Tư Vấn HIV
»
Vòng tay cộng đồng !
»
Thêm một góc nhìn
»
Tìm về nguồn cội - Lạc Long Quân - Âu cơ
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
Đài Loan và Bách Việt
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt
TG : Nguyễn Đức Hiệp Ph.D
Năm 2000, một sự kiện lịch sử xảy ra ở ven bờ Thái Bình Dương. Sự kiện đó không phải là Thế vận hội 2000 ở Sydney mà thế giới chú ý đến trong vài tuần, mà là một diễn biến í người để ý đến. Một sự kiện sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến chính trị và có thể làm thay đổi cách nhìn của thế giới bên ngoài của nhiều nước trong vùng. Sự kiện đó chính là kết quả bầu cử ở hòn đảo Đài Loan bé nhỏ. Ứng cử viên Trần Thủy Biển (Chen Shui-Bian) của đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Democratic Progressive Party) đã thắng Quốc Dân Đảng và trở thành Tổng Thống Đài Loan, một sự thay đổi chính quyền không đổ máu, không bạo động lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ? Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là bộ phận của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung Hoa, nó không còn dính gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 năm trước đây đã cắt lìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh của mình.
Phản ứng của Trung Quốc that dữ dội và giận dữ, báo chí Trung Quốc dùng những lời lẽ nặng nề chưa từng thấy đối với một cá nhân, không kém những từ ngữ dùng trong cách mạng văn hóa đối với các kẻ thù giai cấp và đế quốc xưa kia trong thập niên 1960. Mấy tuần trước ngày bầu cử, hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn tên lửa ở eo biển Đài Loan. Trên đất liền, Trung Quốc dàn tên lửa hướng về Đài Loan đe dọa tinh thần dân chúng, đặt áp lực với chủ ý sẽ làm cho cử tri run sợ chiến tranh mà phải bầu cho ứng cử viên Quốc Dân Đảng ! Oái ăm thay, Quốc Dân Đảng là kẻ thù trước đây của đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc này cả hai lại cùng chính sách, cùng quan điểm rút từ một nền tảng tư tưởng trung ương tập quyền Đại Hán truyền thống lâu đời.
Điều gì đã gay ra sự cố động trời như vậy ? Ngoài sự kiện ông Trần Thủy Biển là một người Đài Loan bản xứ chính cống, không phải từ lục địa di đến khi Quốc Dân Đảng thua bỏ chạy sang, thì tư tưởng và hoài bão của ông, đại diện cho hoài bão của đa số người Đài Loan bản xứ, chính là điều mà Trung Quốc sợ hải hơn hết. Thật sự thì không phải mà đột nhiên có sự tự phát, xuất hiện một tư tưởng tự chủ như vậy, mà nó đã có một lịch sử khá lâu dài. Tư tưởng ấy đã bị đè nén, thay thế bởi một tư tưởng khác từ bên ngoài ép đặt trên văn hóa, tư tưởng của dân tộc Đài Loan trong nhiều năm qua.
Tôi đặc biệt lưu ý đến lịch sử Đài Loan và hoài bão của người dân khi tôi viến Đài Loan trong một dịp dự hội nghị khoa học về môi trường khí quyển ở thành phố Đài Trung (Taitung), do hai Viện Hàn Lâm Khoa Học Đài Loan và Hàn Lâm Khoa Học Úc tổ chức vào tháng 6/2000. Trước đây tôi chỉ để ý và nghiên cứu chút ít về người bản xứ thổ dân sống ở Đài Loan trước khi người Hoa từ lục địa di dân sang. Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hóa và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trải qua cách đây hơn 1.000 năm.
Cách Mạng Văn Hóa Hay Tuyên Ngôn Độc Lập ?
Buổi lễ nhậm chức tổng thống ngày 20/5/2000 ở Đài Bắc được tổ chức tại sân trước cửa dinh Tổng Thống, một kiến trúc thời Minh Trị xây trước đây làm dinh cho viên toàn quyền của Nhật khi họ còn cai trị Đài Loan. Dinh này cũng biểu trưng quyền lực của Quốc Dân Đảng trong bao năm trước đây khi họ nắm quyền hơn nửa thế kỷ. Những sự kiện xảy ra ở buổi lễ mang nay những biểu tượng đáng kể, mà một nhà nghiên cứu ở Viện Xã Hội học, thuộc Hàn Lâm Trung Hoa (Academia Sinica) ở Đài Bắc đã viết lại như sau trên diễn đàn điện tử về Đông Nam Á (Southeast Asia Discussion List, SEASIA-L) (1).
Buổi lễ bắt đầu 9:50 sáng, quan khác trong và ngoài nước tưởng sẽ nghe bài quốc ca Cộng Hòa Trung Quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản xứ (thuộc tộc Austronesian) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là phần trình diễn của các bộ laic bản xứ Austronesian khác, tiếp theo là bài hát dân ca của người Hakka (Khách trú) và dân ca người Hoklo. Chỉ khi Tổng Thống Trần Thủy Biển và Phó Tổng Thống, bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng Thống thì bài quốc ca mới được hát sau cùng. Người hát quốc ca là cô ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan (và Trung Quốc) Cheng Hui-Mei (Amei), gốc người thổ dân bộ lạc Puyma. Cô rất được thính giả ái mộ, không những ở Đài Loan mà còn ở Trung Hoa lục địa. Trước kia không bao giờ có sự có mặt của văn hóa địa phương trong những nghi lễ trịnh trọng. Nay thì ngay cả bài quốc ca cũng xuống hàng thứ yếu. Sự phá vỡ nghi thức này rất có ý nghĩa. Nó có chủ đích cho thấy là chính phủ mới từ đây về sau sẽ theo đuổi chính sách đứng trên quan điểm của người địa phương (Hoklo, Hakka, Austronesian) chứ không như chính phủ Quốc Dân Đảng trước kia đứng trên quan điểm trọng Hán.
Hiểu được hậu ý của chính phủ Trần Thủy Biển, Trung Quốc đã giận dữ, ngay cả Amei cũng không thoát khỏi sự tức giận ấy. Sauk hi cô tham dự và hát bài quốc ca Đài Loan (Cộng Hòa Trung Hoa) ở lễ nhậm chức của Tổng Thống Trần Thủy Biển, chính phủ Trung Quốc ra lệnh tẩy chay Amei. Đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí bị cấm đề cập đến co, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo cũng không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei. Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola bị bôi xóa đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó lùng kiếm. Wu Bai, một nam ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan và Trung Quốc, cũng chịu chung số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thủy Biển.
Bài diễn văn của Trần Thủy Biển rất ít đề cập đến sự quan hệ với Trung Quốc, một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc đó, mà hầu hết là về lịch sử và văn hóa Đài Loan, về cải tổ chính trị và chính sách đối nội. Trần Thủy Biển nói tới Đài Loan 40 lần. Cộng Hòa Trung Quốc (ROC) 9 lần. Trung Quốc chỉ có 1 lần nhưng Formosa (tên cũ của đảo Đài Loan) 2 lần và 4 lần nhấn mạnh nói lớn “Đài Loan đứng lên !”.
Đài Loan đã thực sự đứng day về văn hóa và chính trị. Trần Thủy Biển nêu lên những sự áp bức, xâm lược bởi đế quốc mà dân chúng ở cả Trung Quốc lẫn Đài Loan đã là nạn nhân trong thế kỷ 20. Thật sự Đài Loan còn khổ sở nặng hơn dưới chế độ thực dân Nhật. Những kinh nghiệm lịch sử tương tự như thế đáng ra đã mang lại sự thông cảm giữa hai dân tộc ở hai bên eo biển Đài Loan để từ đó đặt nền tảng cho việc thiết lập tự do, dân chủ và nhân quyền cùng với nhau. Tuy nhiên, do sự phân ly lâu dài trong lịch sử, hai vùng đã phát triển theo hai hướng khác nhau, đi đến sự khác biệt tột độ về nhiều phương diện, từ hệ thống chính trị đến văn hóa và phong cách sống. Điều này đã cản trở sự thông cảm và thiết lập tình hữu nghị giữa hai nước.
Bài diễn văn này là một tuyên bố chính trị quan trọng. Ông phân biệt rõ sự khác biệt giữa lịch sử Trung Quốc và lịch sử Đài Loan. Đài Loan đã trải qua thời kỳ bị Nhật đô hộ lâu dài và đã có lịch sử riêng chứ không phải chỉ có lịch sử mới đây mới đây tách ra khỏi Trung Quốc bắt đầu từ 1949, với nhãn quan của người Hán đặt trọng tâ vào cuộc nội chiến quốc – cộng. Ông nói là cách đây 400 năm, Đài Loan được gọi là Formosa, hòn đảo xinh đẹp, nay Đài Loan còn là một hòn đảo của một nền dân chủ trưởng thành. Ông cho rằng lịch sử Đài Loan tiếp diễn cách đây 400 năm từ di sản của thổ dân Austronesian, cư dân đầu tiên, chứ không phải xuất phát từ 5.000 năm của lịch sử Trung Quốc. Ông là vị Tổng thống Đài Loan đầu tiên đã đặt trọng tâm của vũ trụ quan vào lịch sử đảo và vào di sản Austronesian. Ông đặc biệt nói về văn hóa địa phương, các tổ chức cộng đồng phi chính phủ đã được thành lập để phát triển, bảo tồn lịch sử, văn hóa ở mọi địa phương, làng xã. Tất cả đó là một phần của văn hóa Đài Loan. Đài Loan là một xã hội đa văn hóa, trong đó mọi người dân chấp nhận sự đa dạng và giao lưu với nhau giữa các người Austronesian, Hoklo, Hakka và người Hoa ở lục địa sang. Ông nói về văn hóa Hoa kiều và đặt cộng đồng người Hoa ở Đài Loan giống như cộng đồng người Hoa trên thế giới như ở Singapore, Sydney hay San Francisco trong môi trường đa văn hóa, chứ không phải người Hoa giữa dân số của một nước Trung Quốc thống nhất.
Ông nhấn mạnh đến cuộc sống “văn hóa” thường ngày của người dân bình thường và nói về bản thân ông xuất thân là con của một tá điền trong một gia đình nghèo và đã vươn lên để trở thành tổng thống của một nước được sự tín nhiệm của dân Formosa, những người con của Đài Loan như ông. Tinh thần bài diễn văn giống như tinh thần của một bản tuyê bố độc lập hơn là một bài diễn văn nhậm chức bình thường.
Các Dân Tộc ở Đài Loan.
Vì đâu mà ông Trần Thủy Biển đã “tuyên bố độc lập” như vậy ? Bài ông nói đã phán ảnh được những gì sâu xa xảy ra trong tư tưởng của xã hội Đài Loan trong nhiều năm vừa qua ở nhiều lãnh vực. Một hiện tượng xã hội đáng chú ý gần đây là một số vấn đề nghiên cứu trong phạm vi khoa học có liên hệ đến các dân tộc ở Đài Loan đã lan ra khỏi phạm vi hạn hẹp và đã trở thành một đề tài nóng bỏng trong xã hội mà trước đây ít xảy ra.
Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý. Sau khi công bố kết quả trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện thư từ những người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Mân Nam (Minnan) và Hakka. Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6 (chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ chức hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc.
Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải ngiên cứu của bà đã gay chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa ‘Hán trung tâm’ cho rằng người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả, do đó đã gây nên cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung Quốc. Bà trả lời là bà đã biết trước kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động cuộc tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là điều gì mới lạ, vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả nghiên cứu của bà chỉ chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi. Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of Chine”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of Yeuh coastal Neolithic : A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã có cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt.
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ gốc Phi châu lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không thể nói được “Chúng tôi là người Mân Việt cổ xưa”. Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải là Hán từ bắc Trung Quốc. Bà nói : “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”.
Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như sau.
Bộ tộc Austronesian
Những người bản xứ thuộc dòng ngôn ngữ Austronesian là những dân đã sống lâu đời ở Đài Loan từ trước thế kỷ 17 khi các người ngoại quốc, như Hoà Lan, Tây Ban Nha và sau này từ Trung quốc bắt đầu đến chiếm đóng và định cư. Ngôn ngữ của các bộ tộc bản sứ cũng rất đa dạng và khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc họ ngôn ngữ Austronesian, cùng họ với ngôn ngữ Phi Luật Tân, Indonesia, Mã Lai và ở nhiều đảo khác trong Thái Bình Dương. Hiện nay người thổ dân Austronesian chỉ còn có khoảng dưới 2% dân số Đài Loan và gồm các bộ tộc sau (theo thứ tự dân số) : Amis (130,000), Paiwan (60,000), Tayal (50,000), Bunun (38,000), Taroko (30,000), Puyuma (8,000), Rukai (8,000), Tsu (6,000), Yami (4,000), Saisiat (4,000), Thao (250). Một số bộ tộc khác ở đồng bằng và bờ biển trước đây đã biến mất, qua sự đồng hoá trong cộng đồng các người Hoklo, Hakka di dân từ Trung quốc trong các thế kỷ trước. Ngôn ngữ của các bộ tộc này chỉ còn giữ lại trong các tự điển và bài viết về họ của người Hoà Lan, Nhật và Đài Loan sau này, và một số từ còn sót lại trong tiếng Hoklo.
Trong suốt lịch sử từ 1624, khi người Hoà Lan đến chiếm, cho đến thời kỳ thuộc nhà Thanh, rồi thuộc Nhật Bản và gần đây dưới chế độ Quốc dân đảng, người thổ dân thường bị phân biệt, chèn ép trong xã hội. Có lúc họ đã nổi dậy, như năm 1930, một bộ lạc đã nổi lên chống Nhật nhưng họ đã bị đàn áp đẫm máu. Đất đai của họ đã bị lấn chiếm và mất dần (cách đây không lâu, có nơi đất của họ đã được dùng để chôn các chất thải nguyên tử nguy hiểm). Năm 1984, Liên minh thổ dân Đài Loan đã được thành lập bởi một số trí thức và các lãnh đạo các bộ tộc để bảo vệ quyền lợi và văn hoá thổ dân. Họ đã tranh đấu trong nhiều năm cùng với đảng Dân chủ tiến bộ đối lập chống lại các chính sách văn hóa và bất công của chính quyền. Ngày nay, quyền lợi và văn hoá thổ dân đã được khuyến khích phát triển nhất là từ khi chính phủ Trần Thuỷ Biển nắm quyền từ năm 2000.
Như các người Austronesian khác ở Đông Nam Á (Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương), các bộ tộc thổ dân đều có tục ăn trầu và xâm mình. Đặc biệt người Atayal còn xâm hình rất nhiều lên mặt. Theo truyền thuyết của họ, lúc khởi thủy chỉ có hai anh em. Vì muốn sinh sản con người, người em gái đã xâm hình lên mặt để che dấu gạt anh và sinh sản con cháu. Người Rukai, trong lễ hội xuân, còn có phong tục chơi đu xích đu. Người con gái đu xích đu, trong khi người con trai đẩy và bắt lấy. Trò chơi ở lệ hội xuân này tương tự như trò chơi của lễ hội người Việt và chúng có nguồn gốc phồn thực.
Vì là thiểu số, hiện nay văn hoá người thổ dân có nguy cơ biến mất khi đa số thanh niên cố gắng hoà nhập vào xã hội Đài Loan. Trước đây vì bị phân biệt, nên đa số đã cố gắng dấu đi đặc tính thổ dân để hoà nhập. Ngày nay với chính sách bảo vệ và phát triển văn hoá bản sứ trong giáo dục, chính trị và kinh tế, họ đã có mặt ở mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội Đài Loan và hảnh diện là người có gốc tích thổ dân, dân cư đầu tiên của nước Đài Loan. Cuối năm 2001, ở Đài Trung, nơi có nhiều thổ dân thuộc các bộ tộc khác nhau, đã có tổ chức lễ hội về văn hóa Austronesian, với sự hiện diện của nhiều học giả thế giới đến dự hội nghị nghiên cứu Austronesian tổ chức cùng thời gian. Chang Hui-mei (Amei), ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan, là một người gốc thổ dân bộ lạc Puyuma bản xứ đã trình diễn nhiều bài dân ca Austronesian khai mạc liên hoan văn hoá này. Viện hàn lâm Academia Sinica cũng đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và con người Austronesian. Cùng với “Hiệp hội nghiên cứu tiền sử ấn và Thái Bình dương”, Academia Sinica đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về người Austronesian, như ở Đài Trung và Đài bắc vừa rồi.
Nguồn gốc người Austronesian ở Đài Loan
Có nhiều giả thuyết (9) về nguồn gốc của người Austronesian trên đảo Đài Loan: (a) họ là hậu duệ của người từ đảo Ryukyu ở nam Nhật Bản đến cách đây hơn 2,000 năm (b) họ là những người Mã Lai đi từ các đảo phương Nam lên (c) họ là hậu duệ của các dân tộc từ đất liền vùng Quế châu (Miao, Thai,..) gần biên giới hiện nay giữa Trung quốc và Việt Nam. Những người này cũng là tổ tiên của người Việt (yueh) ở Quảng Đông hiện nay.
Các địa điểm khảo cổ thời kỳ đá mới ở Tapenkeng (gần Đài Bắc) và Fengpitou (gần Cao Hùng) cho thấy các vật tìm thấy (rìu, tên đá, đồ gốm với trang trí hình thừng..) thuộc vào một nền văn hoá thời đại đá mới cách đây khoảng hơn 5,000 năm. Các nền văn hoá này có liên hệ với các di chỉ văn hoá ở đất liền phía nam Trung quốc và bắc Việt Nam. Các gốm ở các di chỉ văn hoá trên cũng có sự liên hệ với các gốm tìm thấy ở các di chỉ ở Phi Luật Tân và ở Sa Huỳnh. Điều này cho thấy giả thuyết thứ hai và ba ở trên về nguồn gốc của dân Austronesian có thể là có cơ sở. Tuy khảo cổ học cho ta thấy sự liên hệ ở thời kỳ đá mới giữa cư dân đảo Đài Loan và đất liền, nhưng về phương diện ngôn ngữ hiện nay ta không còn tìm được cư dân nào còn lại trên đất liền ở nam Trung quốc và bắc Việt Nam dùng tiếng nói thuộc họ ngôn ngữ Austronesian.
Nhà khảo cổ P. Bellwood cho rằng xưa kia ngôn ngữ Austronesian có thể đã được dùng bởi các bộ tộc ở nam Trung quốc nhưng đã bị biến mất khi người Hán tràn xuống phía nam. Vết tích của ngôn ngữ Austronesian có thể tìm được ở tiếng Mân Nam (Hoklo). Nhà ngôn ngữ học Benedict cho rằng họ ngôn ngữ Austronesian và ngôn ngữ Thai-Kadai (hiện vẫn còn ở nam Trung quốc và bắc Việt nam) có liên hệ và cùng chung một gốc. Gần đây một số các nhà ngôn ngữ học cũng cho thấy có sự liên hệ giữa ngôn ngữ Austronesian và Austroasiatics (như Mon-Khmer, Việt-Mường). Họ gọi gốc chung của hai họ ngôn ngữ này là Austric và dùng phương pháp ngôn ngữ học để cấu tạo lại các từ gốc tiền-Austric. Ngoài phương diện ngôn ngữ, ta cũng thấy có sự liên hệ trong lịch sử của các dân tộc nói các thứ tiếng trên ở nam Trung quốc và Việt Nam.
Từ các dữ kiện ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ, nhà ngôn ngữ học R. Blust và khảo cổ học P. Bellwood đã cho rằng, bắt nguồn từ Vân Nam, nơi xuất phát nhiều sắc tộc nói nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, và nhiều di chỉ văn hóa, người Austronesian xuống đến bờ biển rồi từ đó qua Đài Loan. Họ sau này, cũng như nhiều sắc tộ khác, bị Hán hóa, chỉ để lại vàI dấu vết ngôn ngữ trong các dân ở nam Trung quốc hiện nay.
Tuy vậy, qua sự nghiên cứu về các từ cổ Trung hoa về các sản phẩm canh nông như kê, lúa gạo, nhà ngôn ngữ L. Sagart (10) cho rằng nguồn gốc của người Austronesian là ở phía bắc sông Dương Tử. Những từ này có liên hệ đến các từ gốc Austronesian. Thuyết của ông đặt cơ sở là các di chỉ trồng lúa cổ nhất tìm được hiện nay là dọc phía nam sông Dương Tử như Hemudu, Caoxieshan (tỉnh Triết Giang) cách đây khoảng 6,500 năm và Pentoushan (Hồ Nam) cách đây khoảng 8,000 năm.
Trái với hai thuyết trên là thuyết của Meacham, Terrel và Soldheim (11) cho rằng người Austronesian chính là bắt nguồn từ các đảo trong khu vực tam giác bắc Phi Luật Tân, Indonesia đến tây New Guinea (vùng Wallacea). Họ tỏa ra các hướng khác nhau: bắc đến Đài Loan và các đảo nam Nhật bản (Ryukyu), tây đến bờ biển Việt nam, đông về Melanesia và các đảo ở Thái bình dương (Polynesia). Meacham cho rằng hiện nay khó có thể xác định là nguồn gốc người Austronesian ở nam Trung quốc qua ngôn ngữ học và khảo cổ học. Sự định tuổi về sự phát xuất các họ ngôn ngữ qua ngôn ngữ học như Blust đã làm là không chính xác và di chỉ khảo cổ ở Đài Loan chưa đủ để kết luận là người Austronesian từ nam Trung quốc đến Đài Loan. Soldheim cho rằng thật sự người Austronesian đi đến bờ biển Trung quốc, Đài Loan từ phương nam (Phi Luật Tân) và họ cũng đến bờ biển Việt Nam như ở Sa Huỳnh.
|
 2 người cảm ơn sóng xô bờ cát cho bài viết.
|
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
.Đài Loan và cội nguồn Bách Việt
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt
TG : Nguyễn Đức Hiệp Ph.D
Phần 2:
Thuyết “Từ Đài Loan” về nguồn gốc Austronesian ở Thái Bình Dương
Năm 1984, nhà khảo cổ học Peter Bellwood, trong chương trình nghiên cứu phối hợp với ngôn ngữ học đã cho rằng các người Polynesian ở các đảo Thái Bình Dương như Tonga, Fiji, Tahiti, Tân Tây Lan, đảo Easter... có nguồn gốc từ Đài Loan. Họ di cư từ Đài Loan chỉ cách đây hơn 3,000 năm và nhanh chóng toả ra khắp những nơi trên. Thuyết này được phổ thông hoá nôm na là thuyết “tàu tốc hành từ Đài Loan” (“express train from Taiwan”).
Ông Bellwood (13) cho rằng người Austronesian là những người trồng lúa, với kỷ thuật canh nông, từ nam Trung quốc đã qua Đài Loan và xuống các đảo phía nam. Từ đó họ đi về phương đông đến hầu như hết tất cả các đảo ở Thái bình dương. Họ đã thay thế các dân hái lượm địa phương cư ngụ trước đó ở các đảo Đông Nam Á. Bellwood cũng dựa vào nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học R. Blust để đưa ra thuyết của ông. Blust đã xếp loại tất cả các ngôn ngữ Austronesian, khoảng 1,200 loại, thành 10 nhóm chính. Các ngôn ngữ của các bộ tộc Austronesian ở Đài Loan rất khác nhau và chia ra thành chín nhóm khác nhau. Trong khi các ngôn ngữ Austronesian khác ở Đông nam Á và Thái Bình dương nằm vào chung một nhóm. Vì thế Blust cho rằng các ngôn ngữ ở Đài Loan là thuộc loại xưa nhất, và các ngôn ngữ Austronesian khác bắt nguồn từ Đài Loan.
Bằng chứng khảo cổ học là các loại gốm gọi là gốm Lapita được tìm thấy khắp các đảo ở Thái Bình dương, từ quần đảo Bismark, đảo Vanuatu, Caledonia đến Fiji, Tonga, Samoa. Những người Lapita này chính là tổ tiên của những người Polynesia nói tiếng Austronesian ở Thái Bình dương hiện nay. Bellwood cho rằng người Lapita phát xuất từ Đài Loan.
Vấn đề người Lapita từ đâu đến không đơn giản và đã có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận. Nhà nhân chủng học Terrel cho rằng thật sự tổ tiên người Lapita là từ Melanesia hơn là từ người Austronesian từ Đài Loan hay Phi Luật Tân đến. Đồ gốm Lapita cổ nhất là được tìm thấy ở quần đảo Bismark, xứ sở của người Melanesia, hơn gốm tìm được ở Phi Luật Tân, mặc dầu chúng có liên hệ đến gốm Lapita. Theo ông Terrel, văn hóa người Lapita là sự tổng hợp văn hóa của người Austronesian đến trong nhiều đợt và của người Melanesia bản sứ. Thuyết của ông Terrel còn được gọi nôm na là “thuyết bờ rối” (“entagled bank hypothesis”)
Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood, Blust và thuyết “bờ rối” của Terrel là hai mô hình nổi bật khác nhau nhất. Các nhà nghiên cứu đã chia ra hai trường phái dựa vào hai mô hình khác nhau trên.
Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood và Blust được nhiều người chấp nhận trong một thời gian lâu trong các năm 1980 và đầu thập niên 1990. Khi các nhà di truyền học nhảy vào cuộc tranh luận, lúc đầu đã có các nghiên cứu di truyền mtDNA với các kết quả đầu tiên có vẻ là thuyết Bellwood và Blust đúng. Nhưng sau này, các kết quả di truyền ở nhiểm sắc thể Y và mitochondria mtDNA cho thấy giả thuyết trên của Bellwood là không hoàn toàn đúng.
Di truyền ở nhiểm sắc thể Y cho thấy người Polynesia có rất ít sư đa dạng, chứng tỏ họ xuất thân từ một số ít người đàn ông. Mặc dầu ở mtDNA và nhiểm sắc thể Y, có các vết tích và sự liên hệ một ít qua các điểm (marker) với những người Austronesian và người ở nam Trung quốc và Đông Nam Á. Nhưng sự liên hệ di truyền nhiều nhất là với các người Melanesian ở New Guinea và Austronesian ở Wallacia gần New Guinea (11)(12). Thuyết Bellwood đúng một phần nhưng mô hình Terrel có cơ sở hơn. Vì thế ông Oppenheimer (11) đã gọi nguồn gốc và di dân của người Polynesia đến Thái Bình dương là “con tàu chậm” (“slow boat”)
Người Hoklo
“Hoklo”, từ cổ xưa gốc địa phương nay được dùng để chỉ chung giống người dân tộc và ngôn ngữ vùng Phúc Kiến thay vì dùng từ Phúc Kiến như trước đây thường sử dụng để chỉ người từ tỉnh địa phương Phúc Kiến trong một nước Trung quốc rộng lớn. Các từ thường dùng khác như Hokkien, Minnan (Mân Nam), Min (Mân), hay Đài Loan cũng đã được dùng để chỉ dân tộc này. Nay thì từ “Hoklo” bản địa có khuynh hướng được dùng nhiều (nhất là trong giới hàn lâm nghiên cứu) vì nó thống nhất cho một giống dân trong dân tộc học, không mang màu sắc chính trị, thích hợp hơn là dùng danh từ về vị trí địa lý của một tỉnh. Người Hoklo không những cư trú ở Phúc Kiến mà còn có mặt ở nhiều nơi như Hải Nam, Đài Loan và ở nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á do truyền thống đi biển của họ. Ở Đài Loan, hiện nay 70% dân số là người Hoklo.
Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ xưa ở Nam Trung Quốc. Theo nhà ngôn ngữ học Norman (5) và Mei Tsu Lin (6) thì tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát từ các bộ tộc Bách Việt, phi Hán, sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ dưới, và pha trộn với tiếng Hán ở tầng trên. Thành phần Austronesian và Thai (Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều hiện diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có các ngôn ngữ Mon-Khmer. Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói tiếng Austroasiatics đã có mặt tại Nam Trung Quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà Tần-Hán (xem #6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam (Hoklo), ta vẫn còn tìm thấy có các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Autroasiatics qua các từ (xem #6). Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt, như :
vat [bat4] – Việt : biết, Bahnar : băt.
gnial [kian2] – Việt : con, Khmer : koun.
daam [tam5] – Việt : đẫm (ướt).
daanggi [tang5ki1] – Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, dong, Mon : dong.
doh [toh4] – Việt : đâu (ở).
và một sớ từ có nguồn gốc Austroasiatics – Austronesian (theo thuyết Austric), như :
dehh [the4] – Việt : đè, Proto-Malay : tedes.
qiul [giu2] – Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jaul, Proto-Malay : guyud.
lut [lut4] – Việt : lột, Hakka : lôụt, Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawaii Polynesian : lu.
lerng [leng7] – Việt : lõng, Proto-Malay : luan.
Ngoài ra, theo tôi, một số các từ Hoklo sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt :
bou [pơ1] – Việt : bố (cha).
voul [bơ2] – Việt : bu (vợ).
za [cha1] – Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau.
dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul là người đàn bà.
Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên nhà Trần, một triều đại rực rỡ văn hóa Việt ở Việt Nam, vào thế kỷ thế 13, đã đi từ Phúc Kiến (Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam trước đó. Họ sống về nghề đánh cá dọc theo bờ biển Nam Trung Quốc. Người Hoklo ở Đài Loan, sau bao thế kỷ chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản xứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn đến sự biến mất của một số bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn ngữ Austronesian đã được thu nhận, và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương khác với ngôn ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan nay được gọi là Đài ngữ.
Người khách trú (Hakka)
Danh từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ những người di dân xuống địa phận vùng Bắc Quảng Đông và Nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm trước ở vùng Nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực Nam tỉnh Giang Tây, giáp giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán, thuộc một loại dân tộc man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo (Miao), ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hóa quá lâu nên cộng đồng của họ đã không còn giữ được trong ký ức trước kia họ thuộc chủng phi Hán.
Vì bị coi như người ngoài đến lấn chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người Hán từ Bắc Trung Quốc xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (An introduction to the study of the Hakka : its ethnic, historical and cultural aspects). Ông chủ yếu dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ Bắc Trung Quốc đã di dân xuống phương Nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương Bắc xâm lăng.
Ngày nay, nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm. Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông, Việt (Yueh) có cùng một nguồn gốc trong lịch sử, đã hiện diện ở Nam Trung Quốc từ trước thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng Cổ Nam Trung Quốc (Old Southern Chinese) (xem #5).
Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart, trong một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ này có nguồn gốc ở phía Nam Trung Quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo-Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (xem #4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cẩm Giang. Hiện nay, ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, người She (Hẹ), thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Miên vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho rằng chính họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này bị Hán hóa dần từ thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trải qua các quá trình Hán hóa lâu dài trong lịch sử (7).
