Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline PHUC MINH  
#1 Đã gửi : 02/06/2016 lúc 05:37:00(UTC)
PHUC MINH

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Nhóm: Administrators, BQT, Tham vấn viên Diễn đàn
Gia nhập: 04-12-2013(UTC)
Bài viết: 6.599
Man
Đến từ: Hồ Chí Minh

Thanks: 1736 times
Được cảm ơn: 3126 lần trong 2370 bài viết

Đặt vấn đề.

  Cách đây không lâu có một bạn phát hiện nhiễm HIV tại một trung tâm chuẩn đoán y khoa tại Sài Gòn, khi bạn đó yêu cầu được chích ngừa viêm gan B vì là đối tượng đồng tính rất dễ bị đồng nhiễm HIV với viêm gan B, C… thì được trả lời rằng dùng ARV thì việc chích ngừa không có tác dụng vì ARV chính là thuốc kháng virus sẽ làm cho vắc-xin mất tác dụng. Cũng có người trao đổi với  PM rằng trong một cuộc thảo luận nhóm có người cho rằng thuốc ARV là thuốc chữa viêm gan B người nhiễm HIV đang dùng ARV mà chích ngừa viêm gan B thì chỉ tốn tiền mà không có tác dụng phòng chống bệnh…

 Bản thân Phúc Minh từ lâu đã trăn trở suy nghĩ về vấn đề này vì nghĩ rằng người nhiễm HIV rất dễ bị nhiễm bệnh, cho nên nếu chủ động phòng chống được bệnh nào thì nên chủ động vì từ xa xưa ông cha ta tâm niệm “… Phòng bệnh hơn chữa bệnh..” Do vốn kiến thức còn hạn hẹp nên chưa có điều kiện tìm hiểu sâu về vấn đề này, trong một lần tình cơ đọc được status của Bác sĩ Nguyễn Tấn Thủ về vấn đề chích ngừa cho người nhiễm HIV nay PM tóm tắt cung cấp một số thông tin để mọi người cùng tìm hiểu và áp dụng vào trường hợp cụ thể của bản thân để có một sức khỏe ổn định lâu dài.

Đôi nét về khái niệm và lịch sử tim ra vắc-xin .

Vắc-xin là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một (số) tác nhân gây bệnh cụ thể. Các nghiên cứu mới còn mở ra hướng dùng vắc-xin để điều trị một số bệnh. Việc dùng vắc-xin để phòng bệnh gọi chung là chủng ngừa hay tiêm phòng hoặc tiêm chủng, mặc dù vắc-xin không những được cấy (chủng), tiêm mà còn có thể được đưa vào cơ thể qua đường miệng.

Edward Jenner được công nhận là người đầu tiên dùng vắc-xin để ngừa bệnh cho con người ngay từ khi người ta còn chưa biết bản chất của các tác nhân gây bệnh (năm 1796). Louis Pasteur với các công trình nghiên cứu về vi sinh học và miễn dịch học đã mở đường cho những kiến thức hiện đại về vắc-xin.

Truyền thuyết

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, vua Mithridate VI mỗi ngày đều uống một lượng nhỏ độc chất cho cơ thể quen dần nhằm đương đầu với nguy cơ bị ám sát. Chuyện kể rằng cách này đã tỏ ra hiệu quả vì về sau, khi Mithridate thất trận và tự sát, liều thuốc độc ông ta uống vào chẳng có tác dụng gì.

Ở Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ thứ 10, các thầy lang Đạo giáo đã bí mật dùng một kỹ thuật phòng bệnh đậu mùa. Các thầy lang đã lấy vẩy sẹo của người bị bệnh (chứa mầm bệnh), cho vào một chiếc hộp kín rồi giữ ở nhiệt độ nhất định trong một thời gian để giảm độc tính, sau đó nghiền nhỏ thổi vào mũi của người khỏe chưa từng mắc bệnh đậu mùa để ngừa bệnh.

Một phương pháp tương tự cũng được dùng ở Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 18.

Khám phá khoa học

Vắc-xin đầu tiên gắn với tên tuổi của Edward Jenner, một bác sĩ người Anh. Năm 1796, châu Âu đang xảy ra dịch đậu mùa. Kinh nghiệm dân gian cho thấy những nông dân vắt sữa bò có thể bị lây bệnh đậu bò, nhưng sau khi khỏi bệnh, họ trở nên miễn nhiễm đối với bệnh đậu mùa. Dựa vào đó, Jenner chiết lấy dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của cô bệnh nhân Sarah Nelmes rồi cấy dịch này vào cánh tay của cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Sau đó Phipps đã có những triệu chứng của bệnh đậu bò. 48 ngày sau, Phipps khỏi hẳn bệnh đậu bò, Jenner liền tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa cho Phipps, nhưng Phipps không hề mắc căn bệnh này. Cách làm của Jenner xét theo các tiêu chuẩn y đức ngày nay là hoàn toàn sai trái, nhưng rõ ràng đó là một hành động có tính khai phá: Đứa trẻ được chủng ngừa đã đề kháng được bệnh.

