Các kết quả của một thử nghiệm mới cho thấy rằng một loại thuốc herpes thông thường có thể làm giảm mức độ độc lập của nhiễm HIV herpes .

Các thử nghiệm được tiến hành bởi một nhóm nghiên cứu quốc tế - bao gồm một nhóm nghiên cứu từ Đại học Case Western Reserve (CWRU) ở Cleveland, OH - và được báo cáo trong tạp chí Clinical Infectious Diseases.
Các nhà điều tra tìm thấy - trái với những nghiên cứu trước đó - rằng valacyclovir thuốc herpes thường được sử dụng (được biết đến dưới tên thương hiệu Valtrex) làm giảm nồng độ của HIV-1, ngay cả ở những bệnh nhân không có herpes.
HIV-1 là type phổ biến của vi-rút gây suy giảm miễn dịch (HIV) gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Khi đề cập đến HIV thường có nghĩa là HIV-1.
Trước đây người ta cho rằng sự hiện diện của vi rút herpes simplex -2 (HSV-2) là điều kiện để valacyclovir chống lại HIV -1 một cách hiệu quả.
Tuy nhiên đồng tác giả Benigno Rodriguez - giáo sư y khoa về các bệnh truyền nhiễm tại CWRU School of Medicine, cho biết:
"Những kết quả này đã chứng minh rằng cơ chế mà valacyclovir hoạt động chống lại HIV không chỉ là thông qua sự hiện diện của HSV-2."
Các kết quả của cuộc thử nghiệm cho thấy valacyclovir không chỉ có hiệu quả cho nhiều bệnh nhân HIV hơn so với suy nghĩ trước đây, họ cũng đã chỉ ra những con đường mới cho việc phát triển các loại thuốc HIV.
Tin tức như vậy sẽ rất được hoan nghênh bởi một số hình thức của HIV-1 đã có khả năng kháng được các thuốc điều trị HIV đang được dùng để điều trị hiện nay
GS Rodriguez nói rằng nghiên cứu của họ cũng đưa ra được những gợi ý về cách dùng thuốc để làm giảm nồng độ HIV-1.
Valacyclovir giảm tải lượng virus bằng cách ngăn chặn HIV-1 nhân rộng
Các phát hiện cho thấy làm giảm tải lượng virus bởi vì một khi nó kích hoạt bên trong tế bào nhiễm HIV, valacyclovir sẽ ngăn chặn virus từ sao chép.
Có một liên kết về dịch tễ học giữa HIV-1 và HSV-2 là herpes gây ra sự bùng phát định kỳ của các tổn thương cơ quan sinh dục, làm cho người nhiễm herpes nhiều khả năng bị lây nhiễm HIV qua quan hệ thân mật.
Sự bùng phát herpes được điều trị hoặc với acyclovir hoặc valacyclovir, tuy nhiên valacyclovir được dùng với liều ít thường xuyên hơn.
Trước đó acyclovir đã gợi ý rằng thuốc có thể ngăn chặn HIV-1 sao chép, ngay cả trong trường hợp không có HSV-2. Điều này khiến các thử nghiệm mới với valacyclovir ở những bệnh nhân nhiễm HIV được tiến hành.
Có 2 nghiên cứu khác ở Mỹ và Peru diễn ra trong năm 2009 đến 2012 trên tổng cộng 18 bệnh nhân bị nhiễm HIV-1 có kết quả xét nghiệm âm tính với HSV-2; Họ là những người có lượng tế bào CD4 thấp và không được dùng thuốc kháng HIV.
Các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm. Nhóm 1, bắt đầu điều trị với các thuốc, nhóm 2 được cho các giả dược. Nghiên cứu là mù đôi, có nghĩa là bệnh nhân và bác sỹ đang điều trị cho họ đều không biết.
Các bệnh nhân lấy thuốc (hoạt động hoặc placebo) hai lần mỗi ngày trong 12 tuần. Các thử nghiệm cũng là một thử nghiệm chéo, nên sau khi nghỉ 2 tuần không điều trị, nhóm 1 chuyển qua dung giả dược và nhóm 2 dùng thuốc.
Tải lượng virus HIV đã giảm với valacyclovir, và tăng với giả dược:
Kết quả cho thấy rằng khi các bệnh nhân điều trị bằng valacyclovir, tải lượng virus HIV của họ đã giảm xuống, và khi họ dùng giả dược, lượng virus HIV của họ đã tăng lên.
Giáo sư y khoa Michael M. Lederman tại CWRU, nói:
"Nghiên cứu lâm sàng gần đây nhất của chúng tôi chứng minh rằng acyclovir trực tiếp ngăn chặn HIV nhân bản. Hoạt tính kháng HIV của valacyclovir không phụ thuộc vào sự ngăn chặn tình trạng viêm gây ra bởi virus herpes simplex - 2."
Nhóm nghiên cứu CWRU tin rằng nghiên cứu cung cấp những manh mối có giá trị để phát triển một loạt thuốc kháng HIV mới, sử dụng những cơ sở dựa trên cấu trúc phân tử của valacyclovir, giáo sư Lederman giải thích:
"Mỗi loại thuốc có thể là một tác nhân được sử dụng kết hợp một cách an toàn ở một số người nhiễm HIV, những người nhiễm các chủng HIV có khả năng kháng thuốc. Valacyclovir cũng có thể làm tăng tác dụng của các loại thuốc kháng HIV khác khi kết hợp. Valacyclovir là một loại thuốc được dung nạp tốt, và nó không có nhiều tác dụng phụ. "
Kinh phí cho nghiên cứu đến từ các viện nghiên cứu, các chương trình khác nhau.