Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


12 Trang«<56789>»
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline baby  
#121 Đã gửi : 28/08/2009 lúc 10:13:39(UTC)
baby

Danh hiệu: Member

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 17-10-2008(UTC)
Bài viết: 28

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 1 lần trong 1 bài viết
Thêm một - Trần Hòa Bình


Thêm một chiếc lá rụng,
Thế là thành mùa thu.
Thêm một tiếng chim gù,
Thành ban mai tinh khiết.

Dĩ nhiên là tôi biết
Thêm một - lắm điều hay.
Nhưng mà tôi cũng biết
Thêm một  - phiền toái thay

Thêm một lời dại dột
Tức thì em bỏ đi.
Nhưng thêm chút lầm lì,
Thể nào em cũng khóc.

Thêm một người thứ ba,
Chuyện tình đâm dang dở.
Cứ thêm một lời hứa,
Lại một lần khả nghi.

cayco.jpg

Nhận thêm một thiếp cưới,
Thấy mình lẻ loi hơn.
Thêm một đêm trăng tròn,
Lại thấy mình đang khuyết.

Dĩ nhiên là tôi biết,
Thêm một lắm điều hay.

Trần Hòa Bình

“Trái tim em có ước mơ.
Em vẫn nghĩ rằng lấy chồng phải lấy người như anh.
Đêm đêm ngước nhìn trăng, mơ có anh bên cạnh
Hoa trên mặt đất nở vì ai, uyên ương dưới nước thành đôi vì ai.
Thả chiếc khăn tay theo gió bay đến bên anh.”
Offline trangha_ch  
#122 Đã gửi : 28/08/2009 lúc 10:27:57(UTC)
trangha_ch

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 06-07-2009(UTC)
Bài viết: 174
Đến từ: Nơi tình yêu bắt đầu...

Được cảm ơn: 7 lần trong 7 bài viết

HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM

                - KIÊN GIANG -

Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường.

Mười năm trước em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh.

Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần Chúa nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường.

Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường.

Mỗi lần tan lễ chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng anh đứng lại không đi.

Sau mười năm lẻ anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy.

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỉ vật ban đầu.

Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng.

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường.

Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch để xây tường luỹ
Chiếm lại lầu chuông, giết kẻ thù.

Nhưng rồi người bạn đồng trang lứa
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ.

Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp cỗ quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi.

Xe tang đã khuất nẽo đời
Chuông nhà thờ khóc... tiễn người ngàn thu
Từ đây tóc rũ, khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa.
                
                        -//-
Có khi lỗi hẹn một giờ
Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm.
Offline trangha_ch  
#123 Đã gửi : 28/08/2009 lúc 10:41:30(UTC)
trangha_ch

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 06-07-2009(UTC)
Bài viết: 174
Đến từ: Nơi tình yêu bắt đầu...

Được cảm ơn: 7 lần trong 7 bài viết

CHÚT TÌNH ĐẦU

        -ĐỖ TRUNG QUÂN-

Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng
Em chở mùa hè của tôi đi đâu?
Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám
Thuở chẳng ai hay thầm lặng - mối tình đầu.
Mối tình đầu của tôi có gì?
Chỉ một cơn mưa bay ngoài cửa lớp
Là áo người trắng cả giấc ngủ mê
Là bài thơ cứ còn hoài trong cặp
Giữa giờ chơi mang đến...lại mang về.
Mối tình đầu của tôi là anh chàng tội nghiệp
Mùa hạ leo cổng trường khắc nỗi nhớ vào cây
Người con gái mùa sau biết có còn gặp lại
Ngày khai trường gió lụa áo thu bay...
Mối tình đầu của tôi có gì?
Chỉ có một cây đàn nhỏ
Rất vu vơ nhờ bài hát nói giùm
Ai cũng hiểu - chỉ một người không hiểu
Nên có một gã khờ - ngọng nghịu mãi...thành câm.
Những chiếc xe trưa nay chở đầy hoa phượng.
Em hái mùa hè trên cây
Chở kỉ niệm về nhà.
Em chở mùa hè đi qua, còn tôi đứng lại.
Nhớ ngẩn người tà áo lụa nào xa.

                -//-


Có khi lỗi hẹn một giờ
Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm.
Offline trangha_ch  
#124 Đã gửi : 07/09/2009 lúc 10:11:25(UTC)
trangha_ch

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 06-07-2009(UTC)
Bài viết: 174
Đến từ: Nơi tình yêu bắt đầu...

Được cảm ơn: 7 lần trong 7 bài viết

          NÚI ĐÔI

                            -VŨ CAO-

Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang.

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi.

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới.
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.

Anh vào bộ đội lên Đông bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.

Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng bụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua sông đường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồi hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa tươi.

                -//-


Có khi lỗi hẹn một giờ
Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm.
Offline trangha_ch  
#125 Đã gửi : 13/09/2009 lúc 12:56:28(UTC)
trangha_ch

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 06-07-2009(UTC)
Bài viết: 174
Đến từ: Nơi tình yêu bắt đầu...

Được cảm ơn: 7 lần trong 7 bài viết
VÀ...EM ĐI

Giấc mơ của em không là như thế đâu!
Những đôi môi phải mềm theo kiểu khác
Cơn lốc đầu tiên kiến mùa em xao xác
Vỡ vụn đầy tay...
Vẫn biết rằng anh đang ở mùa say
Và nồng nàn không phải là điều lỗi
Nhưng nó khiến em thấy giống như kẻ tội
Với chính giấc mơ của mình!
Thôi, trời đã bình minh
Em đi đây, hôm qua là ngày cũ
Anh cũng đừng chìm sâu trong cơn lũ
Em vẫn nói thế với anh
Dẫu chúng ta chẳng còn gặp nhau nơi hai hướng mặt trời
Trong lòng em, điều gì đó đang rơi
Mọi thứ không bao giờ là mãi mãi
Và như thế...Em đi!