Giáo sư Fong Hok-Ka, trong sách nghiên cứu về người Hakka xuất bản tại Trung Quốc năm 1994 (Investigating in depth about the origin of Hakka), đã dùng những tài liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở các vùng của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh rất cao hiện diện rất lâu trước khi nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Từ đó (221 tr. TL.) bắt đầu có quá trình Hán hóa cho đến giai đoạn sau thời Nam-Bắc Triều (589 TL.), khi nhóm Tiền-Hakka (Proto-Hakka) bắt đầu được thành lập và phát triển.
Nói chung, các công trình nghiên cứu của các ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn ngữ Hakka. Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di dân đến đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, nhiều nhất là dưới triều đại nhà Thanh. Hiện nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng hàng thứ hai sau dân Hoklo.
Vài nét về lịch sử hiện đại của Đài Loan
Đài Loan đã có người thổ dân Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung Quốc đề cập đến Đài Loan là vào năm 230 TL., nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông đến cư ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói về các bộ tộc sống trên đảo (7). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau, chứ không phải thuần nhất.
Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía Bắc. Họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung Quốc. Trong đó không ít là cướp biển. Thỉnh thoảng có một số người bị đắm tàu trôi dạt vào đảo. Họa hoằn lắm mới có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa, vì không có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai để ý đến.
Với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và Trung Quốc, người Hòa Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan, như quần đảo Pescadores, và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây Đài Loan. Người Tây Ban Nha cũng đến phía Bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả nổi. Chiến tranh giữa Hòa Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía Tây và Nam trên đảo.
Biến cố 28/2 – Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan
Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trung Quốc của Quốc Dân Đảng gởi người và quân đội đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự các biệt gần 100 năm lịch sử trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối sống xã hội của người Đài Loan bản xứ đã khác nhiều với tập tục, suy nghĩ và nếp sống của những người tràn qua từ đất liền. Điều này bắt đầu dẫn đến những bất đồng và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của chính quyền Quốc Dân Đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân bản xứ không quen với tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị, nên rất ta thán. Họ đã biểu tình phản đối, bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài Loan. Quốc Dân Đảng đã phản ứng lại bằng cách “dạy dân địa phương một bài học”, như một số tướng và nhân vật Quốc Dân Đảng đã tuyên bố. Trong ngày 28/2/1947, quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch tấn công càn quét vào dân bản xứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20.000 người đã bị thảm sát. Thiết quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan.
Năm 1949, chính phủ Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến, đã phải chạy ra đảo Đài Loan. Thiết quân luật được áp dụng chặt chẽ hơn, viện cớ tình trạng chiến tranh với đảng Cộng sản ở lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm dứt sau này, vào năm 1987. Biến cố ngày 28/2/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và hằn sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dầu nó đã bị các chính phủ Quốc Dân Đảng che nay và cấm đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập niên 1980, nhiều trí thức bản xứ và ngay cả một số trong Quốc Dân Đảng ly khai đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân Chủ Tiến Bộ đối lập cới chính quyền.
Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội để trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp Quốc. Trong thời điểm này, Mỹ đang hòa hoãn với Trung Quốc lục địa (Cộng hòa Nhân dân Trung quốc). Liên Hiệp Quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung quốc (PRC) là đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, thay thế chính phủ Cộng hòa Trung quốc (ROC) của Quốc Dân Đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình có chủ quyền ở lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người dân Trung Hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp Quốc với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo trong cơ hội này, lúc Mỹ thương lượng với Trung Quốc, nhưng cính phủ Đài Loan đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung Quốc lục địa. Đây là một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Trung Hoa trong Liên Hiệp Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bielorussia hiện diện trong tổ chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc Dân Đảng Đài Loan là cố gắng thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung Mỹ và Thái Bình Dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế, như Y Tế Thế Giới (WHO), Phát Triển Văn Hóa (UNESCO), Thương Mại (WTO).
Từ lúc đảng Dân Chủ Tiến Bộ (DPP) đối lập được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân Chủ diễn ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980. Đến cuối thập niên 1990 thì người địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt làm nền tảng cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân Đảng đã chọn người địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân Chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho một kỷ nguyên và một thế kỷ mới.
Đài Loan và cội nguồn Bách Việt
TG : Nguyễn Đức Hiệp Ph.D
Phần 3:
Sự hình thành và phát huy văn hóa truyền thống bản địa của các dân tộc ở Đài Loan
Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông Trần Thủy Biển nhậm chức Tổng Thống. Trung Quốc vẫn còn dàn hỏa tiển hướng về Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tỉnh, tự tinh và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoán chưa hồi phục ở mức bình thường như trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt, trừ các trung tâm của các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan vẫn vắng khách như xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian.
Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng 15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản xứ thổ dân, 13% là người từ các vùng ở lục địa mới đến sau này. Mặc dầu không phải là đa số, nhưng những người mới đến từ lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay họ , trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết ới Quốc Dân Đảng. Ngay Quốc Dân Đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến năm 1988, đảng Dân Chủ Tiến Bộ đối lập được thành lập. Đảng Dân Chủ Tiến Bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh giành lại quyền chính trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung Quốc để lấy lại Hoa Lục của chính thể Đài Loan từ khi Quốc Dân Đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan. Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc Dân Đảng tạo ra, dần dần tiếng nói của dân bản xứ đã được thể hiện. Trong những năm cuối thập niên 1980s và đầu 1990s, sự đối lập của đảng Dân Chủ Tiến Bộ và Quốc Dân Đảng chủ yếu là về khuynh hướng và chính sách, không những gay gắt trên chính trường (nhiều khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân chúng tùy theo dân thuộc thành phần nào, bản xứ hay không bản xứ.
Năm 1996, ông Trần Thủy Biển được bầu làm Thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm Thị trưởng, ông đã đổi tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành “Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hóa vào xã hội Đài Loan. Mặc dầu không phải là người gốc thổ dân, nhưng ông Trần Thủy Biển đã tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hóa thổ dân khắp Đài Bắc. Quan trọng hơn, ông đã lập ra một viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố để tưởng niệm biến cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên thành “Công viên Hòa bình 282”. Tôi có ghé thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc vào năm 2000. Thật là cảm động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn, sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng Giới Thạch bắn giết hơn 20.000 người... ... Viện bảo tàng mang một biểu tượng với dòng chữ lớn “confused identity leads to tragedy – Taiwan has to know its past tragic event in 28/2/1847” (bản sắc bị map mờ dẫn đến thảm kịch – Đài Loan phải biết biến cố thê thảm đã xảy ra vào ngày 28/2/1947). Dĩ nhiên viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc Dân Đảng lúc bấy giờ chống đối và lên án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan gốc bản xứ (Hakka và Hoklo) đã bắt đầu ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ của họ đối với văn hóa quan thoại của Quốc Dân Đảng và của Trung Quốc lục địa.
Ngay cả trong Quốc Dân Đảng, nhiều người (nhất là cá đảng viên gốc người bản xứ) đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay đổi chính sách để thể hiện nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng được trong tình hình mới. Nó phải thích hợp với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị Tổng thống Quốc Dân Đảng cuối cùng trước khi Trần Thủy Biển lên thay, là người bản xứ, đã có những chính sách cởi mở. Chính ông cũng có những hoài bão độc lập như đảng Dân Chủ Tiến Bộ. Điều này đã làm cho chính quyền Trung Quốc rất tức giận và hằn học, gây nhiều khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và là một công dâ bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây là Nhật, với tư cách cá nhân riêng tư, chính quyền Trung Quốc cũng đã gây sức đến các nước sở tại để không cho ông thị thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai nhạt theo thời gian ?
Để có thể phân biệt và tạo ra được sự khác nhau về xã hội, văn hóa giữa Đài Loan và Trung Quốc, Đài Loan từ Lý Đăng Huy đến Trần Thủy Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn hóa của những dân tộc thổ dân trong văn hóa Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng của nền văn hóa thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp chung với các văn hóa Hakka và Phúc Kiến để tạo nên một nền văn hóa khác biệt với văn hóa Hán Trung Hoa. Điều này đã được chấp nhận là yếu tố quan trọng bậc nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một căn cước (identity) mới cho Đài Loan. Thêm nữa, mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai trị, nhưng ảnh hưởng văn hóa Nhật đã thể hiện một phần trong văn hóa và con người Đài Loan. Đài Loan và Nhật Bản hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng.
Đặc tính riêng biệt là điều kiện tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập quốc gia của một quần thể có văn hóa riêng. Quá trình văn hóa, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong việc tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang máng tựa như quá trình mà người Việt đã trải qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ văn hóa bản xứ có thể bị Hán hóa và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông thôn được giữ vững.
|
 2 người cảm ơn sóng xô bờ cát cho bài viết.
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
Toàn bộ đất trời phía Nam sông Dương Tử là của người Bách Việt
Hà Văn Thùy
Phương pháp luận mới nghiên cứu tiền sử dân tộc Việt
Cho đến cuối thế kỷ trước, để tìm hiểu tiền sử dân tộc Việt, các nhà nghiên cứu căn cứ vào hai nguồn tư liệu là thư tịch cổ Trung Hoa cùng những phát hiện khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ và xã hội học. Từ những nghiên cứu đó, bức tranh tiền sử của người Việt được trình bày như sau:
- Người tiền sử gồm nhiều chủng tộc, trong đó có người Việt, từ Trung Đông tới cao nguyên Tây Tạng. Từ phía nam cao nguyên Tây Tạng, người Việt theo ngọn sông Dương Tử đi xuống phía đông nam chiếm lĩnh đồng bằng Hoa Nam rồi ngược theo bờ biển lên khai phá vùng duyên hải. Một bộ phận từ ngọn nguồn Dương Tử lên phía bắc khai thác vùng nam sông Hoàng Hà.
- Người Hán cũng từ nam cao nguyên Tây Tạng di chuyển về phía đông nhưng do phương thức sống du mục nên dừng lại ở vùng đồng cỏ Thiểm Tây, Cam Túc.
- Người Hán vượt Hoàng Hà chiếm đất, xua đuổi người Việt xuống phía nam sông Dương Tử.
- Do người Hán lấn chiếm tiếp, người Việt đã từ nam sông Dương Tử tràn xuống Việt Nam, tiêu diệt và đồng hóa người bản địa lập nên nước Văn Lang.
Sơ đồ như trên trở thành quan điểm chính thức của các nhà sử học khu vực và cũng được ghi trong những cuốn sách sử của nhiều trường đại học danh tiếng thế giới.
Tuy nhiên, quan niệm trên vấp phải những thách thức to lớn khi người ta phát hiện rằng, nhiều di chỉ khảo cổ ở Đông Nam Á có tuổi sớm hơn vùng Tây Bắc Trung Hoa cùng những chứng cứ cho thấy, nền văn hóa Đông Nam Á phát triển sớm hơn vùng Hoa lục.
Cho đến cuối thế kỷ XX, nhờ những công trình của Y Chu, Bing Su và đồng nghiệp dùng công nghệ genes khảo sát sự đa dạng di truyền của người Hán [1] , bức tranh tiền sử người Việt và Đông Á nói chung được vẽ lại. Đường nét chính của bức tranh như sau:
- Người Homo Sapiens từ Trung Đông băng qua Ấn Độ và Pakistan rồi theo bờ biển phía nam châu Á tới miền Trung và Bắc Việt Nam khoảng 60-70.000 năm trước.
- Dừng lại đây khoảng 10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hòa huyết tạo thành những chủng Indonesien, Melanesien cùng những chủng lai giữa chúng đồng thời lan tỏa ra sống khắp lục địa Đông Nam Á.
- Khoảng 50.000 năm trước, người từ Đông Nam Á đi tới Úc; 40.000 năm trước đặt chân tới New Guinea.
- Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Nam Á lên khai phá lục địa Trung Hoa và từ đây lên tới Siberia rồi vượt qua eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.
- Cũng từ Đông Nam Á, một nhóm Mongoloid sống biệt lập, đã độc hành lên phía Tây Bắc Trung Hoa, tạo nên chủng Mongoloid phương Bắc.
- Tại Hòa Bình, người Đông Nam Á chế tác đồ đá và sáng tạo trung tâm nông nghiệp phát triển sớm nhất trên thế giới.
- Khoảng đầu thiên niên kỷ thứ III TCN, người Hán vượt Hoàng Hà lấn chiếm đất của người Bách Việt. Do sự tiếp xúc giữa người Hán Mongoloid phương Bắc với người Bách Việt, một chủng mới xuất hiện: chủng Mongoloid phương Nam, thuộc nhóm loại hình Đông Nam Á.
- Cũng thời gian trên, do thua trận, một nhóm người Việt từ châu thổ Hoàng Hà đi thuyền vượt biển trở lại Việt Nam, cùng với người Việt tại chỗ lập ra nhà nước Văn Lang.
- Vào giữa thiên niên kỷ II TCN, do người Hán đánh đuổi gấp, một bộ phận lớn người Bách Việt chủng Mongoloid phương Nam từ phía nam sông Dương Tử trở lại lục địa cũng như hải đảo Đông Nam Á. Những người trở về mái nhà xưa này đã làm chuyển hóa đại bộ phận cư dân Đông Nam Á cổ sang loại hình Đông Nam Á hiện đại. Cũng thời gian này, người Bách Việt từ Hoa lục tràn ra ngoài biển, tới Nhật Bản và Triều Tiên.
Với bức tranh được vẽ như trên, ta thấy tiền sử của người Việt đã diễn ra trái ngược với quan niệm từ trước. Không phải là người tiền sử Đông Nam Á từ Tây Bắc nước Tàu đi xuống mà ngược lại, chính người tiền sử đã từ Đông Nam Á, từ Việt Nam đi lên khai phá đất nước Trung Hoa. Hành trình cùa người Bách Việt Đông Nam Á gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu đi lên phương bắc còn giai đoạn sau từ Trung Hoa trở về. Khi phát hiện lịch trình trên của người Đông Nam Á tiền sử, khoa học có thể lý giải thỏa đáng những câu hỏi trước đây về nhân chủng cũng như lịch sử văn hóa vùng Đông Á.
Vấn đề cần đặt ra ở đây là vì sao suốt thế kỷ XX khoa học đã lạc đường khi nghiên cứu tiền sử Đông Á?
Có thể lý giải điều này như sau: Khiếp nhược trước một đất nước có số dân đông đúc cùng nền văn hóa lớn, các nhà khoa học phương Tây nhiễm quan niệm dĩ Hoa vi trung mặc nhiên coi Trung Quốc là trung tâm phát sinh của Đông Á. Từ mặc cảm định trước này, ngay từ năm 1904, E. Aymonier đưa ra thuyết người tiền sử thiên cư từ cao nguyên Tây Tạng xuống. Tiếp đó, các tác giả khác, khi giải mã những hiện vật khảo cổ và nhân chủng học, ngôn ngữ, xã hội học cùng thư tịch cổ Trung Hoa… đều nương theo thuyết Trung Quốc là trung tâm. Tất cả những việc làm mang tính duy ý chí đó đã vẽ nên bức tranh sai lầm về tiền sử Á Đông.
Từ những sai lầm của quá khứ, thiết tưởng việc nghiên cứu tiền sử Đông Á nói chung cũng như người Việt nói riêng hiện nay cần có một phương pháp luận mới. Theo thiển ý, những cơ sở của phương pháp luận đó là:
- Lần theo hành trình của người tiền sử từ Đông Nam Á lan tỏa ra khắp Hoa lục sau đó một bộ phận lại trở về Đông Nam Á. Bằng công nghệ genes cùng những vật chứng khảo cổ, nhân chủng học, ngôn ngữ, xã hội học… xác định thời gian, không gian xuất hiện và chuyển dịch của người Việt trên đất Trung Hoa.
- Giải mã lại những vật chứng khảo cổ, nhân chủng học, những tư liệu ngôn ngữ học, xã hội học đã phát hiện được theo hành trình của người Đông Nam Á. Từ đây xác định những dấu ấn văn hóa mà người Đông Nam Á để lại trên đất Trung Hoa.
- Trước đây, do chưa xác định được thời gian cũng như con đường thiên di của người tiền sử Đông Nam Á, với người Việt, thư tịch cổ Trung Hoa là nguồn cứ liệu duy nhất để chúng ta nhìn vào tiền sử của mình. Nay ta biết rằng, do Khổng tử đã bỏ đi toàn bộ Tam Phần và một phần Ngũ Điển trong kinh Thư nên về thời gian, thư tịch Trung Hoa không thể đáp ứng thông tin trước thời Đường Ngu, tức khoảng trước 2600 năm TCN. Về không gian, lúc đó nước Trung Hoa còn nhỏ bé quanh lưu vực Hoàng Hà nên sự hiểu biết của sử gia Trung Hoa bị hạn chế. Sau này sử gia Trung Hoa, kể từ Tư Mã Thiên, phần nhiều mang con mắt đại Hán tộc nên viết không chính xác lịch sử những nước xung quanh được gọi là man, di… Vì vậy, trên thực tế, nguồn thư tịch Trung Hoa vừa khiếm khuyết vừa không đáng tin cậy, không thể là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta lấy làm căn cứ để viết lịch sử của mình.
- Ngày nay, nhờ có người Việt “thiên di” tới nhiều nơi trên thế giới nên đã thu thập được khá nhiều tư liệu của các nước phương Tây viết về đất nước chúng ta. Một số trong đó đã được đưa lên mạng giúp cho chúng ta có cái nhìn về mình mới mẻ hơn và thoát được sự “cầm tù” của thư tịch Tàu.
- Hai ngàn năm nay, do không hiểu nguồn gốc sinh học của mình và do mối quan hệ lịch sử đặc biệt với láng giềng phương bắc, ông bà chúng ta coi Trung Quốc là nước đồng văn đồng chủng, còn các nước Đông Nam Á là di, rợ. Nhờ thành quả mới của khoa học di truyền, ta biết rằng, các dân tộc Đông Nam Á cùng cội nguồn với chúng ta. Điều này đưa tới phát hiện quan trọng: chính các sắc dân Đông Nam Á là người lưu giữ sâu đậm văn hóa cội nguồn của tổ tiên chúng ta. Vì vậy, trong hành trình tìm lại văn hóa gốc của người Việt, việc nghiên cứu văn hóa các sắc dân Đông Nam Á có ý nghĩa rất lớn.
Tìm hiểu, nghiên cứu làm sáng tỏ giai đoạn tiền sử của dân tộc là chuyện dài dài, là cuộc chạy tiếp sức của nhiều thế hệ. Chúng tôi cho rằng, sau khi đã tìm được nguồn cội về mặt sinh học, công việc trung tâm lúc này là tìm lại cội nguồn văn hóa của người Việt. Áp dụng phương pháp luận trên, chúng ta sẽ tìm ra những dấu tích văn hóa mà tổ tiên ta đã để lại trên đất Trung Hoa, đặc biệt là hai trung tâm Thái Sơn và Lĩnh Nam, từ hạt lúa, ngọn rau, rìu đá, rìu đồng đến tiếng nói, chữ viết, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch… Tìm lại văn hóa cội nguồn không chỉ đem lại cho chúng ta sự hiểu biết về tổ tiên, mà quan thiết hơn là học từ đó những điều khôn ngoan để phục hưng văn hóa Việt.
Sài Gòn, ngày Trùng Cửu năm Ất Dậu
|
 2 người cảm ơn sóng xô bờ cát cho bài viết.
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
Tại sao giỗ tổ Hùng vương là ngày 10 tháng 3 .
Lịch phương đông còn gọi là lịch CAN-CHI là lịch dùng 2 hệ Can và Chi để định danh các đơn vị thời lượng như ngày giờ, tháng năm.v.v.
Thập Can là : Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Qúy
Thập nhị địa chi là : Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
Với đơn vị năm thì Thứ tự 1 Can phối với 1 Chi tạo thành tên gọi , 60 năm là 1 kỷ rồi quay lại từ đầu .
Nguồn gốc của 12 địa chi chính là 12 tuần trăng tức 12 tháng trong 1 năm nên Hoa ngữ gọi tháng là Nguyệt .( mặt trăng ) , Địa chi sau được xử dụng như hệ số đếm cơ số 12 , ứng dụng tạo ra phần Chi trong tên gọi của năm .
Nguồn gốc của thập can không có gì chắc chắn chỉ ức đoán có thể xuất phát từ bàn tay 5 ngón của con người , đây là hệ số đếm cơ số 5 tương tự hệ số đếm của người Khơme hiện nay , 1-2-3-4-5 đến số 6 là 5+1 , 7 là 5+2.....cho đến 10 là 5+5 . điều này thật thú vị khi trở thành nguyên tắc tạo ra số sinh , số thành của Hà Đồ ( Thư ):
Vòng Sinh 1-2-3-4 cộng với số 5 ở Trung tâm tạo ra vòng số Thà
nh 5+1=6 , 5+2=7 ,5+3=8 , 5+4=9 sau cùng là 5+5 ra 10 ở Trung tâm coi như số kết thúc của 1 vòng tuần hoàn và cũng chính là số bắt đầu của vòng kế tiếp ...vì thế Hoa ngữ gọi 10 là Thập hay Sập , tiếng Việt là Chập tức gấp đôi lên ...
- 2 vòng số sinh và số thành thống nhất tạo ra hệ số đếm cơ số 10 thông dụng hiện nay .
-Thứ tự của Thập can hiện đang dùng :
Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Qúy ( Khang ) .
là tên chữ Nho , đọc theo phát âm Hán Việt .
tên gốc hay tên Nôm của chúng là :
Chắc óp bấn đinh mẹ cả cóng tâng nhũn căng
Điều này cũng tương tự như tên Chữ và tên Nôm của các làng quê Việt .
Thứ tự 10 can như trên là thứ tự đã biến đổi ( chưa rõ nguyên do ) so với nguyên thủy , vì nó không hợp lý khi đối chiếu với các nguyên lý của Dịch học .
Căn cứ để sắp xếp thập can trong dịch học là các định luật của dịch học :
- Nhất viết thủy, nhị viết hỏa,tam viết mộc (mềm) , tứ viết kim (cứng).
- Hỏa viêm thượng nghĩa là Lửa thì bốc lên trên.
- Thủy nhuận hạ : nước thì thấm xuống dưới .
- Cương nhu tương ma sinh Động tịnh nghĩa là cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh .
Lập thành đồ hình .
Đối chiếu với Hà đồ ( thư )
Dựa vào sự tương ứng vị trí và ý nghĩa của tên gọi các CAN trong tiếng Việt ta xác định :
khi vận dụng sự liên kết đối chiếu này ̣để giải mã đồ hình HÀ THƯ,
ta có thứ tự 10 can đúng là:
- 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
- Giáp Ất nhâm khang mậu canh tân bính đinh kỷ- kỵ .
- Âm Việt ngữ là:
- Chắc óp nhũn căng mẹ canh tưng bấn đinh cả
***
Trung hoa xưa có 3 loại lịch , lịch nhà Hạ , Lịch nhà Thương và Lịch nhà Chu , âm lịch đang dùng ngày nay là lịch nhà Hạ , nhà Hạ kiến Dần tức lấy tháng Dần là tháng Đầu năm tức tháng Giêng :
Tên các tháng âm lịch :
Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
Giêng 2 3 Tư 5 6 7 8 9 10 11 Chạp
***
Bách Việt là tên gọi của 1 siêu tộc người có địa bàn cư trú khắp Đông nam Á , miền Hoa nam và bang ASSAM của Ấn độ .
Tại đền thờ quốc tổ Hùng vương ở Phú thọ có câu đối :
Vế phải: “Thiên thư định phận, chính thống triệu Minh đô, Bách Việt sơn hà tri hữu tổ”.
Vế trái: “Quang nhạc hiệp linh cố cung thành tụy miếu, tam giang khâm đái thượng triều tôn”.
Dịch nghĩa: “Sách trời đã định chính thống dựng kinh đô non sông Bách Việt đã có tổ. Núi sáng linh thiêng cố cung lập thành miếu, ba sông một dải hướng về nguồn”.
(Dịch và hiệu đính: Nguyễn Hữu Mùi, Đỗ Thị Hảo - Viện nghiên cứu hán nôm).
- Câu đối trên đã xác định :Vua Hùng hay Hùng vương là tổ của cả dòng giống Bách Việt , Người Việt nam ngày nay là hậu duệ của chi tộc LẠC VIỆT , là chi duy nhất bảo lưu quốc thống của tổ tiên dòng giống HÙNG. .
Theo truyền thuyết thì có 18 đời vua HÙNG , ta lưu ý chữ ‘đời vua ’ , 1 đời vua là 1 triều đại hay nôm na là 1 nhà ...như nhà Lê, nhà Nguyễn , nhà Hạ , nhà Thương .v.v., mỗi triều đại lại có nhiều vua , ít nhất là 1 nhiều thì có thể tới vài chục ..., truyền thuyết ghi 18 đời Hùng vương có tổng cộng 180 vua .
Nhưng tại sao chọn ngày ‘giỗ vua tổ’ là ngày trọng đại coi như ngày khai sinh đất nước mà không chọn ngày sinh hay ngày lên ngôi của ngài ?
Nghiên cứu cổ sử Trung Hoa mà Sử thuyết họ Hùng cho là Bách Việt sử...ta thấy : vua Hạ vũ được tôn là tổ của nhà Hạ nhưng ông Khải mới chính là vua đầu tiên của nhà Hạ , ông Cơ xương vẫn được coi là tổ nhà Chu ...nhưng thực ra con ông là Cơ Phát mới là vua đầu của nhà Chu ,
Như thế Suy ra ngày giỗ của vua tổ chính là ngày lên ngôi của vua đầu khai sáng triều đại ,
Tương tự ...quốc gia của người họ Hùng cũng thế , trước khi trở thành 1 vương quốc bao giờ cũng có thời lập quốc , ngày kết thúc thời lập quốc cũng chính là ngày bắt đầu của thời vương quốc , cả thời gian lập quốc được người Việt ‘siêu nhiên hoá’ thành thời trị vì của vua tổ , ngày vua tổ mất chính là ngày lên ngôi của vua đầu tiên tức mốc thời gian bắt đầu có quốc gia dân tộc hay là ngày khởi đầu của lịch sử quốc gia .
Đã thông ý nghĩa ngày giỗ tổ rồi ....tiếp tới câu hỏi : có thật ngày 10 tháng 3 là ngày mất của quốc tổ Hùng vương như lưu truyền xưa nay ?
- Ở trên đã nói quốc tổ là sự ‘siêu nhiên hóa’ cả thời kỳ tổ tiên lập quốc chứ không phải 1 nhân vật lịch sử , 1 con người sống để có ngày sinh ngày mất thực ...
- Vậy ngày giỗ tổ 10 tháng 3 âm lịch ở đâu ra ? điều này quan trọng lắm đấy vì kể từ năm Canh dần 2010 chính thức trở thành ngày quốc lễ , ngày trọng đại của mọi người Việt , từ đương kim nguyên thủ quốc gia tới người đang lưu vong xa xứ ..., từ người cầm búa tới người cầm bút , từ nông thôn tới thành thị , từ người mặc áo vàng tới người áo đỏ ...không sót một ai .
- Có thể nói ngày 10 tháng 3 hàng năm là ngày duy nhất có được của toàn thể người Việt mà sự hân hoan tự nhiên phát ra từ đáy lòng , là ngày giờ linh thiêng khiến giữa tất cả người Việt với nhau thực sự không có sự ngăn cách nào dù mong manh nhất .
- Xin thưa những ngày tháng này đều rút từ ruột của Dịch học .
- Số 3 trong tháng 3 giỗ tổ là số của Địa chi
- Số 10 trong ngày 10 là số của Thiên can .
Ở phần trên đã chỉ ra tháng 3 âm lịch là tháng Thìn theo lịch nhà Hạ , Thìn là con rồng , Hoa ngữ đọc là LUNG , âm Hán Việt là LONG , Lung và Long là đồng âm của LANG , chính vì điều này con Rồng được dùng tượng trưng cho Vua .
- Năm là số trung cung của Hà-Lạc nơi điều hoà ngũ hành nên được dùng chỉ thủ lãnh , vua , người cầm đầu ,
Trong tiếng Việt : năm hay lăm → lang
Ngôn ngữ Thái và Mường hiện nay từ lang cũng có nghĩa là Thủ lãnh , người cầm đầu .
- Tóm lại : ý nghĩa của số 3 –Thìn chính là Lang là vua .
- Số 10 là can KỶ ; đi hết 1 vòng trở về khởi đầu là Kỷ , nên ngày KỶ cũng là Kỵ, ngày KỴ tức ngày Giỗ .
- số 10 và số 3 căn cứ trên 2 hệ Can - Chi theo Dịch học họ HÙNG giải mã ra là : KỴ LONG ý tứ rất rõ ràng nghĩa là ngày GIỖ VUA .
Vua ở đây là vua tổ như đã trình bày ở trên , ngày giỗ của vua tổ cũng chính là ngày lên ngôi của vua đầu tiên , ngày khởi đầu của vương triều thứ nhất , ngày bắt đầu của Lịch sử quốc gia , từ cổ xưa đến nay Việt nam có lẽ là nơi duy nhất trên qủa đất này ngày giỗ quốc tổ lại chính là ngày hân hoan vui mừng của toàn dân tộc .
Từ ngày tháng này trở đi sau không biết là bao năm ...mạch sống từ cội nguồn lại tuôn về ; cứ ngày 10 tháng 3 âm lịch là tiếng trống đồng lại vang vọng khắp non sông , nơi nơi chốn chốn đàn con Việt hợp lòng cùng nhau hướng về đền HÙNG cầu xin tiên tổ phù trợ khiến quốc thái dân an , người người hạnh phúc , nguồn mạch tâm linh ấy một khi đã tuôn chảy rồi sẽ không bao giờ dứt .
|
 1 người cảm ơn sóng xô bờ cát cho bài viết.
|
cohien trên 05-10-2011(UTC) ngày
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
1.Ý Nghĩa Mặt Trống Đồng Ngọc Lũ
|

Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
(Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu – 2006)
. Ở loạt bài này, Doremon hy vọng các bạn có thể tự hào mà tin tưởng rằng Lịch 18 chim Lạc của Việt Nam là hệ thống lịch rất cổ xưa của TG.
Lời nói đầu :
Theo sự phân loại của Hê-gơ, và bản tổng kê của các nhà khảo cổ tại miền Bắc, trong sách Thời Đại Đồng Thau, những trống đồng loại 1 phát hiện ở Việt Nam khoảng trên 70 chiếc. Số lượng tìm thấy đã hơn bất cứ một miền nào khác
. Mặc dầu tướng Mã Viện đời Đông Hán khi qua đánh Giao Chỉ, đã tịch thu không biết bao nhiêu trống nữa, để đúc con ngựa kiểu mà chơi, và đúc cái cột đồng khắc chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt“.
Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá là nới sản xuất và những trống cùng loại thấy ở các nơi khác ( Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An) là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những trống có thể đoán được là của các tù trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc. Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng.

The Dong Son bronze drums
Trong những di vật quý giá này , trống thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ ( tỉnh Hà Nam ) hiện để tại viện bảo tàng lịch sử ở Hà Nội.
Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ tiến hoá mỹ thuật của dân tộc.
Chúng tôi nghiên cứu lịch sử, không bị ước thức bởi những mô thức, nên tự thấy được rộng tay đóng góp một phần tìm tòi thuộc về nội dung những hình vẽ. Tất nhiên không thiếu gì nhà khoa học mới mỉm cười cho là tưởng tượng, nhưng tìm hiểu ý nghĩa của một hình vẽ củ không có lời chú giải của tác giả bên cạnh, mà chẳng dùng tưởng tượng thì dùng cái gì ? Người ta đã tưởng tượng đây là bộ lạc thờ thần mặt trời, mặt trăng, hay thờ chim vật tổ. Nhưng có tinh thần khoa học nào cấm người khác không được có tưởng tượng khác, nhất là khi tưởng tượng này có thể hữu lý, dễ đúng hơn ? Huống chi chúng tôi có ở đây khá đủ những căn cứ của nền cổ học phương Đông mà dường như nhiều nhà khoa học mới vì lẽ nào đó không để ý tới khiến sự nhìn vào di sản văn hoá cũ ở Đông phương, mà thuần bắng con mắt Tây phương, thì có thể sẽ quên những khía cạnh quan trọng ở nột dung chăng ?
Chính vì ngại chuyện ấy mà chúng tôi có bản viết này, riêng đề cập tới hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho tàng khác có thể có trên những mặt trống khác. Chúng tôi không nói tới hình vẽ ở tang trống vì nó có giá trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn.
Trống đồng Ngọc Lũ
Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu nó định nói cái gì ?

Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, …
Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng.
Trống vốn không biết nói, cũng không biết thế nào mà dám cãi. Thôi thà tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác nhau. Ra sao nó cũng phải chịu.
Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng.
Việc cần là tìm cái ý tiên khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ đó để làm gì ?
Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng sao lại 14 tia sáng mà không hơn, không kém ?
Sao lại chỉ có 18 con chim ?
Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ?
Nếu làm cho đẹp sao không làm đều nhau ?
Có lẽ chăng đây là cái trống của người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ khác mà tiếng trống đánh lên thì 14 nơi kia đều phải nghe ?
Hoặc đây là một đám rước và người ta hoá trang chăng ? Nhưng đâu là đầu, đâu là cuối đám rước ? Và sao lại có người giã gạo ? Người ngồi nhà sàn ?
……
Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng
Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao ?
Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không ?
Liệu có trăng không ? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng ?
Ngày mai nước có lên không ? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không ?
Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái ?
Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa ?
……
Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng.
Một quyển lịch cổ xưa
Vì các lý lẽ trên, vị tù trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng, theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình, để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả lời.
Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng tù trưởng.
Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm.
Nếu vậy thì không những không có gì là mê tính ( thờ chim, vật tổ mặt trời, mặt trăng, ca vũ để cầu thần linh,…) mà có vẻ như người xưa còn có tinh thần thực tế, hợp lý, khoa học, chính xác, chưa biết chừng người đời nay còn phải giật mình là đằng khác nữa.
Phần 2:
Cách đếm ngày và đêm
Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ.
Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày.
Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận.
Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy.
Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm.
Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai quản mỗi vị 1 tháng
, trong 6 tháng đầu ở 1 bên và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên, đó là để ghi tháng nhuận của năm dư.
Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6 con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng sáng
. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1 đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy không đi săn thú được. Và sau đó, khi có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm.
Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính :
Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ - Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.
Tuần trăng sáng kia dài đến đúng đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm ( trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng ).
Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 ) nên không cần tính nữa.
Cái hoa 14 cánh
ở trung tâm không phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm và ngày.
Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2 ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu là tháng đủ.
Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ 1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm không trăng (đêm 30).
( Xem hình bên trái đầu bài viết )
Bắt đầu đếm từ đâu ?
Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không trăng.
Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm không trăng.
Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con gà cuối cùng trong dòng 6 con.
( Xem hình : Doremon tô vàng con gà và vị thần “tí hon”, đó là điểm đầu năm nhân sự, ngày đầu năm bạn có thể xác định bằng cách kẻ một đường thẳng từ tâm bông hoa thời gian tới điểm giữa của 2 cánh hoa ( giữa 2 đêm liền nhau là 1 ngày ) và hướng về phía con gà này, đường thẳng đó sẽ tự nhiên cắt đuôi con gà, đuôi con chim ở vòng ngoài cùng và đi qua phần cuối của một lễ hội ở sau lưng vị thần tí hon).

Thực hành việc ghi lịch và xem lịch :
Người ta có thể dùng một chất màu (son phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có gì cả thì đó là đêm mồng 4 tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho tháng và vòng ngoài cũng đã có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ.
Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ mình đã cai trị được bao nhiêu năm.
Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào tháng 6.
( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch, và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé một tờ ).
Quyển Âm Lịch dùng cho nhiều năm :
Như vậy, ta thấy quyển lịch này dùng được cho nhiều năm và chúng tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ vẫn dùng được, để có thể mệnh danh là Nguyệt Lịch Vạn Niên.
Làm sao biết chính xác năm nào nhuận vào tháng nào ?
Điều ấy chưa có tài liệu nào khác để hiểu thêm. Có lẽ người xưa đã dùng lối chiêm nghiệm về khí tiết trong nhiều năm, nhiều chu kỳ, thấy có diễn biến trở lại như cũ mà bồi bổ dần cho sự hiểu biết chăng ?
Biết đúng tháng nào đủ, thiếu , hoặc hai ba tháng đủ liền, hai ba tháng thiếu liền, và nhất định vào đâu trong năm, tất cũng do chiêm nghiệm.
Hoặc còn một dụng cụ để ghi nhớ nào khác, trên một mặt trống khác, hay một vật nào khác mà ngày nay chưa tìm ra ?
Điều ta có thể biết chắc được là người xưa đã quan sát tinh tế rồi chiêm nghiệm trước, sau mới tính toán, để lại chiêm nghiệm nữa, mà kiểm điểm những tính toán kia.
Sách Xuân Thu Tả Truyện có chép rằng : mùa đông tháng 12 (Năm Ai Công thứ XII) có châu chấu phá hoại. Quý Tôn hỏi Khổng Tử, ông đáp : “Tôi nghe rằng: chiều mà không thấy sao hoả nữa thì côn trùng ẩn phục hết. Nay sao hoả vẫn còn thấy chuyển vận về phía Tây, chắc các nhà làm lịch đã lầm”. Ý nói theo lịch Trung Hoa là tháng chạp. Đáng lý ra thì sao hoả không còn thấy được vào buổi chiều. Sâu bọ phải ẩn phục hết rồi vì lạnh. Thế mà nay sao hoả vẫn còn thấy hiện, côn trùng còn phá phách, như vậy các nhà làm lịch Trung Hoa thời ấy đã lầm, đáng lẽ phải có tháng nhuận nữa mới phải.
Đó chính là thể thức và phương pháp làm lịch chung cho cả mọi giống dân trên thế giới, mà quyển lịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ đã có sẵn những gì để phòng hờ chỗ ghi năm dư tháng nhuận, thì trước khi nó hiện ra là một bảng lập thành, dòng dõi các tù trưởng Giao Chỉ không phải chỉ chừng năm ba thế hệ
. Chúng ta có thể đoán không sợ sai lầm là ít nhất cũng phải mươi cái chu kỳ 180 năm (tức ít nhất là 1800 năm cho đến khi cái trống Ngọc Lũ đầu tiên được đúc), còn hơn nữa thì không dám biết.
Những kết quả chiêm tinh lịch số riêng :
Vâng, riêng của dòng tù trưởng Giao Chỉ. Đây là những bằng chứng hùng hồn nhất cho biết đích xác hồi đầu lịch sử, giống dân Giao Chỉ ở gốc tổ sống mà chẳng dính dáng gì về văn hoá với giống người Trung Hoa.
Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”. Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc (2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13 năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu phân) và nhị chí (đông chí, hạ chí) và đoán được các ngày đầu mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận.
Riêng dòng tù trưởng Giao Chỉ, một mình hùng cứ một cõi trời nam, thì tính năm 354 ngày với 6 tháng đủ, 6 tháng tháng thiếu trong một năm, cho đúng với tuần trăng và khí tiết, mà đến ngày nay, âm lịch từ Trung Hoa in đem qua bán, cũng tính theo như thế. Nếu cần tính sổ vay mượn, thì có lẽ người Trung Hoa đã thiếu nợ của ta vậy.
Lịch in vào sách và lịch khắc trên mặt trống :
“Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập tam quyển”. Thật đã rõ: người Trung Hoa in lịch trên sách và lịch 365 ngày. Người giao Chỉ khắc lịch vào mặt trống đồng và lịch 354 ngày. Người Trung Hoa dùng Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ tính chu kỳ 18 năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần lục thập hoa giáp (180=3x60) . Kết quả vẫn như nhau vậy .
Riêng việc có một sáng kiến sắp xếp ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng vạn năm thì đã thật là một sáng chế không kém cõi về khoa học, hợp lý, nhất là khi chúng ta được biết chưa thấy dẫn nước nào có một quyển lịch như vậy (Âm lịch hay Dương lịch ).
3.Ý Nghĩa Mặt Trống Đồng Ngọc Lũ
Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
( Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu – 2006 )
Phần 3: (Bài này có nhiều hình vẽ chú thích với kích cở lớn, bạn hãy xem hình chú thích cho phần này tại :
http://farm2.static.flickr.com/1091/535332066_d089cfab09_o.jpg
-----------------------------------
Đi sâu vào chi tiết :
Hướng tiến chung :
Tất cả các hình vẽ chim, gà, hươu, người, đều tiến theo một hướng trong vòng tròn, từ trái qua phải, thuận theo chiều quay của Trái Đất đối với người quan sát, day mặt về hướng Bắc ( ngược chiều quay của kim đồng hồ ).
Bởi lịch này là nguyệt lịch nên đặt tất cả theo chiều quay chung ấy.
(Hình 1a và 1b)
Phương tí ngọ :
Đặt đúng khởi điểm của lịch ở cuối con gà trong dòng 6 con như đã nói, thì phương tí ngọ (bắc nam) chếch qua tia cuối bên tay trái của 14 tia ở trung tâm. Ấy là tiết đông chí nhất dương sinh, ngày đầu năm thiên văn, các loại vật đông miên bừng tỉnh dậy và mầm của cây cối cũng bắt đầu đội vỏ đâm lên.Ta gặp trên đường thẳng vạch từ trung tâm ra vòng thứ nhất, hình vẽ của những gì như người ở trong nhà sàn vừa tỉnh dậy.
Còn kéo thẳng đường ấy ngược lên phái Nam , là thái dương cư ngọ, ấy là ngày hạ chí, trời nóng nực. Ta gặp hình vẽ của những gì như người làm việc đồng án vắng nhà.
Phương mẹo dậu :
Từ Tây sang Đông hới chếch lên, không vuông góc với Nam Bắc, ta gặp ở 2 đầu trên đường thẳng vạch tại vòng tròn thứ nhất, hai cái hình giống nhau, cùng khum tròn với 2 cột 2 bên, ở giữa một bệ như bệ thờ. Ấy là Xuân phân, Thu phân, khí trời mát mẻ, mọi người phải lo làm việc tế lễ.
Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch.
(Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau).
Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch.
Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu :
Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng.
Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ.
Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền.
(Hình 2)
Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ như sau :
(Hình 3a)
Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau :
(Hình 3b)
Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy :
(Hình 3c)
Vấn đề hướng Đông Tây, theo sử gia Hy Lạp Hérodote, ở thế kỷ V trước CN, khi tiếp xúc với các tu sĩ Ai Cập, ông được các vị này cho biết trải qua 341 thế hệ thiên vương Ai Cập ( tính ra 11 ngàn năm ) đã có 4 lần mặt trời mọc và lặn ở phương khác nhau. 2 lần nó đã mọc ở phía nó lặn bây giờ và 2 lần nó đã lặn ớ phía nó mọc bây giờ.
( Xem hình III.16-trang 68-- Thiên văn Vật lý -- Nguyễn Quang Riệu : Doremon có vẽ lại ở hình đầu bài viết này, diễn tả chu kỳ 26.000 năm của trục xoay Trái Đất từ C --> C" --> C )
Nhà học giả Nga Immanuel Velikovsky khi dẫn điều ấy trong sách “Tinh Cầu va chạm” ( Modes en collision ) còn nhắc thêm nhiều cổ tự Ai Cập khắc trên lá giấy papyrus nói về sự lộn ngược của Trái Đất hồi 2 thiên niên kỷ trước Tây lịch, không thể cho là mơ hồ được những lời như : Harakhte ( mặt trời chiều ) mọc ở phương Tây. Ông lại dẫn thêm những chữ khắc trong các kim tự tháp : “ Mặt Trời đã thôi ở phương Tây và bắt đầu chói sáng ở phương Đông”. Sau khi có hiện tượng đảo ngược phương hướng ấy, thì danh từ phương Tây và mặt trời mọc đã không còn đồng nghĩa với nhau nữa, mà người đời đã phải nói thêm để xác định : l’Quest, qui est à l’Occident (phương Tây là ở về phương Tây).
Theo luận cứ của tác giả thì đó là kết quả của hiện tượng lộn ngược trục xoay của Trái Đất. Chúng tôi chưa dám tin là đúng như vậy, bởi vì đúng như vậy thì kể từ ngày đổi phương hướng Đông Tây ấy, mà chữ khắc trong kim tự tháp ghi nhận, và đây mặt trống vẽ ra khi chưa đổi phương hướng, người ta tất phải chiếu theo để ước định rằng quan niệm và chiêm nghiệm này có tuổi thọ xưa hơn quan niệm và chiêm nghiệm ghi trong kim tự tháp.


