Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline SUCSONG@  
#1 Đã gửi : 24/08/2007 lúc 04:26:05(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

<h1 style="FONT-STYLE: italic; TEXT-ALIGN: center"><big><big><big><font color="#800080">Nhạc về mẹ</font></big></big></big></h1> <h1 style="FONT-STYLE: italic; TEXT-ALIGN: center"><big><big><big><font color="#800080"><a href="http://nhacso.net/Music/Album/2007/08/05F63919/"><font size="4">http://nhacso.net/Music/Album/2007/08/05F63919/</font></a>&nbsp; </font></h1> <h1 align="justify"><font color="#800080" size="4"><span style="FONT-SIZE: 12pt; COLOR: black; FONT-FAMILY: Arial; mso-fareast-font-family: 'Times New Roman'; mso-ansi-language: EN-US; mso-fareast-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; "...Tích Vu Lan bắt nguồn từ tấm lòng hiếu thảo cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên.&nbsp; Tấm gương chí hiếu lớn lao ấy muôn đời sau vẫn phải soi vào.&nbsp;Đã từng có "quy ước" bất thành văn:&nbsp;trong Lễ Vu Lan, nếu ai đó còn mẹ sẽ được cài một bông hoa màu hồng lên áo. Ai đó mất mẹ cài hoa màu trắng. Và chuyện ở xứ mình… "Mùa Vu Lan báo hiếu, bạn -chúng ta còn mẹ hay không?..."&nbsp;</span></font></h1> <h1 align="justify"><font size="4"><span style="FONT-SIZE: 12pt; COLOR: black; FONT-FAMILY: Arial; mso-fareast-font-family: 'Times New Roman'; mso-ansi-language: EN-US; mso-fareast-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA"><font color="#800080">"... Tháng Bảy, mùa Vu Lan về cùng với ngày Rằm xá tội vong nhân mà người ta còn gọi là Tết Trung nguyên. Theo sách nhà Phật, ngày này các vong nhân không nơi nương tựa, không còn&nbsp; thân thích trên cõi trần gian để thờ phụng hoặc những linh hồn vì một oan khiên nào đó vật vờ sẽ được xá tội...<br />&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </font></span></h1></font></big></big></big> <h1 style="FONT-STYLE: italic; TEXT-ALIGN: center"><big><big><big><font color="#800080">Trà sớm với Vu Lan muộn *</font></big></big></big></h1> <h3 style="TEXT-ALIGN: center"><font color="#800080">&nbsp;<big><big><font size="5">Thái Kim Lan</font></big></big></font></h3> <p align="justify"><font style="BACKGROUND-COLOR: #feff82" color="#800080" size="5"></font></p> <p style="TEXT-ALIGN: right"><font color="#800080">Kính dâng Mẹ và tất cả các bà Mẹ trong mùa Vu Lan</font></p> <p align="justify"><font style="BACKGROUND-COLOR: #feff82" color="#800080"></font>&nbsp;</p> <p style="FONT-STYLE: italic; TEXT-ALIGN: right"><font color="#800080">Trông ra nào thấy đâu nào</font></p> <div style="TEXT-ALIGN: right"><span style="FONT-STYLE: italic"><font color="#800080">Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây…</font></span></div> <p style="TEXT-ALIGN: right"><font color="#800080">winkingNguyễn Du)</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"></font>&nbsp;</p> <p align="justify"><font color="#800080">Lịch kịch mãi, rồi chung trà cũng được rót đầy, khi hơi sương còn la đà trên đầu cỏ. Chủ nhân vắng nhà đã lâu, trà niêu nghiêng ngửa, chung chén tứ tán, cặn trà đóng khoánh trong đáy bình bạc xưa, phải mất hết hơn cả tiếng loay hoay chùi rửa, mãi rồi, chung trà xanh sánh màu vàng mới được ấm lại trong tay.&nbsp;</font></p> <div style="FLOAT: right; MARGIN-LEFT: 40px; WIDTH: 400px; MARGIN-RIGHT: 20px"><font color="#800080"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 300px" alt="thumuenchen" src="http://www.diendan.org/sang-tac/tra-som-voi-vu-lan-muon/thumuenchena.jpg" /><br /><span style="FONT-STYLE: italic">Thu München (ảnh TKL)</span></font></div> <p align="justify"><font color="#800080">Hình như chỉ bên chén trà, cuộc trở về mới chính thức là về nhà. Ðôi chân không còn hối hả, tay thong thả chưa vội uống ngụm đầu… mắt nhìn chơi, buông, cảnh vườn không còn xa lạ như lúc dẫm chân trên đám cỏ dày cộm mọc hoang, im lìm, rợp xanh bóng lá. Chỉ có một điều làm cho bỡ ngỡ, khu vườn yên tĩnh quá, so với tiếng động không ngớt ở quê nhà bụi bặm ồn ào còn lùng bùng trong tai thì nó lặng lờ, đứng sững, đến làm cho giật mình tưởng đang rơi vào một khoảng không. Không có một tiếng động, ngay cả tiếng chim. Có nỗi hốt hoảng không nghe tiếng chim rộn lên buổi sáng như mọi khi trước ngày lên đường. E tai nạn dịch gia cầm đã đến thăm khu vườn ? Còn sợ hơn khi tình cờ thấy xác của một con chim sáo nằm nghẻo đầu trên đám cỏ. Bỗng chốc từ cõi im lặng này vẩn lên một nỗi chết nào đó đang lảng vảng, giấu mặt trong màu xanh cây lá… Cảm giác chết chóc đến từ sự lặng thinh của thiên đường,&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">–</span> nếu so với cảnh đời bụi bặm xô bồ ở bên kia, thì nơi yên tĩnh này có một chút chi giống thiên đường&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">–</span> nó trở nên một nghịch lý cho ngày trở lại. Hơi lạnh thốc đến làn da đang khét mùi nắng tháng bảy tháng tám của trời bên tê rút thần kinh ríu lại vài giây…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi nhắm mắt, lắng nghe tiếng im của khu vườn một hồi lâu như dò dẫm chính bước chân trở về của mình… và bỗng chốc rơi vào cơn ngủ buổi sáng, mà đáng ra là buổi trưa bên ấy, giấc ngủ trưa mệt nhọc của miền nhiệt đới, thường đầy mộng mị liêu trai.</font></p> <div style="FLOAT: left; MARGIN-BOTTOM: 30px; WIDTH: 400px; MARGIN-RIGHT: 40px"><font color="#800080"><img style="WIDTH: 400px; HEIGHT: 300px" alt="hothu" src="http://www.diendan.org/sang-tac/tra-som-voi-vu-lan-muon/hothu.jpg" /><br /><span style="FONT-STYLE: italic">Hồ thu </span>winkingảnh TKL)</font></div> <p align="justify"><font color="#800080">Chợt nghe một cơn gió rít ngang, như một lưỡi dao bén, đồng thời tiếng ầm ầm đinh tai nhức óc của giông tố ào ạt tiến đến từng đợt như những cơn sóng thần úp chụp lấy thân thể. Chưa kịp định thần, thì nghe một tiếng&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>phựt<span style="FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> </span><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">”</span> kinh hồn giữa tiếng sấm, tôi thấy đầu của mình lăn lông lốc trên đám cỏ, gần xác con chim chết chưa kịp đem vứt vào thùng, máu đỏ phọt lên có vòi tung vương vãi khắp vườn. Hoảng hốt ! Tôi thấy thân hình mình loạng quạng đuổi theo cái đầu đang văng ra xa, hai tay chới với ôm cái cổ. Như có một sức đẩy lạ kỳ, thân hình tôi phóng ra phía trước như một mũi tên phản xạ, đôi chân vẽ những vết máu ngoằn nghèo, rồi bỗng như bị tắt điện, sau khi chạy một quãng ngắn, tôi ngã vật ra đám cỏ bên cạnh chiếc đầu đang xoáy vòng.&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Chiếc đầu vừa quay vừa lắc lư, như theo tiếng nhạc chầu văn lên đồng giựt gân từ một cõi mơ hồ vô định nào đó vọng về, như tuồng nó chưa biết bị cắt lìa khỏi thân, miệng cười mỉm, mắt lim dim như đang nhập định, tôi lấy làm lạ, tuyệt như nó không biết đau gì cả, mà ngược lại nó đang bị thu hút nhập thần vào tiếng nhạc, nó ngả nghiêng bên trái bên phải thật nhanh rồi quay tít như chong chóng. Khoảnh khắc sau, có tiếng gầm của một cơn thuỷ quái xoáy bốc lên cao, dõi theo chiếc đầu tung lên không lơ lửng, tôi cảm thấy choáng váng tâm thần, quay lơ ra bất tỉnh.</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Trong cơn mê, tôi nghe có tiếng ríu rít nho nhỏ, tiếng đập cánh phần phật của đàn chim, tiếng chân chim rón rén lúc thúc trên cỏ, nghe tiếng thở hào hển như có một đám đông đang xúm lại, có cảm tưởng mình bị lôi đi xềnh xệch rồi được nhấc bổng lên. Tôi muốn mở mắt nhìn để biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng không tài nào mở mắt được, trên mắt như có dán hai lá me nhỏ, tôi đành nằm bất động trong cảm giác đang được chuyền đi giữa khoảng không, cảm giác đong đưa như đang nằm trên võng, thuở mẹ ru hời, một cảm giác thật là êm ả. Nhưng không lâu, sực nhớ tôi vừa bị cắt cổ, đầu đã lìa khỏi thân, tôi vùng lên, hoảng hốt nghĩ rằng mình đang ở trên đường đi xuống địa ngục. Tưởng tượng đang đi vào cõi âm ti tù ngục như thường được nghe kể từ thuở thiếu thời làm tôi rùng rợn, run lên bần bật và vùng vẫy, cố chồm dậy để thoát chạy về trần thế, cõi sống của tôi. Lạ làm sao, tuy đang bị nhấc bổng một cách nhẹ nhàng, tôi vẫn không nhảy xuống được, người vẫn lơ lửng trên không, tôi cố la hét thật to, nhưng tiếng của tôi vẫn ấm ớ trong cổ họng không thoát ra được. Tôi cố nhướng đôi mi đang dính chặt thì thấy bóng những cánh chim dao động chung quanh mình, loáng thoáng trong đó có đôi mắt bé tí của con chim đã chết đang dõi theo tôi, cặp mắt không vô thần như khi nằm trên bãi cỏ mà lấp lánh như hai vì sao xa nhất trong cõi thiên hà thăm thẳm. Hình như nó dẫn đường cho cái đám rước đưa tôi vào địa ngục. Tôi cảm thấy tuyệt vọng và bất lực, nghĩ rằng thế là hết, không ngờ cuộc đời mình lại bị kết liễu một cách phi lý và đột ngột đến như thế, chưa đầy một khoảnh khắc, chưa kịp nhấp môi chén trà mới pha… cảm giác thê lương làm cho tôi cơ hồ muốn ngất đi một lần nữa, trong lúc những hình ảnh ghê rợn của âm ti hiện ra trong tưởng tượng, lổm ngổm nanhvuốt hùm beo, búa rìu tra tấn của ngạ quỷ súc sinh, những kềm kẹp, vung dầu, vạc lửa, gông xiềng, bàn chông nhảy múa trong trí óc… tai tôi chuẩn bị nghe những tiếng kêu khóc, rên xiết, van lạy của những vong nhân dưới âm ti…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Nhưng lạ thay, càng được nâng đi xa, không khí quanh tôi hầu như không nóng bỏng lửa cháy của ngục tù thường nghe kể, mà lại thoáng mát êm dịu, nhẹ nhàng, như bầu trời sáng hôm nay bên chén trà sớm…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Bỗng nghe tiếng kịch của hai cánh cửa mở ra, mắt tôi loá lên, cùng lúc tôi được đỡ dậy, chân tôi chạm vào thảm cỏ mát như nhung, trước mắt tôi là một hang lớn, với vòm cổng bằng đá khắc mấy chữ&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>cửa ngục thứ 11<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span>. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đang ở trong địa ngục. Tôi nghe chân mình nhũn đi vì sợ, nhưng hai chú chim vàng anh rất quen, chúng thường đến hong nắng trên hàng rào tre vườn tôi, và chúng cùng với lũ chim trong vườn đã xúm xít mang tôi đi đến nơi này, kéo áo tôi bước qua cổng.&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Làm sao nói hết được nỗi ngạc nhiên ? Vừa qua vòm cửa ngục, một thứ ánh sáng ngũ sắc nhảy múa trước mắt tôi, hiện thành chiếc cầu vồng, khác hẳn hình ảnh huyền thoại địa ngục về cái cầu có con chó đứng sủa cuối cầu, kẻ có tội sẽ được con chó nhận ra, tiếng sủa của nó sẽ làm cho người chết sẩy tay, rơi xuống vực thẳm đầy thuồng luồng hổ mang. Không, cái cầu tôi bước lên nhẹ như mây và tôi đi như bay trên ấy, cảm giác lo sợ thót người biến mất. Chiếc cầu dẫn tới một hành lang dài, có hình dáng của một cái động sâu hun hút, vòm động kết bằng cành lá của cây hai bên giao nhau, tạo nên một màu xanh u hoặc. Tôi ngẩn người, tự bảo, có phải đây là địa ngục không ? Chẳng nghe một tiếng rên la nào, chỉ có một thứ âm thanh như gió vi vu lồng lộng suốt hành lang, tiếng vang nhè nhẹ như dợn ngân nốt cuối của bản nhạc ru em ở trên cõi trần vọng về, thoa dịu cơn sợ hãi mà tôi vừa trải qua, giọt mồ hôi kinh hoàng cũng khô ngay trong gió. &nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Hành lang trải bằng thảm cỏ xanh mượt, có lẽ mượt hơn cả cỏ trong vườn nhà vào buổi đầu xuân. Hai bên hành&nbsp;lang hoa mọc um tùm, rực rỡ sắc màu còn hơn vườn hoa của người láng giềng người Ðức chăm chỉ của tôi. Tôi nhìn quanh, bỡ ngỡ trước cảnh lạ mà như quen, tuy quen đó mà thật lạ gấp mười. Ðịa ngục là đây ư ? Sao nó đẹp còn hơn ở trên trần ? E thiên đường chưa chắc đã đẹp bằng, nghe nói trên thiên đường lạnh lắm.&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Ðang chần chờ chưa bước, bỗng có một tiếng động sẽ sàng, một giọt sương từ ngọn lá rơi nhẹ trên đầu cỏ bên chân, tôi cúi xuống nhìn, thấy giọt sương loé lên những tia hồng diệu kỳ trong ánh sáng xanh. Nhìn vào giọt sương tôi nhận ra bóng người đang lao xao đi lại trên hành lang&nbsp;hoa cỏ. Những cái bóng chập chờn như khói như sương nhưng đôi khi lại thật như bằng xương bằng thịt người trần. Họ đứng tụm năm tụm ba, đi đi lại lại hoặc nằm nghỉ dưới những khóm hoa, thảnh thơi, hoà nhã, trên gương mặt tuyệt không có một nếp nhăn vì đau khổ. Họ khoác những chiếc áo dài lướt thướt, lưng họ đeo lủng lẳng những cánh hoa, trên đó ghi những dòng chữ lạ kỳ, bắt đầu bằng hai mẫu tự :&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>B..Ị…<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">”</span>.&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi chưa kịp đọc hết cả dòng chữ, vì những cái bóng luôn luôn dao động, xoay tròn, và nhiều đến hoa cả mắt, nhiều cũng gần bằng vô vàn hạt sương rải trên con đường đi dạo của tôi mỗi sáng mai. Tính ra cứ mỗi hạt sương vỡ ra một bóng người, cho nên nhìn không ngạ mà kể ra không hết.