            --st--
Có khi lỗi hẹn một giờ
Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm.
Offline Believe  
#126 Đã gửi : 13/09/2009 lúc 03:54:40(UTC)
Believe

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 11-11-2008(UTC)
Bài viết: 990

Được cảm ơn: 26 lần trong 19 bài viết
Sóng

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đễ ngàn năm còn vỗ


Xuân Quỳnh.

Và sẽ có những người làm nên tất cả vì họ có ước mơ - Họ tin vào lời hứa - Họ có những lời ước hẹn -
Họ đã trưởng thành từ nỗi đau - Họ nhận ra sai lầm - Họ có một người bạn thật sự và vì bên họ còn có một tình yêu.
Tất cả là cuộc sống !


http://www.skydoor.net
http://www.mtvasia.com

...Cứ mỗi một ngày trôi qua trên đất nước Việt Nam,lại có thêm 100 người phải sống chung với căn bệnh thế kỷ - HIV/AIDS !
Bạn đã làm gì để tránh nguy cơ trở thành một trong số đó ?
- Hãy cố gắng hơn nữa để có một cuộc sống lành mạnh hơn,nền nếp hơn,nhé bạn.
- Hãy trang bị cho mình kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp an toàn - bao cao su lúc cần thiết.
Cuối cùng : Hãy sống vì những người bạn yêu thương và cho chính bản thân bạn.



Ma túy ? Không thử dù chỉ một lần trong đời.
Nourish Compassion - I love You !
Offline na74  
#127 Đã gửi : 15/09/2009 lúc 01:35:05(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Konstantin Simonov (1915 - 1979)

...

Anh muốn được gọi em là vợ
Vì mọi người chưa ai gọi thế đâu
Vì trong căn nhà anh chiến tranh làm hoang đổ
Chắc gì mình sẽ gặp lại nhau.

Vì anh đã mong cho em cả điều dữ,
Vì chẳng mấy khi em xót xa anh,
Vì đêm ấy em muốn là em đến,
Không đợi lời anh nài nỉ, cầu van.

Anh muốn được gọi em là vợ,
Không phải để rồi loan báo khắp nơi,
Không phải bởi tự lâu em đã
Luôn bên anh trong mọi sự trên đời.

Nhan sắc và danh tiếng tuổi tên em
Đâu phải điều đã khiến anh mê đắm,
Anh chỉ cần em dịu dàng bí ẩn
Tới cùng anh như thầm lặng bao lần.

Cái chết sẽ san bằng tên tuổi,
Như ga tàu, nhan sắc sẽ dần qua.
Có ai đó, khi đời xế bóng,
Sẽ ghen hờn, với ảnh chính mình xưa!

Anh muốn được gọi em là vợ
Vì sẽ dài vô tận những ngày xa,
Vì rồi đây những bàn tay lạ sẽ
Vuốt mắt quá nhiều người giờ đang ở bên ta.

Vì em luôn đối với anh thẳng thắn,
Không hứa yêu, không hẹn một điều,
Giây phút cuối buổi chia tay của lính
Em mới lần đầu nói dối rằng, yêu!

Em sẽ là của ai? Của anh hay người khác?
Trái tim anh sao biết được bây giờ…
Hãy thứ lỗi, anh gọi em là vợ
Theo quyền những chàng trai có thể chẳng quay về…

1941 -Hồng Thanh Quang dịch

- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Offline Believe  
#128 Đã gửi : 16/09/2009 lúc 06:11:50(UTC)
Believe

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 11-11-2008(UTC)
Bài viết: 990

Được cảm ơn: 26 lần trong 19 bài viết

Thơ Thu



Mùa thu Sài Gòn

Anh trở về sau cuộc
rong chơi trăm ngày không định
em xanh hơn anh xanh
mùa thu Sài Gòn vừa nói điều chi trên tầng cao mới

Hôn một cánh hoa lông chông vừa rời cây
ánh sáng chuyển sinh dưới tầng ẩm mục
bầy kiến li ti nối đường gân vào ngõ
thầm nhắc ngày mưa bão sắp qua

Líu ríu trên gác chuông từng chùm mây xốp
em thay hoa run rẩy lọ cúc tần
anh đánh nhịp cùng mùa thu thảng thốt
hay nắng phương này vừa phủ nhẹ nghiêng nghiêng…

Phan Trung Thành


Sửa bởi quản trị viên 20/09/2009 lúc 02:11:39(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

Và sẽ có những người làm nên tất cả vì họ có ước mơ - Họ tin vào lời hứa - Họ có những lời ước hẹn -
Họ đã trưởng thành từ nỗi đau - Họ nhận ra sai lầm - Họ có một người bạn thật sự và vì bên họ còn có một tình yêu.
Tất cả là cuộc sống !


http://www.skydoor.net
http://www.mtvasia.com

...Cứ mỗi một ngày trôi qua trên đất nước Việt Nam,lại có thêm 100 người phải sống chung với căn bệnh thế kỷ - HIV/AIDS !
Bạn đã làm gì để tránh nguy cơ trở thành một trong số đó ?
- Hãy cố gắng hơn nữa để có một cuộc sống lành mạnh hơn,nền nếp hơn,nhé bạn.
- Hãy trang bị cho mình kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp an toàn - bao cao su lúc cần thiết.
Cuối cùng : Hãy sống vì những người bạn yêu thương và cho chính bản thân bạn.



