Khu điều trị nội trú BV Phong - Da liễu Qui Hòa
Vẫn còn truyền nhau chuyện ở Bệnh viện phong Qui Hòa (Qui Nhơn, Bình Định) thuở bắt đầu đổi mới, khi ông Trần Văn Thủy làm phim tài liệu Chuyện tử tế đụng đến những người đang trú ngụ ở đây. Trong phim có đoạn ông Trần Hữu Ngoạn, phụ trách trại phong nói về công lao của các xơ (soeur) nhà dòng đã hết lòng lo lắng cho bệnh nhân phong, thì lập tức có phản ứng rằng nói như vậy là sai quan điểm. Phim làm xong sau gần hai năm mới được chiếu rộng rãi (năm 1987). Ông Ngoạn chính là người đã tự tay chích thuốc vào những điểm nhạy cảm trên mặt như mũi, dái tai và uống vi trùng phong như một lời phản biện sắt đá rằng, bệnh phong không lây truyền; con cái họ không khác gì con cái những người bình thường khác; gần gũi tiếp xúc họ, ta cũng chẳng ảnh hưởng gì đến sức khỏe, hà cớ gì mà xa lánh? Cộng đồng bà con ở đây mang ơn ông, nhiều người đã khỏi bệnh nhờ tấm lòng thầy thuốc nơi ông. Trong số họ có bà, người đang ngồi trước mặt tôi đây.
Sinh viên quốc tế sinh hoạt với trẻ em làng phong Qui Hòa
Phải thật khó khăn thuyết phục, thậm chí vờ đổ quạu rằng cô không nói thì cháu sẽ hỏi ban giám đốc bệnh viện (BV), tôi mới biết đầy đủ họ tên bà là Nguyễn Thị Khâm. Hội đồng bệnh nhân của BV gọi bà lên gặp nhà báo, bởi theo họ, bà là người khuyến học của làng, không ai rành sự học ở đây hơn bà. Bà kể, cha của bà là dân Điện Bàn, Quảng Nam, mẹ người Quảng Trị. Những năm đánh Mỹ, học trò Vĩnh Linh, Quảng Trị được ra Bắc học nên bà tốt nghiệp trung cấp sư phạm ngoài đó. Cơn bệnh oan nghiệt ấy nếu không ập xuống, thì có lẽ đời bà sẽ không bao giờ biết đến chốn heo hút này. Được ông Ngoạn chữa dứt bệnh, bà tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với tương lai con em bệnh nhân phong.
“Nhớ lúc đó, đầu thập niên 80, một mình tôi dạy bốn lớp. Lớp học cũng do mình dựng lên, chứ đâu có ai biết mà công nhận”. Khi Báo Giáo dục và Thời đại đăng bài, đề nghị công nhận nơi đây là một trường học, người ta mới biết tại Qui Hòa có tổ chức học hành. “Học sinh chỉ học đến lớp 5 là nghỉ, vì trình độ giảng dạy của cô thầy chỉ chừng đó”. “Chế độ đãi ngộ ra sao cô?”. Bà cười. Mấy người trong phòng nhìn tôi cười theo. “Tôi cũng là bệnh nhân, làm gì có lương hưu, chỉ có phụ cấp do bệnh viện trả. Các cháu được học, mình cũng được... đỡ buồn…”.
Dân làng phong bao giờ mới hết nghèo?
Từ Qui Nhơn, muốn về Ghềnh Ráng phải băng qua đoạn đường đèo dài 7km heo hút - con đường có được từ những bàn tay không lành lặn chứ chẳng nhờ đến máy móc, thiết bị hiện đại. Con đường nối với phố xá đông vui để bớt đi cái lạnh lẽo cách biệt, để rút bớt những cái nhìn xa cách, thậm chí xa lạ, vậy thôi. “Anh biết không, tụi em là khóa đầu tiên ra thành phố Qui Nhơn thi lên cấp II” - cô giáo Hoàng Thị Hậu, dạy lớp 2 góp chuyện, “có bạn học đến lớp 7, tủi thân quá, cha mẹ liền xin chuyển trường, chuyển lớp”. Cô giáo Hậu nay đã 34 tuổi. Chuyện ngày xưa đó tưởng chừng đã trở thành “thời xa vắng” vì mặc cảm thân phận, nhưng ánh nhìn chẳng mấy sáng sủa về thành phần xuất thân của con em bệnh nhân phong vẫn còn mãi đến giờ. “Cho dù em đã đi dạy, nhưng nói thật, vẫn mang mặc cảm”, giọng Hậu rưng rưng. Thầy cô giáo ngoài Qui Nhơn thương học trò, không hề kỳ thị, nhưng phụ huynh thì khác, ngay cả chuyện công nhận trường cấp I nơi đây cũng là đoạn trường, mãi đến năm 1993, nó mới mang tên trường Kim Đồng 2.