</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Còn đang bối rối, bỗng nghe tiếng gọi tên mình, tên đặc biệt của tôi mà chỉ người thân mới biết. Giọng nói không phải của người thường, mà giống như tiếng con chim khuyên trong vườn mỗi sáng mùa xuân thường líu lo đánh thức tôi dậy pha trà sớm. Nó bảo :&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Hãy đi đi, đừng do dự thối lui, có người đang chờ bạn !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi giật mình, run lên, nghĩ rằng giờ phán xử gần kề, tôi phải đối diện với ông phán quan mặt sắt đen sì để nhận lãnh búa rìu trừng phạt. Ngần ngại còn chưa quyết, cơn gió thoáng từ xa đã đẩy tôi bước tiếp. Con chim biết tôi run sợ, thương hại bay theo bảo nhỏ : <span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Hãy nhìn cho kỹ thì hết sợ ngay, đây là con đường… trị liệu… mọi bệnh sẽ tiêu trừ…<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">”</span>. Tôi nghĩ bụng, con chim hôm nay thông thái thật, nó biết hết đường đi nẻo bước hơn tôi.</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi chưa kịp nghe con chim muốn nói thêm điều gì thì đã hoa mắt trước con đường đầy hoa như chưa bao giờ tôi thấy được trên trần gian. Những chùm hoa lồng đèn (physalis-so<span class="highlightedSearchTerm"><font style="BACKGROUND-COLOR: #feff82">lan</font></span>aceae), vừa chín đỏ đúng tiết Vu Lan, lủng lẳng toả ánh sáng màu cam nhạt huyền ảo dọc theo hành <span class="highlightedSearchTerm"><font style="BACKGROUND-COLOR: #feff82">lan</font></span>g. Hoa gà tơ (sedum crassulaceae) gọi mặt trời làm hồng đôi má người đi. Nơi kia những bóng người đang vui&nbsp;đùa thoả thích dưới trận mưa hoa&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>bão vàng<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> (Goldsturm), bên cạnh những&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>cô dâu mặt trời<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> (Sonnenbraut) trong tấm áo diễm ảo&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>trilova<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span>, <span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>rudbekia<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> vàng óng ánh màu sa mạc Sahara. Ðó đây nhởn nhơ những bóng hình đi dạo dưới cơn mưa tím (glyzine) như trời thu xứ Huế. Kia là những công nương Margerites đang dùng cỏ hypericum gutiferae chữa bệnh xao xuyến thần kinh, những loại hoa quý có công dụng y dược nhưng không kém yêu kiều với đài gương mạ vàng quý phái. Hoa echinacea quý báu như chiếc nón vàng dưới mặt trời. Hoa Kapuzinerkresse (tropaeolum- tropaeolaceae) đỏ rực, lá rộng như lá sen mọc cạn, có thể vừa chưng bày vừa làm món ăn thưởng thức. Ði ngang qua hoa mõm sư tử (antirrhinum scrophulariceae) nhe răng cười hiền không cắn, môi thoa son loè loẹt đủ các màu tím, cánh gián, hồng sen… Rồi petunie surfinia, gerania, topinamber…đang rợp bóng hoàng hoa trên cành. Rittersporn (delphinium-ranunculaceae) với áo choàng màu tím như hiệp sĩ bạo gan thời trung cổ đứng bào vệ đền đài… bên cạnh những đoá ngậm lửa yêu đương đỏ rực (phlox) và buddleja âm thầm rủ bướm về trong giấc mơ chiều tím [1]… Hết hoa đến trái chen lấn lối đi, những cành mâm xôi gai góc ưa thích níu áo, đòi tặng người đi những trái mâm xôi đỏ mọng, những chùm dâu đen ngọt sắc mời gọi với tay hái, những quả táo tròn dòn tan, mận vừa chín thơm trên cây ứ mật… Tôi đếm từng bước chân của mình trên con đường ấy, và nhận ra, mỗi bước là một rũ sạch những chi còn vướng mắc, như một thứ nợ trần gian, làm cho tâm hồn trở nên sảng khoái. Mỗi giây nhìn hoa lấp lánh trong ánh sáng xanh mơ, là một giây nhẹ nhõm mọi ưu phiền, sợ hãi. Thảo nào, như con chim báo trước, con đường trị liệu cho tất cả sinh linh là con đường này chăng ?</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Cảm giác êm dịu đến nỗi tôi thích đi hoài không dừng lại…Nhưng chặng đường cuối hiện ra đã khiến chân dừng trước một cổng tre. Sau cái cổng tre, thấp thoáng mái của một căn nhà xưa u mặc, đàng trước hai cây hải đường đang đơm bông trái mùa, những đoá hải đường đỏ thắm lộng lẫy như muốn dành riêng cho một buổi tiệc cổ đoàn viên. Tôi dụi mắt, tưởng mình mơ, căn nhà ấy rất đỗi quen thuộc. Tôi vùng chạy vào trong. Tôi thấy gì ? Không, tôi thấy ai ?</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Mẹ tôi !&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Thấy mẹ đang ngồi trên sập, dáng thanh gầy cao quý, mặt mẹ đẹp rực rỡ hơn bao giờ, tóc mẹ xanh mướt như tôi đã từng chải tóc cho mẹ, chỉ duy đôi tay tái xanh. Tôi kêu lên :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Mạ ơi, mạ còn sống đây ? Vậy mà cả nhà cứ tưởng mạ chết rồi ! Tụi con buồn muốn chết<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”.</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Mẹ tôi không nói, chỉ mỉm cười, đôi mắt chiếu ngời thương yêu nhìn tôi</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi mừng, bật lên khóc hu hu như thuở nhỏ, được khóc với mẹ là sung sướng nhất đời, khóc tức tưởi, khóc oà, khóc to, khóc bù lu, khóc mếu khóc máo, chẳng cần giấu giếm, mắc cỡ, như thuở còn bé thơ, vừa khóc vừa dãy dụa, bắt đền, nằm vạ :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Mạ làm con nhớ mạ bức chết đây nì. Con tưởng mạ chết. Răng mạ đi mô mà lâu về với con ? Con nhớ mạ quá, con thương mạ quá, con nhớ, con thương…<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">”</span>.&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi có thể nói chữ&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>con nhớ, con thương<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> hàng triệu lần cũng không hết đuợc nỗi thương nhớ mẹ mà trái tim tôi đang ứ tràn…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Mặt mẹ bỗng trở nên huyển ảo như chìm trong làn nước. Tôi chạy tới định ôm chặt mẹ, lạ thay tay tôi không chạm vào người mẹ được, nhưng một cảm giác ấm áp bao trùm lấy người tôi, mềm mại, như lần đầu trong đời tôi nhảy ùm vào nước sông Hương một buổi mai mùa hạ, cảm giác vuot&nbsp;ve của nước như vòng tay ngọt ngào của mẹ thời ấy đang chạy trên khắp da thịt trong giờ phút này. Nhưng đối với tôi chưa đủ, tôi muốn vùi mặt mình nơi ngực mẹ thật sâu, thật lâu, vùi mặt đến rối bời cả tóc, nghe hơi ấm và hít thở mùi thơm&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>mẹ của tôi<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> đã bao năm xa nhớ. Chưa bao giờ tôi cần có mẹ như bấy giờ. Tôi kêu lên :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Mạ ơi sao mạ không nói với con ! Con nhớ mạ quá. Con nhớ !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span>, tôi lắp bắp như nhập tâm.</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Mẹ đưa tay chỉ lên môi, huyền bí, lắc đầu. Tôi biết mẹ nhớ tôi mà có điều chi không thể nói. Mẹ đưa tay chỉ vào ngực mình. Nơi vùng trái tim của mẹ bỗng hồng lên trong suốt, đến nỗi có thể nhìn thấy trái tim mẹ đang đập đều đặn bền bỉ cho con, tôi nghe hơi ấm<font style="BACKGROUND-COLOR: #feff82">&nbsp; </font>khắp châu thân, như được thôi miên bằng một nguồn hồi sinh kỳ diệu. Mẹ đưa tay lên khoảng ánh sáng trên ngực mình, như&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>viết từ trái tim của mẹ<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span>, vùng ngực của mẹ toả sáng như một màn ảnh rực lên trong đêm tối, mẹ gõ gõ trên tim, tựa như thuở nào tôi ngồi viết bài trên phím… điện tử, trong lúc mẹ nằm nghỉ an lành bên cạnh tôi :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Trong cửa ngục này, không ai nói cả, con ạ, đó là phương thức làm lành mọi đau khổ mà mẹ thực hiện ở đây. Mọi người nơi đây hiểu nhau mà không cần phải nói nhiều. Ở trần gian, họ đã nói nhiều quá, hiểu lầm nhau, lan vạ cho nhau, oan khiên, oan trái, oan ức cứ đời đời kiếp kiếp, không dứt. Ở đây họ tập im lặng và sống thực tình. Không minh oan, không biện giải, mà chữa trị, cứu lành. Nhiều lắm chỉ được viết, nhưng chỉ viết trên lá, trên hoa, không hạ chữ như gươm dao giết người. Khó nhất là viết từ trái tim, đó là nấc cuối của việc học mà mẹ đang hướng dẫn cho những người không thuộc thập loại chúng sinh của cõi luân hồi. Cửa ngục thứ 11 này dành cho những người đáng được thương yêu, hạnh phúc, vì họ BỊ quá nhiều oan trái. Con à. MẸ THƯƠNG !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span>&nbsp;</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Ánh mắt mẹ như suối từ bi vô hạn…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi đọc những dòng chữ trên màn ảnh ngực mẹ mà chảy nước mắt. Sực nhớ đến phận mình, tôi kêu lên :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Mạ ơi, con bị cắt cổ, con chết rồi ! vậy con có ở với mẹ được không ? mẹ chưa chết mà !<span style="FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> </span><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">”</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Mẹ cười như thoa vai tôi, ngực mẹ lại hồng lên. Tôi đọc trên tim mẹ :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Con có chết đâu, con hãy sờ lên tóc con đi !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi đưa tay lên mái tóc, sửng sốt, quả thật đầu tôi còn nằm trên cổ, như tuồng nó vừa mới mọc lên, ảo hoá ! Rõ ràng tôi đã thấy đầu mình lăn lông lốc trên bãi cỏ cơ mà, tôi há hốc mồm :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Con bị…<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> tôi định lặp lại…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Mẹ viết trên tim :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Con tưởng con BỊ… nhưng thật ra chính con đã tự nguyện, mong ước làm như thế, nhưng vì con là con của mẹ, làm sao con BỊ…được ? Mẹ luôn ở bên con, nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời nào kiếp nào mẹ con mình cũng gần nhau [2]… MẸ THƯƠNG !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi nghe tim mình sủi bọt hạnh phúc. Không phải vui mừng vì được biết mình còn sống, mà biết rằng mẹ luôn ở bên mình đời đời kiếp kiếp. Vừa cười sung sướng tôi vừa nói như hát mừng :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Con ở đây với mẹ, con không đi đâu hết nữa, con ở với mẹ như ngày nào, con ở đây, mẹ nhé !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Nhưng mẹ đã nghiêm mặt :</font></p> <p align="justify"><font color="#800080"><span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>Con chưa ở đây với mẹ được đâu, hôm nay trăng rằm Vu Lan&nbsp;mẹ con mình gặp nhau, nhưng mẹ sẽ xa con. Ði xa mà MẸ THƯƠNG !<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span></font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Ðọc lời mẹ, tôi kinh hoàng, nhớ giây phút vĩnh biệt mẹ năm nào, tôi nghe ruột đau quặn lên, dạ dày nhói thắt, tôi bật khóc, dẫy dụa, kêu gào : Mẹ ơi, không không…</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi vùng vẫy, ú ớ, cố hết sức bình sanh mà cổ họng không bật ra được tiếng la hét, bắt đền, nằm vạ như mọi khi, để mẹ mềm lòng.</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tay quờ quạng, đập tứ tung, khóc lóc, vật vả. Bỗng nghe đánh xoảng.</font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Tôi giật mình, choàng tỉnh, chung trà sớm đổ lênh láng trên thềm. </font></p> <p align="justify"><font color="#800080">Âm vang tiếng&nbsp;<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">“ </span>không<span lang="DE" style="FONT-SIZE: 12pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'"> ”</span> như chút hương thừa bay lẩn trong tiếng chiếp khiếp hãi của con chim vàng khuyên nào vừa táo tác trượt chân trên lá, rơi lẻ trong vườn, lay động đám lá trường xuân đằng bên cửa … Ðưa tay sờ cổ, tôi nghe còn ê ẩm… nơi vùng nhát dao… hoang tưởng. Trông ra, nào thấy gì đâu ? Chỉ duy khu vườn vẫn xanh còn hơn mộng… như chưa bao giờ…&nbsp;</font></p> <h3 style="TEXT-ALIGN: right"><big><font size="4"><font color="#800080">&nbsp;Thái Kim Lan</font></font></big></h3> <table class="contentpaneopen"> <tbody> <tr> <td> <p align="justify"><span><font color="#800080" size="4"><strong></strong></font></span>&nbsp;</p></td></tr> <tr> <td valign="top" align="left" width="70%" colspan="2"> <p align="justify"><span class="small"><font color="#800080"></font></span>&nbsp;</p></td></tr> <tr> <td valign="top" colspan="2"> <p align="justify"><span style="FONT-SIZE: 12pt; COLOR: black; FONT-FAMILY: Arial; mso-fareast-font-family: 'Times New Roman'; mso-ansi-language: EN-US; mso-fareast-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA"><em><strong><font color="#800080">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;</font></strong></em></p></span></td></tr></tbody></table>
Quảng cáo
Offline namphuong888  
#2 Đã gửi : 24/08/2007 lúc 10:43:00(UTC)
namphuong888