Ma túy ? Không thử dù chỉ một lần trong đời.
Nourish Compassion - I love You !
Offline Trần Linh An  
#129 Đã gửi : 20/09/2009 lúc 01:52:35(UTC)
Trần Linh An

Danh hiệu: Member

Nhóm:
Gia nhập: 01-09-2009(UTC)
Bài viết: 27
Đến từ: Không gian.

Được cảm ơn: 1 lần trong 1 bài viết
Hà Nội Phố

Gửi những người Hà Nội đi xa

Chương I

1.

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em mùi hoàng lan,
Còn em hoa sữa.
Tiếng giày gọi đường khuya,
Thang gác cọt kẹt thời gian,
Thân gỗ ...

Ta còn em màu xanh thật đêm,
Ngôi sao lẻ
Xào xạc chùm cây gió.
Chiếc lá lạc vào căn xép nhỏ,
Lá thư quên địa chỉ.
Quay về ...

2.

Ta còn em một gốc cây,
Một cột đèn,
Ai đó chờ ai ?
Tóc cắt ngang xõa xõa bờ vai…

Ta còn em một ngã ba
Vội vã,
Chiếc khăn quàng tím đỏ
Thoáng qua.
Khuôn mặt chưa quen
Bỗng xôn xao nỗi khổ…
Mỗi góc phố
Một trang tình sử…

3.

Ta còn em con đường vắng
Rì rào cơn mưa nhỏ.
Trên vòm cao
Đổ xuống chuông hồi.
Nhà thờ Cửa Bắc,
Tan chiều lễ
Kinh cầu còn mãi ngân nga…

4.

Ta còn em đôi mắt buồn
Dõi cánh chim xa.
Tháng năm dừng lại
Một ngôi nhà.
Gã Trương Chi ôm ghita,
Từng đêm
Hóa đá…


Ta còn em chuyến tàu đêm
Về muộn
Qua cầu,
Một người nào lạc giữa sân ga...



Chương II

5.

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em những hố sâu
Trước cửa,
Cơn mưa đầy,
Chiếc thuyền giấy lang thang
Không bến đỗ...

Ta còn em quả bóng lăn
Một mình trên sân cỏ.
Thằng bé thẫn thờ.
Tuổi thơ qua cuộc chơi
Vội vã...

Ta còn em cánh cửa sắt
Lâu ngày không mở.
Nhà ai ?
Qua đó bâng khuâng
Nhớ tuổi học trò...

6.

Ta còn em giàn thiên lý,
Năm xưa
Thơm mùi hò hẹn
Cuộc tình đầu ngọt lịm.
Những nụ hôn xanh ngắt trên cành...

Ta còn em chuỗi cười vừa dứt,
Nắng chiều vàng ngọn cỏ
Vườn hoang
Ngày cũ vui tàn theo mùa hạ...

Ta còn em tiếng ghita
Bập bùng
Tự sự
Châm lửa điếu thuốc cuối cùng
Xập xoà
Ký niệm
Đêm kinh kỳ một thuở
Xanh lơ...

7.

Ta còn em chiếc đồng hồ quả lắc
Già nua,
Đếm thời gian
Theo nhịp đong đưa.
Trước ngõ phố
Sót cây hoa gạo.
Buổi chợ chiều họp giữa kinh đô...

8.
Ta còn em những ngọn đèn mờ.
Trên nóc phố,
Mùa trăng không tỏ.
Tiếng rao đêm
Lạc giọng
Thờ ơ...

Ta còn em bảy nốt cù cưa,
Lão Mozart hàng xóm
Từng đêm quên ngủ.
Cô gái mặc áo đỏ Venise
Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ
Những mảnh vỡ trên thềm
Beethoven và Sonate Ánh Trăng
Nốt nhạc thiên tài bay lả tả,
Một kiếp người,
Một phím đàn long…

9.

Ta còn em khuya phố,
Mênh mông,
Vùng sáng nhỏ.
Bà quán ê a chuyện nàng Kiều.
Rượu làng Vân lung linh men ngọt.
Mắt cô nàng lúng liếng đong đưa,
Những chàng trai say suốt cả mùa…

10.

Ta còn em tiếng hàng ngày
Vang âm đường phố.
Tia hồ quang chớp xanh.
Toa xe điện cuối ngày,
Người soát vé
Áo bành tô cũ nát…

Lanh canh! Lanh canh!
Tiếng chuông reo hay lời kêu khổ?
Bó gạo, mớ rau,
Mẹ về buổi chợ.
Lanh canh! Lanh canh!
Lá bánh, củ khoai,
Đàn con trên bến đợi
Cuối ngày…


Chương III

11.

Em ơi! Hà Nội phố
Ta còn em con đê lộng gió,
Dòng sông chảy mang theo hình phố,
Cô gái dựa lưng bên gốc me già.
Ngọn đèn đường lặng thinh
Soi bờ đá…

Ta còn em một con tàu
Giã biệt bến sông.
Mảnh trăng vỡ
Tiễn người bỏ xứ.
Dãy phố buồn..
Nghìn năm mắt nhớ...

12.

Ta còn em ráng đỏ chiều hôm,
Đôi chim khuyên gọi nhau trong bụi cỏ.
Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá.
Gã đầu trần đi ngược trời mưa...