“Con tôi đi học, không dám khai báo thân phận để xin miễn giảm vì sợ con bị bạn bè xa lánh” - ông Nguyễn Văn Vinh, 80 tuổi, đã hơn 50 năm sống tại đây thổ lộ. Cô giáo Hậu kể như thở than: “Lớp của em năm vừa rồi chỉ có tám em, năm này 15 em. Nhưng lo nhất vẫn là khi học sinh lên cấp II”. Điều cô giáo nói đang là nỗi lo trùm lên cả phụ huynh lẫn ban giám đốc BV. Lâu nay, các em ra thành phố học, có xe của các xơ đưa đón, nhưng vừa rồi chiếc xe kia đã quá tuổi, rệu rã. Đường xa, cha mẹ các em chân tay lại không lành lặn, không thể đưa đón. Hiện Qui Hòa có 54 cháu học cấp II; 53 cháu học cấp III, đang đứng trước nguy cơ nghỉ học. “Hồi còn xe của nhà dòng, mỗi tháng gia đình nộp tiền xăng xe 50.000đ/em cấp II; 80.000đ/em cấp III. Chừng đó mà tụi tôi đã chạy toát mồ hôi rồi” - vị đại diện hội đồng bệnh nhân nói. Bác sĩ Tân - Giám đốc BV chen vào: “Chức năng của BV không phải đi lo chuyện học hành cho các em, nhưng cố được chừng nào hay chừng đó bởi vì bà con lâu nay vẫn dựa vào BV. Tôi đã liên hệ một tổ chức từ thiện bên Pháp hỗ trợ tiền mua xe nhưng họ chưa đồng ý”…
 |
Những đứa trẻ làng phong Qui Hòa. Mặc cảm của cha mẹ liệu có
theo suốt cuộc đời các em?
“Cô không muốn nói tên, bởi sợ bạn bè biết mình mắc bệnh phong. Ai là bệnh nhân phong mới hiểu mặc cảm theo suốt cuộc đời, đi đâu, làm gì cũng muốn giấu thân phận mình, tủi lắm”, bà Khâm vừa nói vừa quay mặt. Mấy cụ già lặng lẽ đứng lên, không khí như đặc lại. Những bước đi tập tễnh như trò đùa số phận. Tôi mời bà ra đứng cạnh bồn hoa trước khu điều trị nội trú, chụp ảnh. Nụ cười hiếm hoi bên những cụm hoa vàng khoe sắc trong nắng. Cuộc đời của những bệnh nhân vừa là nhà giáo như bà, đã bao lần cười như thế?
Bà Khâm: “Sẽ không bao giờ xóa được mặc cảm”
Tôi đi ra biển. Vắng ngắt. Đường vào khu lưu niệm thi sĩ Hàn Mặc Tử chào khách bằng mấy câu quen thuộc: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho…”. Trong phim Chuyện tử tế có cảnh đêm trăng, một bà già bị bệnh phong cụt hai bàn tay, nhưng vẫn hì hục trắng đêm nhào đất sét thành viên, chờ mai nắng lên cho khô để xây nhà, bởi ở đây không có lò gạch. Bây giờ, cái cực như thể ít đi, nhưng... Tôi nghĩ đến câu: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay” theo nghĩa đáng yêu, đáng thương nhất, gắn với cuộc đời của bao số phận ở làng phong. Vượt lên cảnh ngộ, một số em đã đi học đại học, trung cấp quay về làng dạy học như cô giáo Hậu, rồi làm y tá tại BV, nhưng số đó quá ít. Khốn khó bủa vây. Đường bay của những giấc mơ đời người xa tít mù khơi. Bao khát khao của họ liệu rồi có bị mòn dần theo đôi tay không được trời ban cho sự lành lặn…
Lê Trung Việt