(còn phần 4 và 5 )
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
4.Ý Nghĩa Mặt Trống Đồng Ngọc Lũ
( Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu – 2006 )
Phần 4: (Phần cuối này có nhiều hình vẽ chú thích với kích cở lớn, bạn hãy xem hình chú thích cho phần này tại :
http://farm2.static.flickr.com/1156/535332070_4d4394e565_o.jpg
-----------------------------------
Quan sát mặt trăng và thuỷ triều :
Tù trưởng cần biết đích xác thuỷ triều lên xuống để chỉ dẩn dân chúng làm ruộng hay ra khơi. Cho nên ông cần ngồi đồng hướng mới nghiên cứu được mặt trăng và con nước.
Kinh nghiệm không sai dạy từ xưa đã cho biết rằng :
· Mặt trăng đến phương Mão Dậu thì thuỷ triều dâng lên ở phía Đông, Tây. Mặt trăng đến phương Tí Ngọ thì thuỷ triều dâng lên ở phía Bắc, Nam .
· Từ mồng một đến ngày rằm, con nước thường chậm một đêm. Từ ngày rằm đến ngày mồng một, con nước thường chậm một ngày. Trước và sau ngày mồng một và ngày rằm, mặt trăng đi mau hơn, cho nên 3 ngày trước cuối tháng thì con nước thượng thế lớn hơn.
· Ba ngày sau ngày mồng một, con nước đương thế to tát. Trong ngày rằm con nước cũng như thế. Trong thời trăng lưỡi liềm, mặt trăng đi hơi chậm, cho nên con nước lên xuống hơi kém.
· Trong một tháng, con nước lên mạnh sau ngày mồng một và ngày rằm.
· Trong một năm, con nước lên mạnh vào giữa mùa xuân và mùa thu.
· Con nước ban ngày trong mùa hạ thì to ………
Đó là những chiêm nghiệm của người ở hải khẩu vùng sông Mã, người ở Phong Châu trong đất liền sợ không có chiêm nghiệm ấy.

Con chim thời gian :
Trên mặt trống ở vòng ngoài cùng, kể như vòm không gian, ta thấy vẽ những con chim mỏ dài cánh lớn đang bay. Không phải là chim vật tổ, mà đó là biểu tượng của một năm qua, do người ta quan sát thấy con chim ấy bay vút ngang trời vào mùa này năm ngoái, thì năm nay cũng mùa này, cỡ ngày này lại thấy nó bay.
Chu kù 18 con chim :
Tức là đã có chu kỳ 18 năm. Sở dĩ chỉ có 18 không hơn không kém số ấy là vì người ta dựa theo thang biểu 9 năm trước để tính ngày nguyệt sóc 9 năm sau.
(Hình 1)
Sách Vân Đài loaị ngữ của Lê Quý Đôn có chép định thứ tính lịch như sau :
Ngày mồng một của mỗi tháng vốn từ xưa đã có phép tắc.
Quy định ngày ấy của 9 năm trước đem dùng lại để quy định ngày ấy của 9 năm sau.
Gặp ngày ấy của tháng đủ ở 9 năm trước thì đếm liên tục từ can cũ của ngày ấy đến can thứ năm, từ chi cũ của ngày ấy đến chi thứ chín ( theo số lẻ, để định can chi cho ngày ấy tháng ấy của chín năm sau ).
Gặp ngày ấy của tháng thiếu ở 9 năm trước cũng đếm như thế, nhưng dùng can thứ 4, chi thứ 8 ( theo số chẵn để định can chi cho ngày ấy tháng ấy ở chín năm sau ).
Gặp năm thứ 36 = 6x6 = 18x2 của chu kỳ thì nên lưu ý suy tính cho kỹ. Phải tính xem trong vòng 36 năm ấy có bao nhiêu số lẻ thuộc về tiết Hàn lộ. Rồi ông lấy thành quả ấy để quy định ngày Lập Xuân của năm mới này.
Nếu tính toán theo căn bản đó thì không sai lầm.
Bốn mươi bảy năm về trước có nhuận vào tháng nào thì nay phải gia thêm 2 tháng để tính tháng nhuận. Giảm tăng như thế thì không sai vào đâu được.
Tất cả các phép tính trên đây có thể có bàn tay mà tính ra được.
Ví dụ :
Giả như năm Mậu Tý, tháng giêng là tháng thiếu, ngày mồng một là ngày Ất Dậu, can ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu đến chi thứ tám là Thìn. 9 năm sau là năm Bính Thân, tháng giêng ngày mồng một là ngày Mậu Thìn.
Giả như năm Mậu Tý, tháng hai là tháng đủ, ngày mồng một là ngày Giáp Dần. Can giáp đến can thứ năm là can Mậu, chi dần đến chi thứ chín là chi Tuất, 9 năm sau là năm Bính Thân, tháng 2 ngày mồng một là ngày Mậu Tuất.
Cũng trong Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn còn có bí quyết tính ngày mồng một và ngày rằm như sau :
Mồng một tháng giêng của 9 năm trước là ngày Thìn.
Ngày rằm tháng hai của 9 năm sau cũng là ngày Thìn.
Mồng một thàng hai của 9 năm trước là ngày Thìn.
Ngày rằm tháng hai của 9 năm sau cũng là ngày Thìn.
Chúng ta chưa biết rõ người Giao Chỉ khi quan niệm lịch với chu kỳ 18 năm đã gọi tên tháng như thế nào, và đã những số can chi gọi bằng những tên nào khác để tính ngày ra sao. Nhưng hẳn đã phải có thì đời sau mới noi theo bí quyết cũ mà làm những bài thơ đặt công thức cho người làm lịch. Cả những kết quả chiêm nghiệm về khí tiết, tháng nhuận., ngày Lập Xuân,… hẵn cũng đã phải có để người đời sau chỉ tuân theo thôi.
Sáu con gà và tám con gà :
Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã dẫn lời sách Hoàn Vũ ký mà cho biết rằng : ở Ái Châu về huyện Di Phong có giống gà gọi là Trào Kê, khi tới kỳ nước triều lên thì gáy để báo tin. Sách ấy cũng có nói tới một giống gà khác ở mạng thượng du là Cẩm Kê, lông có nhiều sắc xanh đỏ trắng xen lẫn như nền gấm.
Trên mặt trống, có thể chắc được là người ta vẽ hình con Trào Kê, một đặc sản địa phương có linh tính hữu ích cho cuộc sống, lại có liên hệ tới công dụng của trống về sự quan sát thuỷ triều.
(Hình 2)
Nhưng tại sao lại vẽ sáu con gà sau ngày mồng một và ngày rằm. Trong khi theo kình nghiệm chỉ 3 ngày trước và 3 ngày sau những ngày ấy thì con nước mới ở thế lớn hơn ? Và tại sao lại vẽ tám con gà bên kia vòng tròn, sau và trước 10 con hươu ?
Phải chăng để nói về 6 đêm đầu tháng và 8 đêm cuối tháng không trăng, không nên tổ chức đi săn đêm ?
Mười con hươu lại 10 con hươu :
Hươu vẽ ở đây là hươu sao, có đốm lông trên mình, và vẽ thành từng cặp : đực đi trước, cái đi sau, tất cả đều có sừng. Đó là con vật có tên là lộc, hay ở núi cao, tiết Hạ Chí rụng sừng ( khác hẳn với nai, chỉ con đực có sừng và hay ở hốc núi nên tiết Đông Chí rụng sừng).
(Hình 3)
Theo tục truyền thì hươu thuộc loài tiên thú, 60 năm ắt có ngọc quỳnh, ở gốc sừng có dấu tích lấm chấm sắc tím. Do đó cổ ngữ nói con hươu có ngọc nên sứng vằn, con cá có châu nên vảy tím. Đặc biệt hơn là hươu trắng, người xưa coi hươu trắng xuất hiện là một điềm may. Cho nên hễ bắt được nó thì người ta dâng về cho vua và sẽ được thưởng.
Theo tài liệu của sách sử và địa lý cũ, chỉ Thanh Hoá có nhiều loài này. Vùng phía Bắc từ Ninh Bình trở ra thì hiếm dần. Vùng phái Nam cũng vậy. Từ đèo Hải Vân trở vào thì không thấy nữa, chỉ có nai thôi.
Điều đáng nói ở đây là người ta vốn biết tánh con hươu hay dâm, một con cái thường giao cấu với vài con đực. Vậy mà trên mặt trống người ta vẽ cặp nào cặp ấy, không lộn xộn, con đực đi trước, con cái đi sau. Người ta muốn sắp xếp đời sống vợ chồng của chúng nó vào khuôn khổ luân lý ? Hoặc đó là dấu hiệu để nói lên cuộc sống định cư, chấm dứt thời kỳ thị tộc mẫu hệ ?
Riêng việc vì sao vẽ 10 con hươu, theo ý chúng tôi phỏng đoán có lẽ con số 10 chỉ là con số toàn vẹn, để nói rằng nhiều lắm, đầy đủ lắm, mà người đi săn đêm sẽ gặp vào đêm trăng sáng ?
Vòng sinh hoạt của người :
Vòng này quan trọng hơn, tiết rằng việc nghiên cứu của chúng tôi bị hạn chế, vì ngại rằng người vẽ có thể đã theo định kiến cũ về người lên đồng, ca múa cầu thần linh, không lưu ý đến những ý nghĩa tượng trưng của các hình vẽ, khiến có thể đã bỏ sót những chi tiết có ích chăng ?
Tiết đông chí :
Ta gặp trên đường bán kính từ trung tâm bông hoa kéo ra, hình vẽ cái nhà sàn, có hai vợ chồng con chim trên nóc mái, và trong nhà có ba người đang nằm vừa ngồi nhỏm dậy. Góc phải của nhà sàn ở mặt đất có cái gì như cái cối đặt nằm nghiêng. Góc trái có đứa nhỏ gõ vào cái gì như cái trống con, có vẻ để báo thức.

(Hình 4)
Ta hiểu rằng trải qua một mùa đông, các loài vật đông miên ngủ vùi đến ngày đông chí mới tỉnh dậy, mầm mộng của các loài hoa lá trên cành cũng đến ngày ấy mới “ngồi dậy”. Cả đến cái cối nằm ngủ mãi có lẽ cũng sắp được dựng dậy để làm việc.
Tiết hạ chí :
Đối điểm của Đông chí bên kia vòng tròn, trên cùng đường kính là tiết hạ chí.
Ta gặp những cái nhà sàn ấy. Nhưng trên nóc mái chỉ có một con chim trống. Vợ nó đâu ? Vợ nó đương ở nhà ấp trứng. Do đó mùa hè phải đóng bè làm phúc, không được phá phách các tổ chim, bắt được chim còn phải phóng sinh nó đi, để nó về nuôi vợ con nó. Thương biết là bao nhiêu, truyền thống ấy còn mãi đến thế hệ chúng ta !

(Hình 5)
Trong nhà sàn ta thấy hai đứa nhỏ đối mặt nhau, tóc buông sau gáy, ngồi co dầu gối đặt hai bàn chân lên nhau và đưa hai bàn tay lên cao để úp vào nhau cho rơi cái gì như hai viên sỏi. Đúng là hai đứa trẻ đang vui chơi, Cha mẹ chúng đâu ? Cha mẹ chúng đi làm việc ngoài đồng áng.
Tháng tư đi tậu trâu bò.
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm.
Câu ca dao này về sau mới có. Nhưng thời dụng biểu của nhà nông trong hoàn cảnh địa lý, khí hậu, và điều kiện đất nước, để làm mùa, thì đã có ngay từ hồi đầu định cư. Hình vẽ đã nói lên thực rõ.
Bên dưới nhà sàn, góc phải, có cái cối đặt ngang và bên trái có một đứa trẻ ngửa mặt, tóc xoã sau lưng, đưa tay kéo một trục tròn có vẻ xoay được một trục đứng. Hình vẽ có nghĩa xoay và nặn đồ gốm chăng ? Còn cối đặt nằm nghiêng có nghĩa là bận việc đồng áng, nghỉ giã gạo chăng ?
Hội hè, gõ trống :
Tiếp theo nhà sàn nói về Đông chí và Hạ chí, đều có cảnh gõ trống và đều có 4 cái đặt úp trên bệ của nó trong 4 cái hố. Bệ là một chân đội một mặt tròn, như hình cái nấm, để trống úp đúng vào vành mặt ấy. Mặt ấy chắc là bằng gỗ, hẵng phải khoan thủng nhiều lỗ thì khi gõ, tiếng trống mới có lối thoát ra và vang đi xa. Nếu đúng như dự đoán thì tuỳ theo mặt tròn có nhiều hay ít lỗ, và lỗ lớn hay nhỏ của 4 cái khác nhau, mà âm thanh của cả 4 cái khi cùng gõ lên đã có thể trở thành một bản hòa tấu.

(Hình 6)
Theo hình vẽ thì trống đặt bên dưới nhà sàn, trong hố, không trông thấy. Người ngồi trên sàn gõ vào mặt trống. Như vậy trống để gõ đã không cùng loại với trống biểu tượng quyền uy của tù trưởng như trống Ngọc Lũ này.
Bên cạnh nhà Hạ chí, cả bốn người gõ trống đều ngồi quay mặt theo hướng chung, riêng bên cạnh nhà Đông chí lại có một người đứng và quay lưng lại hướng chung ấy và một người ngồi đưa bàn chân để cho dùi trống không gõ xuống. Đó là hai điệu nhạc khác nhau của 2 dịp hội hè lớn khác nhau trong một năm.
Sửa soạn hội hè :
Người ta phải sửa soạn từ trước ngày Đông chí, bằng cách giã gạo để ủ lên men làm rượu, hoặc để làm bánh, nấu xôi.
Hình hai người giã chày đứng trong một cái cối ở trước hai nhà đông chí và hạ chí nói về việc ấy. Nhưng cảnh giã gạo bên hạ chí có vẻ thong thả, người đàn ông chếch một chân đạp vào chân cối.

(Hình 7a)
Còn bên dông chí thì vội vã hơn, ngưởi đàn ông đứng cả hai chân trên mặt đất và người đàn bà tóc xoã tay cầm chày giơ cao hơn.

(Hình 7b)
Hình người và gà cạnh đó cũng khác nhau. Sau xuân phân, người cầm gậy quay mặt lại có vẻ là chăn dắt nuôi gà. Sau thu phân, người kiễng chân, không có gậy, có vẻ là nhảy để bắt gà. Đó là những việc phải làm để sửa soạn cho ngày lễ.
Xuân phân thu phân :
Trên cùng một đường kính vạch ngang hơi chếch lên đường Đông chí Hạ chí, là đường Xuân phân Thu phân, ta thấy 2 kiến tạo giống nhau, mái hình khum mui thuyền, gác trên hai trụ đứng cũng khum lại, trên đầu gọt tròn đều nhau, với hai vòng trang trí tròn, còn phiá chân cột có sàn bắt ngang, để hở ở dưới hai tảng kê hai bên với một vật gì như để chồng ở giữa.

