hồi

Đối với các cựu binh Mỹ tại chiến trường Việt Nam, vở kịch chất độc Da cam có thể được chia ra làm ba hồi. Đầu tiên, các binh lính hoàn toàn không ý thức được những hiểm họa gây nên từ các chất làm rụng lá có chứa dioxin được rải xuống Việt Nam. Hồi thứ hai đến đột ngột với sự phát hiện muộn màng của những căn bệnh. Và hồi thứ ba chính là sự thất vọng đối với bộ máy chính quyền trong việc tổ chức giúp đỡ các cựu chiến binh.

James Sprandel, một tài xế xe tải nghỉ hưu của Văn phòng Chicago về đường phố và vệ sinh, đã sống qua ba hồi bi kịch đó.

Sprandel rời miền Nam Việt Nam đã gần 41 năm, nhẹ nhõm khi đã sống sót sau một năm làm lính cứu thương chiến đấu tại sân bay Tân An, cách Sài Gòn 20 dặm (~ 32,180km). Hiện nay Sprandel, 64 tuổi, đang phải ngồi trên xe lăn do ông bị mắc bệnh đái tháo đường và rối loạn hệ thần kinh, căn bệnh đã khiến ông không thể đứng vững trên đôi chân của mình. Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ phải cần đến 14 tháng để công nhận yêu cầu bồi thường của ông.


James Sprandel nằm trên giường bệnh để bác sĩ điều trị đôi chân
bị bệnh đái tháo đường và rối loạn thần kinh huỷ hoại.
(ảnh: Chris Walker /Chicago Tribune, ngày 2/9/ 2009)

Mặc dù ông không còn mấy mong muốn nhớ lại cuộc chiến, Sprandel cho biết ông rõ ràng vẫn còn nhớ là được bảo đảm rằng không có vấn đề gì đối với nước ở những con sông và suối ở chung quanh căn cứ không quân. “Có một cái bồn lớn để tắm. … Chúng tôi đã tắm và uống nước trong cái bồn đó. Họ nói với chúng tôi là nước đó có thể uống được,” Sprandel nói.

Do không bao giờ được thông tin về những nguy hiểm đối với sức khỏe, binh lính vẫn thường xuyên tái sử dụng những bình chứa chất độc Da cam để làm bàn nướng thịt ngoài trời, làm nhà vệ sinh hoặc những bồn chứa nước mưa. Nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng năm gallon chất cặn lắng vẫn còn dư lại trong những chiếc thùng 55 gallon.

Không lâu sau cuộc chiến, chính phủ dường như sẽ đáp lại thực tế đang nổi cộm đe doạ tới sức khoẻ của những cựu binh bị phơi nhiễm chất Da cam dioxin. Hiểu được những nguy hiểm của chất Da cam, năm 1979, Quốc hội Mỹ đã đề xuất một nghiên cứu dịch tễ học đầy đủ với ý định xem xét và kiểm tra mức độ tác động của chất rụng lá tới sức khoẻ con người.

Song, chính phủ đã lảng tráng đối với những hướng dẫn và chưa một lần thực hiện.

Những nghiên cứu sớm đối với những cựu binh nữ phục vụ tại Chiến tranh Việt Nam chỉ ra một nguy cơ rất cao đối với một vài dạng bệnh ung thư, cũng như khả năng sinh nở và dị tật sinh sản ở những đứa con của họ. Tuy vậy, cũng như những cựu binh nam, rất nhiều nghiên cứu đã bị bỏ dở giữa chừng.

Trong khi đó, các cựu binh đã tham gia một loạt những vụ kiện có nhiều nguyên đơn đối với công ty Hóa chất Dow, công ty Monsanto và nhiều công ty hóa chất khác đã từng sản xuất chất diệt cỏ sử dụng tại Việt Nam. Vụ kiện kết thúc năm 1984 với khoản tiền bồi thường là 180 triệu USD. Số tiền phải bồi thường này được trả từ năm 1988 đến năm 1997, dành cho bệnh rối loạn tâm thần, mà trớ trêu thay, nghiên cứu cho thấy đó là những căn bệnh chẳng liên quan gì đến chất độc Da cam.

Những sự giải quyết rất thiếu căn cứ thường được xem là cách chấm dứt tranh cãi, tuy nhiên mâu thuẫn vẫn ngày một lớn dần trong suốt 25 năm qua. Vào thời điểm đó, các nhà khoa học không thể tìm hiểu được đầy đủ ảnh hưởng lâu dài của chất dioxin, đặc biệt là mối liên hệ của nó đối với bệnh ung thư và các căn bệnh chậm phát triển khác.

Năm 1998, nhiều luật sư đã đệ đơn theo đuổi vụ kiện mới chống lại các công ty hóa chất đã sản xuất ra chất làm rụng lá, quả quyết rằng số tiền bồi thường ngày một bị rút dần đi vào thời điểm hàng ngàn các cựu binh đã bị mắc bệnh liên quan đến chất hoá học này. Tòa phúc thẩm lần hai của Mỹ đã bác bỏ tranh cãi, trong khi Tòa án tối cao Mỹ từ chối xét xử vụ kiện vào tháng 3 năm đó.

Một cuộc nghiên cứu toàn diện nhất về tác hại của chất làm rụng lá đối với sức khỏe đã được Lực lượng không quân Mỹ tiến hành, lấy mẫu sinh học suốt 27 năm và thăm dò sức khỏe của một số lượng nhỏ binh lính đã trực tiếp bốc dỡ và phun xịt chất hóa học trong chiến tranh.


Một lính Mỹ đứng trông máy trộn chất rụng lá trên chiếc máy bay
C-123 tháng 8/1963 (ảnh: Horst Faas/ AP/ Chicago Tribune).

Nghiên cứu mang tên ORH (Operation Ranch Hand) đã bị chỉ trích vì đã đánh giá quá thấp tác động của các chất hóa học. Gần đây, nhiều thông tin mới nổi lên cho thấy một số chất diệt cỏ được sử dụng trong chiến tranh còn chứa nhiều dioxin hơn là người ta nghĩ.

Các nhà khoa học làm việc cho nghiên cứu này đã nói rằng việc tái kiểm tra lại khối lượng dữ liệu khổng lồ ở phương diện này có thể khơi mở ra nhiều vấn đề mới. Ông Joel Michalek, một nhà nghiên cứu bệnh dịch tại Trung tâm khoa học sức khỏe của đại học Texas bộc bạch rằng “Tôi tin là toàn bộ vấn đề cần được xem xét lại”.

Năm ngoái, Quốc hội đã chỉ đạo Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ trợ cấp quỹ để thực hiện điều này. Cho đến nay, số tiền vẫn chưa hề được giải ngân.

Một cuộc chiến trên hai mặt trận

Chồng của Mary Ann Dove, một cựu chiến binh Việt Nam và là cựu lính thủy đánh bộ, đã được chuẩn đoán cũng mắc căn bệnh đa u tủy năm 1989, căn bệnh đã giết chết Cooley mà Bộ cựu chiến binh mà không hề thừa nhận mối liên hệ của nó tới chất Da cam cho đến năm năm sau đó.

Thực tế, Chiến tranh tại Việt Nam đã qua được 16 năm trước khi Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ thừa nhận rằng sự phơi nhiễm chất Da cam liên quan tới nguy cơ rất cao của bất cứ căn bệnh nào sau chiến tranh. Căn bệnh đầu tiên đã được thừa nhận năm 1991, đó là bệnh bướu mô mềm, ung thư hệ bạch huyết hay bệnh mụn trứng cá do nhiễm clo, một dạng rồi loạn chức da mà các công ty hoá chất đã thừa nhận có liên quan tới chất dioxin nhiều thập kỷ trước đó.

Từ năm 1991 đến năm 1997, Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ đã thừa nhận bằng chứng rằng 10 căn bệnh, bao gồm một số bệnh ung thư và rối loạn hệ thần kinh có liên quan đến chất độc Da cam. Trong sáu năm sau đó, hai căn bệnh khác cũng được đưa vào danh sách.

Dove là một y tá đã về hưu của quân đội Mỹ, cũng từng phục vụ tại chiến trường Việt Nam nhớ lại lúc chồng bà nói: “Anh có thể chiến đấu với bệnh tật hoặc là anh có thể chống lại chính phủ, nhưng anh không thể làm được cả hai.” Ông đã chọn cách đấu tranh với căn bệnh, và ông đã chết sáu năm sau đó.

Dove nói: chính phủ “không biết tới những gì đã diễn ra tại Việt Nam và những tổn thất mà cuộc chiến gây ra”.

Theo bản báo cáo hằng năm của Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ, con số cựu binh tại chiến trường Việt Nam nhận được trợ cấp thương tật tăng 20% từ năm 2003 đến 2008 lên đến con số 1.015.410 người.