Ta còn em con đường tên cũ
Cổ Ngư,
Cành phượng vĩ la đà.
Chiều phai nắng,
Bông hoa muộn in hình ngọn lửa...

Ta còn em chiếc lá rụng
Khởi đầu nguồn gió.
Lao xao con sóng biếc
Gió Tây Hồ.
Hoàng hôn xa đến tự bao giờ ?
Những bước chân tìm nhau
Rất vội,
Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối,
Cuộc tình hờ bỗng chốc nghiêm trang...

13.

Ta còn em ngọn gió Nghi Tàm
Thoáng mùi sen nở muộn.
Gió Nhật Tân
Gợi
Mùa hoa năm ấy
Cánh đào phai…

14.

Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
Nhuộm đỏ.
Cô gái gặp nắng hanh
Chợt hồng đôi má.
Cơn mưa nào đi nhanh qua phố,
Một chút xanh hơn,
Trời Hà Nội hôm qua...

Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu qua cổng chợ.
Những chùm hoa tím
Ngát mùa thu...

Chương IV

15.

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em một Hàng Đào,
Không bán đào.
Một Hàng Bạc,
Không còn thợ bạc.
Đường Trường Thi,
Không chõng, không lều
Không ông nghè bái tổ vinh quy...

Ta còn em tiếng gọi trong đêm,
Người đi xa trở về.
Căn nhà không biển số.
Ngày đi mỏi mòn nỗi nhớ.
Ngày về phố cũ quên tên...

16.

Ta còn em chiếc xe hoa
Qua hàng liễu rũ,
Giỏ phong lan,
Điệp vàng rực rỡ.
Cánh tay trần trên gác cao khép cửa.
Những gót son dập dìu đại lộ.
Bờ môi ai đậm đỏ bích đào...

Ta còn em tà áo nhung huyết dụ.
Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa,
Phường cũ lưu danh người đẹp lụa.
Ngõ phố nào in dấu hài hoa... ?

17.

Ta còn em đường lượn mái cong
Ngôi chùa cổ.
Năm tháng buồn xô lệch ngói âm dương.
Ai đó ngồi bên gốc đại,
Chợt quên ai kia bên đường đứng đợi.
Cuộc đời, có lẽ nào,
Là một thoáng bâng quơ...

Ta còn em những cuộc tình
Như một bài thơ.
Những nỗi đau gặm mòn phận số.
Nhật ký sang trang
Ghi thêm nỗi khổ...

18.

Ta còn em đống kim ngân
Đổ đầy Hàng Mã.
Ngựa, xe, võng, lọng,
Những hình nhân nuối tiếc vàng son.
Khi phố phường là miền loạn gió
Làm sao tìm được mớ tro than... ?

19.

Ta còn em nóc phố
Lô xô,
Màu ngói cũ
Ngôi nhà còn tiếng khóc oa oa.
Con đường đá lát bao niên kỷ ?
Qua sông nhớ mẹ tuổi già...

Chương V

20.

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em mảnh đại bác
Ghim trên thành cũ.
Một thời thịnh,
Một thời suy,
Hưng vong lẽ thường.
Người qua đó,
Hững hờ bài học sử..

Ta còn em dãy bia đá
Nhân hình hội tụ.
Rêu phong gìn giữ nét tài hoa.
Ly rượu đầy xin rót cúng cha.

Nghìn lạy cúi đầu thương đất tổ.
Bến nước nào đã neo thuyền ngự ?
Đám mây nào in bóng rồng bay ?...

21.

Ta còn em tháng chạp,
Những hàng cây óng ả sợi hồng
Tháng chạp,
Trên giường trải chiếu hoa
Tháng chạp,
Mùi hương dài theo phố.
Một tháng chạp
Mẹ
Nửa đêm thức
Hóa vàng…

Chương VI

22.

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em năm cửa ô
Năm cửa gió
Cơn bão thường niên qua đó
Ba mươi sáu phố,
Bao nhiêu mảnh vỡ ?

Ta còn em một màu xanh thời gian.
Một màu xám hư vô,
Chợt nhòe,
Chợt hiện.
Chợt lung linh ngọn nến,
Chợt mong manh
Một dáng,
Một hình,
Nhợt nhạt vàng son,
Đậm đầy cay đắng…

23.

Ta còn em những ngõ cụt bất ngờ,
Ô cửa ngẩn ngơ,
Ngôi nhà không người ở,
Khung trời của nỗi buồn
Vô cớ…

Người nghệ sĩ lang thang
Hoài,
Trên phố,
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường.
Tha hương ngay trước cổng nhà mẹ cha...

24.

Ta còn em những giọt sương,
Nhòe nhòe bóng điện.
Mặt nước Hồ Gươm,
Một đêm trở lạnh.
Tháp Rùa ngả bóng lung linh.
Cánh nhạn chao nghiêng,
Chiều cuối
Người ra đi mang theo buốt giá,
Áo choàng không ấm thân gầy,
Cầm bằng như cánh chim bay…

Chương VII

25.

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em cây bàng
Mồ côi mùa đông.
Ta còn em nóc phố
Mồ côi mùa đông.
Ta còn em mảnh trăng
Mồ côi mùa đông…

Phan Vũ, Tháng Chạp năm 1972

Đi tìm Hà Nội Phố

Bản trường ca đầy đủ này được tớ vô tình tìm thấy trong một cuốn Album cũ. Điều thú vị là bài thơ hay nhất viết về Hà Nội lại không tìm được ở Hà Nội - sau hai lần tớ vào thư viện Quốc gia, mòn gót các hiệu sách cũ, gọi điện thoại cho nhà thơ Trần Đăng Khoa, thế nhưng nó lại vô tình được tìm thấy ở Paris - cách Hà Nội của Phan Vũ 1/4 vòng trái đất.

