Bảo hiểm y tế (BHYT) là giải pháp tài chính bền vững trong chăm sóc sức khỏe cho người dân. Ðối với những người không may nhiễm HIV/AIDS, BHYT càng trở nên quan trọng trong việc bảo đảm cho họ được tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh (KCB) khi các nguồn tài trợ kinh phí cho hoạt động này bị cắt giảm mạnh. Tuy nhiên, với nhiều nguyên nhân, đến nay nhiều người nhiễm HIV chưa được tiếp cận và điều trị bằng nguồn kinh phí từ BHYT.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Ðặng Thuần Phong, cho biết: BHYT đang được xem là một giải pháp tài chính bền vững nhằm duy trì hoạt động điều trị HIV/AIDS khi thách thức về nguồn lực tài chính bị cắt giảm trong thời gian tới. Ước tính, tổng nhu cầu kinh phí cho công tác phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2014-2020 là 24.547 tỷ đồng. Trong đó, 3.301 tỷ đồng cho công tác truyền thông, 7.200 tỷ đồng cho công tác giảm hại, 12.625 tỷ đồng cho công tác điều trị... Theo tính toán, chúng ta chỉ có thể huy động được 11.216 tỷ đồng, mới đáp ứng 45,7% nhu cầu của giai đoạn 2014-2020. Khảo sát của Cục phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, số lượng người bệnh HIV/AIDS có thẻ BHYT hiện chỉ chiếm 15% trong tổng số người nhiễm HIV/AIDS; trong đó 51,9% thuộc nhóm đối tượng nghèo, 18,9% thuộc nhóm cận nghèo. Và giải pháp của ngành y tế từ chỗ chỉ trông chờ vào nguồn hỗ trợ của tổ chức quốc tế sẽ chuyển sang lồng ghép vào hệ thống y tế và sử dụng ngân sách trong nước, nhất là BHYT. Bà Dương Thúy Anh, Trưởng phòng Tài chính Cục phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho rằng: Việc người nhiễm HIV phải bỏ chi phí ra mua BHYT sẽ khiến họ có trách nhiệm hơn trong việc tuân thủ đúng phác đồ điều trị. Như vậy, sẽ tránh được tình trạng bỏ điều trị và sẽ giảm được nguy cơ nhờn thuốc và cũng tránh cho người bệnh không phải chuyển sang phác đồ điều trị cao hơn và tốn kém hơn nhiều.
Chị Trần Thị T (huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên), một người nhiễm HIV chia sẻ: "Gia đình tôi thuộc đối tượng hộ nghèo của xã. Từ nhiều năm nay, tôi được cấp thẻ BHYT miễn phí dành cho đối tượng nghèo. Có BHYT, tôi được hưởng nhiều dịch vụ KCB. Mỗi lần KCB, tôi được BHYT chi trả hỗ trợ điều trị đúng tuyến đến 80%.
Tuy nhiên, theo Phó Cục trưởng phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), Bùi Ðức Dương, sử dụng BHYT trong điều trị HIV/AIDS vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập như: Cơ sở điều trị HIV/AIDS còn thiếu lồng ghép với hệ thống y tế cơ sở, cho nên chưa có đủ tư cách pháp lý rõ ràng để đủ điều kiện ký hợp đồng với các cơ quan bảo hiểm. Các cơ sở điều trị tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tuyến tỉnh, thành phố lại không có chức năng KCB cho nên không đủ điều kiện ký kết hợp đồng với BHYT. Bên cạnh đó, còn có những quy định khắt khe trong điều luật của BHYT như: Trong quyền lợi về KCB BHYT đối với người bị nhiễm HIV/AIDS hiện nay, quỹ BHYT sẽ không chi trả cho người bệnh điều trị đã được ngân sách Nhà nước chi trả. Còn tại khoản 10, 12 Ðiều 23 của Luật BHYT lại quy định: "trường hợp tổn thương thể chất, tinh thần do hành vi vi phạm pháp luật do người đó gây ra" cũng sẽ không được hưởng BHYT. Trong khi đó, phần lớn người nhiễm HIV đều thuộc nhóm nguy cơ cao (nghiện hút, gái mại dâm). Ngoài ra, quyền lợi BHYT bị hạn chế khi KCB tại các cơ sở y tế không ký hợp đồng KCB và không theo tuyến chuyên môn kỹ thuật. Khó khăn nữa trong tiếp cận KCB BHYT của người nhiễm HIV là phần lớn người nhiễm HIV chưa sẵn sàng sử dụng thẻ BHYT trong KCB, vì mặc cảm với bệnh tật và vẫn còn sự phân biệt đối xử trong chính hệ thống y tế.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long, để người nhiễm HIV được tham gia BHYT toàn diện các cấp có thẩm quyền cần hoàn thiện hệ thống hướng dẫn thanh toán chi phí KCB BHYT đối với người nhiễm HIV/AIDS. Sửa đổi khoản 10, 12 Ðiều 23 Luật BHYT để không hạn chế việc chi trả dịch vụ điều trị HIV/AIDS và ban hành gói dịch vụ điều trị HIV/AIDS chi trả từ nguồn BHYT. Song song với giải pháp nói trên, cần củng cố hệ thống tổ chức dịch vụ điều trị HIV/AIDS như thành lập cơ sở điều trị ARV đặt tại các bệnh viện để quản lý và điều trị ngoại trú người bệnh AIDS; bảo đảm tính bền vững và đáp ứng đủ điều kiện để BHYT thanh toán. Ðối với người bệnh nặng, sẽ được nhập viện và điều trị nội trú như các bệnh thông thường khác. Ðồng thời, tiến tới phải thành lập cơ sở điều trị ARV đặt tại trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước để có đủ điều kiện ký hợp đồng với BHYT. Cần xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn KCB BHYT đối với người nhiễm HIV/AIDS như đăng ký KCB tại tuyến huyện, xã, không phân biệt địa giới hành chính trong địa bàn cấp tỉnh để người nhiễm HIV có thể đăng ký KCB BHYT ban đầu tại bệnh viện nơi có phòng khám HIV/AIDS. Ðáng chú ý, cần triển khai đồng bộ, mạnh mẽ các giải pháp thực hiện Ðề án tiến tới BHYT toàn dân theo Quyết định 538/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Khi thực hiện BHYT toàn dân, nghĩa là chúng ta đã mở rộng đối tượng tham gia BHYT. Như vậy, có nhiều người tham gia BHYT thì sẽ có sự chia sẻ, cân bằng được mức độ thu chi bảo hiểm. Ngoài ra, việc thực hiện điều chỉnh mức đóng BHYT theo lộ trình thích hợp sẽ giúp ích cho người nhiễm HIV sử dụng BHYT trong điều trị HIV/AIDS.