QPTD - Thứ hai, 05/ 12/2011-15:41:31
Tranh cổ động của Trịnh Bá Quát
|
Cách đây 65 năm - ngày 19-12-1946, hưởng
ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và
dân cả nước đã nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là một sự kiện
lịch sử trọng đại, tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí quật cường, quyết chiến
đấu vì độc lập, tự do của dân tộc ta.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược là sự tiếp tục cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, nhằm bảo vệ nền độc lập do
cuộc cách mạng đó đem lại. Nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của cuộc
kháng chiến là do thực dân Pháp ngoan cố quay lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Nhân dân ta, vốn có truyền thống nhân nghĩa, hòa hiếu, lại vừa mới giành được
độc lập, nên khát vọng cháy bỏng lúc này là muốn tạo dựng môi trường hòa bình
để xây dựng đất nước. Song trước dã tâm của thực dân Pháp, nhân dân ta buộc phải
đứng lên kháng chiến; đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chúng ta
muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”1.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo: vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài,
phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và trên cơ sở đoàn kết
chặt chẽ với nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia, kết hợp với sự giúp đỡ tích
cực của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới, dân tộc ta đã
đánh bại thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ, kết thúc cuộc kháng chiến
bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Thắng
lợi lịch sử đó đã tạo tiền đề để quân và dân ta tiếp tục đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ
nguyên mới: độc lập dân tộc và CNXH.
Nhìn lại chặng đường 65 năm
đã qua, chúng ta tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, tự hào về Đảng
quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đồng thời, chúng ta cũng thấy rõ hơn
ý nghĩa của những bài học kinh nghiệm được rút ra từ cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, để tiếp tục vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.
Trước hết, đó là bài học kiên định mục tiêu,
đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong cuộc kháng chiến.
Nhân tố quyết định thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta là sự lãnh
đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đánh giá đúng kẻ thù (bản chất,
âm mưu, khả năng của chúng); đồng thời, xuất phát từ tình hình cụ thể của đất
nước, ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của cuộc
kháng chiến là: giành độc lập cho dân tộc. Từ đó, đề ra đường lối kháng
chiến đúng đắn: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; tiến hành chiến tranh toàn dân,
toàn diện, lâu dài, với phương châm: tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là
chính. Để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó, Đảng ta đã vận dụng
phương pháp chỉ đạo chiến lược hết sức linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với hoàn
cảnh thực tiễn của từng thời kỳ, nên đã huy động được toàn dân, phát huy cao độ
sức mạnh của cả nước cho cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân
tộc Việt Nam đã đoàn kết thành một khối vững chắc trong Mặt trận dân tộc thống
nhất, trên nền tảng liên minh công - nông, thực hiện đấu tranh toàn diện trên
tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, trong đó
đấu tranh vũ trang giữ vai trò trực tiếp quyết định. Nhờ đó, quân và dân ta đã
giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng
chiến 9 năm đầy hy sinh, gian khổ, nhưng rất đỗi vẻ vang.
65 năm đã trôi qua, mặc dù
bối cảnh quốc tế và nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi, song bài học về sự
kiên định mục tiêu, đường lối cách mạng của Đảng vẫn còn nguyên giá trị. Trong
tình hình hiện nay, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn với CNXH; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển toàn diện đất nước là lợi ích cao nhất. Toàn quân, toàn
dân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, trong đó tập trung thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (2011 -
2015), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; phấn đấu đến giữa
Thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng XHCN mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định. Trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, chúng ta phải giải quyết, xử lý đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược, với phương châm: trong khi đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước, phải coi trọng đúng mức nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc; trong đó, phải thường xuyên đề cao cảnh giác, chủ động và kiên quyết
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá bằng Chiến lược “Diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Hai là, bài học về phát huy truyền thống yêu
nước, đoàn kết, ý chí chiến đấu kiên cường, tạo sức mạnh tổng hợp của cả dân
tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Đề cập đến sức mạnh của dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”2. Điểm đặc sắc là sức mạnh
tiềm tàng đó đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy đúng thời điểm
thông qua “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” (19-12-1946) và Chỉ
thị “Toàn quốc kháng chiến” (22-12-1946); đồng thời, được phát
triển lên chất mới trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Nhờ vậy, Đảng ta đã
xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ được lòng yêu
nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân,
toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó
của cả nước, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, càng đánh
càng mạnh, càng thắng lớn và cuối cùng giành thắng lợi quyết định.