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 05-05-2007(UTC)
Bài viết: 265

Được cảm ơn: 1 lần trong 1 bài viết
Vẳng đâu đây lời Văn tế thập loại chúng sinh: "Lòng nào lòng chẳng thiết tha, Cői dương còn thế nữa là cői âm"

Lại đến mùa lễ Vu Lan.

Vào dịp này, trời thường mưa gió, sập sùi. Thủa trước, khi còn nghèo nàn, quang cảnh thôn quê rất đỗi thê lương. Nguyễn Du từng mô tả trong "Văn tế thập loại chúng sinh": "Trời tháng Bảy mưa dầm sùi sụt; Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô; Não người thay buổi chiều Thu; Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng".

Soạn: AM 520049 gửi đến 996 để nhận ảnh này

Lễ cầu siêu ở nghĩa trangTrường Sơn

Tiết trời như vậy thật dễ làm cho con người ta thấy được sự mong manh của kiếp người với cõi người, và lễ xá tội vong nhân vào dịp này dường như càng là sự ấn định hợp lý của Trời, Đất và Đức Phật.

Theo nhà Phật, đó là lễ Vu Lan, bắt nguồn từ tích Tôn giả Mục Kiền Liên thương mẹ bị đọa đầy dưới địa ngục, được Đức Phật chỉ bảo làm lễ cúng Giàng, chú tâm cầu nguyện thì có thể siêu thoát cho mẹ. Lại có một tích khác của người Trung Hoa kể rằng, ngày lễ trên có liên quan đến câu chuyện "quỷ miệng phun lửa" đến tịnh thất của ông A nan đà đòi ăn. Ông này sợ hãi, đến bạch đức Phật và được Ngài dạy đến rằm tháng Bảy làm lễ cúng quỷ phun lửa sẽ được thêm phúc đức.

Nguời dân Việt tiếp nhận những tích chuyện này nhưng đã mở rộng ra, biến thành lễ "xá tội vong nhân". Không chỉ là dịp lễ để tỏ lòng thành kính với các bậc sinh thành, cũng không cúng riêng "quỷ miệng lửa" mà cúng tất cả các cô hồn nói chung. Nguời ta cho rằng, những ai khi sống phạm nhiều tội lỗi thì linh hồn sẽ bị xiềng xích chịu đày ải nơi địa ngục. Tuy nhiên, mỗi năm đến dịp rằm tháng Bảy, xiềng gông được mở để mọi cô hồn có dịp trở về dương thế gặp lại người thân, nhận tiền vàng, đồ ăn và quần áo. Mỗi năm một lần, mọi linh hồn, bất kể khi sống thế nào, đến ngày đó vẫn được "xá tội", được hưởng sự yêu thương của  đồng loại. Nhà nhà mua sắm đồ vàng mã, nấu cháo loãng, rang bỏng ngô chuẩn bị cúng ngoài trời để đãi "ma đói" - những cô hồn vờ vật không có người thân cúng giỗ.

Giáo sư Hoàng Như Mai nhận xét: "Ngày lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy, ngày xá tội vong nhân có thể được coi là ngày tình thương Việt Nam vì con người, vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ cho loại con người".

Ngày lễ xá tội vong nhân năm nay có ý nghĩa đặc biệt.

60 năm trước, nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người ở đồng bằng Bắc bộ. Nhiều gia đình, nhiều thôn xóm không còn ai sống sót. Những cô hồn của nạn đói năm Ất Dậu đang chờ đến ngày Rằm tháng Bảy để trở về dương thế nhận tình thương của đồng loại.

30 năm trước, chúng ta kỷ niệm ngày kết thúc cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước. Hơn 4 triệu sinh linh Việt đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh đó. Hàng triệu người dân thường đã bỏ mạng vì tên bay đạn lạc. Đó quả là một sự mất mát, đau thương quá lớn mà những ai không trải qua không thể nào hiểu được. Muốn hàn gắn vết thương đó cần sự nỗ lực thật lớn lao từ tất cả mọi người, và thời gian là một yếu tố không thể thiếu.

Ngày 27/7 vừa qua, lần đầu tiên, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đại lễ cầu siêu cho các anh hùng, liệt sĩ và đồng bào chiến sĩ trận vong tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Gần một vạn tăng ni, phật tử và đồng bào cả nước đã về đây thành kính dâng hương, tưởng nhớ đến những người đã bỏ mình vì nước. Trong dịp đó, không chỉ ở Quảng Trị mà khắp nơi trong cả nước, nhiều lễ cầu siêu, nhiều hình thức tưởng niệm đã được tiến hành. Các địa phương đều có những việc làm giàu ý nghĩa vừa sâu nặng, vừa thiết thực đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, thấm đẫm nghĩa tình đồng bào.

Do hoàn cảnh trớ trêu, có bà mẹ sinh được hai người con, người theo phía bên này, kẻ theo phía bên kia và đều chết trẻ. Mỗi lần đến rằm tháng Bảy, mẹ lại phải lần đến hai nơi để hương khói cho các con.

Có một chuyện về bà mẹ Việt con mình hi sinh 30 năm chưa tìm được hài cốt nhưng năm nào đến Lễ Vu Lan cũng thắp hương cho ngôi mộ của phi công Mỹ trong vườn nhà. Đó là đạo lý, là triết lý sống của đa số người Việt.

Có thể vì thế mà vào những ngày này, lòng chúng ta phần nào chưa yên vì còn không ít đồng bào, đồng hương của mình chưa được nhận nghĩa cả như vậy. Lễ Vu Lan sau 60 năm nước Việt Nam mới và 30 năm thống nhất đất nước, với tâm thức hướng về một chữ Việt toàn vẹn, đủ nghĩa, chúng ta  thắp nén hương chung, một lễ cầu siêu chung cho tất cả những người con Việt Nam đã nằm xuống trong nạn đói năm Ất Dậu và trong suốt mấy cuộc chiến tranh. Tiếp tục chăm lo chu đáo hơn cho các gia đình liệt sĩ, thương binh và những người có công, nhưng cũng không quên những nạn nhân khác của cuộc chiến. Để vết thương được vĩnh viễn lành sẹo, để tạo ra sự đồng thuận của cả một dân tộc đang vươn lên thoát khỏi tình trạng kém phát triển, để dành lấy vị trí xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.

Vẳng đâu đây lời Văn tế thập loại chúng sinh: "Lòng nào lòng chẳng thiết tha, Cői dương còn thế nữa là cői âm. Trong trường dạ tối tăm trời đất, có khôn thiêng phảng phất u minh. Thương thay thập loại chúng sinh".

50 ngày trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: "Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi". Người không phân biệt gia đình thuộc phía bên nào. Người chỉ thấy hạnh phúc khi mọi người Việt Nam đều trở thành con một nhà, là công dân của một nước độc lập, dân chủ, tự do, phồn vinh và thịnh vượng để cùng sánh vai với các nước năm châu.

Offline SUCSONG@  
#3 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 05:44:16(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Mùa Vu Lan giữa cõi đi về

Một lần về thăm người bạn cũ đã mồ côi mẹ ở tuổi chập chững vào đời, chúng tôi gặp lại nhau gượng cười mà lòng cứ thấy se se. Căn nhà ấm cúng hôm nào giờ bỗng trống trải. Khi mùa Vu Lan về, bạn lại tìm mua bảy bông hoa loa kèn, chưng trên bàn thờ mẹ. Màu trắng như bơ vơ hơn…

 

Tích Vu Lan bắt nguồn từ tấm lòng hiếu thảo cứu mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên.  Tấm gương chí hiếu lớn lao ấy muôn đời sau vẫn phải soi vào. Đã từng có "quy ước" bất thành văn: trong Lễ Vu Lan, nếu ai đó còn mẹ sẽ được cài một bông hoa màu hồng lên áo. Ai đó mất mẹ cài hoa màu trắng. Và chuyện ở xứ mình… "Mùa Vu Lan báo hiếu, anh còn mẹ hay không?". Tôi gật đầu. Cô bé cười chúc mừng rồi cài lên áo tôi bông hồng đỏ khi áo em đính nụ hồng trắng tê lòng.