Cùng thời điểm đó, con số cựu chiến binh nhận được trợ cấp sau chiến đấu tại Vịnh Péc-xích, Áp-gha-nix-tan và I-rắc tăng 88%, lên đến 897.000 người Shineki, một cựu binh từ bị thương trong chiến trường Việt Nam đã đề xuất những nguyên tắc mới hồi tháng 10 đối với việc bổ sung bệnh vào danh sách đang ngày một dài có liên quan đến chất làm rụng lá. Những nguyên tắc đã phải trải qua sự thẩm định của công chúng. Ông cho biết ông cũng muốn đẩy nhanh tiến trình khiếu kiện.

Shineki nói: “Với tư cách là thư ký, tôi thường được hỏi tại sao, 40 năm sau khi chất Da cam từng được sử dụng lần cuối tại Việt Nam, chúng ta vẫn đang phải cố gắng xác định ảnh hưởng đối với sức khỏe của các cựu chiến binh của chúng ta từng phục vụ trong chiến đấu”. “Những cựu chiến binh đã chịu đựng một loạt những vấn đề về sức khỏe đang cần phải có sự quyết định nhanh chóng”.

Paul Sutton, cựu chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam của Mỹ đã gọi những thông báo đó là quá ít, quá muộn. Ông cho biết “Trong thời gian này, khoảng 1,5 triệu người của chúng ta đã ra đi”.

Cảm giác “bị phản bội”

Một ngày tháng 7 năm 1968, Cooley bay trên một chiếc trực thăng đến Quảng Trị. Cooley lúc đó là lính pháo binh có căn cứ đặt tại Trại Carroll. Theo bản phân tích của tờ Tribune, đã có tới 168.000 gallon chất độc Da cam và các chất diệt cỏ khác đã được thả xuống tỉnh Quảng Trị trong những năm anh phục vụ ở đó.

Cooley khẳng định với mẹ anh trong một cuốn băng anh gửi về đầu năm 1968 rằng: “Hiện tại, đây là một trong những nơi tốt hơn bao giờ hết”.

Sau khi rời quân ngũ, Cooley đã lấy được bằng luật của trường đại học Notre Dame, làm trợ lý luật sư cho một tòa án liên bang ở Chicago và được bổ nhiệm làm thẩm phán tòa sơ thẩm liên bang. Ông đã gây dựng được tiếng tăm với tư cách là một người hòa giải khéo léo, mang mọi người lại gần nhau. Ông đã viết sách về cách giải quyết vấn đề và dạy tại trường đại học Northwestern và đại học Loyola.

Khi ông được chẩn đoán bị mắc bệnh đa u tủy, Cooley sớm nghĩ ngay đến đến chất độc Da cam.

Cooley viết trong đơn kiện của mình gửi Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ đòi bồi thường thương tật rằng: “ Tôi sau đó đã nhận ra rằng tôi đã bị phơi nhiễm một lượng lớn chất độc hóa học khi nhận nhiệm vụ theo dõi đường hàng không và các công việc khác tôi đã làm tại Việt Nam.”


Jack Cooley tại trại Carroll ở Việt Nam năm 1968
(ảnh do nhân vật cung cấp/ Chicago Tribune).

Cooley bắt đầu công việc viết đơn khiếu nại của mình gửi đến Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ khi ông được chăm sóc đặc biệt tại bệnh viên Evanston, lúc đó đã phải cấy ghép tế bào gốc nhưng không thể ngăn chặn được sự phát triển của căn bệnh.

Christina Cooley cho biết cha cô “cảm thấy bị phản bội” bởi sự thất bại của chính phủ nhằm công bố những nguy hiểm của chất độc Da cam đối với quân nhân nam nữ phục vụ tại Việt Nam.

Cô nói: “Ông ấy rất tin tưởng chính phủ sẽ sẵn sàng bảo vệ chúng tôi”.

Tại buổi lễ tưởng niệm Cooley hồi tháng 8, bạn bè của ông từ lớp Học viện quân sự năm 1965 đều đến dự, trong đó có cả Shineki. Vào thời điểm kết thúc buổi lễ, một lời cầu nguyện ngắn đã được ghi lại cho “những gia đình đã mất đi một thành viên bởi chất độc Da cam”.

Hai tuần sau đó, một túi thư từ chính phủ Mỹ được gửi tới hộp thư nhà Cooley ở Evanston. Trong đó là những tài liệu được yêu cầu khoảng 4 tháng trước đó, khẳng định rằng Cooley đã từng phục vụ tại chiến tranh tại Việt Nam.

* Phóng sự thực hiện bởi Tim Jones và Jason Grotto

(Còn nữa)


- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Offline na74  
#3 Đã gửi : 11/02/2010 lúc 05:14:18(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Chất Da cam/Dioxin - Di chứng dai dẳng (Phần 3)





Cao Thị Lan Phương, 9 tuổi, bị chứng biến
dạng ở đầu đang được các bác sĩ
chăm sóc tại Làng Hòa Bình,
Bệnh viện Từ Dũ, TP HCM.
NDĐT- Phần 3 của loạt bài điều tra của Tribune về việc đâu là vai trò của chất làm rụng lá trong tỷ lệ những trẻ sơ sinh bị khuyết tật cao ở Việt Nam vẫn còn là câu hỏi hóc búa hàng thập kỷ sau chiến dịch rải hoá chất của Mỹ đã chấm dứt.

Chất Da cam/dioxin: Dị tật bẩm sinh làm nhức nhối Việt Nam- Nước Mỹ lần khân trợ giúp.

Mặt trời thiêu đốt trên chiếc nón mê của bà Đào Thị Kiều khi bà gập người trên những mảnh ruộng hẹp lúa đang xanh mơn mởn, nhổ chúng lên từ những hàng lúa ngập trong nước đục ngầu và cấy lại ở một rãnh khác.

Có những cánh đồng giống hệt như thế mà bà Kiều đã từng làm thời con gái trong trong Chiến tranh Việt Nam và bà vẫn nhớ rõ từ sớm tinh mơ, những chiếc máy bay đã ầm ì đến rải chất độc da cam và những hoá chất làm rụng lá khác trong khi bà  đang làm việc trên đồng.


“Khi tôi thấy những chiếc máy bay đó bay trên đầu mình thì tôi mới
khoảng 16 tuổi và tôi đã nhìn thấy việc rải chất độc này kéo dài cho
đến khi tôi lấy chồng” – bà Kiều, hiện đã là một phụ nữ 58 tuổi nói. “Nó có mùi giống như mùi ổi chín. Không một thứ cây cối nào có thể
tồn tại được. Nó làm cho quần áo tôi ướt sũng”

(Ảnh: Chris Walker/ Chicago Tribune, 19-9-2009 )

Hồi ức mãnh liệt của bà được xác nhận bởi những dữ liệu từ các chiến dịch rải chất độc đã được tờ Tribune phân tích cho thấy ít nhất có bảy loại hoá chất,  tổng cộng lên tới gần 13.000 galon chất làm rụng lá đã làm chết những cánh đồng của bà Kiều.

Kể từ đó, câu chuyện về cuộc sống của bà Kiều có thể được vẽ nên theo một lôgíc đau đớn và đơn giản. Bà có tám người con. Bẩy đứa trong số đó bị dị tật ghê gớm. Đương nhiên, năm đưa đã chết trước tám tuổi. Bà cũng đã mất đi người chồng người đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa bởi căn bệnh ung thư do phơi nhiễm chất diệt cỏ.

Hàng thập kỷ sau khi chiến tranh chấm dứt, câu hỏi gây bất đồng nhất xoay quanh việc sử dụng hoá chất làm rụng lá  của quân đội Mỹ vẫn là sự ảnh hưởng đến sức khoẻ của một số đông người Việt Nam.

Trung tâm của cuộc  tranh cãi là sự liên hệ được cho là có giữa chất làm rụng lá và số trẻ bị dị tật bẩm sinh ở Việt Nam, nơi mà có tỵ lệ cứ 100 đứa trẻ sinh ra thì có tới hơn năm đứa mắc các triệu chứng dị thường về thể xác và tinh thần, một con số mà theo các nhà khoa học Việt Nam phân tích là tăng gấp bốn lần so với thời kỳ bắt đầu cuộc chiến.

Năm ngoái, Chính phủ Mỹ đã chi 13,7 tỷ USD tiền trợ cấp mất khả năng lao động cho hơn một triệu cựu chiến binh Việt Nam và nhiều người trong số đó đã bị nhiễm chất làm rụng lá . Người ta đã chi hàng triệu đô la cho việc bồi thường cho gia đình các cựu binh có con sinh ra dị tật. Song các quan chức Mỹ vẫn tiếp tục dị ứng với việc thừa nhận những mỗi liên hệ giữa chất làm rụng lá và các bậnh tật ở Việt Nam.