Đọc cả bàn trường ca mới thấy hết được có biết bao những nét thanh bình êm ả Hà Nội những năm 60 được tác giả ôm trọn và đặt vào từng khổ thơ, từng đoạn thơ. Ở đây có cảm giác mỗi đoạn thơ như một bức ảnh đen trắng được chụp bởi bàn tay một người nghệ sĩ bấm máy có con mắt chọn lựa và sắp xếp bối cảnh. Thực vậy, mỗi đoạn thơ nhỏ của Phan Vũ là một hình ảnh Hà Nội có chủ đề, có không gian (thường là một góc đường lặng lẽ cổ xưa của Hà Nội, có khi lại là cổng chợ, rồi công viên, quán cóc liêu xiêu), có thời gian (hoàng hôn, đêm khuya hay lúc nắng hanh buổi sớm). Trong không gian ấy nổi bật lên hình ảnh trung tâm được người thợ chụp ảnh Phan Vũ chỉnh nét và bấm máy rất nhanh trong một tư thế động. Nhân vật trung tâm đấy có thể là một người Hà Nội giản dị: cặp tình nhân, người soát vé tàu điện, gã Trương Chi si tình, bà bán hàng, cô hàng hoa, người nghệ sĩ lang thang; cũng có thể là một thực thể động gắn liền với Hà Nội: gió mùa thu, cây xanh, Hồ Gươm, phố Cổ Ngư, Hồ Tây... Có lẽ chỉ cần nhìn vào những bức ảnh đen trắng nghệ thuật này thôi là chúng ta đã có thể đón nhận được một phần âm thanh và hương vị lan tỏa trong không gian ấy. Thế nhưng, vượt ra khỏi khuôn hình, Phan Vũ còn thực sự đưa thêm cả vào những âm thanh và hương vị rất riêng cho từng đoạn thơ. Tất cả đều được chấm phá bằng những từ tượng hình, tượng thanh ngắn mà tạo dư âm da diết. Lúc này lại thấy sao những đoạn thơ giống những thước "phim ngắn" đến thế - nên nhớ lại rằng Phan Vũ thực ra là một đạo diễn và nhà viết kịch tài ba.

Có thể thấy rằng so với những bản trích đang có trên mạng thì bản đầy đủ này có nhiều điểm khác. Bản phổ biến nhất hiện nay là bản trích được đăng trên báo Hà Nội Mới kèm theo một bài bình nhỏ: Bản này sau được rất nhiều Forum và trang Web đăng lại cùng với bài bình. So với bản này thì bản tớ tìm được không có nhiều điểm khác biệt, chỉ có điều nó không chia Chương, có lẽ khi chép tay thì người chép đã không chú ý đến điểm này. Tuy nhiên vẫn có một số cái khác: một số đoạn thơ đã có trong bản của báo Hà Nội Mới được làm đầy đủ thêm trong bản này không kể các đoạn thơ bị thiếu. Nói thêm về bản của báo Hà Nội Mới, bản này xuất hiện lần đầu cách đây 7 năm trên một trang web của du học sinh Việt Nam ở Nhật. Đây là bản chép tay ở Tokyo, khi chép không có được bản đầy đủ và chép khá vội. Bài bình là của bác Hồ Trung Bảo. Về sau cách đây chừng 2 năm, nhân dịp một ngày lễ kỉ niệm về Hà Nội, báo Hà Nội Mới đăng bài trích này lên cùng với bài bình. Có nhiều người đã gọi điện đến hỏi tòa soạn nhưng họ bảo họ cũng không có nguyên bản bài thơ và không biết gì thêm.

Bên cạnh bản của báo Hà Nội Mới, trên mạng còn tồn tại song song một dị bản khác khác rất nhiều so với bản này và càng khác so với bản mới tìm được

Có thể nói rằng dị bản này về số đoạn thơ thì ít hơn bản của báo Hà Nội Mới rất nhiều nhưng các đoạn thơ lại có vẻ sinh động hơn và hay hơn. Có lẽ đây là một dị bản truyền miệng không đầy đủ được "tam sao thất bản" mà thành. Ví dụ trong dị bản này có chi tiết "Ông già mù bán phá sa" mà không có hình ảnh "Những chàng trai say sưa suốt mùa" trong cùng đoạn thơ viết về bà hàng bán nước có tài lẩy Kiểu mà Selene đã nói đến. Bù lại dị bản này lại bổ sung thêm được cho bản của báo Hà Nội Mới một đoạn thơ có trong bản đầy đủ:

Ta còn em một Hàng Đào
Không bán đào
Một Hàng Bạc không còn thợ bạc
Đường Trường Thi
Không chõng không lều
Không ông nghè bái tổ
Vinh qui...


Về bản tồn tại trên Physicsvn hồi xưa khiến Selene nhầm lẫn, thì do khi chưa tìm được bản đầy đủ, hai dị bản đều có giá trị ngang nhau nên tớ đã trộn hai dị bản này với nhau để ra một bản theo tớ là hay hơn cả. Chính vì thế Selene mới thấy bản trên Physicsvn khá đầy đủ nhưng lại khác với bản gốc mới tìm thấy. Bây giờ khi đã tìm được nguyên bản thì có thể khẳng định rằng bàn trích của báo Hà Nội Mới trung thành với nguyên bản hơn rất nhiều so với dị bản còn lại.