 

Vu Lan - Mùa báo hiếu cha mẹ. Sự Hiếu trung, Đức hỉ xả, Tâm từ bi như giúp con người sống tốt hơn. Nghiệp văn, nghề báo đã cho tôi đi, gặp gỡ và viết về nhiều thân phận con người. Viết để người ta đồng cảm đã không dễ, viết cho người ta yêu thì khó đến tận cùng… Dẫu biết rằng, không có người mẹ nghèo trong mỗi đứa con, chỉ có mẹ sớm hôm tần tảo, thế mà đến bây giờ tôi vẫn chưa viết nổi một dòng cho má trọn vẹn như tình thương má giành cho tôi. Bởi lẽ tôi biết; dẫu ở đâu trên mặt đất này, má vẫn luôn hiện hữu trong tôi, ánh mắt má vẫn dõi theo những bước chân tôi  đi trên vạn nẻo đường đời.

 

Và sáng nay gặp chị. Câu chuyện giữa hai người lại một lần nữa đứt quãng, lưng chừng. Chị bỏ dở câu nói: “Ừ! Chị cũng mất mẹ…”. Chỉ bấy nhiêu thôi mà tôi như đang đứng giữa đôi bờ cảm xúc của miền vui, miền buồn. Để bây giờ khi nhìn bông hồng trắng trên áo người em bất hạnh,  tôi chỉ biết nói với lòng  rằng: con thương Má lắm Má ơi!...”.

 

Vu Lan. Mùa con người đưa suy tư của mình trở về quá khứ, thể hiện đạo làm con với các đấng sanh thành. Dẫu ai đó có vị trí nào trong xã hội, mùa Vu Lan v cũng trở nên bé bỏng trước Người. Có lẽ, Vu Lan như cõi đời thật sự để những người con lang thang trong kiếp sống mênh mông được trở về đối diện với lòng mình đúng nghĩa hơn.

 

Tháng Bảy, mùa Vu Lan về cùng với ngày Rằm xá tội vong nhân mà người ta còn gọi là Tết Trung nguyên. Theo sách nhà Phật, ngày này các vong nhân không nơi nương tựa, không còn  thân thích trên cõi trần gian để thờ phụng hoặc những linh hồn vì một oan khiên nào đó vật vờ sẽ được xá tội. Đại Thi hào Nguyễn Du của chúng ta từng khóc cho những kiếp người với “Văn tế Thập loại chúng sinh”. Trang thơ gửi lời yêu thương cho mười loại người thống khổ: “Mười loài là những loài nào/ Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh…”. Rằm tháng bảy, một ít cháo lá đa đặt bên lề đường cũng khiến bao vong hồn vất vưởng nơi cõi âm chợt ấm. “Sống đã chịu một đời phiền não, thác lại nhờ hớp cháo lá đa”. Đó là một tấm lòng trong vạn tấm lòng bao dung, như một nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt  gìn giữ qua bao đời nay theo quan niệm “sống gửi thác về”.

 

Liệu, nét đẹp ấy có còn được giữ đúng như tinh thần vốn dĩ hay không, khi chim phóng sinh người ta trả về trời hòng cầu phước cho gia đình, mua cá cảnh thả ra hồ để khấn an cho người thân. Vậy mà cá vẫn trở lại chậu và chim phải bay về lồng để rồi một con cá, một chú chim được phóng sinh rất nhiều lần.

 

Buồn thay, nhiều người mong đến Vu Lan để được tận tay giải thoát cho những sinh linh “cá chậu, chim lồng”. Trong số ấy nhiều người cố làm ngơ trước những sinh thể lăn lóc giữa sân chùa chờ chút của  bố thí. Những thân phận hằng đêm co ro ở nhà chờ xe buýt, ghế đá công viên với những chiếc áo không đủ ấm khi mưa về. Trong giấc ngủ ấy, bao cơn mơ đang chập chờn chật vật với miếng cơm, manh áo. Đau lòng hơn là  những người nhiễm HIV/AIDS đang đứng trước “ngưỡng cửa hẹp”. Họ rất cần bàn tay sẻ chia,  những tấm lòng bao dung, độ lượng. Vậy mà những gì họ nhận được thường chỉ là sự rẻ rúng,  khinh thường.

 

Hình như, người sống đang đi theo bước chân người đã thác, bỏ quên cõi sống bằng sự hờ hững, vô tình. Có người mười lăm năm giữa thiên đường lạnh đã tiễn đưa biết bao sinh linh bé bỏng về trời. Có lần anh giữ lại chiếc nôi, cái trống rung, mấy bộ áo quần của một người cha giàu có gởi theo đứa con khi chưa kịp đặt tên đã sớm lìa đời để chia phần cho những sinh thể bắt đầu kiếp người mà cha mẹ chúng không đủ sức mua. Thế là của cải cho cõi âm đã trở thành món quà quí lắm cho cõi dương trần.

 

Dù cho lễ Vu Lan bây giờ có khác ngày xưa đi nữa, hình ảnh cụ già cầm tay cháu bé trên áo cài hoa trắng vào chùa nguyện cầu giữa khói hương nghi ngút, giữa tiếng kinh kệ và tiếng chuông ngân vẫn vẹn nguyên như thuở nào. Mùa Vu Lan, người được hoa trắng sẽ thấy xót xa lẫn trong  thương nhớ. Người được hoa hồng sẽ sung sướng và xin hãy nhớ rằng mình còn có mẹ.

 

Hình thức lễ Vu Lan là thế, ý nghĩa Vu Lan là thế vẫn không gì  mai một theo thời gian. Nếu có thì sự đổi thay ấy bắt đầu từ những ai vẫn còn tiếp tục vui cười, để cố quên đi cành hoa lung linh trên ngực áo. Chiều nay bạn gọi điện cho mình, đầu dây bên kia vẫn gượng cười để nghe giọng nói cứ thấy nao nao…

 

Mùa Vu Lan giữa cõi đi về...

 

Chị ơi! Hãy cài lên áo mình bông hoa biết ơn, để một lần nữa thấy lòng như ấm lại…

 

  • Công Khanh

 

Offline SUCSONG@  
#4 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 05:46:34(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Vu lan – nghĩ về chữ Hiếu

Nhiều người vào chùa thắp nhang nguyện cầu trong mùa Vu Lan. Ảnh: Trần Ban Nha

Mùa Vu lan về, những đóa hồng đỏ, trắng cài trên áo bạn, nhắc bạn sự hiếu hạnh. Sự hiếu hạnh đó là thường nhật, chứ không có mùa... Mùa xá tội, hãy hướng đến cuộc sống lương thiện...

Dường như, khi mùa Vu lan đến là dịp mọi người lắng lại giữa cuộc sống bon chen thường nhật, cùng hướng về quê quán, mẹ cha. Truyền thống văn hóa ấy đã ăn sâu vào máu thịt. Ông bà xưa vẫn thường nhắc nhau: “Dù ai buôn bán đâu đâu. Cứ rằm tháng bảy mưa ngâu thì về”.

Người may mắn còn có mẹ cha trên đời, xem đây là dịp sum họp gia đình. Kẻ bất hạnh hoặc người tha phương thường chọn cách lên chùa dâng lễ cầu nguyện, làm nhiều việc thiện nhằm tìm sự thanh thản trong tâm hồn.

Mùa xá tội

Theo tín ngưỡng truyền thống, rằm tháng bảy là ngày các tội nhân ở cõi âm được tha bổng – ngày xá tội vong nhân. Vì thế các gia đình thường bày mâm cúng gia tiên, đốt vàng mã và cầu cúng tụng kinh nhằm mong các linh hồn được siêu thoát. Phật tử và khách thập phương nô nức đến chùa để tưởng nhớ, tôn vinh công sinh thành dưỡng dục, cầu nguyện cho cha mẹ, cầu an cho gia đình, đất nước. Những ngày này, các cửa chùa đều rộng mở, phân phát cơm chay cho mọi người...

Tạm quên đi những công việc thường nhật, chúng tôi hòa vào dòng người lên chùa dâng hương mong tìm những giây phút tịnh lòng giữa chốn tha hương. Nơi chúng tôi đến là chùa Xá Lợi.

Cũng như mọi ngôi chùa khác vào dịp này, khách thập phương nườm nượp kéo về. Những bông hồng đỏ trên ngực áo ai đó như reo vui hòa cùng nhịp bước với màu trắng se lòng của những bông hồng trắng. Dù còn cha mẹ hay không, dường như mỗi người đến đây, được đắm mình trong tiếng tụng kinh, tiếng mõ đều đều gõ nhịp, ai cũng thấy nhẹ lòng.

Khách đến chùa dịp này thường đem theo mâm lễ. Nhà giàu thì heo quay, vịt quay, người nghèo thì bánh trái hương hoa. Chúng tôi bắt chuyện với một phụ nữ trung niên. Chị là Nguyễn Nguyệt Viên, tiểu thương chợ Nguyễn Văn Trỗi. Chị cho biết, mỗi năm cứ vào tháng bảy âm lịch là cả nhà chị ăn chay.

Theo lời chị kể, ba chị tham gia kháng chiến rồi hy sinh nhưng không tìm thấy xác khi chị vừa lên 4 tuổi. Má chị ở vậy nuôi con và lặn lội khắp nơi tìm kiếm hài cốt chồng. Suốt mấy chục năm trôi qua, bà đi từ thuở tóc còn xanh đến nay mắt mờ chân yếu nhưng vẫn không tìm được. Bà vô cùng ray rứt... “Dịp này cũng như mọi năm, tôi đi chùa cầu an và cầu siêu.

Việc ăn chay trọn tháng cũng là sự nhắc nhở mình, nhắc nhở con cái và như món quà tinh thần động viên má lúc tuổi già. Chứ thực ra, tôi không quan niệm Vu lan là mùa báo hiếu mà sự hiếu thuận của con cái phải được thể hiện hằng ngày” - chị Viên trầm ngâm trả lời khi chúng tôi hỏi quan niệm và suy nghĩ của chị.

Nói rồi, chị Viên bày lễ vật lên mâm. Một ít bánh trái, vàng mã cùng bó huệ trắng tinh khiết và bắt đầu cầu nguyện. Nhìn gương mặt trầm tư của chị, tôi giật mình khi vô tình chạm tay lên ngực trái. Bông hồng đỏ thắm mà sư thầy ban nãy cài lên ngực áo sau câu hỏi: “Cha mẹ thí chủ còn hay đã khuất?”, khiến tôi thấy lòng ấm lòng...

Vu lan - mùa của suy tư

Trong mùa Vu lan, người ta thường nhắc đến tích xưa. Chuyện Mục Kiều Liên đã không quản ngại gian truân, khổ ải xuống tận ngục A Tỳ cứu mẹ là Thanh Đề và các linh hồn đang bị quỷ sứ giam giữ, đọa đày. Tích xưa dẫu có hay không nhưng điều dễ nhận biết và đi vào lòng người là sự hiếu hạnh của người con đối với mẹ cha. Câu chuyện đã vĩnh viễn trở thành bài học tinh thần về đạo làm con.

Đây là dịp để mọi người trở về đối diện với lòng mình đúng nghĩa nhất và cùng hướng thiện. Có lẽ vậy, ông Tr. Th. B- một doanh nhân thành đạt trong lĩnh vực xây dựng, là chủ nhân của những khu resort nổi tiếng mà chúng tôi có dịp biết, trong dịp này đã không ngần ngại lên chùa thường xuyên.

Ông hay cúng cháo, vừa múc cháo vừa khấn sang sảng: “Sống đã chịu một đời phiền não, thác lại nhờ hớp cháo lá đa..”. Hỏi thì ông thẳng thắn: “Làm ăn cả năm, tháng “cô hồn” tôi gác lại mọi chuyện, dành thời gian cho gia đình, đi chùa và làm từ thiện”. Mùa xá tội vong nhân năm nay, thấp thoáng ở các cửa chùa nhiều bóng dáng của các doanh nhân.

Họ đến để cầu an, làm phước... Hơn 300 năm trước, Nguyễn Du đã làm Văn tế thập loại chúng sinh, tế cả cô hồn các đẳng, kẻ chết ở đầu đường xó chợ, kẻ bị chém treo ngành... Nghĩ cho cùng, cúng người chết có lẽ là cúng cho chính mình. Và điều tốt nhất là hãy sống lương thiện...