Bà Đào Thị Kiều chăm sóc hai đứa con tật nguyền Lâm Ngọc
Hương (trái) và Lâm Kiêm Liên (phải) trong căn nhà ở ngoại thành
Biên Hòa, Đồng Nai

(Ảnh: Chris Walker/Chicago Tribune, Đồng Nai, 19/9/2009)

Kể từ khi hai nước bình thường hoá vào năm 1995, Quốc hội Mỹ đã chuẩn chi ít nhất 125 triệu USD cho cuộc chiến chống HIV/AIDS ở Việt Nam nơi có tỷ lệ mắc bệnh đứng thứ 67 trên toàn thế giới. Khoảng 46 triệu USD cũng đã được giải ngân để giúp những người Việt Nam bị thương tật vì bom mìn chưa nổ do Mỹ rải xuống Việt Nam.

Song, cho dù chiến tranh đã kết thúc 35 năm, Quốc hội Mỹ vẫn gạt ra một bên khoản tiền sáu triệu USD trợ giúp Việt Nam giải quyết các vấn đề liên quan tới chất làm rụng lá  bất chấp những bằng chứng rằng một số lượng lớn thường dân ở miền nam bị nhiễm chất làm  rụng lá, một thực tế hiện vẫn bị nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật ở Mỹ.

Các tổ chức nhân đạo – bao gồm cả Quỹ Ford, Quỹ Gates và Tổ chức nhân đạo Atlantic – đã trợ giúp số tiền gấp gần ba lần con số Chính phủ Mỹ chi ra để giúp đỡ người Việt Nam chiến đấu với bệnh tật và xử lý các tác hại môi trường do chất làm rụng lá  gây ra.

Trong chiến tranh, các quan chức Mỹ đã lừa mỵ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) rằng "chất làm rụng lá  không nguy hiểm.". Chính quyền miền Nam lúc đó về phần mình cũng đã thuyết phục công dân của mình rằng các hoá chất đó là an toàn. Theo như các tài liệu trong Văn khố quốc gia, binh sĩ Việt Nam thời điểm đó vẫn đổ những hoá chất này lên người mình, thậm chí uống hoá chất này pha lẫn nước.

Nhân viên dân sự và binh lính giải thích với dân thường Việt Nam là rải hoá chất này lên người và xuống nước  không có hại gì và thậm chí họ còn uống nước đó trước mặt dân”- một báo cáo năm 1963 của Chính quyền miền Nam Việt Nam cho biết.

Theo các tài liệu của Chính phủ VNCH, cũng giống như binh lính Mỹ, thường dân Việt Nam sử dụng các thùng đựng hoá chất để tắm rửa và nướng thịt. Do tin rằng các hoá chất này là vô hại nên binh lính VNCH thường bán những thùng phi rỗng nhưng vẫn còn khoảng năm gallon chất làm rụng lá  cho người dân các vùng phụ cận Đà Nẵng hoặc Biên Hoà.

Nhưng rất nhiều vùng đất này hoàn toàn không an toàn. Chúng đã bị nhiễm thứ hoá chất độc hại nhất được biết đến do chính con người tạo ra đó là dionxin TCDD.  Chất gây ô nhiễm này là một sản phẩm khôn lường trong quá trình sản xuất của các công ty hoá chất Mỹ đã tạo ra những thành tố được tìm thấy trong các chất Da Cam, chất Xanh, chất Hồng và chất Tía- những hợp chất đã tạo ra hơn 65 % trong tổng số gần 20 triệu gallon các chất làm rụng lá được rải xuống Việt Nam.

Các nhà khoa học đã khẳng định, dioxin có mối liên hệ khăng khít với hơn 10 loại bệnh tật bao gồm cả ung thư, bệnh liệt rung Parkinson và những rối loạn khuyết tật bẩm sinh khác.

“Tôi chưa bao giờ gặp phải một hệ thống miễn dịch nào mà chất dioxin lại không thể phá vỡ” – TS Linda Birnbaum Giám đốc Viện Nghiên cứu khoa học sức khoẻ liên quan tới môi trường và là chuyên gia hàng đầu về dioxin nói. “Dioxin có tác động rộng lớn trong gần như tất cả các chủng loại rau quả và trong gần như các giai đoạn sinh trưởng phát triển của chúng”.

Cảnh báo sớm

Là bác sĩ sản khoa trẻ trong chiến tranh, TS Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã đỡ đẻ cho hàng trăm đưa trẻ chào đời ở Bệnh viện Từ Dũ, ngôi nhà lớn nhất Việt Nam của những sản phụ.

Sau đó, năm 1968, hai năm sau khi không quân Mỹ mở rộng việc sử dụng chất làm rụng lá lên tới hàng triệu galon, bà Phượng nói bà đã đỡ cho đứa trẻ sinh ra không có não hoặc không có dây cột sống.

Trong những năm tháng tiếp theo bà nói, cứ ba hoặc bốn lần một tuần bà lại công bố hàng chục trường hợp trẻ sơ sinh với các khuyết tật trầm trọng, những đứa trẻ sinh ra với những dị tật bộ phận bên ngoài hoặc không có tay, không chân, không có mắt.

“Đối với tôi và các đồng nghiệp điều đó thật là kinh khủng” – bà nói, giọng đứt quãng trong khi lấy tay gạt nước mắt. “Trường hợp đầu tiên đã xảy ra trong ca của tôi. Tôi đã không thể cho người mẹ biết, bởi vì tôi sợ bà ấy sẽ sốc mạnh. Nhưng người cha và các thành viên khác trong gia đình yêu cầu được thấy mặt con. Điều đó với họ thật quá sức chịu đựng”.

Cuối cùng, bà Phượng đã gặp gỡ bạn bè những người sau đó đã viết bài cho một trong những tờ báo của Sài Gòn. Những câu chuyện về những ca sơ sinh liên quan tới cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã nhanh chóng được phơi bày và tạo ra những tác động trái chiều còn dai dẳng tới ngày nay.

Quân đội Mỹ kết thúc chương trình rải chất làm rụng lá  được biết đến dưới tên gọi Operation Ranch Hand vào năm 1971 sau khi một nghiên cứu theo đơn đặt hàng của Viện nghiên cứu sức khoẻ quốc gia đã tìm thấy rằng có loại hoá chất trong thành phần của hợp chất này đã gây ra di dạng bẩm sinh trong thí nghiệm trên động vật. Ngay sau đó, người đứng đầu ngành quân y Mỹ đã ra lệnh đình chỉ việc sử dụng hoá chất được biết dưới tên gọi là 2,4,5 -T. Sau đó nó được biết đến rộng rãi rằng 2,4,5-T có chứa một loại của dioxin rất nguy hiểm là TCDD.

Là một chất độc hiểm ác gắn liền với các tế bào mỡ của người và động vật, TCDD có thể tồn tại dai dẳng trong cơ thể hàng thập kỷ.  Các nhà khoa học cho rằng, một khi có mặt, TCDD sẽ kết lại với các protein tế bào được gọi là cơ quan nhận cảm, có thể sau đó làm nổ ra một chuỗi các biến đổi phân tử tác động đến sự phát triển tế bào là nguyên nhân tiềm tàng dẫn tới ung thư và các chứng bệnh khác. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thuyết rằng, tác động của dioxin đến cơ quan nhận cảm có thể làm biến đổi quy luật gen di truyền dẫn tới các thay đổi trong cấu trúc nhiễm sắc thể ADN của một con người.

Các nhân tố về môi trường và di truyền phức tạp có thể tác động đến phản ứng của con người đối với TCDD và các nhà khoa học nói rằng, hậu quả về sức khoẻ dựa trên bệnh mắc phải về gen, chủng loại và khối lượng hoá chất nhiễm cũng như các tác nhân khác là điều mà các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể tiên liệu hết.

Về tình trạng dị tật bẩm sinh, hàng chục cuộc thí nghiệm cho thấy động vật trong phòng thí nghiệm nhiễm chất TCDD có tỷ lệ sinh dị tật cao hơn với rủi ro tác động nhanh và bất ngờ.  Ở con người, các nhà khoa học đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc phơi nhiễm với những khiếm khuyết của con người nhưng vẫn đang chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Nghiên cứu trên động vật chỉ ra rằng hoá chất có thể tác động đến quá trình sinh sản bằng cách làm sai lạc tinh dịch và cản trở các hóc môn điều hoà sự phát triển của bào thai.


Các sĩ quan Việt Nam và các nhà điều tra đang quan sát một hồ nước
gần Hồ Sen tại Đà Nẵng  bị nhiễm độc do ô nhiễm từ căn cứ quân sự
Mỹ từng là nơi  chứa một khối lượng lớn chất làm rụng lá . Sau hơn
30 năm, nơi đây vẫn cho thấy hàm lượng cao độc tố
trong môi trường sống.

(Ảnh: Kuni Takahashi/ Chicago Tribune , Đà Nẵng, 30/6/2009).

Bộ Các vấn đề Cựu binh Mỹ vào năm 2003 đã bắt đầu trợ cấp bồi thường tổn hại cho con cái của những nữ cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam với điều kiện họ phải mắc một trong số 18 biểu hiện tật nguyền khi sinh- bao gồm cả ca quáí thai đầu tiên mà bà Phượng đã gặp phải bốn thập kỷ trước, được biết đến với tên gọi là chứng bệnh thiếu một phần não khi sinh.