(Hình 8)
Bên trong khung hình khum ấy, khoảng trống được vạch chia làm 3 phần, bên Xuân phân thì ở giữa hình chữ nhật vẽ một người đứng nghiêng, quay mặt theo hướng chung, tay cầm cuống một trái gì như trái bầu tròn. Hai phần tả hữu, một bên vẽ bảy vòng tròn, một bên vẽ tám, tất cả đều có một chấm ở giữa.
Nếu vòng tròn ấy là hình trái cây thì kiến tạo miếu thờ vị thần phù trợ cho cây cối sinh nhiều trái. Còn bên Thu phân thì vẽ hình người dang chân và dang tay lên trời, hai bên không có vòng tròn mà có 4,5 vết như lá tụng. Người vẽ tỏ ra rất hiện thực vậy.

( Có ý kiến cho rằng các vòng tròn có chấm là nhạc cụ còng, chiên; có ý kiến lại cho rằng đó là biểu tượng của hào âm hào dương; xem thêm bài “ Dạng nguyên thuỷ của Âm Dương ” )
Các vị Nguyệt thần :
Theo điểm khởi đầu năm nhân sự, ta thấy ban đầu có một vị thần nhỏ bé hơn cả, không có mũ, để dùng ghi tháng nhuận, rồi đến 6 vị để ghi sáu tháng đầu năm, đối diện với bên kia vòng tròn có 6 vị nữa để ghi sáu tháng cuối năm.
Vị nhỏ bé để ghi tháng nhuận, cánh cụp xuống, đầu không mũ, người nghiêng, tay cầm phách dang ngang theo tư thế ca vũ. Còn 12 vị đều là chim thần, không phải người hoá trang thành chim.
Người ta nhìn vội nên cho rằng người đội mũ lông cánh chim. Đó là một bên cánh mọc từ lưng ra, bị đầu che một đoạn, còn một bên cánh mọc từ ngực ra xoè xuống đất. Bởi nếu là đội mũ, thì có vị quay mặt đi, có vị quay mặt lại, sao mặt quay lại mà mũ lại không quay lại ?
Lông đuôi thì xoè về phía chân trước. Hai tay và hai chân thì ráp vào hai bên mình như người. Chim thần khàc người và khác chim thường ở chổ ấy.
Việc dùng một con chim thần tiêu biểu cho một tháng chứng tỏ người xưa quan niệm thời gian qua mau. Nhưng khác với người phương Tây thần thánh hoá và nhân cách hoá thời gian thành hình một ông cụ có cánh, tay cầm lưỡi hái tượng trưng quyền lực huỷ hoại, không những thời gian chẳng giúp gì cho người mà còn thù nghịch với người nữa. Ở đây chim thần từng tháng đem những hướng dẫn đến cho người trong cuộc sống. Thời gian có cộng tác với người, là bạn là thầy của người.
Trừ vị thần dùng cho tháng nhuận ( xen kẻ vào bất cứ tháng nào trong năm ) đúng là có dáng điệu người ca vũ mềm mại và vui tươi, chân bước theo hướng tiến chung, hai tay cầm cái gì như phách để gõ nhịp cho bước chân, còn 12 vị thần khác thì mỗi vị cầm một đồ vật khác nhau để nói lên cái ý khuyên bảo người đời tháng ấy thì nên làm một việc nào với đồ dùng đó :
Tháng giêng : Đồ vật ở tháng giêng to lắm, thần phải ôm bằng hai tay đưa ra phái trước mặt, trong có vẻ như con cá. Có lẽ là tháng nên đi bắt cá. Về điểm này ta thấy tệ xưa có ghi rằng : Loài gấu chưa tế thú ( vào mùa thu ) thì không được chăn lưới ở cánh đồng , loài rái chưa tế cá ( vào mùa đông ) thì không được thả lưới vét xuống nước. Nay đã sang tháng giêng, vậy có thể đi bắt cá được.
Tháng hai : Đồ vật ở tháng hai là cây gậy thẳng, thần cầm bàn tay trái đưa ngang ra trước mặt, đầu trân của gậy uốn ra ngoài, đầu dưới uốn vào phái bụng. Tay phải của thần đưa về phía sau lưng cầm một trạc gậy trút xuống. Chân và mặt đưa ra theo hướng tiến chung. Có thể là con dao đi rừng để chặt những cành kho củi mục, việc nên làm vào tháng hai.
Tháng ba : Thần bước đi theo hướng tiếng chung nhưng mặt quay lại nhìn tay phải cầm trạc cây trúc xuống, tay trái cầm một cây gậy hơi cong với đầu to ở trên, đầu nhỏ ở dưới. Có vẻ thần khuyên người nên làm việc gì ngay trên mặt đất sau bước chân cảu mình, giao hạt giống chăng ?
Tháng tư : Thần có dáng điệu như vị ở tháng ba nhưng mình nghiêng hẳn về phía sau, đầu và mỏ cũng cuối thấp hơn, với mặt mở tròn to hơn. Nếu không có điệu cánh và chân bước theo hướng chung thì có thể kể là thần đi ngược chiều được. Tay trái thần cũng cầm gậy thẳng nhưng ngắn hơn, tay phải cầm gậy trạc cây với gốc độ đẹp hơn. Có vẻ thần khuyên người săn sóc việc bắt sâu bọ.
Tháng năm : Mắt thần nhìn theo hướng tiến chung, thân hình ở tư thế đi bình thường, tay trái cầm gậy ngắn nhất, tay phải cầm trạc cây với một bên cụt hơn. Có vẻ như thần khuyên nghỉ tay.
Tháng sáu : Cũng vậy, có vẻ như tháng này và hai tháng nữa không thể làm việc đồng án được.

(Hình 9a)
Tháng bảy : Thần quay mặt nhìn theo hướng chung, cầm trong tay vật gì như muỗng múc canh, có dấu tròn biểu tượng mắt chim ở ngoài, tay phải cầm cái gì như cái lồng bắt chim. Cả hai tày đều đưa về phái trước mặt. Có vẻ là tháng nên đi bắt chim. Vị này có thêm một đặt điểm : ở sau gáy nơi đầu cánh có một hình tam giác, giữa vẽ một hình tròn, chưa rõ ý nghĩa gì.
Tháng tám : Thần thổi loa ở miệng, loa dính với một vật tròn tia ra ba vạch lên trời, ba vạch xuống đất. Đó có vẻ là tiếng gọi vào rừng săn thú. Tháng tám trăng sáng nhất là tháng thích hợp nhất cho việc ấy.
Tháng chín : Thần cầm dao đi rừng như tháng hai nhưng đầu trên lại khoằm vào trước mặt, đầu dưới lại uốn khoằm ra, mặt và chân quay về hướng tiến chung. Có vẻ là vật để hái trái, má tháng này là tháng có nhiều trái cây chín.
Tháng mười : Thần vẫn cầm dao ấy ở tay trái như vậy nhưng mặt nhìn xuống đất sau bước chân với chạc cây hạ thấp xuống gần mặt đất. Có vẻ như thần muốn nói về việc gặt lúa.
Tháng mười một : Thần cầm gậy ngắn với trạc cây ngắn ở tư thế nghỉ ngơi và theo dáng đi bình thường ( như tháng năm, tháng sáu đã nói ). Có vẻ là tháng xong việc đồng án thì nghỉ ngơi.
Tháng chạp : Thần cầm vật gì giống như hình cái bàn chải đánh răng, dài bằng cả một bên cánh, dưới đầu cán có hình mũi tên chĩa nghiêng xuống mặt đất phía trước mặt. Ấy là hình tượng sự chít một lông cánh thời gian, để nói việc hết năm.

(Hình 9b)
Những đặc tính của mỗi năm trong chu kỳ :
Chúng ta thấy mỗi con chim thời gian giống nhau bay ở vòng ngoài ( theo chu kỳ 18 năm đã nói ) đều có một con chim nhỏ ở dưới mỏ dài của nó, mà chim ấy thì không con nào giống con nào cả.
Cần phải là người đi rừng nhiều, trông hình vẽ mới tin chắc được rằng lịch 12 con giáp của Trung Hoa đã ít tuổi hơn lịch 18 con chim này nhiều lắm. Bởi lịch này cho thấy người ta mới định cư còn ở thời kỳ chưa nuối được con lợn, con trâu, con mèo, chưa biết được con dê con ngựa là gì nữa.
(Doremon360 : Bạn hãy tham khảo bản đồ địa hình dưới đây để thấy việc ngập lục bán đảo Sunda và thềm lục địa Namhailand vào cuối kỷ băng hà đã dẫn đến sự di dân của cư dân đông Nam Á cổ vào các vùng đất cao, sự định cư mới mà tác giả nói ở trên có thể liên hệ với sự kiện di cư từ nơi định cư củ sang nơi định cư mới ).

.
Kết luận :
Mặt trống đồng Ngọc Lũ quả đúng là một quyển lịch được sắp xếp và vẽ một cách thông minh. Trừ một vài chi tiết chưa hiểu rõ như đã nói, những nét chính của hình vẽ đã khiến ta chân thành khâm phục rằng: Với mức độ hiểu biết và tiến hoá của đời nay cũng chưa chắc có người bố trí nổi một bản ghi thời gian tài tình như thế.
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
Tính minh triết Việt trong truyện Tấm Cám (phần 1)
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương
Sự kiện và vấn đề
Chuyện Tấm Cám là một câu chuyện nổi tiếng trong văn hoá dân gian Việt Nam, vốn được truyền miệng từ đời này sang đời khác. Chuyện Tấm Cám có kết cấu rất hoàn chỉnh và mang một nội dung sâu sắc với nhiều tình tiết phức tạp. Những dị bản của loại chuyện như thế này có nhiều ở những nền văn hoá lâu đời của nhân loại. Thí dụ như truyện Lọ Lem.,,,, Riêng truyện Tấm Cám có nhiều tình huống và chi tiết mang hình tượng văn hoá đặc thù của người Lạc Việt, như: Trầu cau, chiếc rìu, nằm võng....
Điều này chứng tỏ nó thuộc loại văn chương bác học và bị khuyết danh vì những thăng trầm lịch sử, chứ không phải là loại văn học bình dân và được sáng tạo và phát triển bởi quần chúng.Sự tồn tại của truyện Tấm Cảm trải qua bao thăng trầm của lịch sử Việt, đã chứng tỏ một sức sống mãnh liệt từ ngay trong nội dung câu truyện. Sức sống ấy nằm ngoài tầm mơ ước của những nhà văn gạo cội của thế giới, ước mơ cho đứa con tinh thần của mình.Nhưng ngày nay, đang xuất hiện một xu hướng khá mạnh mẽ nhằm phủ nhận những giá trị văn hoá truyền thống Việt, kể cả trong và ngoài nước. Ngoài cái xương sống của truyền thống văn hoá sử - Từ gần 5000 năm văn hiến, bị gọi là chứng minh “khoa học” xuống còn 2500 năm lịch sử và sự khởi nguồn của dân tộc Việt - Thời Hùng Vương - chỉ là một liên minh 15 bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố tồn tại ở khỏang 300 năm từ thế ký thứ VII trước CN - thì những câu chuyện nổi tiếng trong văn hoá dân gian Việt cũng bị xuyên tạc và hạ thấp giá trị nội dung theo cách hiểu truyền thống. Chuyện Thạch Sanh thì được họ coi là có nguồn gốc Khơ Me, Chuyện Trương Chi thì bị coi là cuộc tình giả tạo thương vay khóc mướn của Mỵ Nương. Tất nhiên, Tấm Cám cũng trong tầm ngắm của xu hướng phủ nhận giá trị văn hoá Việt. Có thể nói rằng: Cả một trào lưu phủ nhận giá trị văn hoá truyền thống Việt cả trong lẫn ngoài nước. Điều này được chính họ thừa nhận khi phát biếu công khai rằng: Quan niệm lịch sử mới phủ nhận những giá trị văn hoá sử Việt được “Hầu hết những nhà khoa học trong nước và công đồng khoa học thế giới thừa nhận” .
Truyện Tấm Cám nổi tiếng trong văn hoá dân gian Việt là cũng một trong những đối tượng của họ.Họ phân tích và chứng minh rằng: Chuyện Tấm Cám là câu chuyện man rợ. Sự tàn ác và vô nhân của mẹ con nhà Cám, sự bạc nhược, thụ động của cô Tấm. Đến khi Tấm thành đạt do may mắn lại có hành động trả thù dã man: Luộc chín người em làm mắm, gửi cho mẹ kế.Tôi nghe một người kể về một sinh viên ngoại quốc học về văn hoá Việt đã chất vấn giáo sư Việt Nam về nội dung truyện Tấm Cám như trên. Vị giáo sư này đã không trả lời được, (Theo câu chuyện kể thì là một sinh viên một nước Đông Á).
Ngay bây giờ, những người bạn của tôi đang xem blog này có thể kiểm chứng qua thông tin dưới đây từ web vietnamnet.net.
Trích:
Sách "mầm non" hủy hoại thế giới tuổi thơ?
Thứ bảy, 29/12/2007, 16:14 GMT+7
Nếu tìm vào thế giới của một đứa trẻ Mỹ chắc chắn bạn sẽ không thể không gặp chuột Mickey, vịt Donald, nàng tiên cá hay ông già Noel… Tương tự như vậy, tìm vào ký ức tuổi thơ của bất cứ người Việt Nam nào, chắc chắn sẽ có cô Tấm, mụ dì ghẻ, ông Bụt…
Thế nhưng đã không ít lần các bậc phụ huynh lâm vào sự bối rối khó xử khi bị trẻ “vặn” lại: Tại sao cô Tấm hiền lành lại giết cô Cám, và còn băm xác Cám làm mắm rồi gửi cho mẹ Cám ăn?

Sách trẻ em được bán tại các hiệu sách và trường mầm non
Những thắc mắc tưởng chừng “vu vơ” nhưng khiến các bậc cha mẹ, thầy cô đau đầu. Phải giải thích làm sao với những tâm hồn thơ trẻ về cách “hành xử” của cô Tấm trong khi hàng ngày chúng ta vẫn dạy các em phải hiền ngoan, phải vâng lời, phải vị tha, phải… đủ thứ!
Trích: http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/vanhoa/178784/
Tôi xin trả lời bài viết này: Chính một số người lớn bây giờ đã dạy cho trẻ con theo cách hiểu của họ vê truyện Tấm Cám - một truyền thuyết đã thuộc về văn hóa truyền thống Việt. Từ ngàn xưa cho đến tuổi thơ của chúng tôi đã đi qua với câu chuyện Tấm Cám. Trong tuổi thơ chúng tôi không nhìn thấy sự "man rợ" của cô Tấm, mà chỉ nhìn thấy kẻ xấu bị trừng phạt xứng đáng với tộic ác của nó. Bởi vì cha mẹ chúng tôi và tổ tiên của người Việt khi lưu truyền câu truyên này trong văn hóa Việt, đã không dạy chúng tôi như vậy. Nhưng chỉ kể từ khi cả một hệ thống văn hóa lịch sử truyền thống Việt bị một bọn dốt nát hủy hoai với sự bóp méo nội dung. Trẻ thơ mới phải tập phủ nhận những giá trị văn hóa Việt. Mượn vỏ bọc một bài viết về giáo dục trẻ em, tác giả này trên Vietnamnet.net đã bị ảnh hưởng, hay không quên góp phần phủ nhận những giá trị văn hóa Việt.
Nếu cứ xét kỹ từng sự kiện như cách phân tích và chứng minh ở trên, thì dễ làm cho người có kiến thức trung bình tưởng rằng: Đây là một phát hiện sâu sắc và ủng hộ cách nhìn trên cho một tác phẩm văn hoá dân gian lâu đời của dân tộc Việt. Nhưng không lẽ – qua bao thăng trầm của lịch sử - cả một dân tộc trân trọng lưu truyền một câu chuyện dân gian lại không có nổi một cảm quan nhậy bén về nội dung câu truyện đó sao? Bởi vậy, tôi viết bài này thể hiện một cái nhìn của tôi về câu truyện Tấm Cám nhằm khẳng định giá trị nhân bản và tính minh triết sâu sắc của nền văn hoá truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến.
Còn tiếp
Tính minh triết Việt trong truyện Tấm Cám (phần 2)
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương
Câu chuyện Tấm Cám và tính minh triết Việt dịch
Có thể nói hầu hết những người ở thế hệ chúng tôi đều đã qua thời thơ ấu trong không gian của truyền thống văn hoá Việt do thế hệ trước truyền lại. Đó chính là những chiếc bánh chưng, bánh dầy, những bức tranh dân gian đầy màu sắc sinh động, các trò chơi trẻ em như “Ô ăn quan”, “Chi chi chành chành”…hoặc những câu chuyện đượm màu huyền thoại như: "Thạch Sanh", "Trương Chi – Mỵ Nương”…..v.v….
Tất cả hầu như đều mang một ý nghĩa minh triết Việt. Chuyện Tấm Cám cũng là một câu chuyện như vậy. Với tâm hồn trong sạch của tuổi thơ, chúng tôi cảm nhận được ở chuyện Tấm Cám về cái thiện đã thắng cái ác và kẻ ác phải trả giá cho việc làm của họ. Câu chuyện Tấm Cám không chỉ mang một triết lý nhân sinh về tính nhân quả gần gũi với giáo lý Phật giáo mà còn chứa đựng trong đó cả một giá trị minh triết Đông phương. Đó chính là tính minh triết Việt Dịch.
Có thể khẳng định rằng: Hầu hết những di sản văn hoá phi vật thể Việt để lại cho hậu thế đều mang tính minh triết rất sâu sắc. Mỗi câu ca dao tục ngữ đều là một châm ngôn về con người và cuộc sống, về cách xử thế hàng ngày, hoặc đó là những lời khuyên khôn ngoan về các tri thức thiên nhiên xã hội và con người. Trong những di sản văn hoá độc đáo ấy, chúng ta nếu chịu suy nghĩ và tìm tòi, còn thấy cả những chìa khoá giải mã những bí ẩn của giá trị Đông phương. Đây là điều mà tôi đã nhiều lần trình bày trên các diễn đàn. Những nội dung của các câu chuyện này đều có một mục đích thống nhất và trùng khớp về những giá trị bí ẩn của văn minh Đông phương, chứ không phải là những hiện tượng riêng lẻ, ngẫu nhiên trùng lặp. Câu chuyện “Con Tấm, con Cám” của dân tộc Việt, ngoài những giá trị về tính minh triết và nhân văn Đông phương, còn là giá trị khám phá sự bí ẩn của Đông phương của Việt Dịch. Chính vì nội dung rất sâu sắc và tính minh triết của câu truyện này, đã khiến cho tác phẩm có một sức sống vượt thời gian và không gian trải hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử Việt. Một thời gian mà tất cả các tác giả của nhân loại hiện đại, không một ai dám mơ ước cho những tác phẩm vĩ đại của họ.
Mở đầu câu truyện, chúng ta thấy cảnh ngộ của Tấm thật là bi đát:
Cha mẹ mất sớm và ở với dì ghẻ.Đây là những mâu thuẫn đầu tiên của con người, trong mối quan hệ xã hội. Mâu thuẫn này không mang nặng tính ý thức hệ, như sau này khi xã hội loài người phát triển. Đối tượng chính trong câu truyện này là bà mẹ Cám và Tấm, cô Cám chỉ là một cái cớ để câu truyện diễn tiến.
Sự tồn tại của ba nhân vật nữ chính và sự bị đát của cô Tấm cho thấy một hoàn cảnh thuần Âm, được biểu tượng bằng ba người đàn bà trong gia đình. Đó chính là tượng của quẻ Thuần Khôn