Mùa Vu lan về, không thể gọi đó là mùa báo hiếu. Bởi, hiếu thuận với mẹ cha được thể hiện hằng ngày trong cuộc sống, không phải là mùa đến hẹn lại lên của đất trời. Phải chăng đây là mùa hội, là lời nhắn gửi tri ân và nhắc nhở mọi người về công ơn to lớn của đấng sinh thành...

Hiếu thuận là mùa sao được, khi những tấm gương hiếu thảo vẫn hiện diện trong cuộc sống ngày thường xung quanh chúng ta. Như chị Trần Thị Hương (quận 12 - TPHCM) - điển hình trong Liên hoan Con cháu hiếu thảo toàn quốc năm 2007.

Vì gánh nặng với mẹ già và cô em gái bị bệnh tâm thần, chị không đành lòng xây dựng gia đình mà ở vậy làm thuê, làm mướn nuôi em và phụng dưỡng mẹ già. Mẹ chị năm nay đã 90 tuổi, vô cùng xót xa, đã có lần bà tự tìm đến cái chết để giải thoát, hy vọng con gái bà nhẹ gánh mà đi tìm hạnh phúc riêng.

Nhưng rồi, chị Hương biết chuyện, trong đêm tối chị cõng mẹ lao đến bệnh viện. Bà cụ thoát chết. Tỉnh lại, mẹ con chị ôm nhau mà khóc. Chị bảo với mẹ rằng: “Má đừng nghĩ quẩn, con may mắn còn có má, được chăm sóc, phụng dưỡng má là niềm hạnh phúc lớn nhất đời con”. Là một đứa con ít học, nghèo khó nhưng chị Hương thấu hiểu công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và cảm nhận được sự may mắn khi còn có mẹ trên đời nên hết lòng phụng dưỡng. Câu chuyện về chị thật bình dị và cũng thật cảm động.

Vu lan về, nói sao cho hết trước công lao to lớn của mẹ cha. Đạo hiếu là một điều thiết thực và đạo hiếu không chỉ trong một mùa, mà phải thể hiện suốt cả đời. Bông hồng cài áo đẹp nhất, ý nghĩa nhất vẫn là những bông hoa nở trong tâm hồn. Còn việc “xá tội” lại mang tính nhân bản cao cả của con người, hướng con người đến cuộc sống lương thiện. Hãy “xá tội” cho chính mình bằng cuộc sống lương thiện và nhân ái.

Nguyên Hà

Offline SUCSONG@  
#5 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 05:49:30(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Người Hà Nội với Tết Vu Lan

 

Sân chùa Trấn Quốc trong dịp hành lễ Vu Lan Ảnh: Minh Hoàng
Đã trở thành phong tục, ngày lễ Vu Lan, dịp Rằm tháng Bảy - xá tội vong nhân có thể được coi là ngày tình thương Việt Nam vì con người, vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ cho loài người.

Đã trở thành phong tục, ngày lễ Vu Lan, dịp Rằm tháng Bảy - xá tội vong nhân có thể được coi là ngày tình thương Việt Nam vì con người, vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ cho loài người. Còn nghe văng vẳng đâu đây lời Nguyễn Du đã khóc trong Văn tế Thập loại chúng sinh:

 

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt

Toát hơi may lạnh buốt xương khô…

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người”

 


Tại sao gọi là Lễ Vu Lan?


Chữ Vu Lan, vốn phiên âm từ tiếng Phạn: Ullambana, Hán dịch là giải Đảo huyền, có nghĩa là "cứu nạn treo ngược"- giải thoát cho những cái chết nghịch ngược. Giải có nghĩa là gỡ ra cho khỏi vướng mắc, cởi trói buộc, giải mê lầm, gỡ cho họ khỏi gông cùm xiềng xích, khỏi khổ đau ách nạn. Sâu xa, giải đảo huyền còn có nghĩa là giải thoát khỏi tất cả những mối phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc cái tâm đi luân hồi, giải thoát khỏi sự trói buộc của tâm tham, tâm không sạch.

 

Theo nhà Phật, lễ Vu Lan bắt nguồn từ tích Tôn giả Mục Kiền Liên thương mẹ bị đọa đầy dưới địa ngục, được Đức Phật chỉ bảo làm lễ cúng Giàng, chú tâm cầu nguyện thì có thể siêu thoát cho mẹ. Lại có một tích khác của người Trung Hoa kể rằng, ngày lễ trên có liên quan đến câu chuyện "quỷ miệng phun lửa" đến tịnh thất của ông A nan đà đòi ăn. Ông này sợ hãi, đến bạch đức Phật và được Ngài dạy đến rằm tháng Bảy làm lễ cúng quỷ phun lửa sẽ được thêm phúc đức.

 

Người dân Việt tiếp nhận những tích chuyện này nhưng đã mở rộng ra, biến thành lễ "Xá tội vong nhân". Không chỉ là dịp lễ để tỏ lòng thành kính với các bậc sinh thành, cũng không cúng riêng "quỷ miệng lửa" mà cúng tất cả các cô hồn nói chung. Người ta cho rằng, những ai khi sống phạm nhiều tội lỗi thì linh hồn sẽ bị xiềng xích chịu đày ải nơi địa ngục. Tuy nhiên, mỗi năm đến dịp rằm tháng Bảy, xiềng gông được mở để mọi cô hồn có dịp trở về dương thế gặp lại người thân, nhận tiền vàng, đồ ăn và quần áo. Mỗi năm một lần, mọi linh hồn, bất kể khi sống thế nào, đến ngày đó vẫn được "xá tội", được hưởng sự yêu thương của  đồng loại. Nhà nhà mua sắm đồ vàng mã, nấu cháo loãng, rang bỏng ngô chuẩn bị cúng ngoài trời để đãi "ma đói" - những cô hồn vờ vật không có người thân cúng giỗ.

 

Vu Lan nơi cửa Phật

 

Mùa lễ Vu Lan ở Hà Nội năm nay bắt đầu sớm, từ 29/6 âm lịch, tại chùa Trấn Vũ đã khai trương Vu Lan Thắng Hội, theo sách Phật, Vu Lan là lễ lớn nhất trong năm của nhà chùa và cũng quan trọng đối với con đường tu hành của Phật tử.

 

Ngày lễ Vu Lan, ngoài việc báo hiếu cũng còn là ngày Tết của chư Tăng. Theo tinh thần giới luật của Phật, người xuất gia đã vào trong hàng Tăng Bảo, không hạn cuộc vào năm tháng của đời, không lấy ngày Tết của đời để tính thêm tuổi. Người xuất gia chỉ lấy ngày tháng kiết Hạ của mình, mà đánh giá mức tu hành của mình làm tuổi tác, thời gian kiết Hạ là từ rằm tháng Ba đến rằm tháng Bảy Âm Lịch. Rằm tháng Bảy là ngày mãn Hạ, cũng là ngày Tết của chư Tăng, đánh dấu một đoạn đường tu học, mỗi vị Tăng già thêm một tuổi Hạ, gọi là Hạ Lạp. Tuổi Hạ Lạp càng cao càng được tôn kính, như vị Phật sống.

 

Những ngày này các chùa ở Hà Nội đều cử hành pháp hội Vu Lan, cúng dường chư Phật chư Tăng để cầu cho quốc thái dân an, báo đáp ân đức cha mẹ đã nuôi dưỡng mình.

 

Tại chùa Trấn Quốc, lễ cúng dường diễn ra trang nghiêm với sự tham gia của hàng trăm phật tử. Lễ cầu nguyện này ở các chùa thực hiện từ ngày 11 tới ngày 13 âm lịch là kết thúc và nằm trong khuôn khổ hành đạo của nhà chùa, ngày 14 và 15 chỉ có khách thập phương đến lễ. Trong những ngày hành lễ các phật tử và du khách đã đến chùa dâng hương rất đông, đặc biệt ở các chùa lớn như Quán Sứ, Trấn Quốc…Cuối mỗi ngày hành lễ tại chùa Quán sứ, các phật tử đi vòng quanh chùa 3 vòng làm lễ nhiễu Phật. Phật tử xung quanh Hà Nội cũng góp mặt, phương tiện của chư vị xếp kín sân chùa.

 

Tại chùa Trấn Quốc, Phó chủ tịch trung ương hội Phật giáo Việt Nam đã giảng đạo, giảng pháp và trụ trì hành lễ trong 3 ngày từ 11 đến 13 tháng 7 âm lịch.Mỗi ngày hành lễ có hàng trăm phật tử đến nghe giảng đạo và tụng kinh, ăn ở tại chùa trong 3 ngày.

 

Vu Lan tại gia

 

Ngay những ngày đầu tháng 7 âm lịch, trên các đường phố đã xuất hiện nhiều gánh hàng rong bán bỏng, chè lam... Các cửa hàng trên phố Hàng Mã đã bày đủ loại vàng mã, quần áo, mũ mão thần linh, thậm chí cả xe cộ, nhà cửa, nữ trang, điện thoại di động, ô tô… với tâm tưởng “Trần sao âm vậy”. Chị Mai ở cửa hàng 25A Hàng Mã cho biết từ đầu tháng chị đã chuẩn bị hàng để bán, nhưng mùa Vu Lan năm nay phố Hàng Mã không được vượng bởi theo chị các chợ ở Hà Nội đều có bán đầy đủ các mặt hàng nên người dân không cần phải đi xa để chọn lựa.

 

Nhưng trong số các mặt hàng thì bỏng, ngô rang, chè lam là bán chạy nhất, khắp các ngõ xóm ở Hà Nội luôn có các bà các chị quảy gánh hàng rong phục vụ bà con. Chị Hồng ở Hà Tây cho biết, mùa này là dịp làm ăn của các bà các chị ở quê lên Hà Nội kiếm sống. Sáng sớm chị lên các chợ đầu mối để lấy hàng rồi quảy gánh đi khắp các ngõ ngách, đến chiều đã hết veo.

 

Năm nay gia đình bác Phượng ở Hạ Đình – Thanh Xuân làm lễ ngày 12 âm lịch . Từ sáng sớm bà đã đi chợ mua sắm vàng hương, quần áo chúng sinh, mũ mão thần linh, lễ cho gia tiên vào buổi trưa. Thông thường thì các gia đình làm lễ vào giờ Ngọ, mâm lễ cho gia tiên tùy theo điều kiện từng gia đình, làm cơm hay cúng đồ cúng thông thường, ngoài ra thì chuẩn bị vàng mã, quần áo, đồ dùng cho gia tiên. Hương tàn sẽ tiến hành hóa vàng. Đến 14 hoặc 15 âm lịch là dịp cũng chúng sinh, đồ cúng thường gồm cháo trắng, lá đa, khoai luộc, các loại bỏng, quần áo mũ mão, vàng hương… để các vong hồn được bù đắp.

 

Nhà bác Phượng làm lễ cúng gia tiên bắt đầu lúc 11h trưa ngày 12 âm lịch. Đây cũng là dịp để gia đình quây quần, để các con các cháu luôn nhớ phong tục tổ tiên, thể hiện đạo hiếu. Nhiều gia đình quan niệm, ngày lễ này phải làm cho đàng hoàng thì mới "ăn nên làm ra", mọi thành viên trong nhà mới may mắn khoẻ mạnh, không bị các vong hồn quấy nhiễu....Vì vậy, ngoài việc đi lễ chùa, cá biệt có người còn mời thầy cúng về hành lễ tại nhà hoặc mua sắm rất nhiều đồ thờ cúng, chi phí tốn kém lên tới vài trăm nghìn đồng, nhà buôn bán cúng có đến nhiều triệu đồng. Tuy nhiên, như ý kiến bác Phượng nói: "Là phong tục thì không bỏ được nhưng cũng tùy gia cảnh mà thực hiện”. Việc lạm dùng lễ nghĩa mà sinh ra lãng phí cũng là sự đáng lên án mà không sách Phật nào dạy lãng phí cả.

Minh Hoàng - Đức Huy - Mạnh Hùng

Offline SUCSONG@  
#6 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 05:52:14(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Người Việt Nam thương mẹ kính cha
HT. Thích Minh Châu

I. Qua Ca Dao Tục Ngữ

Mùa Vu Lan đối với người Việt Nam, nhất là người Phật tử, là một mùa báo hiếu, một mùa mà các người con, nhớ đến công ơn sanh thành của mẹ cha và muốn làm một cái gì tốt đẹp để đền đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ.