Con cái của các cựu binh nữ được bồi thường vì chứng nứt đốt sống, một tình trạng theo đó một số đốt sống trong cột sống được hình thành không hoàn hảo dẫn đến gây đau đớn mất khả năng đi lại vận động, úng não, các vấn đề rối loạn kiểm soát bài tiết và mất khả năng học tập.

Việc làm rõ cơ chế tại sao và như thế nào mà trẻ sinh ra với dị tật bẩm sinh vẫn còn là điều phức tạp đau đầu. Có nhiều nguyên nhân tạo ra hiện tượng này, rất nhiều nguyên nhân trong số đó vẫn chưa được biết đến, đã làm cho việc phân tách rõ nguyên nhân trở nên rất khó khăn nếu như không muốn nói là bất khả.

Tuy nhiên, một điều đang ngày một rõ là con người- đặc biệt là phụ nữ- đối tượng bị phơi nhiễm thậm chí chỉ một khối lượng rất nhỏ chất TCDD- thứ hoá chất mà các nhà khoa học đánh giá là chỉ cần một phần triệu thôi- có tỷ lệ mắc rủi ro nhiễm bệnh dẫn tới sinh trẻ tật nguyền.

Những quan điểm xung đột

Sự mâu thuẫn về ảnh hưởng của chất da cam ở Việt Nam nằm ở ngã ba đường của các khía cạnh khoa học và chính trị, một vấn đề hỗn độn đầy rẫy những tình cảm khó khăn và cảm giác dai dẳng khó từ bỏ từ cả hai phía.

Dị tật bẩm sinh là một phần về sự thất vọng về trách nhiệm đạo đức với một số người Việt Nam đang yêu cầu gần như mỗi đứa trẻ sinh ra tật nguyền đều là nạn nhân chất độc Da cam, trong khi các giới chức Mỹ lại đòi hỏi phải có bằng chứng rõ ràng  rằng để khẳng định chất làm rụng lá chính là nguyên nhân của mọi dị tật bẩm sinh.

“Các cơ quan chính quyền Việt Nam, cụ thể là ở cấp địa phương thường có khuynh hướng gộp tất cả các trường họp dị tật bẩm sinh vào một loại và nói về chúng khi liên hệ với chất Da cam “ – ông Michael Marine Đại sứ Mỹ tại Việt Nam từ 2004 đến 2007 nói. “Đồng thời tôi không nghĩ rằng phía Mỹ đang giải quyết vấn đề này với sự minh bạch đủ rõ ràng. Đó là thứ chất độc phải giải quyết theo khía cạnh chính trị”.

Như là bằng chứng cho sự ảnh hưởng trên phạm vi rộng của chất làm rụng lá , người Việt Nam dẫn một nghiên cứu của Giáo sư danh tiếng Jeanne Stellman của đại học Columbia, được công bố trên tạp chí khoa học (Nature) ba tháng một lần, trong đó ước tính rằng có khoảng 2,1 – 4,8 triệu thường dân Việt Nam đã bị phơi nhiễm các loại hoá chất trong thời gian chiến tranh.

Tuy nhiên, một số giới chức Mỹ vẫn nhìn nhận lời cáo buộc rằng các chất làm rụng lá  gây ra dị tật khi sinh phổ biến ở Việt Nam như là một chiến dịch tuyên truyền có trọng điểm được dựa trên bằng chứng khoa học không nhiều lắm.

“Chúng tôi tin rằng (Chính phủ Việt Nam) sẽ không bao giờ cho phép một nghiên cứu rằng trong mọi trường hợp có thể làm tổn hại tới chiến dịch tuyên truyền dài hai thập kỷ vừa qua. Chất Da Cam/dioxin bị cáo buộc là nguyên nhân gây ra hàng loạt các bệnh tật về sức khoẻ con người- đặc biệt là  dị tật khi sinh và sự chậm phát triển trí tuệ”- Một ghi nhớ năm 2003 của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết như vậy.

Các quan chức Mỹ chỉ ra một loạt các nguyên nhân khả dĩ khác cho tỷ lệ dị tật bẩm sinh bao gồm suy dinh dưỡng, thiếu iodine trong khẩu phần ăn của người mẹ thậm chí là do nghiện rượu ../n, mnn..

Rất nhiều sự hiềm thù chính trị gây bất đồng được thấy bên trong Bệnh viện Từ Dũ nơi mà có sự chăm sóc dành cho hàng chục đứa trẻ bị mắc các chứng bệnh dị  tật trầm trọng.  Nhiều đứa  bị ruồng bỏ ngay từ khi mới chào đời và và đuợc đón vào đây học tập và vui chơi trong khi vẫn phải trải qua những đau đớn thể xác và các điều trị khác để vượt qua tật nguyền.

Bệnh viện và bọn trẻ được chữa chạy ở đây đã trở thành những biểu tượng về di chứng  kéo dài của chất độc Da Cam, thậm chí trong nhiều trường hợp khó mà biết được bố mẹ của chúng bị nhiễm từ bao giờ và như thế nào.

Năm 1968, bà Phượng cùng các cộng sự của mình đã bắt đầu thu  thập hàng chục bào thai và những thai nhi chết non và lưu giữ chúng tại Bệnh viện Từ Dũ trong những chiếc bình lớn đổ đầy Fomaldehyde. Báo chí nước ngoài viết về chất làm rụng lá  thường đăng những hình ảnh về những chiếc bình lớn đó, một lần nữa bất chấp sự thiếu bằng chứng thuyết phục về nguyên nhân nào đã gây ra quái thai.

Khi tờ Tribune thực hiện loạt phỏng vấn ở nước ngoài, thì đã rõ vấn đề rằng một số công dân Việt Nam thường nhanh chóng cáo buộc chất làm rụng lá là nguyên nhân của các vấn đề sức khoẻ thậm chí cả khi khó có tài liệu về phơi nhiễm hoặc có thực tế dẫn đến tình trạng phơi nhiễm là không thể thuyết phục. Một số người nói rằng họ bị nhiễm thì đều không tham gia quân đội rất lâu sau khi việc rải chất độc đã chấm dứt; số khác thì phục vụ trong những vùng mà chất độc hoá học có rải thì cũng không đáng kể hoặc không hề có.

Tuy nhiên, tờ Tribune cũng thấy nhiều đứa trẻ ở Bệnh viện Từ Dũ và ở nhiều nơi khác đâu đó tại Việt Nam bị bị tác hại bẩm sinh và bệnh tật mà khoa học  đã chứng tỏ có liên quan đến việc nhiễm dioxin. Trong nhiều trường hợp, dữ liệu về các chiến dịch rải chất độc trong thời gian chiến tranh đã hậu thuẫn cho các câu chuyện của bố mẹ chúng về việc phơi nhiễm chất làm rụng lá .

Gánh nặng của mẹ cha

Trần Thị Shu có một đứa cón trai 6 tuổi  là Hồ Công Đức, trông chỉ mới như đứa trẻ 6 tháng tuổi. Có thể nhìn rõ những tĩnh mạch của nó nằm dưới lớp da dường như trong suốt. Cậu bé gầy và nhợt nhạt; hơi thở của cậu khó nhọc và mệt mỏi .Shu tin rằng bệnh tật của đứa con cũng như những cơn bệnh của đưa con bà là do phơi nhiễm chất làm rụng lá.


Hồ Công Đức trên giường đã 6 tuổi nhưng còn rất nhỏ bị tật nguyền do di chứng dioxin da cam. Bà Trần Thị Shu 43 tuổi nói cả bà và chồng là
Hồ Công Út đều bị bị rải chất độc trong chiến tranh

(Ảnh: Kuni Takahashi/ Chicago Tribune, Quảng Nam, 3/7/2009)

“Tôi vẫn nhớ đã nhìn thấy máy bay bay trên đầu mình”- bà Shu, 43 tuổi, người dân sống ở tỉnh Quảng Nam nói. “Sau khi máy bay bay đi, toàn bộ lá cây cỏ trong vùng rụng sạch. Chúng tôi bị ướt do việc máy bay rải hoá chất. Tôi không nhớ rõ điều này đã xảy ra bao nhiêu lần, nhưng mẹ tôi nói rằng ít nhất có ba lần như vậy”.

Dữ liệu từ các chiến dịch rải chất độc hoá học tại Quảng Nam cho biết có gần 24.000 gallon chất Da Cam và 21.000 gallon chất Xanh – có chứa chất asen – đã được rải xuống trong phạm vi hai dặm nơi có làng của bà Shu.

“Tôi rất thương xót con tôi” bà Shu nói. “Nếu tôi có thể sống lâu hơn nó, thì không sao. Nhưng nếu tôi mất sớm, tôi không biết ai sẽ chăm sóc nó sau này”.

