Vai trò của gia đình và cộng đồng còn mờ nhạt
Không
chỉ ở đô thị, hiện nay nhiều khu vực nông thôn đã và đang tham gia một
cách mạnh mẽ vào quá trình CNH - HĐH. Kèm theo đó, sự xuất hiện các yếu
tố văn hóa trẻ, lối sống gấp, sống thoáng, những tệ nạn xã hội như ma
túy, mại dâm… làm cho những lo ngại về sự lây lan HIV trong cộng đồng
ngày càng cao, mà nhóm có nguy cơ nhất tập trung vào giới trẻ. Có một
thực tế là vai trò của nhà trường và gia đình, các tổ chức địa phương
trong việc giáo dục thanh thiếu niên tìm hiểu và phòng chống HIV vẫn còn
rất mờ nhạt. Điều đó thể hiện ở nguồn thông tin về HIV cho thanh thiếu
niên từ gia đình, nhà trường và các tổ chức quần chúng ở địa phương còn
rất ít; chưa thể hiện tương xứng với vị trí, vai trò của các đối tượng
này trong đời sống của thanh thiếu niên.
Theo kết quả điều tra quốc gia về nguồn thông tin về HIV đối với vị
thành niên và thanh niên lần thứ 2 (SAVY 2) năm 2009 thì kênh thông tin
giữa cha mẹ và con cái chưa thực sự phát huy hiệu quả, chỉ có 1,4% nam
và 2,6% nữ có nguồn thông tin về HIV từ các thành viên gia đình. Trong
khi đó, 23,2% nam và 33,3% nữ đã nghe về HIV từ nhà trường, thầy cô
giáo; 2,7% nam và 5,3% nữ nghe từ các tổ chức xã hội và rất ít vị thành
niên, thanh niên (1,2%) có được thông tin về HIV qua hội họp hay các câu
lạc bộ. Những nguồn thông tin trực tiếp, quan trọng đối với giới trẻ
này còn quá hạn chế. Đây là thách thức đối với Việt Nam trong việc
phòng, chống HIV và chống kỳ thị với người có HIV.
Để có thể thực hiện thành công việc phòng tránh HIV cho thanh thiếu niên
thì không chỉ tuyên truyền, hướng dẫn kiến thức cho các em mà cần phải
tạo một môi trường thuận lợi bằng việc thực hiện đồng bộ các hoạt động
nâng cao nhận thức cho cộng đồng như bố mẹ, thầy cô giáo, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt tại địa bàn về những vấn đề này. Nâng cao hiểu biết về HIV
nói riêng và sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục nói chung cho các bậc
cha mẹ và cộng đồng là một việc làm có ý nghĩa trong việc giúp các bậc
cha mẹ, các thầy cô giáo và cộng đồng hiểu được rõ hơn về HIV, về các
biện pháp phòng, chống HIV. Qua đó nhà trường, các đoàn thể, ban ngành
tại địa phương và nhất là các bậc cha mẹ sẽ ủng hộ, tạo điều kiện cho
việc tiếp thu kiến thức và trực tiếp cung cấp kiến thức và giáo dục các
biện pháp phòng, chống HIV cho con, em mình.
Tạo cơ hội cho giới trẻ phòng, chống HIV/AIDS
Với quan điểm này, những năm qua, dự án Giới và phòng chống HIV/AIDS
đã có những hoạt động bổ ích, mang lại hiệu quả thiết thực trong việc
nâng cao kiến thức và thay đổi hành vi của giới trẻ về sức khỏe sinh
sản, đặc biệt là HIV, bao gồm chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người
có HIV/AIDS. Với các hình thức truyền thông như mở các tủ sách cộng
đồng, góc thân thiện, phân phát tài liệu, sách báo; các hoạt động tập
huấn cho phụ huynh, cán bộ địa phương, các buổi nói chuyện của chuyên
gia và các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ (CLB) trao đổi, hỏi đáp, ứng
tác, biểu diễn tiểu phẩm, các phần thi hay diễn kịch… dự án được các
chuyên gia đánh giá có tác động hiệu quả trong việc làm cho mối quan hệ
giữa cha mẹ và con cái trở nên gần gũi, tốt đẹp hơn; nâng cao hiểu biết
về giới, sức khỏe sinh sản và HIV cho cả vị thành niên, thanh niên và
các bậc cha me; giảm kỳ thị đối với người có HIV.