Vào thời của Jenner, các virus vẫn chưa được khám phá, còn vi khuẩn tuy đã được tìm ra nhưng vai trò gây bệnh của chúng chưa được biết. Thời điểm 1798, khi Jenner công bố kết quả thí nghiệm của mình, người ta chỉ hình dung là có các "mầm bệnh" gây nên sự truyền nhiễm.

Tám mươi năm sau, Louis Pasteur nghiên cứu bệnh tả khi dịch tả đang tàn sát đàn gà. Ông cấy các vi khuẩn tả trong phòng thí nghiệm rồi đem tiêm cho gà: những con bị tiêm chết sạch. Mùa hè năm 1878, ông chuẩn bị một bình dung dịch nuôi cấy vi khuẩn dạng huyền phù, rồi để đó, đi nghỉ mát. Khi trở về, ông lại trích lấy huyền phù đó đem tiêm cho gà. Lần này thì bầy gà chỉ bị bệnh nhẹ rồi cả đàn cùng khỏe lại. Pasteur hiểu ra rằng khi ông đi vắng, đám vi khuẩn trong huyền phù đó đã bị biến tính, suy yếu đi. Ông bèn lấy vi khuẩn tả (bình thường) đem tiêm cho những con gà vừa trải qua thí nghiệm trên và những con chưa hề bị chích vi khuẩn. Kết quả là những con nào từng được chích vi khuẩn (biến tính) thì có khả năng đề kháng lại mầm bệnh, bọn còn lại chết hết. Qua đó, Pasteur đã xác nhận các giả thuyết của Jenner. Điều đó đã mở đường cho ngành miễn dịch học hiện đại.

Từ đó, chủng ngừa đã đẩy lùi nhiều bệnh. Nguyên tắc xử dụng vắc-xin vẫn không có gì thay đổi: gây miễn dịch bằng một vi khuẩn hoặc virus giảm độc lực, hoặc với một protein đặc hiệu có tính kháng nguyên để gây ra một đáp ứng miễn dịch, rồi tạo một trí nhớ miễn dịch đặc hiệu, từ đó tạo ra hiệu quả đề kháng cho cơ thể về sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập với đầy đủ độc tính.

Người ta còn hướng tới triển vọng dùng vắc-xin để điều trị một số bệnh còn nan y như ung thư, AIDS v.v.

Cơ chế hoạt động của vắc-xin

Hệ miễn dịch nhận diện vắc-xin là vật lạ nên hủy diệt chúng và "ghi nhớ" chúng. Về sau, khi tác nhân gây bệnh thực thụ xâm nhập cơ thể, hệ miễn dịch đã ở tư thế sẵn sàng để tấn công tác nhân gây bệnh nhanh chóng hơn và hữu hiệu hơn (bằng cách huy động nhiều thành phần của hệ miễn dịch, đặc biệt là đánh thức các tế bào lympho nhớ). Đây chính là các ưu điểm của đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.

Các loại vắc-xin

Vắc-xin có thể là các virus hoặc vi khuẩn sống, giảm độc lực, khi đưa vào cơ thể không gây bệnh hoặc gây bệnh rất nhẹ. Vắc-xin cũng có thể là các vi sinh vật bị bất hoạt, chết hoặc chỉ là những sản phẩm tinh chế từ vi sinh vật.

Ba loại vắc-xin kinh điển

Vắc-xin bất hoạt là các vi sinh vật độc hại bị giết bằng hóa chất hoặc bằng nhiệt. Ví dụ: các vắc-xin chống cúm, tả, dịch hạch và viêm gan siêu vi A. Hầu hết các vắc-xin loại này chỉ gây đáp ứng miễn dịch không hoàn toàn và ngắn hạn, cần phải tiêm nhắc nhiều lần.

Vắc-xin sống, giảm độc lực là các vi sinh vật được nuôi cấy dưới những điều kiện đặc biệt nhằm làm giảm đặc tính độc hại của chúng. Vắc-xin điển hình loại này thường gây được đáp ứng miễn dịch dài hạn và là loại vắc-xin được ưa chuộng dành cho người lớn khỏe mạnh. Các vắc-xin ngừa bệnh sốt vàng, sởi, bệnh ban đào và quai bị đều thuộc loại này.

Các "toxoid" là các hợp chất độc bị bất hoạt trích từ các vi sinh vật (trong trường hợp chính các độc chất này là phương tiện gây bệnh của vi sinh vật). Ví dụ: các vắc-xin ngừa uốn ván và bạch hầu.