Và tiếp đến là bà Đào Thị Kiều, người đã mất chồng cũng như năm đứa con. Chồng bà, ông Lâm Bá Trung đã phục vụ trong quân đội VNCH do Mỹ hậu thuận đóng dọc Vĩ tuyến 17 tại tỉnh Quảng Trị, nơi quân đội Mỹ và quân đội VNCH đã rải hơn 700.000 gallon các loại chất làm rụng lá để huỷ diệt mùa màng của đối phương và phát quang những đường mòn hành quân của miền Bắc.

Ông đã chết năm 2004 ở tuổi 60 sau bảy năm trời vật lộn với bệnh ung thư phổi và ung thư vòm họng, những chứng bệnh mà Viện nghiên cứu Thuốc và Bộ cácvấn đề Cựu binh Mỹ gắn với việc sử dụng chất làm rụng lá trong thời gian chiến tranh.

Cũng giống như nhiều công dân Việt Nam khác, bà Kiều và chồng bà đã mất rất nhiều năm dằn vặt mình trong đau khổ về việc đã sinh ra những đứa con dị dạng. “Chúng tôi đã nghĩ rằng có thể chúng tôi đã làm điều gì đó thất đức trong quá khứ” – bà nói trong giọng ngắt quãng- “Điều đó giải thích việc chồng tôi đã trở thành một người ăn chay trường kỳ”.

Hầu như ngày nào cũng vậy, bà Kiều dậy từ 3 giờ sáng để chăm sóc cho hai đứa con gái tật nguyền còn sống, cô Lâm Kim Liên 39 tuổi và Lâm Ngọc Hương 35 tuổi.

Không có sự điều trị vật lý trị liệu, cả hai cô đều không thể đi lại, nói năng, thậm chí không cầm được cả thìa cơm. Thân thể toàn da bọc xương méo mó vẹo vọ không ra hình người và mái tóc bị xén cụt làm cho họ nom trẻ hơn tuổi thật, trong khi khuôn mặt dễ sợ, ám ảnh của họ lại phản ánh một cuộc đời đau khổ kéo dài suốt tháng này qua năm khác trên một chiếc giường lót rơm tồi tàn.


Duy chỉ có đứa em trai duy nhất của hai cô chị là còn khoẻ mạnh, Lâm Ngọc Nhân- 20 tuổi, sinh ra sau khi bà Kiều và ông Trung phải đợi 10 năm để thử có con một lần nữa, một chi tiết quan trọng khi xem xét mức độ dioxin đã giảm một nửa trong cơ thể người sau khoảng bẩy năm rưỡi; hoá chất độc cũng thoát ra ngoài cơ thể khi người mẹ cho bú.


Với Lâm Kim Liên (trái, 40 tuổi) và Lâm Ngọc Hương phải (35 tuổi) không thể đi lại và nói năng được, cuộc sống với bà Kiều
là một gánh nặng đau đớn. “Tôi không biết phải nói gì nữa. Để tìm công lý ư? – bà nói, nước mắt chảy dài từ đôi mắt u tối.
“Tôi đã mất năm đứa con và cả chồng mình. Tôi có hai đứa con tật nguyền.  Có những ngày khi tôi đi làm về, tôi mệt mỏi
đến nỗi không thể đỡ chúng dậy được nữa”
(Ảnh:  Chris Walker/Chicago Tribune,Đồng Nai, 19-9-2009)

Kiều chăm sóc mảnh ruộng của mình cho đến tối và rồi lại trở về nhà để tắm rửa và đút cơm cho Liên và Hương. Người phụ nữ bé nhỏ với quyết tâm sắt đá ấy là người được bà con trong làng kính trọng bởi cuộc chiến đấu khó khăn, cuộc chiến đấu đã đem lại cho bà lòng kiêu hãnh trước những nỗi đau.

Nhưng sức lực của bà đã biến mất khi kể về những khó khăn chồng chất mà bà phải đối mặt cũng như khát vọng tương lai.

Phóng sự được thực hiện bởi Jason Grotto, Chicago Tribune tại Đồng Nai, Việt Nam

(Còn nữa)


- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Offline na74  
#4 Đã gửi : 11/02/2010 lúc 05:26:44(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Chất Da cam/dioxin – Di chứng dai dẳng (Phần 4)



NDĐT-Phần điều tra này cho thấy các căn cứ không quân cũ của Mỹ tại Việt Nam bị ô nhiễm nặng nề bởi chất làm rụng lá, song Chính phủ Mỹ đã làm quá ít để tẩy sạch các khu vực bị ô nhiễm này.

Phần 4: Chất độc vẫn dai dẳng

Khi một công ty môi trường nhỏ của Canada tiến hành thu thập các mẫu đất tại căn cứ không quân cũ của Mỹ ở một thung lũng hẻo lánh tại Việt Nam, Thomas Boivin và các nhà khoa học khác vẫn hoài nghi họ đã tìm ra bằng chứng chứng minh chất diệt cỏ được quân đội Mỹ sử dụng tại nơi này hàng thập kỷ trước vẫn đặt ra mối đe dọa tới sức khỏe con người.

Nhưng những kết quả đã chỉ ra các mức độ chất độc dioxin dẫn tới các bệnh ung thư lớn hơn rất nhiều các chỉ dẫn mà Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ đã đưa ra tại khu vực dân cư này. Đó là khi Boivin, hiện là chủ tịch công ty này reo lên: “Tôi đã tìm ra rồi”.

Công ty tư vấn Hatfield đóng tại Vancouver đã bắt đầu nghiên cứu mức độ nhiễm chất độc này qua chuỗi thức ăn, từ đất đá đến bùn đất trong các ao hồ chung quanh đó đến mỡ của các loài vịt, cá đến máu và sữa mẹ của những người dân sống trong vùng nhiễm chất dioxin.

Từ một nghiên cứu của công ty này cho thấy trong sữa của một người mẹ sống tại khu vực này chứa chất dioxin cao gấp sáu lần mức WHO cho phép. Chị có hai đứa một đứa con hai tuổi mắc bệnh nứt đốt sống, một trong những dị tật bẩm sinh mà Bộ các vấn đề về Cựu binh Mỹ đã bồi thường cho con của các cựu binh Mỹ nhiễm chất Da cam dioxin.

Sau đó, các nhà khoa học Hatfield và Việt Nam đã lấy mẫu từ gần 3.000 căn cứ quân đội cũ của Mỹ trên khắp miền nam Việt Nam và đã xác định có 28 điểm nóng, bao gồm ba khu vực chứa chất dioxin cao chung quanh vùng dân cư tại Đà Nẵng, Biên Hòa và Phú Cát.

Những phát hiện này của họ đã đưa ra cách đánh giá di chứng của chất da cam ở Việt Nam như một vấn đề có thể giải quyết được và cấp bách. Thay vì tranh cãi chung quanh các di chứng bẩm sinh và các vấn đề sức khỏe khác, việc phát hiện ra tình trạng nhiễm độc dai dẳng này đã tập trung sự chú ý vào vấn đề hiện tại hoàn toàn giải quyết được.

Tuy nhiên, kể từ nghiên cứu đầu tiên của Hatfield được công bố vào năm 2000, chính phủ Mỹ đã hành động quá ít để làm sạch các khu vực còn chứa dioxin trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ Mỹ mới chi sáu triệu USD để giải quyết cả các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng do nhiễm chất dioxin và những tổn hại môi trường to lớn do chất làm rụng lá.

Boivin và những nhà khoa học khác đã và đang nghiên cứu vấn đề này cho biết từ những nghiên cứu đầu tiên được tiến hành, đã có nhiều hợp tác hơn giữa Mỹ và Việt Nam. Hatfield bắt đầu làm việc vì cộng đồng tại Việt Nam với hy vọng có được tiền hỗ trợ của chính phủ Canada, nhưng sau đó công ty này đã tự đầu tư thời gian và mọi nguồn lực để thực hiện việc nghiên cứu.

“Đặc biệt, trong nhiều năm trước đã có hoạt động lớn tại Mỹ và Việt Nam rất đáng được khuyến khích”, ông Boivin nói.

Song mọi hoạt động tẩy sạch những khu vực ô nhiễm của Mỹ tại các căn cứ quân sự cũ của nước này đóng tại Việt Nam đều rất chậm chạp. Chi phí chính xác để tẩy sạch các điểm nóng tại Việt Nam chưa được cả hai phía tính toán, nhưng chắc chắn chi phí này sẽ lên tới con số hàng chục triệu USD.

Cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam từ năm 2004 đến 2007, ông Michael Marine nói: “Việc có một lượng chất dioxin nguy hiểm tại Việt Nam rất là điều không thể phủ nhận và việc cất trữ chất diệt cỏ tại Việt Nam của các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã gây ra tác hại và hậu quả là không còn nghi ngờ gì nữa” và “đó là lý lẽ khá đơn giản để khiến Mỹ nên giúp Việt Nam giải quyết vấn đề này”.