Qua gần 10 năm hoạt động, dự án đã thu hút được 1.235 vị thành niên,
thanh niên tham gia tập huấn, 30.324 em tham gia hoạt động mở rộng tại
cộng đồng và 913 em tham gia các câu lạc bộ về nội dung bảo vệ các quyền
sức khỏe sinh sản, quyền sức khỏe tình dục bao gồm cả phòng, chống HIV.
Hiệu quả rõ rệt của truyền thông thể hiện rõ rệt ở tỷ lệ khá cao vị
thành niên, thanh niên và các bậc cha mẹ trong khu vực dự án có hiểu
biết đúng về HIV. Cụ thể, 96% vị thành niên, thanh niên hiểu đúng về
đường lây nhiễm HIV/AIDS, 85% hiểu đúng về cách phòng tránh lây nhiễm
bệnh HIV/AIDS, 95% có cách cư xử đúng với người có HIV/AIDS và 89% hiểu
đúng về quyền của người nhiễm HIV/AIDS. Các con số này đều cao hơn ở khu
vực ngoài dự án.
Tỷ lệ các bậc cha mẹ trong vùng dự án có sự hiểu biết đúng về HIV cao
hơn rõ rệt. 92% cha mẹ hiểu đúng về các con đường lây nhiễm HIV/AIDS so
với 58% vùng ngoài dự án. Tỷ lệ cha mẹ hiểu đúng về cách phòng tránh lây
nhiễm bệnh HIV/AIDS là 67% vùng dự án và 58% vùng ngoài dự án. Tỷ lệ
cha mẹ có cách cư xử đúng với người có HIV/AIDS lần lượt là 80% và 65%.
Tỷ lệ cha mẹ hiểu đúng về quyền của người nhiễm HIV/AIDS là 69% và 54%.
Là một CLB được thành lập từ dự án, CLB thôn Cao Bồ, xã Yên Hồng, huyện Ý
Yên, tỉnh Nam Định được thành lập từ năm 1993, đến nay đã đi vào nề
nếp, sinh hoạt có quy củ. CLB có 94 thành viên, bao gồm cả các bậc cha
mẹ và trẻ vị thành niên, thanh niên. Ngoài những buổi sinh hoạt riêng
cho từng đối tượng là phụ huynh và thanh thiếu niên, CLB cũng đã tổ chức
các buổi lồng ghép sinh hoạt cho 2 nhóm đối tượng này; ngoài ra còn có
những buổi giao lưu với các thôn bạn để mở rộng mô hình sinh hoạt.
Đánh giá về hiệu quả hoạt động của CLB, Chủ nhiệm CLB Nguyễn Hải Quân
cho biết, từ khi CLB được mở ra và qua thời gian sinh hoạt tại CLB, mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái của các gia đình trong thôn đã gần gũi
hơn, cởi mở hơn. Cha mẹ và con cái đã có thể chia sẻ với nhau những vấn
đề về sức khỏe sinh sản, về các biện pháp phòng chống HIV, không còn cái
e dè như trước. Đối với vị thành niên, qua những kiến thức được cung
cấp tại CLB, các em đã biết và tự bảo vệ mình trước các nguy cơ lây
nhiễm HIV. Đặc biệt, hiệu quả hoạt động của CLB thể hiện rõ rệt nhất
trong cách cư xử của mọi người đối với những người có HIV. Trước khi có
CLB, người dân không muốn cho con cái mình đến gần người có HIV, hoặc
thậm chí cả con của họ vì sợ lây bệnh. Từ khi CLB được thành lập, được
sự tư vấn, hướng dẫn và qua các buổi sinh hoạt của CLB, quan hệ của
người dân và cả chính quyền, đoàn thể với người có HIV đã tốt hơn rất
nhiều, ví dụ như nhiều người đã cho con em mình cùng sinh hoạt, cùng học
tập với người có HIV...
Hy vọng rằng, cùng với nhiều biện pháp khác, những mô hình giáo dục về
phòng, chống HIV như thế này sẽ được nhân rộng hơn nữa để thanh thiếu
niên, nhất là các em ở vùng nông thôn, miền núi có cơ hội được có nhiều
thông tin hơn nữa trong việc phòng, chống HIV.