Nhớ ơn cha mẹ và báo hiếu là những cảm giác những suy tư, những việc làm đã in sâu đậm trong lòng người Việt Nam, và đã được thể hiện linh động và triền miên, ngang qua các câu ca dao và tục ngữ mà chúng ta đã tìm thấy, tràn ngập trong các thôn quê vườn xóm.

Đâu đâu cũng được đề cao công cha như núi cao, nghĩa mẹ như biển cả:

"Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu, mới là đạo con".

hay:

"Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa".

hay là:

"Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu".

"Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con".

"Công cha đức mẹ cao dầy,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

"Mẹ già ở tấm lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".

Lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam thường hay gắn liền với các hiện tượng thiên nhiên, nên chúng ta không thấy làm lạ nhiều câu ca dao đã dùng mặt trăng mặt trời để nói lên lòng thương mến cha mẹ:

"Đêm khuya trăng rụng xuống cầu,
Cảm thương cha mẹ, giãi dầu ruột đau".

hay là:

"Biển đông còn lúc đầy vơi,
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng".

Cũng vì thương cha mẹ, nên người con không bao giờ quên cầu khấn Phật trời cho cha mẹ luôn luôn được sống gần mình:

"Đêm đêm khấn nguyện Phật trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con".

"Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá,
Ngó ra ngoài biển, thấy cặp cá đang đua,
Đi về lập miếu thờ Vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha".

Cha mẹ đã săn sóc cho con từng miếng cơm manh áo, thời những người con khi cha mẹ về già cũng phải sáng viếng tối thăm, tìm của ngon vật lạ phụng dưỡng cha mẹ:

"Muốn cho gần mẹ gần cha,
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền".

"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".

Thỉnh thoảng chúng ta chứng kiến cảnh người con gái không chịu đi lấy chồng, vì không muốn xa cha mẹ:

"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".

Người con gái đi lấy chồng xa cũng bị trách:

"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?"

Nhưng mình có hiếu với cha mẹ, thời con cháu mình sẽ có hiếu với mình. Đây là luật đáp ứng thường tình, nhưng không vì vậy mà giảm bớt tình của lòng thương mẹ kính cha của người Việt Nam:

"Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công".

hay là:

"Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận
Ngỗ nghịch nào con có khác chi!
Xem thử trước thềm mưa xối nước
Giọt sau giọt trước chẳng sai gì".

"Ở đời ai cũng có lần
Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành.
Người xưa khó nhọc nuôi mình
Khác chi mình đã hết tình nuôi con".

Nhưng người con cũng biết cha mẹ thương con không phải giống nhau, cha có lòng thương của người cha, mẹ có lòng thương của mẹ, nên người con cũng biết phân biệt:

"Mẹ dạy thì con khéo,
Bố dạy thì con khôn".

"Mồ côi cha ăn cơm với cá,
Mồ côi mẹ, lót lá mà nằm".

Trong câu ca dao này, chúng ta đã nhận thấy sự phân biệt của người con về cảm tình đối với cha khác, đối với mẹ khác. Nếu như cha có mất đi, thì đã có bà mẹ săn sóc cho con, cho con ăn cơm ăn cá đầy đủ. Nhưng chẳng may mẹ mất đi người con mới thật khốn khổ, phải đi lót lá mà nằm. Và vì vậy, nên chúng ta không có lạ gì, khi người con gần mẹ hơn cha, thương mẹ hơn thương cha. Chúng ta được đọc rất nhiều câu ca dao và bài thơ tán dương lòng mẹ thương con, lòng con nhớ mẹ:

"Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ".

"Ai rằng công mẹ như non,
Thật ra công mẹ lại càng lớn hơn".

"Lòng mẹ như bát nước đầy,
Mai này khôn lớn, ơn này tính sao".

"Nhớ ơn chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình".

"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".

"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".

"Mẹ ngảnh đi, con dại,
Mẹ ngảnh lại con khôn".

"Mẹ giàu con có, mẹ khó con không".

"Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau".

"Bồng cho con bú một hồi,
Mẹ đã hết sữa, con vòi con la".

"Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời".

"Những khi trái nắng trở trời,
Con đau mà mẹ đứng ngồi không yên".

"Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

Vì lòng thương mẹ dạt dào, vì nhớ đến công ơn bú mớm, sinh thành, nuôi nấng, nên người con luôn luôn tưởng đến mẹ:

"Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều".

"Giữa đêm ra đứng giữa trời,
Cầm tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn".

"Trải bao gian khổ không sờn,
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền".

Đối với công ơn trời biển của mẹ, các người con luôn luôn tìm cách báo đáp ơn sâu nghĩa nặng và làm tất cả những gì có thể làm được để đền ơn mẹ:

"Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".

"Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già".

"Đói lòng ăn đọt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng".

"Đói lòng ăn trái ổi non,
Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xưa".

"Dấn mình gách nước làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân".

"Vô chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền".

"Nuôi con chẳng quản chi thân
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Biết lấy gì đền nghĩa khó khăn,
Lên non xắn đá, xây lăng phụng thờ".

"Đây bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ ôi, đây ngọc với đây lòng,
Đây tình con nặng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong".

Ai không làm tròn bổn phận người con đối với mẹ, thì được nghe lời trách móc:

"Đi đâu bỏ mẹ ở nhà,
Gối nghiên ai sửa, chén trà ai dâng".

Vì người con hiếu được tình thương của mẹ đối với con, những công lao mẹ đã trải qua để nuôi con cho khôn lớn, nhất là những hy sinh lo lắng của mẹ chiều chuộng con, săn sóc con, chịu cực khổ vì con, nếu chẳng may người mẹ đã qua đời không con nữa, thời người con đau khổ xót thương là chừng nào.

Nhiều bài thơ đã nói lên nỗi lòng của người con mất mẹ và sau đây là một nỗi lòng của một thiếu nữ mất mẹ:

"Năm xưa tôi còn nhỏ,
Mẹ tôi đã qua đời.
Lần đầu tiên tôi hiểu,
Thân phận kẻ mồ côi".
"Quanh tôi ai cũng khóc,
Im lặng tôi sầu thôi,
Để dòng nước mắt chảy,
Là bớt khổ đi rồi...".
"Độ nhỏ tôi không tin,
Người thân tôi sẽ mất
Hôm ấy tôi sững sờ
Và nghi ngờ trời đất".
"Từ nay tôi hết thấy
Trên trán mẹ hôn con
Những khi con phải đòn
Đau lòng mẹ la lẫy".
"Kìa nhà ai sung sướng
Mẹ con vỗ về nhau
Tìm mẹ con không có
Khi buồn biết trốn đâu".
Hoàng hôn phủ trên mộ,
Chuông chùa lạnh rơi rơi,
Tôi thấy tôi mất mẹ,
Mất cả một bầu trời!".

Dẫu cho người con thương cha không bằng thương mẹ, nhưng chẳng phải như vậy mà người con quên công ơn của người cha, vì vai trò của người cha rất là đặc biệt trong gia đình:

"Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi".

"Khôn ngoan nhờ ấm ông cha,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ,
Đạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem kính yếu mà thờ từ nghiêm".

"Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha mất, gót con đen sì".

Hình ảnh người cha tuy đã già rồi vẫn làm lụng nuôi con, cũng để lại trong tâm trí người con một nỗi biết ơn vô hạn:

"Cha tôi tuy đã già rồi,
Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà,
Sớm hôm vừa gáy tiếng gà,
Cha tôi đã dậy để ra đi làm".

Và cũng là một hình ảnh cảm động, khi mẹ đã mất rồi, người cha đóng vai gà trống nuôi con lo cho con uống sữa:

"Nghiêng bình mở hộp nút ra,
Con ơi, con bú cho cha yên lòng".

Tuy vậy, vai trò giáo dục trong gia đình, người cha đặt nặng hơn, và giáo dục thường hay nghiêm khắc và như vậy ảnh hưởng tốt đẹp cho người con, khi được một người cha nghiêm minh dạy bảo, có tác dụng hơn người mẹ nhiều:

"Mẹ đánh một trăm, không bằng cha ngăm một tiếng".

II. Qua Truyện Ký

Vai trò giáo dục của người cha lại càng nổi bật hơn trong câu chuyện của Nguyễn Trãi được cha là Phi Khanh khuyên bảo; nhờ vậy, trở thành là một nhà ái quốc văn võ kiêm toàn, phò hộ cho Lê Lợi đánh đuổi quân Minh và xây dựng tổ quốc Việt Nam.

Phi Khanh, thân sinh của Nguyễn Trãi, vì phò Hồ Quý Ly chống lại quân Minh, nên khi Hồ Quý Ly thất trận bị bắt, Phi Khanh cũng bị bắt theo và áp giải đi Nam Kinh để tù đày. Hai con trai của Phi Khanh là Nguyễn Trãi và Phi Hùng cũng đi tiễn đưa Phi Khanh lên đến cửa Nam Quan. Bây giờ Phi Khanh đã biết thân mình già yếu, nước mất nhà tan, lại bị tù đày chắc sống cũng không bao lâu. Thấy hai con lẽo đẽo theo sau từ xa, thương cha đều khóc đỏ ngầu cả hai con mắt. Phi Khanh biết Nguyễn Trãi có chí lớn, có khả năng làm nên đại sự sau này, nên khuyên Nguyễn Trãi như sau: "Ta già rồi, chết cũng không hối hận nữa. Duy bình sinh, ta rất ưa thích sơn thủy núi Bái Vọng ở chốn cố hương. Vậy để một mình em con đi theo ta, hễ ta có chết thì nó nhặt lấy xương đem về chôn ở núi ấy là đủ rồi; còn con, ta khuyên con nên trở về. Lâu nay xem thiên văn, ta biết sau đây hơn mười năm, tất có một vị chân chúa nổi lên ở phương Tây, con là người có học có tài, bây giờ nên đi theo vị chân chúa để rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới chính là đại hiếu. Lọ là phải cứ đi theo cha, khóc thút thít như đàn bà ấy mới là hiếu sao?"

Nhờ lời khuyên của cha là Phi Khanh, Nguyễn Trãi trở về, sau tìm Lê Lợi phò giúp, đánh đuổi được quân Minh, dành lại độc lập tự do cho xứ sở, vừa trả thù được cho cha.

Người cha đã đóng đúng vai trò giáo dục của mình là giáo dục con cái trở thành những người công dân giúp nước lợi dân. (Nguyễn Trãi, Trúc Khê, em Đàn, trang 15).

Ngang qua các câu ca dao, các câu cách ngôn, các mẫu chuyện, chúng ta đã thấy lòng người Việt Nam đối với cha mẹ như thế nào, lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam đã được truyền thống dân tộc Việt Nam hun đúc, tác thành, ăn sâu vào tâm khảm của người Việt Nam. Ngoài ra, người Phật tử Việt Nam lại được đạo Phật dạy thêm nhiều về chữ hiếu soi sáng thêm nghĩa vụ làm cha mẹ, nghĩa vụ làm con, nhờ vậy chữ Hiếu lại càng ảnh hưởng sâu đậm vào người Phật tử Việt Nam, vào tâm tư hành động của người Việt Nam.

"Tâm Hiếu là tâm Phật,
Hạnh Hiếu là hạnh Phật".

Offline SUCSONG@  
#7 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 05:53:02(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

 
Quan niệm về chữ hiếu của dân tộc Việt Nam
(Trích từ Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế)
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát

Về tư tưởng hiếu đạo, tối thiểu cứ vào cuộc tranh luận do Mâu Tử lý hoặc luận ghi lại xung quanh truyện Thái tử Tu Đại Noa và căn cứ vào chính truyện Tu Đại Noa, trong Lục độ tập kinh 2, ĐTK 152 tờ 8b7, ta biết có sự khác biệt cơ bản giữ tư tưởng hiếu đạo của người Việt Nam và hiếu đạo của người Trung Quốc. Hiếu đạo của người Trung Quốc theo câu mở đầu của Hiếu kinh là: "Thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương đó là khởi đầu cuả hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, đó là kết cục của hiếu". (Thân thể phát phu, thọ chi phu mẫu, bất cảm tổn thương, hiếu chi thủy. Lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, hiếu chi chung).