Hiểm họa vô hình

Tác hại của chất Da cam dioxin không chỉ được cảm nhận bởi những người lính đã từng chiến đấu và những người dân đã và đang sống trong vùng bị rải chất này. Hơn nữa, chất Da cam dioxin đã để lại tác hại lâu dài tới các khu vực trong và chung quanh những nơi đã từng là kho cất trữ và bị ngấm chất hóa học này.

Khi anh Nguyễn Văn Dũng nhận công việc thông cống tại sân bay Đà Nẵng vào năm 1996, anh không hề hay biết các lực lượng Mỹ đã từng cất trữ hàng trăm nghìn gallon chất diệt cỏ hoặc loại chất diệt cỏ chứa hàm lượng hợp chất độc tố cao có liên quan tới gần hai chục loại bệnh trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Anh cũng không hề biết chất độc này đã ngấm vào đất và có mức độ độc hại rất cao.

Anh Dũng bước vào ngôi nhà một gian cạnh khu căn cứ quân sự cũ của Mỹ với vợ anh, chị Thu và cô con gái nhỏ còn đang ẵm ngửa. Trong suốt 13 năm, vợ chồng anh Dũng, chị Thu đều làm việc tại sân bay và đã có hai đứa con với những căn bệnh khác nhau. Một đứa mắc bệnh máu hiếm còn một đứa mắc bệnh về xương, cả hai đều được nghi do nhiễm chất độc còn chứa trong đất ở sân bay.

Cô con gái thứ hai của họ chết khi lên bảy, và giờ cậu con trai mới có 10 tháng tuổi đang phải chịu những căn bệnh tương tự, khiến cậu bé phải truyền máu mỗi tháng để duy trì sự sống.

 “Tôi là một người đàn ông, và đàn ông ít khi khóc”, người đàn ông 41 tuổi nói với đôi mắt thẫm đẫm nước khi vợ anh, chị Thu đang bế đứa trẻ yếu ớt trong tay. “Nhưng mỗi khi con trai tôi phải truyền máu, tôi không thể đừng khóc”. 

Ba năm trước, các nhà khoa học Việt Nam và Hatfield đã tiến hành đo nồng độ dioxin trong máu và sữa mẹ của những công nhân tại sân bay Đà Nẵng và kết quả cho thấy nồng độ này cao gấp 100 lần mức Tổ chức Y tế thế giới cho phép.

Dioxin được coi là chất hóa học độc nhất mà con người biết tới. Trong môi trường, chu kỳ phân hủy của nó có thể là hàng thập kỷ, nghĩa là sẽ phải mất thời gian rất lâu dài để mức ô nhiễm của chất hóa học này giảm đi một nửa. Còn trong cơ thể con người, chu kỳ phân hủy của chất này vào khoảng bảy năm sáu tháng.

Điều này đồng nghĩa với việc không đến một thập kỷ trước, một số người dân sống tại đây đã được Hatfield xét nghiệm có thể mang trong mình nồng độ chất độc này cao hơn mức WHO cho phép.

Lo lắng cho những đứa trẻ

Tình trạng ô nhiễm chất dioxin tại Đà Nẵng không chỉ được xác định tại khu vực sân bay. Các nhà khoa học cũng tìm thấy chất dioxin từ chất diệt cỏ được phun ở khu vực gần hồ Sen,  trong nhiều thập kỷ là nơi người dân đánh bắt cá và đem bán.

Nồng độ chất dioxin trong cá và trong lớp cát bùn ở tầng đáy hồ cũng rất cao khiến Chính phủ Việt Nam đã phải ngăn cấm việc đánh bắt cá cũng như bơi lội tại hồ, đồng thời di dời các hộ gia đình sống gần đó. Chính phủ Việt Nam cũng ngăn khu vực ô nhiễm bằng tường bê tông chung quanh hồ. Mặc dù vậy, trong một lần tới đây các nhà báo vẫn gặp một số thiếu niên đang câu cá trong hồ.

Hơn 10 năm nay, cụ bà 74 tuổi Phạm Thị Cúc vẫn trồng hoa sen và nuôi cá tại vùng hồ ngay phía tây sân bay Đà Nẵng này. Năm 2007, công việc kinh doanh của bà đã phải ngừng lại sau các nghiên cứu của Hatfield cho thấy mức độ dioxin trong tầng bùn của hồ lớn gấp 40 lần mức độ an toàn.

Xét nghiệm máu của bà Cúc cho thấy bà đã nhiễm nồng độ dioxin cao nhất so với các mức độ đo được tại Việt Nam, hơn gấp 50 lần mức WHO cho phép. Những người con của bà, cùng làm việc với bà tại khu hồ và đã ăn một lượng cá lớn trong hồ cũng có nồng độ dioxin rất cao trong máu.

Mặc dù không ai trong số họ mắc bệnh, bà Cúc cho biết bà đã mất 10 pound (~4,5kg) từ sau lần kiểm tra sức khỏe bởi nỗi sợ hãi có thể chất dioxin sẽ ảnh hưởng tới các con và các cháu của bà.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự phơi nhiễm chất dioxin làm tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư và các bệnh khác. Tuy nhiên có thể phải mất hàng chục năm thì những tác hại của nó mới biểu hiện trên cơ thể con người, và cũng có một số người bị phơi nhiễm sẽ không bao giờ chịu những tác hại của nó.

Các nhà khoa học tin rằng chất hóa học này phá vỡ quá trình phát triển tế bào và thậm chí có thể làm biến đổi cấu trúc nhiễm sắc thể (AND) ở người.

Năm 2006, EPA bắt đầu giúp đỡ về mặt kỹ thuật như một cách góp phần với các nỗ lực của Chính phủ Việt Nam và các tổ chức nhân đạo cá nhân khác, đáng chú ý nhất là quỹ Ford, nhằm tìm những cách kinh tế để tẩy chất dioxin tại sân bay Đà Nẵng và hồ Sen.

Tháng 10, Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ đã ký một hợp đồng trị giá 1,4 triệu USD để nghiên cứu cách tẩy sạch tốt nhất cho khu vực này, một nghiên cứu mà trung tâm này cho biết sẽ phải mất ba năm để thực hiện.

Nhưng chương trình này không thể làm giảm nỗi lo lắng của bà Cúc về những tác hại đang hiện hữu của chất độc này.

“Tôi không thể không lo lắng cho sức khỏe của con và cháu tôi”, bà Cúc nói. “Tôi thì đã già rồi, nên tôi không lo về sức khỏe của tôi nữa. Nhưng tôi rất lo cho chúng”.


Bà Phạm Thị Cúc (ngồi góc trái) và gia đình bên bữa cơm.
Cháu trai của bà Phạm Huỳnh Ngọc Minh Hoàng đang chơi với
con trai Huỳnh Minh Hiếu. Anh Con cháu của bà Cúc hiện đều
khoẻ mạnh nhưng các kiểm tra cho thấy họ đều nhiễm
lượng dioxin rất cao trong máu.
(Ảnh:Chris Walker / Chicago Tribune, 17/9/2009)

Số tiền mà Quốc hội Mỹ đã quyết định chi dùng để khắc phục hậu quả chất Da cam dioxin tại Việt Nam là quá ít cho công việc tẩy sạch khu vực Đà Nẵng, chứ chưa nói đến hàng chục điểm nóng khác rải rác khắp miền Nam Việt Nam.

Một bản báo cáo từ Cơ quan Nghiên cứu của Quốc hội Mỹ được công bố hồi tháng 6 đã đưa ra chi phí ước tính cho việc tẩy sạch chất dioxin tại sân bay Đà Nẵng vào khoảng 17 triệu USD, trong khi Việt Nam khẳng định chi phí làm sạch tại ba điểm nhiễm độc nặng nhất là khoảng 60 triệu USD.

Ông Lê Kế Sơn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Việt Nam nói: “Chúng tôi đã bày tỏ rất cởi mở những điều chúng tôi nghĩ. Tôi biết Chính phủ Mỹ không thể làm được mọi việc, nhưng tôi nghĩ họ nên bày tỏ sự cảm thông với Việt Nam về những điều đang xảy ra”.

Cá, vịt bị nhiễm độc

Những cố gắng tẩy sạch khu vực nhiễm chất dioxin tại Đà Nẵng chắc chắn sẽ cải thiện tình trạng tại đây, song thực hiện công việc tương tự tại Biên Hòa, một thành phố công nghiệp cách thành phố Hồ Chí Minh về phía bắc 20 dặm lại khó khăn hơn nhiều.

Trong suốt chiến tranh, các lực lượng Mỹ đã cất trữ hàng triệu gallon chất diệt cỏ tại Biên Hòa, căn cứ không quân lớn nhất của Mỹ tại Việt Nam. Chỉ riêng trong năm 1970, hơn 7.500 gallons chất hóa học này bị rò rỉ và ngấm vào đất.