Sau đó một thời gian, Phan Vũ khi phát biểu trên báo Công An TP HCM về một cuộc thi người đẹp đã trích ra một đoạn thơ trong bài Hà Nội Phố:

Ta còn em tà áo nhung huyết dụ.
Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa,
Phường cũ lưu danh người đẹp lụa.
Ngõ phố nào in dấu hài hoa... ?


Đoạn thơ này chưa từng có trong bất kì một bản trích Hà Nội Phố nào đã lưu truyền.

Về sau, trên mạng tồn tại thêm một dị bản nữa, đó là bản của báo Hà Nội Mới nhưng lại đưa thêm vào cuối bài hai đoạn thơ về Hàng Bạc, Hàng Đào (bổ xung từ dị bản kia) và đoạn thơ về tà áo nhung huyết dụ (do Phan Vũ trích). Dị bản này mang tính chắp nối do đó không thể xét với hai bản đã có. Tuy nhiên việc có đúng đoạn thơ này trong bản mà tớ mới tìm được cho thấy bản tớ mới có phù hợp với bản của Phan Vũ và có thể xem nó là bản gần như nguyên bản (trừ những lỗi của người chép tay lại gây ra).

Vì sao một bài thơ nổi tiếng như vậy, tác giả vẫn đang còn sống mà lại tồn tại song song nhiều dị bản? Đó là bởi vì bài thơ này chưa bao giờ được in (vì thế hồi đấy tớ vào thư viện quốc gia và các hiệu sách đều không có). Phan Vũ viết Hà Nội phố ngay sau 12 ngày đêm Hà Nội bị B52 Mỹ tàn phá, trong nguồn xúc động dào dạt, ông đã viết nên những câu thơ bất hủ và tuyệt tác mà đến giờ có lẽ không một bài thơ viết về Hà Nội nào sánh được. Điều này cho ta nhớ đến bài thơ Bên kia sông Đuống mà Hoàng Cầm viết trong đêm nghe tin giặc tàn phá làng mình. Không chỉ giống nhau về hoàn cảnh sáng tác , số phận của hai bài thơ còn có những nét rất giống nhau. Nếu như Bên kia sông Đuống có thời bị dập vùi cùng với tên tuổi Hoàng Cầm trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, bị liệt vào hàng "thơ cấm của bè lũ phản động" thì bài Hà Nội phố sau khi ra đời không thể cho công bố vì tính chất "lãng mạn tiểu tư sản" đặc sệt của nó là đi ngược với công cuộc đổi mới, xây dựng và thống nhất đất nước thời bấy giờ. Bài thơ chỉ được Phan Vũ giới thiệu trong đám bạn nghệ sĩ và gần như chẳng ai biết đến. Chính vì vậy có nhiều dị bản thiếu và khác biệt của bài thơ tồn tại do việc lưu truyền miệng và thiếu văn bản đối chứng. Về sau, Phan Vũ cũng gặp khá nhiều trục trặc trong đường sự nghiệp, bên cạnh đó, người vợ yêu của ông, người nữ diễn viên chính xinh đẹp trong phim "Chung một dòng sông lại" mất sớm, ông buồn nản và bỏ Hà Nội để vào Sài Gòn mong tìm được một điều gì mới. Gần đây ông chuyển hẳn sang vẽ tranh và đã có một vài triển lãm tranh. Sau này, trong một lần ở TP HCM vô tình gặp Phan Vũ và được ông cho nghe Hà Nội Phố, nhạc sĩ Phú Quang đã nhặt ra một vài câu thơ trong bài thơ này và phổ thành bài hát Em Ơi Hà Nội Phố nổi tiếng. Chính bài hát nổi tiếng với dòng ghi chú "phổ thơ Phan Vũ" đã làm sống lại Hà Nội Phố. Về sau, nhờ bài báo trên báo Hà Nội Mới mà bài thơ Hà Nội Phố với bản trích không đầy đủ đã lan tràn trên Internet. Rất nhiều người Hà Nội đều cố công đi tìm một bản thơ đầy đủ nhưng không tìm thấy vì họ không biết rằng bài thơ chưa bao giờ được in vào một tập thơ nào. Bản thân nhạc sĩ Phú Quang cũng không có được bàn đầy đủ của Hà Nội Phố vì hôm ấy ông chỉ ghi lại vài câu thơ của Phan Vũ mà thôi. Không tìm được ở Phú Quang, Phan Vũ thì sống ở Sài Gòn và gần như qui ẩn. Bài thơ Hà Nội Phố trở thành bỏ ngỏ.... Quay lại với bài thơ Bên kia sông Đuống: Hoàng Cầm bị vùi dập, các bản thơ bị hủy hết do bị qui là "hắc thư", sau này khi Hoàng Cầm được khôi phục tên tuổi thì bài thơ Bên kia sông Đuống lại đươc đưa vào SGK. Bản trong SGK là bản Hoảng Cầm nhớ và viết lại , kết hợp với nhiều dị bản lưu truyền miệng, do đó nó đã mất đi độ một phần tinh thần của bản gốc. Tuy nhiên người ta đọc bài Bên Kia Sông Đuống trong sách SGK lớp 12 vẫn cảm được cái thần của bài thơ và vẫn phải bâng khuâng và đắm chìm trong không gian tâm tưởng đất Kinh Bắc của Hoàng Cầm. Điều này thật giống với số phận bài thơ Hà Nội Phố.