Quẻ Thuần Khôn
và địa vị của cô Tấm, trưởng nữ, tượng của quẻ Tốn

Quẻ Tốn
Mâu thuẫn xã hội là một thực tại và nó phát triển theo quá trính phát triển của lịch sử nhân loại. Mâu thuẫn đầu tiên và sơ khai nhất chính là mối quan hệ gia đình. Hoàn cảnh của cô Tấm trong câu chuyện là một ví dụ. Nếu câu chuyện giải quyết theo hướng người mẹ kế của cô Tấm có ý thức nhân đạo, nuôi cô Tấm như con đẻ của mình. Như vậy, sẽ có Dương (Ý thức thuộc Dương) trong Âm (Ba người đàn bà) thì Âm Dương đã cân bằng và câu chuyện bi thương này diễn biến theo chiều hướng khác. Nhưng bà mẹ của Cám lại sống theo bản năng của người đàn bà trong mối quan hệ giữa con mình và con không do mình đẻ ra. Trong giai đoạn đầu, tính thuần Âm chỉ đạo toàn bộ sự diễn tiến và phát triển của câu truyện. Âm càng phát thì mâu thuẫn ngày càng tăng. Chuyện bắt đầu chỉ là con tép, rồi lên con cá. Sau đó, khi mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển trong lịch sử tiến hoá của loài người thì nhu cầu về ăn mặc cũng phát triển. Phần Dương trong một hoàn cảnh thuần Âm này chỉ là mơ ước của Tấm với hình tượng ông Bụt hiện lên mỗi khi hoạn nạn.
Với những người nghiên cứu về Kinh Dịch, chúng ta đều biết rằng: Trong một quẻ 6 hào thì quái Thượng phía trên là Dương, quái Hạ, phía dưới là Âm. Qua ba giai đoạn gian truân trong gia đình và phát triển từ thấp đến cao, chính là ba hào Âm của quái Hạ:
Ba sự kiện đó là giỏ tép bị tráo, cá bống bị giết và sự đau khổ của Tấm khi phải nhặt thóc một cách vô vọng cho ước mơ của mình. Đây chính là hình tượng ba hào Âm cuối của quẻ thuần Khôn. Trong giai đoạn này, Đến Hào hai – Hào Lục nhị là Hào Âm chính vị theo lý Dịch - hình tượng của con cá bống mỗi khi Tấm cho ăn, có một câu ca kỳ lạ:
"Bống bống bang bang
Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta.
Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người."
Câu ca nổi tiếng này được các bà mẹ Việt truyền từ đời này sang đời khác – qua bao thăng trầm của giống nòi – khi kể lại câu truyện cho đứa con thơ dại. Mỗi khi đọc bài ca này, mắt mẹ lại ánh lên nhìn vào mặt con, như muốn truyền cảm tình yêu mái ấm gia đình mà mẹ là người chở che, bao bọc. Cũng như chuyện thằng Bờm, sự quay cuồng bão tố của không. thời gian lịch sử không làm thay đổi một chữ. Ở đây, trong bài ca này của cô Tấm, cũng không hề bị sửa chữa bởi một ý thức hàn lâm ngớ ngẩn. Tại sao thể nhỉ? Ông cha ta dùng ngoa ngữ chăng? Cơm của Tấm cũng là cơm lại là cơm của con nhà nghèo, làm sao gọi là cơm vàng cơm bạc được?Phải chăng đây chính là hình tượng, nhắc nhở hậu thế đừng vội quay lưng với những di sản của ông cha. Mà trong đó, ẩn chứa những giá trị vô giá không thể so sánh với những giá trị vật chất tầm thường. Khi Tấm cưỡi ngựa hồng, mặc áo đẹp, đội nón quai thao, mang hài đi dự lễ hội, thoả mãn ước mơ của mình thì câu chuyện bước sang một cấu trúc khác. Mâu thuẫn của mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình, đã chuyển sang mâu thuẫn trong quan hệ xã hội: Mâu thuẫn về danh vọng và quyền lực.Tấm đang ở trong hào Lục tứ của quẻ thuần Khôn thuộc Âm. Xã hội loài người liên tục phát triển thì mâu thuẫn xã hội tiếp tục phát triển với những hình thái mới của nó. Qua giai đoạn thuần Âm của ba hào của quái Khôn hạ, mâu thuẫn xã hội chuyển sang một hình thái mới là Dương trong Âm của 3 hào trong quái Khôn thượng của quẻ Thuần khôn. Diễn biến của câu truyên từ lúc này về sau không có hình ảnh của ông Bụt (Tính Dương trong quái Hạ thuần Âm).
Trong hào lục tứ chính vị, Tấm được tấn phong hoàng hậu chỉ dưới hào Cửu Ngũ là hào của vua. Nếu như lúc Tấm trở về làng, mẹ con nhà Cám phục tùng hoàng hậu, giữ đạo quần thần. Tức là có ý thức trong mối quan hệ xã hội (Thuộc Dương) thì câu truyện có thể chấm dứt ở đây. Và đây cũng là kết thúc của một câu chuyện dị bản tương tự của văn hoá cổ Châu Âu trong câu chuyện Lọ Lem. Nhưng nền văn minh cổ của người Việt đã tiếp tục câu chuyện sâu sắc hơn nhiều, theo đúng tinh thần của Dịch học: Quẻ thuần Khôn chưa đi hết 6 hào của nó và mâu thuẫn xã hội tiếp tục phát triển. Tấm bị mẹ con nhà Cám lừa giết chết, khi đang trèo lên cây cau và biến thành con chim vàng anh. Đây là lần biến hoá thứ nhất của hào Lục Tứ. Sự tranh chấp quyền lực - mâu thuẫn trong quan hệ xã hội - vẫn tiếp tục xảy ra và Âm vẫn thắng Dương: Con chim vàng anh hoá thân của Tấm bị giết. Đến đây sự kiện chuyển sang hào lục ngũ: Linh hồn của Tấm biến thành cây xoan tiếp tục oán than. Cám tiếp tục truy sát, chặt cây làm khung cửi . Sự kiện tột cùng của hào Thượng lục trong quẻ thuần Khôn và cũng là lúc Âm đạt đến đỉnh cao nhất: Tấm trở thành cái khung cửi và là một công cụ của Cám.Chúng ta cũng nhận thấy rằng: Trong giai đoạn sau được diễn tả thông qua 3 hào thượng của quẻ Thuần Khôn - từ lục tứ đến thượng lục - không có hình ảnh của Bụt trong câu chuyện. Linh hồn của Tấm - thuộc Dương trong Âm (Hồn người chết) - trực tiếp tham gia diễn biến câu truyện, thay thế cho hình tượng ông Bụt. Nhiềư nhà phê bình văn học đã cho rằng: Đây là hình ảnh chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Nhưng vớin cách nhìn của tôi thì đây chính là sự minh hoạ đặc sắc cho tính vi diệu của Dịch học, có sự tương đồng với Phật Pháp. Để chứng tỏ điều này, chúng ta có thể xem lại bản văn sau đây trong Kinh Dịch:
Hệ Từ thượng truyện. Chương V. Tiết 2 viết:
Ngẩng lên xem thiên văn, cúi xuống xét địa lý, cho nên biết cái cớ của sáng tối. Quay về nguyên thuỷ của vạn vật, theo dõi đến cuối cùng, nên biết được bài học về sống chết . Tinh khí hợp lại sinh ra vạn vật . Hồn thoát ra tạo nên biến hoá, nên biết được tình trạng của quỉ thần.
Như vậy, qua đoạn trích dẫn trên “Hồn thoát ra ngoài tạo nên biến hoá”, cho thấy tinh thần của Dịch rất gần gũi với giáo pháp của Phật về sự luân hồi. Bởi vậy nên có sự ngộ nhận chuyện Tấm Cám có ảnh hưởng của Phật giáo. Điều này cũng giống như sự tích Chử Đồng Tử hoặc sự tích Cây Nêu, đều có hình ảnh của Đức Phật. Nhưng hình tượng cây Nêu là một giá trị văn hoá phi vật thể thuần Việt: Chỉ có ở văn hoá Việt Nam mới có cây Nêu. Còn những quốc gia ảnh hưởng Phật pháp khác, không có hình tượng này. Điều này cho thấy hình tượng cây nêu là một sản phẩm văn hoá thuần Việt và không có nguồn gốc từ Phật giáo. Nhưng chính tính gần gũi của tư tưởng Dịch học và Phật pháp, nên sự tích cây Nêu đã dùng hình ảnh chiếc áo cà sa của Đức Phật phủ lên cây nên. Đây là một biểu tượng sự che chở của Phật Pháp cho những giá trị văn hoá Việt trong sự bi tráng của lịch sử giống nòi, vì tình gần gũi của những giá trị minh triết trong văn hoá truyền thống Việt với Phật pháp.
Quay trở lại với nội dung câu chuyện Tấm cám, chúng ta thấy rằng: Mâu thuẫn đã lên đến tột đỉnh trong quan hệ xã hội của con người. Đó là mâu thuẫn ở đỉnh cao của quyền lực: Tấm và Cám trong sự tranh giành địa vị Hoàng Hậu. Âm tính đã phát triển đến hào Thượng Lục trong quẻ thuần Khôn. Vì tính thuần Âm nên mâu thuẫn không được giải quyết. Linh hồn của Tấm vẫn khắc khoải với sự đau khổ, oan trái của mình. Nhưng về Lý Dịch thì sự việc phải chuyển hoá. Chiếc khung cửi bị Cám đốt hoá thành tro đã chuyển hoá câu chuyển sang một hoàn cảnh mới: Nhất Dương sinh, theo nguyên lý cực Âm sinh Dương của Dịch. Quả Thị là một biểu tượng tuyệt vời trong trường hợp này. Đây là một loại quả (Trái cây) chỉ dùng trong việc thờ cúng của văn hoá truyền thống Việt. Quả thị chỉ có mùi hương (Mùi vị thuộc Dương – hình thể thuộc Âm) và không ăn được. Thị ơi! Thị à!Thị rụng bị bà.Bà để bà ngửi, chứ bà không ăn!Các bà mẹ Việt Nam kể lại câu chuyện này, cũng có bà bảo rằng: Chính vì vậy mà quả thị từ đó về sau không ăn được.Linh hồn của Tấm nấp trong quả thị và phục sinh từ quả thị. Đây là hình tượng của quẻ Phục. Nhất-Dương sinh

Quẻ Phục-Nhất Dương Sinh
Chúng ta cũng sẽ tìm thấy hình tượng của quẻ này trên bãi đá cổ Sapa (Xin xem bài: LẠC THƯ CHU DỊCH TRÊN BÃI ĐÁ CỔ SAPA. Văn hiến Lạc Việt. lyhocdongphuong.org.vn).Tấm đã sống lại và ở với bà lão. Như vậy, khi linh hồn cô Tấm nằm trong quả thị và hàng ngày bước ra giúp dọn việc nhà thì câu chuyện đã đang ở trong hào Nhất Dương sơ Cửu của quẻ Phục. Khi bà lão rình phát hiện được Tấm và xé bỏ quả thị đi thì cô Tấm hoàn Dương. Cô Tấm sống với bà lão, chính là hào 2 Cửu nhị của quẻ Lâm và câu chuyện đang diễn biến trong nội hàm của nó. Ngôi Dương của hào cửu nhị không đắc chính. Tấm còn đang chịu cảnh đất khách quê người.Câu chuyện tiếp diễn khi nhà vua tình cờ vi hành qua hàng nước của bà lão. Một tình tiết rất độc đáo ở giai đoạn này và có lẽ cũng là lời giáo huấn của tiền nhân, chính là hình ành của miếng trầu têm cánh phượng. Trầu cau là một giá trị đặc thù của văn hoá Việt. Trầu têm cánh phượng chính là hình tượng của một giá trị cao nhất của nền văn hoá đó. Và chỉ có cô Tấm mới thực hiện được điều này. Toàn bộ đoạn này, cha ông ta đã gửi gấm lại cho đời sau một thông điệp:
Chính những giá trị văn hoá Việt là tiền đề cho sức sống và sự phát triển của dân tộc Việt.
Nhờ miếng trầu têm cánh phượng, nhà vua đã đưa cô Tấm trở về hoàng cung và là chính cung hoàng hậu. Câu chuyện đang ở hào Cửu Tam. Dương đắc ngôi dương. Nhưng đến đây nếu chúng ta vội cho rằng: 3 hào Âm của quẻ Thuần khôn đã biến thành ba hào Dương là tượng của quẻ Địa Thiên Thái thì thật sai lầm. Sự phủ nhận một giá trị văn hiến Việt trong câu truyện Tấm Cám và là nguyên nhân để Thiên Sứ tôi viết tiểu luận này, chính là ở đoạn cuối của câu chuyện. Đây chưa phải là quẻ Địa Thiên Thái.

Quẻ Địa Thiên Thái
Về tượng quái thì quẻ Khôn trong Địa thiên thái và trong quẻ thuần Khôn đều giống nhau. Nhưng là những người đã tìm hiểu về Dịch thì chúng ta sẽ thấy rằng:Ý nghĩa của cùng một quái nhưng ở hai quẻ khác nhau sẽ khác nhau.
Quái thượng Khôn trong quẻ Thuần Khôn và quái thượng Khôn trong quẻ Địa thiên thái, mặc dù giống về hình tương nhưng không thể cùng một nội dung. Sự tuần hoàn của tạo hoá khiến mỗi quẻ ở vị trí khác nhau trong vòng tuần hoàn vô tận, sẽ không giống nhau dù giống tượng. Điều này giải thích là số Tử Vi trùng dữ kiện 60 năm trước và 60 năm sau, dù giống hệt nhau nhưng không thể giống nhau . Sao Thiên Mã 100 năm trước là con ngựa, nhưng 100 năm sau là xe hơi. Người sinh cùng ngày giờ tháng năm , nhưng ở hai hoa giáp khác nhau sẽ có độ số khác nhau….Bởi vậy, quái Khôn trong quẻ Thuần Khôn tượng là bà mẹ của Cám, nhưng quái khôn trong quẻ Địa thiên Thái thì lại khác hẳn về tính chất. Đó chính là sự chuyển hoá tính chất khi những sự kiện diễn biến liên tục ở đoạn cuối. Cám chết vì tham vọng vô độ. Cô ta không từ một cách nào dể đạt mục đích. Lòng tham đã dẫn đến sự ngu xuẩn, thể hiện bằng hành động tự dội nước sôi vào mình. Bà mẹ Cám ăn thịt con mà không biết. Đây là một hình tượng rất ấn tượng vì tính khủng khiếp của nó. Nhưng về tính minh triết của hình tượng này lại cho thấy: Chính bà mẹ Cám đã giết dần con mình khi xui con lao vào tội ác. Bà mẹ Cám đã ăn thịt chính con bà từ lâu. Đến khi thấy hậu quả của tội ác chính bà thì bà ta cũng chết. Bởi vậy, chính hình ảnh ấn tượng này lại là sự cảnh tỉnh cho lòng tham của con người làm ảnh hưởng đến thế hệ sau.Khi bà mẹ Cám – tượng cho quái Khôn trong quẻ thuần Khôn chết và Tấm - trưởng nữ, tượng quái Tốn – chính thức thay thế trong vị trí hoàng hậu làm Mẫu nghi thiên hạ - Một nội dung khác của quái Khôn để cuộc đời mở ra với quẻ Địa thiên thái. Và cũng chính hình tượng này lại cho thấy vị trí của Tốn (Trưởng Nữ - Tấm) phải thay thế cho quái Khôn – Mẹ Cám trong Việt Dịch với Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ.
Hình minh học Hậu Thiên Lạc Việt phồi Hà Đồ
Được phục hồi từ những di sản văn hóa truyền thống Việt
và Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư
Theo cổ thư chữ Hán