Các nhà khoa học Việt Nam và Mỹ đã đo được nồng độ dioxin trong đất và cát tại căn cứ này cao gấp 1.000 lần tiêu chuẩn cho phép, mức độ cao nhất đã từng đo được tại Việt Nam.

Dioxin từ các khu vực bị ô nhiễm ngấm vào con suối và hồ nước gần đó nằm ở trung tâm thành phố, trong khu vực vẫn có hàng nghìn người sinh sống.

Trong nhiều thập kỷ, các ngư dân đã đánh bắt cá, các loài ốc, ếch và vịt từ hồ Biên Hùng và bán chúng cho người dân địa phương. Dioxin xâm nhập vào các tế bào mỡ, và các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng con người bị nhiễm chất dioxin khi họ ăn những con cá hay con vịt mà trong mỡ của chúng có chứa nồng độ cao chất độc này .


Người dân vẫn bắt cá tại khu vực hồ nhiễm chất dioxin cao,
nơi gần kho cất trữ chất diệt cỏ cũ của Mỹ.
(Ảnh: Kuni Takahashi / Chicago Tribune, 1/7/2009).

Năm ngoái (2008), chính quyền tỉnh Đồng Nai đã nghiêm cấm các loại thực phẩm như ốc, cá, gà, vịt, tôm và ếch được nuôi từ hai tỉnh lân cận chung quanh hồ nước này.

Với số tiền từ Quỹ Ford, khoảng 6,5 triệu USD hỗ trợ vấn đề chăm sóc sức khỏe liên quan tới chất diệt cỏ ở Việt Nam, Sở Y tế của tỉnh Đồng Nai đã phát hành 9.000 tờ rơi giải thích tác hại của các loại thực phẩm từ các vùng chung quanh khu vực nhiễm chất dioxin.

Tuy nhiên, có khoảng 750.000 người sống trong thành phố, và đối với một số gia đình, việc đó là quá chậm trễ.

Chị Nguyễn Thị Thông, 56 tuổi đã sống cả đời bên con suối bị nhiễm chất dioxin từ sân bay Biên Hòa. Bố của chị đã phải chiến đấu với căn bệnh ung thư trong 12 năm, và chị gái của chị đã chết bởi căn bệnh ung thư trực tràng trước tuổi 30. Còn bản thân chị cũng đang phải chiến đấu với những vấn đề về gan.

“Nhiều người sống dọc hai bờ con suối này đã chết ở tuổi khoảng 30 đến 40”, chị nói. ‘Nhiều người trong số họ chết vì ung thư gan- đó là nguyên nhân chính”.

Theo Sở Y tế Đồng Nai, hiện Biên Hòa là thành phố có tỷ lệ ung thư cao nhất ở Việt Nam với khoảng 1.333 bệnh nhân ung thư trong 100.000 dân. Cơ quan này cũng cho biết rất nhiều bệnh nhân ung thư chết mà không được chuẩn đoán chính xác do hệ thống chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam còn thiếu điều kiện vật chất cần thiết.

(Còn nữa)


- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Offline na74  
#5 Đã gửi : 11/02/2010 lúc 05:29:19(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Chất Da cam/dioxin – Di chứng dai dẳng (Phần 5).





NDĐT - Trong phần này, điều tra của tờ Chicago Tribune về những tài liệu chưa công bố cho thấy rằng những quyết định của quân đội Mỹ và các công ty hoá chất từng sản xuất ra các loại chất diệt cỏ dùng trong Chiến tranh Việt Nam, đã tiến hành việc rải hóa chất một cách nguy hiểm hơn là cách thức mà lẽ ra, họ  đã phải làm.


Những cánh rừng đước ở Nam Việt Nam trước và sau khi bị rải chất làm rụng lá vào năm 1965. (Ảnh:  AP/ Chicago Tribune, 12-2009)

Năm 1965, khi quân đội Mỹ bắt đầu đẩy mạnh tiến hành rải chất độc Da Cam ở miền Nam Việt Nam, Chính phủ và các công ty hoá chất Mỹ chịu trách nhiệm sản xuất các chất diệt cỏ này đã biết chúng gây nguy hiểm cho sức khỏe của binh lính và những người khác nếu họ bị nhiễm nhu thế nào.

Cũng năm đó, một văn bản của Công ty hoá chất Dow đã gọi hợp chất trong Chất Da Cam là “một trong những thứ nguy hiểm nhất được biết đến gây ra không chỉ các tổn thương da mà còn phá huỷ cả cơ thể sống”.

Tuy nhiên, bất chấp những bằng chứng ngày càng rõ về mối đe doạ tới sức khoẻ của các hoá chất ngày, bất chấp việc những hiểm họa của việc phơi nhiễm đã được công bố, một góc nhìn của Tribune đã lật lại những tài liệu toà án và dữ liệu của Trung Tâm lưu trữ Quốc gia. Chiến dịch rải chất độc sẽ tiếp tục kéo dài trong sáu năm.


Một đợt rải chất làm rụng lá ở miền Nam Việt Nam trong chiến tranh. Bức ảnh do Không quân Mỹ cung cấp cho thấy 4 chiếc C-123 trong chiến dịch Ranch Hand đang rải các chất làm rụng lá vào khu vực nghi ngờ lực lượng cộng sản đóng quân vào tháng 9-1965. Bốn chiếc máy bay này được thiết kế đặc biệt để có thể rải trong phạm vi 1000 foot bề ngang cho mỗi lần rải.(Ảnh: US Air Force/ Chicago Tribune)

Các  hồ sơ cũng cho thấy có rất nhiều tranh cãi xoay quanh vấn để có thể tránh được chất diệt cỏ không nếu các nhà sản xuất  sử dụng những kỹ thuật phù hợp nhằm giảm thiểu việc nhiễm dioxin và nếu quân đội kiểm tra gắt gao hơn mức độ nguy hại trong các hợp chất chết người này. Theo nhiều tài liệu của các luật sư của các cựu chiến binh Mỹ chưa từng được công bố, Công ty hoá chất Dow từ năm 1957 đã biết rõ kỹ thuật làm giảm thiểu lượng dioxin trong các chất diệt cỏ bằng cách làm chậm quá trình sản xuất.

Kể từ Chiến tranh Việt Nam, chất dioxin đã được phát hiện như là chất gây ung thư đồng hành với các chứng bệnh liệt rung Parkinson, dị tật bẩm sinh và hàng chục các căn bệnh khác. Hàng ngàn cựu chiến binh cũng như dân thường Viẹt Nam đã bị nhiễm trực tiếp chất diệt cỏ do quân đội sử dụng.

Các bệnh tật liên quan đến chất diệt cỏ được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam, giờ đây mỗi năm tiêu tốn của ngân sách liên bang hàng tỷ đôla và đó là tác nhân gia tăng nhanh chóng ngân sách chi trả khuyết tật cho các cựu chiến binh kể từ năm 2003.

Các tài liệu cũng cho thấy rằng trước chương trình chất diệt cỏ được thực hiện vào năm 1961, Bộ Quốc phòng Mỹ đã cắt  giảm kinh phí và nhân lực cho việc phát triển các chất hóa học này theo những mục tiêu không gây chết người. Thay vào đó, Bộ Quốc phòng lại lệ thuộc nặng nề vào hướng dẫn kỹ thuật của các công ty hoá chất vốn đang bị sức ép phải tăng công suất sản xuất để đáp ứng các yêu cầu quân sự.

Việc sử dụng chất diệt cỏ dẫn tới những vụ kiện rộng rãi do cựu chiến binh và công dân Việt Nam đứng tên chống lại các công ty hoá chất. Các công ty  này đã phải dàn xếp với các cựu chiến binh Mỹ trong những vụ kiện đầu tiên về vấn đề này trong năm 1984 với 180 triệu đôla.

Kể từ đó,  các công ty hoá chất biện bạch một cách "đắc thắng" rằng họ được miễn truy tố theo các điểu khoản của luật bảo vệ các hợp đồng của Chính phủ Mỹ. Các toà án cũng cho rằng, quân đội nhận thức rõ về sự tàn phá của chất dioxin, nhưng vẫn sử dụng các chất diệt cỏ bởi vì các công ty hoá chất giúp họ bảo vệ binh lính Mỹ.

Một báo cáo vào năm 1990 gửi Bộ trưởng Bộ các vấn đề cựu binh Mỹ cho thấy rằng, quân đội mặc dù biết chất Da Cam rất nguy hiểm tới con người song chỉ tiến hành rất ít các biện pháp dự phòng để hạn chế phơi nhiễm. Báo cáo trích một bức thư viết năm 1988 của James Clary, một nhà khoa học thuộc bộ phận phát triển vũ khí hoá học trực thuộc Phòng Thí nghiệm phát triển vũ khí của không quân Mỹ gửi Thượng nghị sĩ Tom Dasschle, người đang thúc đẩy sự trợ giúp pháp lý cho các cựu chiến binh bị mắc các bệnh  tật liên quan tới chất diệt cỏ.