Có thể nói, chính việc có nhiều dị bản và có nhiều người đi tìm bản đủ của bài thơ này lại tạo nên một bí ẩn văn chương nho nhỏ thú vị gần giống với bí ẩn TTKh ngày xưa. Có điều có lẽ cuối cùng bí ẩn nhỏ này đã được vén màn. Chẳng biết là nên vui hay buồn nhỉ, nhiều người sẽ bâng khuâng. Riêng tớ, tớ vui vì chính mình là người "lại tìm ra Châu Mỹ"

Ðôi lời về bài thơ Hà Nội - phố

Nhà văn Phan Hách

Bài thơ Hà Nội - phố được Phan Vũ viết vào tháng chạp năm 1972, gửi những người đi xa khi thành phố quê hương đang bị tàn phá khốc liệt. Nhưng bài thơ không có tiếng bom rơi, không có nhà đổ, không có người chết mà chỉ có sự bình thản như là một lựa chọn.

1. Bài thơ của Phan Vũ viết vào tháng chạp năm 1972, khi cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ đang trong giai đoạn cuối, khi sự khốc liệt và chịu đựng trên khắp xứ sở như đã đến mức tột cùng. Hủy diệt có thể dẫn đến sớm kết thúc cuộc chiến. Bài học về hai thành phố Nhật Bản vẫn còn. Có lẽ trong quyết định rải thảm Hà Nội bằng pháo đài bay B52 có mối liên hệ này.

Hà Nội - thành phố nhỏ, nghèo, lặng lẽ, ít màu sắc rực rỡ. Cái sắc màu chính khi đó là màu xanh xám. Màu xanh của rêu tường, màu xanh của áo phòng không.



Viết gửi những người đi xa khi thành phố quê hương đang bị tàn phá khốc liệt, bài thơ của Phan Vũ không có tiếng bom rơi, không có nhà đổ, không có người chết. Chỉ có lời bình thản của những ngày bình an. Giữa sự sống và cái chết, bình thản là một chọn lựa.

2. Tuy phân ra nhiều chương, nhưng bài thơ như không có sự khác biệt giữa các chương. Tất cả là cảm xúc của tác giả về phố và người Hà Nội. Ba chữ Ta còn em được lập nhiều lần, mở đầu cho nhiều khổ thơ. Ðại từ em phải chăng có thể hiểu là phố Hà Nội, là người con gái nào đó ẩn hiện suốt bài thơ? Tác giả, người ở lại trong thành phố bom rơi, như đã hóa thân. Ta còn em... vì không muốn mất và không mất.

Bài thơ nhiều hình ảnh, từng chữ, từng câu được chắt lọc kỹ lưỡng. Nhưng có lẽ điều làm bài thơ thật hay là những câu chữ chắt lọc rất đẹp ấy được viết thật giản dị. Giản dị như nói, như những lời người thân nhắn gửi. Và vì thế mà gửi gắm được tới người đọc, tới người đi xa.

3. Thơ có nhạc và nhạc có thơ. Hay vì bản nhạc đã thấm vào lòng mà đọc bài thơ luôn thấy ngân nga tiếng hát. Hay vì bài thơ ngọt ngào mà khi đọc lòng thường cất tiếng hát theo.

4. Hà Nội - phố có nhiều câu chữ, nhiều hình ảnh "đắt", gợi cảm xúc, gợi nhớ về những gì thật riêng của thành phố, những gì thật riêng của mỗi người. Ðó là những lời tần ngần về ngôi sao lẻ, chiếc lá lạc, mối tình hờ, giàn thiên lý chết khô, giọt sương nhòa nhòa bóng điện, tóc xõa xõa bờ vai...

Một chút nao nao, một chút bâng khuâng, một chút lung linh.

Về những căn nhà cũ của ba mươi sáu phố phường. Ở Hà Nội, chỉ những nhà đã xây cất từ thời Pháp mới có thang gác bằng gỗ, cũ lắm rồi
Thang gác cọt kẹt thời gian
Thân gỗ...

Về Hồ Tây mênh mông mà đứng đâu cũng thấy chiều tan trên mặt nước

Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
Những bước chân tìm nhau
Rất vội

Về những mái chùa xưa xiêu xiêu cùng năm tháng

Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
Ai đó ngồi bên gốc đại

Về tiếng chuông chiều nhà thờ quen thuộc

Chiều tan lễ,
Chuông nguyện còn mãi ngân nga...

Về một cuộc sống còn nhiều vất vả, một thuở xa xưa đã hào hoa

Toa xe điện cuối ngày,
Áo bành tô cũ nát
Lanh canh! lanh canh!

Về say đắm quên cả đất trời
Người nghệ sĩ lang thang hè phố
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường.
Ngay trước cổng nhà mẹ cha

Và khắc khoải của sự sáng tạo vốn không có bến bờ
Những câu thơ, những bức tranh
Ðời đời
Lỡ dở...

5.Bài thơ thấp thoáng nét kiêu sa của người con gái

Rì rào cơn lốc nhỏ
Gót chân ai qua mùa lá đổ?
để rồi mọi gã trai Hà Nội si tình
Lặng lẽ theo em về phố...

Nhưng nhiều hơn vẫn là những con người của cuộc sống hàng ngày bình dị, là bà quán mê câu chuyện nàng Kiều, là cô nàng mắt lúng liếng, đong đưa, là những chàng trai say suốt mùa...

6. Hà Nội - phố có nhiều câu thơ lạ và đẹp. Lạ nhưng không cố tình làm lạ, và vì thế mà đẹp hơn.

Khuôn mặt chưa quen

Bỗng xôn xao nỗi khổ!