Vắc-xin sống ngừa bệnh lao không phải là dòng vi khuẩn lao gây bệnh, mà là một dòng lân cận được gọi là BCG.

Một số loại vắc-xin mới đang nghiên cứu

Các vắc-xin này còn được xem là vắc-xin của tương lai, có 6 hướng phát triển chính hiện nay:

Sử dụng các phụ gia (adjuvant) mới, nhằm gây ra loại đáp ứng miễn dịch mong muốn.

Vắc-xin khảm: sử dụng một sinh thể quen biết để hạn chế hiện tượng "phản tác dụng",

Vắc-xin polypeptidique: tăng cường tính sinh miễn dịch nhờ liên kết tốt hơn với các phân tử MHC: peptide nhân tạo 1/2 giống virus, 1/2 kia gắn MHC; đoạn peptide mô phỏng 1 quyết định kháng nguyên (epitope).

Anti-idiotype: idiotype là cấu trúc không gian của kháng thể tại vị trí gắn kháng nguyên, đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng.

Vắc-xin DNA: DNA của tác nhân gây bệnh sẽ được biểu hiện bởi tế bào người được chủng ngừa.

Sử dụng véc-tơ tái tổ hợp – dùng các vi khuẩn thuần tính hoặc các tế bào trình diện kháng nguyên như tế bào tua được chuyển gen để biểu hiện kháng nguyên mong muốn.

Vắc-xin dùng để điều trị

Một trong những hướng nghiên cứu mới là miễn dịch liệu pháp, bao gồm miễn dịch liệu pháp thụ động và chủ động (tức vắc-xin liệu pháp). Người ta hy vọng là phương pháp này sẽ chữa được những bệnh như ung thư, AIDS và bệnh Alzheimer.

Người nhiễm HIV/AIDS cần những loại Vắc-xin gì.

Vậy thì người nhiễm HIV, người đang điều trị ARV chích ngừa Vắc-xin có mất tác dụng không? Có cần chích ngừa nữa không?

Câu trả lời các bạn tự tìm hiểu thêm, nhưng theo tôi thì người nhiễm HIV/AIDS vẫn cần chích ngừa phòng bệnh, tùy theo phác đồ điều trị ARV, tùy thuộc vào CD4 mà chích ngừa các bệnh nào và chích ngừa loại vắc-xin cho phù hợp. Chích ngừa là biện pháp phòng bệnh chủ động khác với ARV là biện pháp phòng chữa bệnh bị động, cho nên dù ARV có trong thành phần chữa viêm gan thì vẫn nên chích ngừa viêm gan.

Điều này phù hợp với khuyến cáo của CDC-Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ, và phù hợp với khuyến cáo của một số trang web uy tin về HIV trên thế giới. Các bạn có thể tham khác các bài viết theo đường link sau:

http://www.cdc.gov/vaccines/adults/rec-vac/health-conditions/hiv.html

http://www.webmd.com/vaccines/aids-hiv-immunizations?page=2

Nhiễm HIV và tiêm chủng ở người lớn

Vắc-xin là đặc biệt quan trọng đối với những người có bệnh mãn tính như nhiễm HIV. Sau đây Phúc Minh tổng hợp một số đề xuất cho tất cả người lớn nhiễm HIV dương tính được khuyến cáo trong các trang web trên (người lớn).

 Do vốn ngoại ngữ có hạn nên không tránh khỏi sai sót, mong rằng các bạn tham khảo từ tài liệu gốc ở trên, nếu phát hiện sai sót hãy đính chính lại giùm.

Nếu bạn bị nhiễm HIV và số lượng CD4 của bạn là 200 hoặc cao hơn [tỷ lệ CD4 bằng hoặc cao hơn 15%], hãy chích ngừa:

  • Influenza vaccine – Chích hàng năm để bảo vệ chống lại bệnh cúm theo mùa. Nên chích vào giữa tháng 10 hàng năm.
  • Tdap vaccine – Chủng ngừa Tdap để bảo vệ chống lại bệnh ho gà và uốn ván, bạch hầu. Chích 1 mũi, nhắc lại sau 10 năm, tiêm nhắc lại sớm hơn nếu có bị chân thương như vết mổ.
  • Pneumococcal vaccine – chủng ngừa để bảo vệ chống lại bệnh viêm phổi và các bệnh phế cầu khuẩn khác. Chích ngay khi phát hiện nhiễm HIV (trừ khi đã chích trong vòng 5 năm trước đó). Nếu CD4 thấp hơn 200 thì chích mũi 2 khi CD4 đạt 200, sau đó nhắc lại hàng năm.
  • Hepatitis B vaccine –  vắc-xin viêm gan B để bảo vệ chống lại bệnh viêm gan B-Liều lượng 3 mũi trên 6 tháng, có hiệu lực khoảng 10 năm. Nếu kiểm tra kháng thể không đủ thì phải chủng ngừa bổ sung.
  • HPV vaccine - vắc-xin HPV để bảo vệ chống lại sùi mào gà ở người lớn đến năm 26 tuổi.
  • MMR vaccine - để bảo vệ chống lại bệnh sởi, quai bị và rubella. Đây là loại vắc-xin sống duy nhất được khuyên dùng khi CD4 Trân 200, nếu sinh trước năm 1957 thì không cần chích ngừa. Liều dùng chích 1 hoặc 2 mũi.
  • Varicella vaccine - vắc-xin thủy đậu để bảo vệ chống lại bệnh thủy đậu.