“Khi chúng tôi khởi xướng chương trình chất diệt cỏ vào những năm 60s, chúng tôi đã ý thức được sự tàn phá tiềm tàng của chất dioxin trong các chất diệt cỏ” – Clary viết. “Chúng tôi thậm chí còn biết rằng công thức hóa học do phía quân sự đặt hàng còn chứa một lượng dioxin tập trung hơn công thức mà phía dân sự đưa ra, tất cả chỉ để đặt mục tiêu giảm chi phí xuống mức thấp hơn với thời gian sản xuất nhanh hơn. Tuy nhiên, do chất hóa học này được nói là chỉ được sử dụng đối với “kẻ thù”, nên không ai trong số chúng tôi quá quan tâm đến nó”.

Giới khoa học quân sự đã từng biết đến các chất diệt cỏ từ những năm 40 của thế kỷ trước, song do kinh phí nghiên cứu bị cắt vào năm 1958 nên đã khiến rất ít nguồn lực được tập trung cho việc đánh giá đầy đủ tác hại của các loại hoá chất được sử dụng ở Viẹt nam.

“ Người ta nói mất khoảng 10 ngày để đến Việt Nam thực hiện “nghiên cứu” về các nhiệm vụ nói trên - Thiếu tá James Brown của  Đội nghiên cứu và Phát triển Hoá chất đặc biệt viết trong một báo cáo vào tháng 10-1961 ngay khi chương trình chất diệt cỏ vừa khởi động: “Một đơn đặt hàng rất lớn đã được áp đặt lên cố gắng nghiên cứu vốn chỉ nhận được sự ủng hộ rất khiêm tốn".

Quân đội đã khởi động chương trình chất diệt cỏ hạn chế vào năm 1962 trong đó bao gồm 47 nhiệm vụ. Đồng thời, người ta biết được rất ít về các tác hại tới sức khỏe của dioxn một phần bởi bệnh ung thư và các bệnh tật khác có thể phải mất hàng thập kỷ để tìm hiểu và các chất diệt cỏ chỉ mới được sử dụng rộng rãi kể từ năm 1947.


Bản đồ về các địa điểm rải chất độc da cam/dioxin ở miền Nam Việt Nam, mật độ, khối lượng rải và biểu đồ về mức độ bồi thường cho các CCB Mỹ trong các cuộc chiến tranh: Việt  Nam, Triều Tiên, Vùng Vịnh, Thế chiến II, trong đó bồi thường trong chiến tranh Việt Nam cao kỷ lục

(Ảnh: Bộ các vấn đề Cựu chiến binh Mỹ- Max Rust và Philgeib- Chicago Tribune)

Nhưng các tài liệu đã được các luật sư của các cựu chiến binh cho thấy các công ty hóa chất đã biết rằng các thành phần hoá học trong chất Da Cam và các chất diệt cỏ khác có thể  nguy hiểm. Vào khoảng đầu năm 1955, các hồ sơ cho biết một công ty hoá chất của Đức tên là Boehringer đã bắt đầu ký hợp đồng với công ty Dow về chất Chloracne và các vấn đề về cơ thể tại một nhà máy của Công ty Boehringer, nơi đã sản xuất  ra chất 2,4,5 -T một thành phần có trong chất Da Cam và các chất diệt cỏ khác bị nhiễm chất độc dioxin.

Không giống các công ty hoá chất Mỹ, công ty Boehringer đã dừng sản xuất và tháo dỡ các bộ phận của nhà máy sau khi họ khám phá ra việc công nhân bị bệnh. Công ty đã nghiên cứu vấn đề này gần ba năm trước khi tái sản xuất lại chất 2,4,5-T.

Bằng cách đó, công ty đã phát hiện ra rằng dioxin là thủ phạm và rằng họ có thể hạn chế chất độc hại bằng cách đun các hoá chất trong nhiệt độ thấp- một giải pháp sẽ làm cho quá trình sản xuất bị chậm lại.

Trả lời các câu hỏi của phóng viên Tribune, Công ty Dow nói họ không mua thông tin độc quyền về kỹ thuật này cho đến năm 1964 và cho đến năm 1965 hãng này mới sử dụng thông tin đó. Các hồ sơ cho thấy Công ty Dow đã không hề thông báo cho các nhà máy khác cũng như thông báo cho Chính phủ về kỹ thuật này cho đến khi quân đội bắt đầu kế hoạch xây dựng nhà máy hoá chất của riêng mình để sản xuất các chất diệt cỏ vào năm 1967.

Vào thời diểm đó, Công ty Dow cũng phát triển một quy trình kiểm nghiệm nồng độ dioxin trong các mẻ sản phẩm của chất 2,4,5-T. Công ty đã cung cấp kỹ thuật đó cho các công ty khác vào năm 1965 nhưng không cung cấp cho quân đội cho đến năm 1967.

Từ đầu thập kỷ, gần hai mươi quan chức quân sự và các nhà khoa học trong lĩnh vực hoá chất công nghiệp đã gặp gỡ nhau vào tháng 4-1963 để đưa ra một "tuyên bố chung" về vấn đề liên quan tới sức khoẻ của các chất 2,4-D và 2,4,5-T. Nhưng  không ai đưa ra những quan ngại về việc sử dụng các hoá chất ở Việt Nam- theo tuyên bố của hội nghị.

Bằng chứng tập trung lớn nhất là vào sự thật rằng hơn 300.000 gallon chất độc đã được sử dụng ở trong nước Mỹ từ 1947, thậm chí loại chất sử dụng cho Việt Nam cũng còn xa mới bằng về mức độ tập trung và hàm chứa dioxin. Tuy nhiên Dow nói với Tribune rằng công ty đã chia sẻ thông tin về các vấn đề sức khoẻ với quân đội. "Trên thực tế, các nhà máy hoá chất bao gồm cả của hãng Dow, đã đối thoại với Chính phủ Mỹ khi xem xét đến mối nguy hiểm tiềm tàng của chất chloracne trong quá trình sản xuất mà công nhân bắt đầu mắc phải vào đầu năm 1949, tiếp tục gặp phải qua những năm 60. "Người phát ngôn của Công ty Dow Perter Paul van de Wijs nói trong một trả lời phóng vấn. 

Vào năm 1965, các công ty hoá chất liên quan dến việc sản xuất chất diệt cỏ đã gặp nhau ở tổng hành dinh của công ty Dow ở Midland nhằm thảo luận về sự đe dọa của chất độc này đối với khách hàng. "Thứ hoá chất này (dioxin) là một chất độc khác thường; nó có một tiềm năng khủng khiếp để tạo ra chất chlornace và làm tổn thương hệ thống". Chuyên gia hàng đầu về chất độc của hãng Dow V.K Rowe viết cho các công ty khác vào ngày 24-6-1965.

Nhưng theo các luật sư, cho đến tận cuối năm 1967,  không có công ty nào thông báo cho các quan chức quân đội chịu trách nhiệm việc giám sát các hợp đồng sản xuất chất diệt cỏ bởi các mối quan tâm về sự an toàn.

Các tài liệu nội bộ từ các công ty  cũng chỉ ra rằng họ đã quan ngại về sự kiểm tra kiểm soát chạt chẽ hơn.


Cựu chiến binh George Claxton đã dành gần 30 năm sau chiến tranh để nghiên cứu hậu quả đối với binh lính của chất dioxin và các hóa chất độc hại khác trong thành phần các chất làm rụng lá được sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Ảnh: Chris Walker/ Chicago Tribune , 10-8-2009)

Chỉ sau khi nghiên cứu của Uỷ ban quốc gia về sức khoẻ cho thấy rằng, chất 2,4,6-T gây ra dị tật bẩm sinh trên động vật thí nghiệm thì quân đội mới chấm dứt sử dụng chất Da Cam vào năm 1970.

Alan Oates một cựu chiến binh Việt Nam, hiện là Chủ tịch Uỷ ban Da Cam cho các CCB Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam nói, các cựu binh có rất ít cơ hội trong cuộc chiến pháp lý đòi bồi thường kể từ vụ khiếu kiện năm 1988.

Các cựu binh đã tranh biện bất thành trước toà rằng, khiếu kiện là không đủ bởi việc khiếu kiện đã diễn ra quá sớm đối với hàng ngàn người mà bệnh tật của họ chưa phát lộ cho đến khi sau khi phí tổn kiện tụng đã hết.

Một vấn đề chưa được giải quyết- theo Oates, là liệu các công ty hóa chất có thể lãnh trách nhiệm về các chi phí cho sức khỏe nảy sinh cùng với các ca dị tật bẩm sinh được thấy ở trẻ em là con em cựu chiến binh Việt Nam không?

"Giờ đây, đó là lúc bắt đầu cho thấy các công ty Mỹ có ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai, thì điều gì là nguyên nhân của những câu chuyện này"- Oates nói.

Phóng sự do Jason Grotto, Chicago Tribune thực hiện.


(Hết)

- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.