Câu chuyện Tấm Cám với cái nhìn chủ quan của tôi thì đây chính là nội dung sâu sắc đầy tình minh triết của văn hiến Lạc Việt. Nếu trong quí vị và anh chị em quan tâm đến tiểu luận này, có người cũng thích xem các loại truyện cổ tích của các dân tộc trên thế giới, hẳn cũng biết có nhiều chuyên mang nhiều tình tiết giống chuyện Tấm Cám của Việt Nam. Thí dụ như: Tình tiết phục sinh từ quả thị trong Tấm Cám thì trong “Già Thu gặp tiên”, “Tú Uyên Giáng Kiều”….hoặc một số truyện trong 1001 đêm lẻ. Chuyện “Nàng Bạch Tuyết và bẩy chú lùn” cũng có nhiều nét tương đồng với chuyện Tấm Cám. Nhưng có thể nói, chỉ có truyện Tấm Cám của Việt Nam mới có nhiều tình tiết trong một mạch truyện xuyên suốt, mang tính minh triết thông qua những hình tượng của nó, hơn hẳn những chuyện dị bản của những nền văn hoá khác.Do đó, nếu chỉ với cái nhìn thông thường thì cũng thật là bất công khi những kẻ ác như mẹ con nhà Cám không bị trừng trị. Trong truyện Thạch Sanh, chàng Thạch Sanh cũng tha chết cho mẹ con Lý Thông đấy chứ! Nhưng cũng sẽ không thể gợi lên một ước mơ công lý, nếu những nhân vật này không bị sét đánh chết. Câu truyện Tấm Cám đã sống với nền văn hoá dân tộc Việt trải hàng thiên niên kỷ, còn chưa đựng nhiều nội dung sâu sắc thuộc về nền minh triết Lạc Việt. Nhưng do khả năng của tôi chỉ có hạn nên không phân tích được hết ý.Hy vọng các bậc cao nhân sẽ tiếp tục khám phá và tìm ra những gía trị đích thực của nó.
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương
|
|
|
|
  Danh hiệu: MemberNhóm: Gia nhập: 03-10-2011(UTC) Bài viết: 44 Đến từ: vn
Cảm ơn: 17 lần Được cảm ơn: 29 lần trong 18 bài viết
|
Tương quan giữa Truyện Kiều và Kinh Dịch
Nguyễn Thiếu Dũng
www.thanhnien.com.vn
Từ trước đến nay nói đến Truyện Kiều các nhà nghiên cứu thường chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa Truyện Kiều và Phật Giáo, Nho Giáo, Lão Giáo chứ chưa ai đá động đến mối liên hệ sâu xa giữa Truyện Kiều và Kinh Dịch. Sự thực ma lực của Kinh Dịch chi phối khá sâu sắc đối với Truyện Kiều.
Lúc nằm dưỡng bệnh ở quê nhà Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Kinh Dịch khi viết:
An đắc huyền quan minh nguyệt hiện
Dương quang hạ chiếu phá quần âm
(Ngọa bệnh)
Nguyễn Huệ Chi đã viết khi dịch hai câu này: "Lúc chưa ra làm quan, sự ngột ngạt trong tâm hồn khiến Nguyễn Du đã có lúc phải kêu gọi ánh sáng:
Ước gì vầng trăng sáng xuất hiện ngay trước cửa
Ánh sáng dọi xuống xua đuổi mọi bóng tối
Thực ra đây là cách chơi chữ của Nguyễn Du. Câu này Nguyễn Du ám chỉ quẻ Phục. Quẻ Phục trong Kinh Dịch ghép bởi hai quẻ đơn: quẻ Khôn-Địa có 3 hào âm; quẻ Chấn-Lôi có 2 hào âm và một hào dương, thành ra quẻ Địa-Lôi-Phục có 5 hào âm ở trên và một hào dương ở dưới cùng. Phục là hồi phục, ở đây là ước muốn lành bệnh, 5 hào âm là quần âm, dương quang là hào dương. Theo Dịch lý mọi vật đến cùng cực thì biến đổi, quẻ Thuần-Khôn có 6 hào âm nghĩa là đã đi đến cùng cực, lúc đó một hào dương sẽ xuất hiện ở dưới cùng (vị trí hào sơ) biến đổi quẻ Thuần-Khôn thành quẻ Địa-Lôi-Phục, sau đó dương sẽ lần lượt tiến lên thay thế hào âm ở các vị trí hào 2, 3, 4, 5, 6. Khi âm bị thay thế hoàn toàn đó là đến thời quẻ Càn, thuần dương, dương đến cùng cực thì sẽ biến đổi, một hào âm sẽ xuất hiện ở dưới đổi quẻ Càn thành quẻ Cấu, vòng chuyển đổi liên tục không ngừng.
Cách chơi chữ tài hoa này, không biết có được Nguyễn Du vận dụng trong khi viết Truyện Kiều hay không. Điều này khó biết được, ngay cả đến Phạm Quý Thích người đã từng viết "Chu Dịch vấn đáp toát yếu" bạn thân của Nguyễn Du cũng không nhắc đến. Nhưng sự kiện này lại bàng bạc ẩn dấu khắp Truyện Kiều như một sự thật hiển nhiên khiến ta không thể bỏ qua.
Một hiện tượng khá thích thú là Truyện Kiều và Kinh Dịch đều được quần chúng tôn sùng và dùng làm sách bói khá linh nghiệm. Có thuyết cho rằng Kinh Dịch vốn là sách bói toán sau được nâng thành sách triết đứng đầu ngũ kinh. Kinh Dịch gồm thâu vũ trụ trong 64 quẻ, mỗi lời hào được thiết kế theo kiểu bói toán với những lời phán ấn định giá trị cho mỗi sự kiện, cảnh ngộ, tình tiết là tốt hay xấu, có lợi hay hại, có lầm hay không, vì vậy Kinh Dịch làm sách bói là chuyện hiển nhiên, nhưng sao một Truyện thơ như Kiều lại có thể thành sách bói, làm sao những nhân vật như Kiều, Từ Hải, Giác Duyên lại được con người tìm đến nhờ giải đáp những vấn nạn trước cuộc đời đa đoan kính tín như Tiên, như Phật: "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy Tiên Thuý Kiều...". Truyện Kiều tuy là truyện phóng tác, nhưng nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân không đủ sức thần hoá như của Nguyễn Du, điều đó hẳn nhiên đã nói lên sức sáng tạo tuyệt vời của bậc thi thánh Việt Nam mà mỗi câu thơ như đồng cảm với tâm trạng, cảnh ngộ, thân phận nhân sinh trong "cõi người ta". Một trong những bí ẩn làm nên sức thu hút của Truyện Kiều chính là Nguyễn Du đã thiết kế Truyện Kiều trên đất Kinh Dịch, mỗi nhân vật trong truyện Kiều lại có sức chứa hình tượng của một quẻ đơn trong tám quẻ đơn cơ bản cấu tạo nên Dịch.
Toàn bộ Truyện Kiều có thể tóm lại trong một quẻ Phục, Phục là hồi phục, là trở về. Đó là chuyện một người con gái khuê các gặp nạn, phải đem thân lưu lạc giang hồ, sau 15 năm lại được trở về đoàn tụ với gia đình, với người yêu, phục hồi nhân phẩm, tuyết sạch giá trong. Khi Thuý Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, Nguyễn Du đã dùng quẻ Phục để chuyển mạch: "Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay" (Kiều, 2646). Bố cục Truyện Kiều cũng được cấu trúc theo dạng quẻ Phục:
Quẻ Phục
|
Truyện Kiều
|
Hào 6 Thượng Lục |
Kiều gặp Kim Trọng, gia đình Kiều mắc nạn |
Hào 5 Lục Ngũ |
Kiều bán mình vào thanh lâu lần thứ nhất |
Hào 4 Lục Tứ |
Kiều gặp nạn Hoạn thư |
Hào 3 Lục Tam |
Kiều bị bán vào thanh lâu lần thứ hai |
Hào 2 Lục Nhị |
Kiều gặp Từ Hải mắc nạn Hồ Tôn Hiến |
Hào 1 Sơ Cửu |
Kim - Kiều tái hợp |
Ở phần mở đầu Truyện Kiều, khi giới thiệu gia đình Kiều, Nguyễn Du nói đến Vương Quan trước, tiếp đến là Thuý Vân rồi mới đến Thuý Kiều, không theo thứ bậc chị trước em sau. Trúc Viên Lê Mạnh Liêu cho rằng ngày xưa trọng nam khinh nữ nên giới thiệu Vương Quan trước tả Thuý Vân trước Kiều là cố ý dồn hết cái đẹp cho em để đến khi tả chị chỉ dùng hai chữ "phần hơn" là đủ. Cách làm đó Lê Mạnh Liêu khen là cao diệu. Chính xác, nhưng đó là cái nhìn mặt nổi về thi pháp, còn một cách nhìn tiềm phục cũng đáng lưu ý là Nguyễn Du đã giới thiệu ba chị em nhà họ Vương theo trình tự cấu trúc một quẻ Dịch. Quẻ đơn có ba vạch, vạch trên cùng tượng trưng cho hàng thiếu niên (em út) chỉ Vương Quan, vạch giữa chỉ hàng trung niên (em thứ) Thuý Vân, vạch dưới cùng chỉ hàng trưởng bối (cả) Thuý Kiều. Tại Hàn Quốc cũng có một bản dịch tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng Thuý Vân là con út chứ không phải Vương Quan.
Kinh Dịch có 8 quẻ đơn:
- Quẻ Càn còn gọi là quẻ Thiên có tượng là Vua, là Vương, là cha
- Quẻ Khôn còn gọi là quẻ Địa có tượng là Hoàng Hậu, là mẹ
- Quẻ Khảm còn gọi quẻ Thuỷ có tượng là nước, là trăng, con trai thứ
- Quẻ Ly còn gọi quẻ Hoả có tượng là lửa, con gái thứ
- Quẻ Tốn còn gọi quẻ Phong có tượng là gió, chị cả
- Quẻ Chấn còn gọi quẻ Lôi có tượng sấm, con trai trưởng
- Quẻ Cấn còn gọi quẻ Sơn có tượng là núi, con trai út, quân tử
- Quẻ Đoài còn gọi quẻ Trạch có tượng là đầm ao, con gái út
Trong Truyện Kiều, Viên ngoại họ Vương cha đẻ Thuý Kiều tương ứng với quẻ Càn, mẹ Thuý Kiều tương ứng với quẻ Khôn.
Vương Quan, tương ứng với quẻ Cấn là con trai út. Cấn còn có tượng là hiền nhân quân tử phù hợp với cách mô tả của Nguyễn Du:
"Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia"
Thuý Vân tương ứng với quẻ Ly vì là con gái thứ. Ly là mặt trời có hình tượng tròn đầy cao quý phù hợp với vóc dáng Thuý Vân:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang"
Kim Trọng và Thúc Sinh cả hai đều là người tình của Thuý Kiều, họ còn ở tuổi trung niên, tương ứng với quẻ Khảm có tượng là mặt trăng, cho nên giữa họ và Thuý Kiều có mối liên kết qua hình tượng mặt trăng.
Kim Trọng buổi ban đầu đến với Thuý Kiều: "Đề huề lưng túi gió trăng". Trăng là Kim Trọng, gió là Thuý Kiều, câu thơ như một dự báo, một định mệnh của Dịch.
Gặp Kim Trọng, Thuý Kiều về ôm mối tương tư, nhìn trăng lại nghĩ đến duyên phận, đến người mới gặp đã phải lòng:
"Một mình lặng ngắm bóng nga
Rộn đường gần với nỗi xa, bời bời"
"Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay chăng"
Khi bán mình cho Mã Giám Sinh theo về "cõi khách xa xăm", ánh trăng lại gợi cho Thuý Kiều nhớ về Kim Trọng:
"Đêm khuya ngắt tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông"
Thuý Kiều đã đồng hoá Kim Trọng với trăng và sâu sắc hơn theo Dịch Kim Trọng chính là Khảm là Trăng.
Trăng cũng là Thúc Sinh, khi Thúc Sinh đi "khuất mấy ngàn dâu xanh", một mình cô đơn Thuý Kiều nhìn trăng không khỏi nhớ đến Thúc Sinh:
"Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường"
Từ Hải - người anh hùng "Đội trời, đạp đất ở đời" đã được Nguyễn Du cô đúc tương hợp với quẻ Chấn, quẻ này có tượng là sấm, là chúa tể. Khi Từ Hải nổi giận, Từ Hải là hiện thân của sấm sét: "Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang". Thuý Kiều nói với Từ Hải cũng là nói với Sấm "Trộm nhờ sấm sét ra tay". Đội quân của Từ cũng là đội quân của sấm sét: "Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài".
Thuý Kiều là chị cả tương ứng với quẻ Tốn có tượng là gió. Mệnh vận cả đời Kiều gắn liền với gió, bao nhiêu gió trong Truyện Kiều hầu như thổi dồn vào đời Kiều đẩy cô gái ngây thơ phong gấm vùi dập xuống chốn bùn nhơ. Ngay từ đầu Truyện Kiều phong ba đã nổi: "Phút đâu ngọn gió cuốn cờ đến ngay". Người báo mệnh cho Kiều, Đạm Tiên, đã mang gió táp đến trong buổi xuân xanh của đời nàng: "Ào ào đổ lộc rung cây, ở trong dường có hương bay ít nhiều". Đời Kiều hiếm khi được cảnh "gió mát trăng thanh", "gió quang mây tạnh" mà chỉ toàn cảnh "gió giật mây vần", "gió táp mưa sa", "gió thảm mưa sầu". Kiều đã dự cảm mình sẽ hoá thân thành gió "Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về". Kim Trọng tương tư Kiều đã đồng hoá nàng với gió "Mành tương phân phất gió đàn, Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình", "Bẻ bài rầu rĩ tiếng tơ, Trầm bay lạt khói, gió đưa lay rèm, Dường như bên nóc bên thềm, Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng". Ở thanh lâu, Sở Khanh lừa Kiều diễn cảnh "quyến gió rũ mây" đẩy nàng đến mức "dập dìu lá gió cành chim" khiến Kiều đau đớn ê chề "mặt sao dày gió dạn sương" chẳng còn thiết tha với cuộc sống "thờ ơ gió trúc mưa mai", cho đến khi gặp lại Kim Trọng, mặc dầu khát khao hạnh phúc lứa đôi, nàng cũng không dám nhận lại quá khứ: "Một lời tuy có ước xưa, Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thuỷ triều chảy xuôi".
Số phận những nhân vật trong Truyện Kiều cũng không thoát khỏi sự chi phối của những quẻ chiếu mệnh.
Kim Trọng bước vào nhà Kiều là tai hoạ liền ập đến vì Kim Trọng là quẻ Khảm-Thuỷ hợp với Vương Ông quẻ Càn-Thiên thành quẻ Thiên-Thuỷ-Tụng là tranh chấp, kiện tụng. Cả nhà Kiều mắc hoạ thằng bán tơ, tan cửa nát nhà.
Kiều quẻ Tốn-Phong gặp Kim Trọng tạo thành thế Phong-Thuỷ-Hoán (thay đổi) khiến nàng phải chịu cuộc biến động lớn, thay đổi hoàn toàn thân phận "Khi sao phong gấm rũ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường". Cũng thế khi Kiều gặp Thúc Sinh, đời nàng một lần nữa lại đổi thay. Số mệnh quẻ Hoán lại chiếu đến đời nàng khiến nàng phải chịu cảnh "làm cho nhìn chẳng được nhau". Điều này lý giải tại sao Kim-Kiều không thể nên vợ nên chồng. Ảnh hưởng quẻ Hoán đeo đẳng họ suốt đời, đến nỗi sau 15 năm lưu lạc họ may mắn gặp lại nhau, hạnh phúc vẫn không mỉm cười với họ, cho dù chàng độ lượng "hoa tàn mà lại thêm tươi, trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa" nhưng nàng không làm sao nguôi quên quá khứ "Thiếp từ ngộ biến đến giờ, Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa". Họ đành "Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ" chịu sự an bài của số phận.
Kim không lấy được Kiều nhưng có duyên phận với Thuý Vân. Thuý Vân kết nghĩa với Kim Trọng là do sao Hoả (quẻ ly) chiếu mệnh hợp với Kim Trọng quẻ Khảm-Thuỷ thành quẻ Thuỷ-Hoả-Ký-Tế. Ký Tế là xong, nhưng chỉ xong, chỉ yên phận với Thuý Vân thôi, còn với Kim Trọng thì chưa. Theo Dịch quẻ kép được ghép bởi hai quẻ nội và ngoại, trong Thuỷ-Hoả-Ký-Tế, Thuý Vân quẻ Hoả là quẻ nội, chủ thể. Đối với Kim Trọng thì không thế vì Kim Trọng hợp với Thuý Vân lại thành quẻ Hoả-Thuỷ-Vị-Tế, Vị Tế là chưa xong, ở đây Kim Trọng quẻ Thuỷ là quẻ nội giữ vai trò chủ đạo. Kim Trọng vẫn còn vương vấn Thuý Kiều.
Chỉ có Từ Hải có thể đưa Thuý Kiều lên "ngôi mệnh phụ đường đường" vì Kiều quẻ Tốn-Phong hợp với Từ Hải quẻ Chấn-Lôi thành Phong-Lôi-Ích nghĩa là Từ Hải có thể mang lại lợi ích cho Kiều. Cả hai là "trai anh hùng, gái thuyền quyên" họ hợp lại cũng thành quẻ Lôi-Phong-Hằng nên mới có cơ "Phỉ nguyền sánh phượng, Đẹp duyên cởi rồng".
Dầu ý thức hay hoạt động theo sự dẫn dắt của vô thức trong Truyện Kiều vẫn chảy mạnh dòng máu Kinh Dịch. Nguyễn Du đã cơ cấu Truyện Kiều trên nền Kinh Dịch hết sức tài tình, hết sức linh diệu, khó nhận thấy bàn tay thao tác của bậc đại thi hào. Mỗi tình tiết, mỗi số phận của nhân vật đều phản ánh một cách sinh động hình tượng quẻ chiếu mệnh, tự nhiên như hơi thở. Đọc Truyện Kiều không thể không chú ý đến hai lớp vận động, lớp trên các nhân vật đang chuyển dịch theo số phận, lớp dưới các quẻ Dịch tương ứng đang vận hành. Phù sa Kinh Dịch đã góp phần làm nên sắc màu rực rỡ cho hoa trái Truyện Kiều.
Nguyễn Thiếu Dũng
Nguồn: www.thanhnien.com.vn
|
|
|
|
Tư Vấn HIV
»
Vòng tay cộng đồng !
»
Thêm một góc nhìn
»
Tìm về nguồn cội - Lạc Long Quân - Âu cơ
Di chuyển
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.
|