Nếu bạn bị nhiễm HIV và số lượng CD4 của bạn là ít hơn 200 [tỷ lệCD4 dưới 15%], hãy chích ngừa:

  • Influenza vaccine – Chích hàng năm để bảo vệ chống lại bệnh cúm theo mùa
  • Tdap vaccine – Chủng ngừa Tdap để bảo vệ chống lại bệnh ho gà và uốn ván
  • Pneumococcal vaccine – chủng ngừa để bảo vệ chống lại bệnh viêm phổi và các bệnh phế cầu khuẩn khác
  • Hepatitis B vaccine –  vắc-xin viêm gan B để bảo vệ chống lại bệnh viêm gan B
  • HPV vaccine - vắc-xin HPV để bảo vệ chống lại sùi mào gà ở người lớn đến năm 26 tuổi.

Đề xuất cho một số người nhiễm HIV dương tính cá biệt.

  • Hepatitis Avirus (HAV) – 2 mũi cách nhau trên 6 tháng. Đề xuất cho nhân viên y tế, những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới, tiêm chích ma túy, người bị bệnh gan mãn tính, bệnh hay chảy máu, và những người đi du lịch đến một số nơi trên thế giới. Có hiệu lực trong ít nhất 20 năm.
  •  Hepatitis A/Hepatitis B combined virus (Twinrix) – 3 Mũi trong 1 năm, áp dụng cho những người được chỉ định chích ngừa cho cả việm gan A, B.
  • Aemophilus influenzae loại B – Phòng chống bệnh viêm màng não do vi khuẩn viêm màng não. Chích 1 mũi. Tham khảo ý kiến của nhà cung cấp dịch vụ vắc- xin trước khi chủng ngừa.
  • Meningococcal – Phòng chống viêm màng não do vi khuẩn viêm màng não. Chích liều lượng 1 mũi. Đề xuất dành cho sinh viên đại học, tân binh, và những người đi du lịch đến một số nơi trên thế giới.

Khuyến cáo nếu bạn đi du lịch nước ngoài:
Nếu bạn có HIV, hãy chắc chắn rằng đã được chủng ngừa viêm gan A và B. Hãy chắc chắn rằng vắc-xin được chủng ngừa là loại mới và đáp ứng yêu cầu của nước tới du lịch. Tuy nhiên, chắc chắn đây là những vắc – xin bất hoạt, không phải là vắc xin sống. Nếu không có loại bất hoạt, không được tiêm vaccine sống. Ví dụ về các loại vắc-xin sống bao gồm một số loại của vắc-xin sốt thương hàn và vắc-xin sốt vàng. Thay vào đó, có bác sĩ của bạn cung cấp một bản xác nhận giải thích rằng bạn không thể tiêm chủng được.


Riêng các trẻ em dưới 6 tuổi tham khảo theo đường link sau:

https://aidsinfo.nih.gov/guidelines/html/5/pediatric-oi-prevention-and-treatment-guidelines/431/figure-1--recommended-immunization-schedule-for-hiv-infected-children-aged-0-6-years---united-states--2013



UserPostedImage
NHANH CHÓNG-TRÁCH NHIỆM
AN TOÀN 99+NGUY CƠ 1=CÓ NGUY CƠ

Zalo:03.999.69.440-Vui lòng không nhắn tin, điện thoại về khuya Cám ơn!
Chú ý khi có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV:
-Hãy tới các TT y tế dự phòng, TT phòng chống HIV/AIDS, Hoặc những bệnh viện để Bác sỹ chuyên khoa về HIV tư vấn, xét nghiệm máu và hướng dẫn dùng thuốc phòng chống phơi nhiễm.
-Sử dụng PEP càng sớm hiệu quả phòng chống càng cao, Sau nguy cơ quá 72 giờ dùng PEP không còn hiệu quả
thanks 1 người cảm ơn PHUC MINH cho bài viết.
songtot1996 trên 03-06-2016(UTC) ngày
Quảng cáo
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.