Người vấn nạn nơi điều 9 trong Mâu Tử lý hoặc luận cũng dựa vào lý lẽ trên bài bác Mâu Tử, thì Mâu Tử chỉ ngay: "Thái Bá cắt tóc, vẽ mình, tự theo tục của Ngô việt, trái với nghĩa thân thể tóc da; vậy mà Khổng Tử ca tụng, cho có thể gọi là chí đức [...] Dự Nhượng nuốt than, sơn mình. Nhiếp Chính lột mặt, tự vẫn. Bá Cơ dẫm lửa, hạnh cao cắt mặt. Quân tử cho là dũng và chết vì nghĩa. không nghe ai chê là tự hủy hết".

Lại nữa, một quan niệm đạo hiếu như trong Hiếu kinh như thế không thể nào phù hợp với ngay chính tập tục sống rất phổ biến cuả người Việt Nam vào thời Hùng Vương mà Tiền Hán thư 28 hạ tờ 31a5-12 đã ghi lại: "Đất Việt (...) nay là Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, đều là phần của Việt... xâm mình cắt tóc để tránh hại của giao long"

Nhan Sư Cổ (581-645) dẫn Ứng Thiệu (khoảng 130-190) giải thích tục xâm mình cắt tóc của người Việt, nói: "Thường ở trong nước, nên cắt tóc xâm mình, cho giống với con rồng, để không bị thương hại".

Tục cắt tóc xâm mình của người Việt như vậy xuất hiện rất sớm, từ thế kỷ trước Dương lịch người Trung Quốc đã biết đến và ghi lại, để cho sau này Ban Cố (32-92 sdl) chép vào Tiền Hán thư. Một khi tục cắt tóc xâm mình đã phổ biến như thế, thì ngay câu đầu của thuyết hiếu đạo Trung Quốc nghe đã không lọt tai đối với người Việt. Người Việt làm sao giữ hiếu đạo được theo Hiếu kinh nếu họ đã cắt tóc xâm mình? Từ thực tế đó, bắt buộc người Việt phải có một đạo hiếu khác với đạo hiếu của người Trung Quốc. Và đạo hiếu này được công bố rõ ràng trong kinh Tu Đại Noa của Lục độ tập kinh 2. ĐTK 152 tờ 8b7; "Giúp nghèo cứu thiếu, thương nuôi quần sinh, là đứng đầu của hạnh? (Chẩn cùng tế phạp, từ dục quần sinh, vi hạnh chi nguyên thủ).

Khi xác định đứng đầu mọi hạnh (hạnh chi nguyên thủ) là việc "giúp nghèo cứu thiếu thương nuôi quần sanh", thì đây là một định nghĩa hoàn toàn mới về chữ hiếu, bởi vì theo Đỗ Khâm trong Tiền Han thư 60 tờ 9a12 thì "hiếu đứng đầu mọi hạnh của con người" (hiếu, nhân hạnh chi sở tiên), và đây cũng là ý chính của Hiếu kinh, mà Tiền Hán thư 71 tờ 9a9-10 đã dẫn: "Hiếu kinh nói:"Tính của trời đất, con ngưòi là quí. Hạnh con người không gì lớn hơn hiếu".

Nội dung đạo hiếu của người Việt Nam thời tiền Phật giáo như hoàn toàn khác hẳn đạo hiếu của người Trung Quốc. Cần nhớ là chữ hiếu trong tiếng Phạn không có một từ tương đương với chữ hiếu cuả tiếng Hán. Từ một nội dung chữ hiếu như thế, ta mới thấy Lục độ tập kinh 5 ĐTK 152 tờ 28a22-24, truyện 49, đã lên tiếng phê phán đạo hiếu của người Trung Quốc: "Tôi ở đời lâu năm, tuy thấy Nho sĩ tích đức làm lành, há có ai như đệ tử Phật quên mình cứu người, âm thầm mà không nêu danh ư?" (Xử thế hữu niên, tuy độ Nho sĩ tích đức vi thiện, khởi hữu nhược Phật đệ tử, thứ kỷ tế chúng ẩn xứ nhi bất dương danh dã hồ?).

Hai thành tố chính của đạo hiếu Trung Quốc là "thân thể tóc da không dám tổn thương" và "lập thân hành đạo, nêu tên với hậu thế" từ đó đã bị khái niệm đạo hiếu của người Việt Nam phản bác. Và không chỉ hai thành tố này cuả Hiếu kinh bị phê phán, một quan niệm khác do Mạnh Tử nêu lên, đó là "bất hiếu có ba, không người nối dõi là lớn nhất" (bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại) cũng bị Lục độ tập kinh ở truyện 86, tờ 48a7-10, mạnh mẽ phê phán: "Người đạo cao thì đức rộng. Ta muốn cái đạo vô dục, đạo đó mới quí. Đem đạo truyền cho thần, đem đức trao cho thánh, thần thanh truyền nhau cái sự giáo hóa vĩ đại không hư nát, đó mới gọi là sự nối dõi tốt lành. Nay người muốn lấp nguồn đạo, chặt gốc đức, thì không đáng gọi là kẻ vô hậu ư?" (Đạo cao giả quyết đức thâm, ngô dục vô dục chi đạo, quyết dục trân hỉ. Dĩ đạo truyền thần, dĩ đức thọ thánh, thần thánh tương truyền ảnh hóa bất hủ, khả vị lương tự giả hồ! Nhữ dục điền đạo chi nguyên phạt đức chi căn, khả vị vô hậu giả hồ!).

Vấn đề vô hậu của đạo hiếu từ bình diện sinh lý đã chuyển sang bình diện đạo đức và học thuật, không nhất thiết phải có sự thừa tự về mặt sinh vật học mới gọi là hiếu, đạo hiếu theo quan niệm của Mạnh Tử, mà còn có một lối thừa tự khác, sự nối dõi khác, nối dõi về chân lý, nối dõi về học thuật, nối dõi về đạo đức. Quan niệm nối dõi này cuả ngưòi Việt thời kỳ tiền Phật Giáo hoàn toàn phù hợp với quan niệm thừa tự Pháp của Phật giáo.

Nhưng không chỉ có thế, quan niệm nối dõi này mang hai đặc tính cần lưu ý trong cuộc đấu tranh để giữ gìn nòi giống của người Việt. Thứ nhất, để bảo vệ sự tồn tại như một dân tộc, người Việt phải xác định mình có một nền văn hóa, một nền đạo đức học thuật cần phải nối dõi, cần phải bảo vệ mà nếu không nối dõi được thì dân tộc không thể tồn tại với tư cách là một dân tộc được. Xuất phát từ quan điểm nối dõi như thế, người Việt không đi đến một chủ nghĩa nối dõi cực đoan, như sự nối dõi về mặt sinh vật học của chủ nghĩa ưu sinh (eugenics) hiện đại, gây tác hại và tốn bao sinh mạng đối với những dân tộc khác. Bảo vệ nền văn hóa của mình, bảo vệ lối sống (hạnh) của mình, người Việt sẵn sàng mở rộng đôi tay đón nhận những người từ dân tộc khác đến sống chung trở thành một bộ phận của dân tộc mình.

Đây là đặc điểm thứ hai của quan niệm thừa tự của người Việt tiền Phật giáo. Họ có quan niệm như thế cũng phải thôi, bởi vì địa bàn sinh tồn của họ, cụ thể là vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ vào thời xa xưa đã tồn tại những dân tộc khác. Cho nên, những giao lưu về huyết thống giữa các dân tộc khác nhau tất phải xảy ra. Do đó, nếu chỉ dựa vào sự nối dõi theo quan điểm sinh vật học, thì người Việt đã không phát triển và hình thành được một cộng đồng dân tộc thuần nhất. Họ phải dựa vào một quan điểm khác để có sự thuần nhất ấy, đó là, sự thuần nhất về mặt văn hóa và lối sống.

Trong bối cảnh của một nền chính trị, kinh tế và văn hóa như thế, đã nổi bật lên một số tư tưởng, tín ngưỡng của người Việt đời Hùng Vương mà ngày nay ta còn tìm thấy trong các thư tịch cổ và được chứng thực một phần nào bởi các di liệu khảo cổ học.

Offline SUCSONG@  
#8 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 05:54:58(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Vu-lan rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc
Giác Đạo - Dương Kinh Thành

Trước khi đặt bút viết bài này, ngoài một số vốn liếng ít ỏi tri thức Phật học, chúng tôi đã tham cứu nhiều tài liệu, kinh sách có liên quan đến ý ngĩa lễ Vu Lan-Rằm tháng Bảy. Nhưng tựu trung và cộng lại, chúng tôi chỉ toát lên một ý niệm sống thực tại trong cộng đồng dân tộc Việc Nam, mà với những tài liệu phong phú kia đã nêu bật được chất keo gắn bó giữa ảnh hưởng Phật Giáo đối với xã hội, con người qua nhiều thời đại.

âng! Những điều đó, các bậc thức giả, các bậc sư trưởng đều đã nói hết rồi, không còn khe trống để người hậu sinh chúng tôi góp phần tô điểm. Đã đẹp, đã trở thành điều hiển nhiên rồi; hiển nhiên tới mức đôi khi chúng ta quên rằng chính nó đã trở thành ca dao dân tộc:

Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân

Nó không phải là thứ ca dao biền ngẫu hay đệm vần cho qua câu để tạo mở, tôn tạo cho ý đồ chính. Không viết, đủ hẳn chúng ta chúng ta cũng biết đó là ca dao kiểu "liên khúc" nói về sinh hoạt 12 tháng của một năm, mà nền văn minh nông nghiệp nơi xã hội Việt Nam ta xưa nay không thể chối cải được. Đã vậy, "tháng Bảy ngày Rằm...", câu này nổi bậc nhất không chỉ vì nó nói lên ý nghĩa về một ngày lễ của PG, mà còn đưa ra tính nghiêm túc, thể hiện cho một cách sống cộng đồng, ngoài sinh hoạt, ăn uống, vui chơi, mùa màng và thời tiết so với 11 tháng kia. Nó đã trở thành lịch sinh hoạt hàng năm của dân tộc ta, kể từ khi dấu chân, tích trượng các Thiền Sư đã đến xứ sở Giao Châu non 20 thế kỷ qua. Điều đó cho biết PG đã biết vặn mình "nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục" hoàn toàn hợp lý, hợp lẽ, không gây ra sự dị ứng đối kháng. Do vậy, không phải dễ dàng"được" có mặt trong ca dao, trong tâm khảm đời sống dân tộc, mà bất kỳ sự gượng ép, gò chế cố tình đạt được điều đó sẽ trở thành nạn nhân của bánh xe lịch sử nghiền nát. Đặc biệt hơn, sự có mặt của PG trong ca dao 12 tháng kia, và ngay trong nếp sống dân tộc, còn mang một ý nghĩa to lớn khác, thể hiện được tính chân lý thực tiễn, vượt lên trên sự tôn kính thời nguyên sơ, khi con người tự cho mình còn nhỏ bé trước thiên nhiên. Đó là thời kỳ dựng nước họ Hồng Bàng mà sách Lĩnh Nam chích quái đã kể lại, cái thời kỳ mà chính Lạc Long Quân phái dùng đến vạn phép thần thông biến hóa mới đuổi được tên xâm lược phía Bắc đầu tiên là Đế Lai ra khỏi bờ cõi. Và cái thời mà mọi thứ yêu tinh thường xuất hiện quấy nhiễu dân lành, để nỗi sợ hãi phải tôn lên hàng thần thánh, kể cả tiếng sấm sét. Thần sông, thần biển, núi, gió, lửa ... đã có mặt chễm chệ trước sự quy phục con người thờ lạy. Muốn sống còn, muốn sống để dựng nước, giữ nước, con người lúc ấy khi lên rừng, xuống biển, tất phải xâm mình hình ảnh Thủy quái, Sơn tinh ..v.v… Như vậy, lịch sử PGVN có mặt và phát triển chỉ bằng phân nữa lịch sử dựng nước của con cháu Lạc Long Quân, ngẫu nhiên đánh bại Sơn tinh, Thủy quái từ trong truyền thuyết đời sống lẫn trong tâm khảm con người, và tôn tạo được một ý sống mới phù hợp với lòng người, với sự khổ đau và với hiện trạng cuộc sống đương thời.

Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trãi qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, PG đã hòa mình gắn liền vận mệnh như một định lý không thể tách rời, xứng đáng với phạm trù đạo pháp và dân tộc, đó là sự thật được lịch sử chứng minh cái PG có.