Bài học nêu trên còn lưu lại
mãi mãi với thời gian. Vận dụng bài học này trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày
nay, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng - an ninh theo
Chỉ thị 12-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 116/2007/NĐ-CP của Chính phủ,
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ đảng viên
và nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện, cần
tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và mở rộng đối tượng giáo dục, bồi
dưỡng. Trong đó, cần tập trung bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành; chú trọng giáo dục truyền thống, bồi
đắp tinh thần yêu nước, yêu CNXH, niềm tự hào, tự tôn dân tộc cho toàn dân,
nhất là thế hệ trẻ; qua đó, giúp họ nêu cao cảnh giác, không để các thế lực thù
địch lợi dụng lòng yêu nước để phá hoại đường lối đối ngoại của Đảng; phá vỡ
mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nước ta với các nước láng giềng. Cùng
với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn
diện, ngày càng hiện đại; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (trước hết là
“thế trận lòng dân”) gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng khu vực
và trên cả nước. Qua đó, không ngừng tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước
và sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, bài học về vận dụng phương thức tiến hành
chiến tranh nhân dân phù hợp, nghệ thuật quân sự đặc sắc; chú trọng xây dựng
lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân
dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng, thắng lợi của bản lĩnh, trí tuệ con người Việt
Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Với tầm nhìn chiến lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sáng tạo và từng bước phát triển phương thức tiến hành chiến tranh
nhân dân. Đó là kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du
kích; phối hợp tác chiến của ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân du kích. Nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân còn
được thể hiện ở chỗ đánh địch bằng cả mưu, kế, thế, trận trong điều kiện nhỏ
thắng lớn, yếu chống mạnh, ít địch nhiều; thực hiện phương pháp tác chiến linh
hoạt ở các quy mô: đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn đan xen thích hợp; với các hình
thức tác chiến phòng ngự, phản công và tiến công, lấy tiến công là chủ yếu. Để
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta không ngừng phát triển,
đi tới thắng lợi cuối cùng, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang
ba thứ quân, nhất là các đơn vị bộ đội chủ lực và một số binh chủng quan trọng.
Nhờ đó, trong giai đoạn nửa cuối của cuộc kháng chiến, chúng ta có đủ điều kiện
để tổ chức các chiến dịch với quy mô vừa và lớn, từng bước làm thay đổi cục
diện chiến trường. Trong đó, có chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược, thực hiện
những đòn đánh quyết định, tiêu diệt lớn quân địch, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực tiễn của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
vững mạnh toàn diện luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta. Trước yêu cầu
cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, chúng ta càng phải coi trọng
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ
quân, đặc biệt là Quân đội nhân dân. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho quân đội thực
sự là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước,
nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc. Trong quá trình xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, trước hết là vững
mạnh về chính trị, phải chú trọng tạo bước đột phá trong việc xây dựng
quân đội từng bước hiện đại. Hiện nay và trong thời gian tới, chúng ta tiếp tục
ưu tiên đầu tư xây dựng Quân chủng Hải quân, Phòng không - Không quân, Binh
chủng Thông tin liên lạc, lực lượng Trinh sát kỹ thuật, Tác chiến điện tử...
theo hướng tiến thẳng vào hiện đại, nhằm tạo bước phát triển mới về chất và sức
mạnh chiến đấu mới của Quân đội nhân dân. Cùng với đó, cần chú trọng đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự, nhân văn quân
sự... nhằm từng bước phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Bốn là, bài học về phát huy sức mạnh dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù
xâm lược.
Ngay từ khi mới thành lập và
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định: cách mạng
Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng thế giới. Thực tiễn đã chứng minh rõ điều đó.
Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta chống ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, luôn gắn liền với phong trào đấu tranh của
các dân tộc thuộc địa, của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế
giới. Thống nhất ở mục tiêu cao cả mang tính chính nghĩa và tính nhân văn đó,
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ của nhân dân
ta được sự cổ vũ và giúp đỡ to lớn cả về tinh thần và vật chất của các lực
lượng cách mạng khắp năm châu, nhất là các nước XHCN anh em. Đặc biệt, trong
suốt quá trình kháng chiến, quân và dân ta đã kề vai sát cánh chiến đấu chống
kẻ thù chung cùng quân và dân hai nước bạn Lào và Cam-pu-chia, xây đắp nên mối
quan hệ đoàn kết keo sơn giữa ba dân tộc. Vì thế, có thể khẳng định thắng lợi
vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tiếp đó là
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi chung của nhân loại tiến bộ,
mà trực tiếp là của các dân tộc bị áp bức, các lực lượng dân chủ trong phong
trào đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc trên toàn
thế giới.
Bài học kinh nghiệm quý nêu
trên cần được tiếp tục vận dụng, phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Để thực hiện tốt vấn đề đó, nhất là trong bối cảnh nước ta đang
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trước hết, chúng ta phải nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược, quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng được xác
định tại Đại hội XI; đó là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”3. Trên cơ sở đó, tăng cường các hoạt động đối ngoại, tiếp
tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, mở rộng hợp tác toàn diện
trên các lĩnh vực với các đối tác, nhất là với các đối tác chiến lược, các nước
láng giềng, các nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống. Qua đó, nhằm không
ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường thế và lực
của đất nước để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; đồng thời,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
tiến bộ xã hội trong khu vực và trên thế giới.
Để thiết thực kỷ niệm 65 năm
Ngày Toàn quốc kháng chiến, 67 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam,
22 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân, chúng ta cần tiếp tục phát huy khí phách
quật khởi, truyền thống anh dũng của dân tộc và những kinh nghiệm quý trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng, sự nghiệp giải phóng dân tộc
nói chung vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo con đường XHCN, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là sự trân trọng
lịch sử, sự tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ và cũng là trách nhiệm chính trị của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN hiện nay.
Đại tướng PHÙNG QUANG THANH
Uỷ viên Bộ Chính trị,
Phó Bí thư QUTƯ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Những khúc ca về người lính