Lễ Vu Lan – Rằm tháng Bảy được xác lập từ trong ý nghĩa đó. Tình cảm và đạo lý dân tộc ta vẫn luôn rộng mở; với thù, với bạn cũng cùng "chung nước mắt mặn, máu đỏ" như nhau. Những "thương người như thể thương thân", "mình với ta tuy hai mà một...", "Bầu ơi, thương lấy Bí cùng..." v.v…, há chẳng phải đạo lý PG đó sao? Cũng như trước mọi hoàn cảnh bi thương nào đó, từ của miệng dân ta há đã chẳng thốt ra lời đầu tiên là "tội nghiệp", làm ý nghĩa hàm ý to lớn, biểu lộ lòng lan mẫn, tương thân tương ái đó sao? Nói một cách khác, PG đã đáp ứng được một phần rất lớn tình cảm và niềm tin trong cộng đồng dân tộc, đã trở nên hòa nhập mật thiết trong mọi lãnh vực. Dù không PG, đến Rằm tháng Bảy, ai ai cũng đều tỏ ra tha thiết với ý nghĩa hiếu để, cũng như xá tội vong nhân đối với thế giới xa xăm nào đó; tùy theo trình độ nhận thức cảnh giới địa ngục. Cho nên nếu hiểu theo quan niệm vượt hóa, chúng ta sẽ dễ dàng cảm nhận những dòng sau đây của cố HT Thích Trí Thủ (đăng trong Nội san Bát Nhã số 5 của tổng vụ Tài chánh, trước năm 1975):

"Những cơn mưa dầm của tháng Bảy, trời âm u, bão và lụt đã bắt đầu, ngày dại của mùa Hè rút ngắn lại; trời đất đang xoay tới khoảng thăng bằng, làm nhịp cầu giao cảm thiên thu giữa cõi sống và cõi chết. Người chết đã buông tay rũ sạch những tham vọng của một đời, cho lá vàng rụng xuống. Người sống vẫn tiếp tục lượm nhặt lá vàng, xây những tham vọng cuồng dại mới. Kiếp luân hồi kéo dài bất tận, người sống và kẻ chết nối nhau thành một "đoàn vô tư lạc loài nheo nhóc", cùng lang thang vô định trên "con đường bạch dương bóng chiều man mác.

"Rằm tháng Bảy, một ngày hội âm thầm của những oan hồn mà sống đã không nói được khát vọng của mình, và chết cũng không có lời để ta thán. Nếu dương gian còn phảng phất một chút tình người, còn tưởng nhớ đến ân tình một thuở, thì một hạt muối và một bát nước trong cũng đủ rửa sạch cái oan khí tương triền ngàn năm treo ngược.

"Vu Lan Thắng Hội, ngày hội "cứu đảo huyền, ngày giải tỏa oan khiên treo ngược tội nhân trên rừng đao, biển lửa. Trong ngày đó, mười phương đang Phật đều nở nụ cười hoan hỷ, vì là ngày tha thứ giữa những người còn sống, biết cởi bỏ hận thù ràng buộc để sống, còn có ngày hội nào vui hơn, trước cái hứa hẹn một thế giới thanh bình có thể có? Oan khiên trở thành ân nghĩa. Ân của trời đất, ân của cỏ cây, ân của đồng loại; ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp, sao nhất thời lại có thể hờ hững trôi qua?

"Trong khoảng trời đất mịt mù, giữa những đêm dài lạnh lẽo, người chết còn biết trở lại dương gian xin một bát nước để rửa sạch oan khiên treo ngược, há người sống lại không biết âm thầm nở nụ cười hoan hỷ và tha thứ ?"

Đọc những dòng trên bằng cả một tấm lòng vị tha rộng mở, chúng ta đã thấy ra được phần nào ý nghĩa to lớn của ngày lễ Vu Lan. Như vậy, địa ngục thường mang ý nghĩa của một vai trò chủ đạo khi nhắc đến Vu Lan – Rằm tháng Bảy, từ đó chúng ta khởi niệm và đồng cảm với tha nhân một cách dễ dàng, bởi địa ngục có là do sự cảm vời mà ra, như kinh Địa Tạng thường được Đức Phật lập lại nhiều lần. Hay nói như một danh nhân thế giới: "Địa ngục là do chân lý được nhìn ra quá trễ". Do đó, Tagore – nhà thơ lẫy lừng của Ấn Độ – từng biểu cảm bằng ngôn ngữ triết lý qua câu nói: "Trong cái chết thì nhiều biến thành một, trong sự sống thì một biến thành nhiều". Thương yêu vượt qua biên giới của sự sống chết, mà địa ngục chỉ là phạm trù gạch nối, không phải là dấu chấm hết, khẳng định. Cúng Rằm tháng Bảy có nghĩa là chia sớt sự sống cho cảnh giới khác mà nhân gian thường gọi "cô hồn, uổng tử" còn vất vưỡng chờ thọ và định nghiệp. Từ đó con người khi quay lại cuộc sống đời thường, chắc rằng không ai là không lân cảm với đồng loại. Ý nghĩa đó là một chân lý tuyệt hảo của nhân loại đã sống và đã thực hành dù không cùng chính kiến, giai cấp xã hội hay bất kỳ chủ thuyết tôn giáo nào. "Một ngày mà chúng ta không thắp lên ngọn lửa thương yêu, vì thế biết bao người chết vì giá lạnh". Francois Mauriac cũng đã thốt lên như vậy.

Dân tộc chúng ta vốn có truyền thống đạo đức cao thượng, hiếu ân vẹn toàn, khi tiếp nhận tư tưởng PG nói chung và lễ Vu Lan nói riêng, đó há chẳng là sự dung nạp lý tưởng đạo đức thuần nhất để trở nên nếp sống chung cộng đồng? Tuy nhiên, sự hòa nhập đó trong quá trình phát triển vẫn không tránh khỏi sự đố kỵ, đôi lúc đưa đến nguy vong từ phía các tư tưởng Nho-Khổng giáo. Mặc dù hệ tư tưởng này không mấy khác biệt với PG, phần lớn đều nằm vào nền tảng đạo đức phương Đông, nhưng ở PG thì phóng khoáng hơn, cởi mở hơn, nên những đối kháng kia chỉ là trở ngại nhất thời trong lịch sử. Dù vậy, khi lên ngôi quốc giáo – nói đúng hơn là khi thời kỳ PG hưng thịnh bởi các hàng quan quân đến vua chúa đền tín hướng PG – vẫn không ỷ thế cậy quyền đè bẹp các tư tưởng khác, ngược lại còn chủ trương "tam giáo đồng nguyên". Những tư tưởng bài xích đạo Phật của Trương Hán Siêu trong Linh Tế tháp kyQuang Nghiêm tự bi văn; Hàng Dũ (Trung Quốc, 768-823) với bài biểu Can vua đón xương (Xá Lợi) Phật; Lê Quát Mai Phong với bài Văn bia chùa Thiệu Phúc thôn Bái, tỉnh Bắc Giang v..v… đã không đủ sức đánh bạt làn gió đạo đức PG đang thổi đến khắp mọi nơi, từ kinh thành đến những làng quê hẻo lánh. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi tác giả bài Gia huấn ca là Nguyễn Trãi, bậc đại công thần nhà Lê, ra đời với nội dung "thương người như thể thương thân" phủ trùm tinh thần vị tha của PG. Chưa hết, trong kho tàng cổ tích Việt Nam không hiếm chuyện kể nhắc đến vai trò ông Bụt (một dạng phương ngữ hóa từ chữ Phật) luôn che chở và giúp đỡ người hiền, đặc biệt là truyện "Sự tích cây nêu ngày tết", chiếc y vàng của Phật với cái bóng của nó là dải đất yên lành cho người dân sinh sống. Đó là những tiềm ẩn sâu sa minh chứng cho sự trường tồn PG. Đại văn hào của dân tộc ta: Cụ Tố Như Nguyễn Du, ngoài tác phẩm bất hủ Truyện Kiều, trong đó tác giả đều lấy triết lý PG là nền tảng, ngay đoạn mở đầu đã phải dùng đến tư tưởng "tài mệnh tương đố" và kết thúc bằng nhận định "nhân quả" hẳn hoi. Do đó, không phải ngẫu nhiên khi tác giả cho rằng:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài

(Truyện Kiều, câu 3249-3252)

Bên cạnh đó còn phải kể đến bài Văn tế thập loại chúng sinh. Đọc bài này, người ta càng ngạc nhiên hơn nếu cho rằng Nguyễn Du viết truyện Kiều vì ảnh hưởng PG. Bời vì ngôn ngữ và ngụ ý của bài Văn tế thập loại chúng sinh vô cùng chính xác, từ cách diễn đạt các thế giới cho đến tinh túy Phật học, mà nếu không biết rõ gốc tích tác giả, người ta dễ sai lầm cho đó là của một vị Tăng nào đó viết. Thí dụ :

Trời tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô
Não người thay buổi chiều Thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dịp đường đê lác đác sương sa
Lòng não lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khí thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người...
... Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có của cùng không
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Trên đây là một vài tiêu biểu cho sức sống PGVN mãnh liệt trong lòng dân tộc, đã tạo nên nét đẹ truyền thống văn hóa chung từ bao nhiêu thế kỷ nay. Vì thế, ngày Rằm tháng Bảy – lễ Vu Lan không còn của riêng Phật giáo, mà đã trở thành "lịch sinh hoạt" hàng năm. Và cũng có thể đánh giá theo cách nói của giáo sư Hoàng Như Mai trong bài "Lễ Vu Lan và tình thương của nhân dân ta" (đăng trong Tập văn Vu Lan 2531-1987) rằng: "Ngày lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy, ngày xá tội vong nhân có thể được coi là ngày tình thương Việt Nam vì con người, vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ cho loại con người.

Có thể ý nghĩa hơn trong việc đúc kết thên nhận định đó, và để tôn tạo thêm giá trị nhân gian – dân tộc đã dung chứa tinh thần PG, chúng ta hãy đọc lời phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước ta được TTXVN phát đi và báo Sài Gòn Giải Phóng đăng lại dưới tựa đề "Về vấn đề Tôn giáo ở Việt Nam" ngày 26-01-1995, trong đó phần nhận định có đoạn: "... Phật tử VN là những người yêu nước, luôn luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ Quốc đấu tranh chống ngoại xâm. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI VN KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CÒN LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG …"(Chúng tôi viết hoa – DKT).

Với niềm tin son sắt đó, với lòng tín hướng Phật Đà, một lần nữa chúng ta đón mừng ngày lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy, trên đất nước Việt Nam thân yêu với đầy đủ sự tự hào hãnh tiến cùng dân tộc./.

Offline SUCSONG@  
#9 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 06:10:17(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Ăn chay mùa Vu Lan

Cập nhật: 8/17/2007

Vào mùa chay của dịp lễ Vu Lan hằng năm, chương trình “Sài Gòn - Chợ Lớn những món chay” của nhà hàng Vân Cảnh và nhà hàng Á Đông năm 2007 lại tiếp tục giới thiệu cho các thực khách chương trình buffet chay lần thứ 7 của mình.

Dự kiến số thực khách tham dự sẽ đạt con số 15.000 người. Thực khách sẽ được thưởng thức những món chay danh tiếng của Vân Cảnh - Á Đông. Đồng thời với tay nghề của bếp trưởng Nguyễn Thanh Liêm, anh từng làm việc tại các nhà hàng khách sạn 5 sao, những món chay Âu-Á mới như bò steak, hải sản X.O, xúp măng tây cua, đậu đỏ Ham kiểu Ấn Độ, cà ri tôm, spaghetty... sẽ đem đến cho thực khách những khám phá mới.

99 món chay trong thực đơn được thay đổi hằng ngày luôn được chăm chút từ khẩu vị đến hình thức trình bày hấp dẫn, bắt mắt. Ngoài ra tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm luôn được đặt lên hàng đầu. Các nguyên vật liệu luôn được chọn lựa tươi mới để bảo đảm hương vị ngon lành nhất cho các món ăn.

Mùa Vu Lan những thành viên trong gia đình cùng quây quần bên nhau trong một tiệc chay là một nét đẹp trong văn hoá truyền thống của người Việt Nam. Một cách bày tỏ sự tri ân đấng sinh thành đầy ý nghĩa.

Chương trình Sài Gòn - Chợ Lớn những món chay bắt đầu từ ngày 12/8 đến 11/9.

Offline SUCSONG@  
#10 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 06:14:14(UTC)
SUCSONG@

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-03-2007(UTC)
Views messages in topic : 621

Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.