Người ta thường chỉ nói xôn xao nỗi nhớ. Nhưng nhớ đã thành khổ là nhớ lắm. Thấy khổ vì người lạ thì chắc đã thầm mong nhiều. Khổ nhưng mong nên mới xôn xao.

Ta còn em tiếng trống tan trường
Áo thanh thiên điệp mầu liễu rủ.
Ðôi guốc cao mài mòn đại lộ

Guốc gỗ mài mòn được đại lộ bao giờ? Thuở ấy con gái Hà Nội hay đi guốc. Ðôi guốc được tác giả hai lần nói đến trong bài thơ.

Ðôi quốc bỏ quên bên ghế đá

Bỏ quên guốc bên ghế đá thì phải say sưa lắm, cũng say như áo qua cầu gió bay.

Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu
Qua cổng chợ

Hà Nội có nhiều làng trồng hoa, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá, Ngọc Hà... những làng quanh Hồ Tây. Ðàn bà, con gái nhà trồng hoa cũng thường là người gánh hoa vào phố bán. Gánh hàng hoa Hà Nội đã đi vào văn học mấy chục năm trước. Gánh gồng là việc nặng, nào có thơ gì. Nhưng gánh mùa thu vào phố thì thật là đẹp, thật trân trọng và biết ơn.

Thơ ca hay nói đến Hà Nội với hoa lan, hoa sữa. Cây bàng lại thường đem cho tôi thật nhiều nỗi nhớ về tuổi thơ ở Hà Nội. Lũ trẻ con chúng tôi thường đi chọc hay ném những quả bàng chín vàng ăn ngọt lừ. Rồi hột bàng phơi khô đập lấy nhân ăn béo ngậy. Cây lá xứ mình xanh quanh năm, ít cây như cây bàng lá chuyển từ mầu xanh sang đỏ, rồi rụng rồi chỉ còn những cành trơ trụi khẳng khiu run run trong gió bấc (mà tác giả bài hát Hà Nội - phố đã gọi là cây bàng mồ côi mùa Ðông)

Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
Nhuộm đỏ

Ðấy là khi mùa Ðông đến. Rồi mùa Ðông đi qua mùa Xuân tới, khi trời Hà Nội hơi mưa phùn, hơi se se lạnh, cây cối trổ lộc, sẽ thật ấm lòng nhìn thấy cành cành xanh nõn lá non

Chi chít chồi sinh
Mầu ước vọng in hình

Và mùa Xuân bỗng xôn xao khi qua đường chợt thoáng thấy tay trần con gái trong cửa sổ

Ta còn em cánh tay trần
Mở cửa
Mùa xuân trong khung

7.

Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...

Tháng chạp năm 1972, sau hai năm đầu đại học ngành toán, tôi đã trong quân đội và xa Hà Nội. Ðêm đêm trong căn hầm bên bờ Thạch Hãn chúng tôi quây quanh chiếc đài bán dẫn nhỏ ngóng chờ giọng nói thân quen, "Ðây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Biết Hà Nội bị B52 đe dọa. Rồi những ngày bỗng không bắt được tín hiệu gì, mở máy chỉ thấy u u. Nhìn về trời đêm phương bắc xa xăm mà lòng thắt lại...

Hà Nội bé nhỏ đã qua gần một thế kỷ của những xung đột và chinh chiến, của những tàn phá và xây dựng, của những điều làm Hà Nội "đẹp và chưa đẹp". Trong những ngày khốc liệt ấy, cái "ta còn" trong bài thơ của Phan Vũ là tình yêu bình dị của cuộc sống Hà Nội. Mãi mãi vẫn còn!

Hà Nội - phố, Em ơi!

(st)

http://www.vnmusic.com.vn

Em ơi Hà Nội phố - Xem Video

Sửa bởi người viết 21/09/2009 lúc 08:47:43(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

Made in Viet Nam

"Học cái tốt thì khó,ví như người ta leo núi vất vả khó nhọc mới lên tới đỉnh.
Học cái xấu thì dễ như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu"
Offline na74  
#130 Đã gửi : 23/11/2009 lúc 09:08:36(UTC)
na74

Danh hiệu: Thành viên danh dự

Medals:Công trạng: Vinh danh vì bạn đã tích cực tham gia và có nhiều cống hiến với cộng đồng
Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-06-2007(UTC)
Bài viết: 6.076
Man
Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 175 times
Được cảm ơn: 407 lần trong 310 bài viết
Đêm thức - Hữu Ước

Giấc ngủ muộn
Tuổi xế chiều
Chập chờn mộng mị
Hình như đã hết thời xuân...

Đêm thức
Nén tiếng thở dài
Tính toán lo toan
Danh dự trên tất cả

Khát vọng
Như cơn gió thoảng

Chợt hiểu
Cuộc đời -
Một dấu chấm than !

- Kiến thức cơ bản về HIV/AIDS là một trong những hành trang bạn cần đem theo, trong cuộc đời mình.
- Với tình dục hãy sử dụng bao cao su đúng cách, đúng mục đích để phòng tránh nhiều hệ lụy. Trong số đó có những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Sử dụng ma túy không chỉ hủy hoại riêng bản thân mà là cả gia đình và xã hội của bạn.
- Biết dừng đúng lúc trong mọi cuộc chơi, biết tạo cho mình thói quen sống lành mạnh, bạn thực sự là người chiến thắng.
Tu-an  
#131 Đã gửi : 25/11/2009 lúc 10:18:17(UTC)
Guest
Danh hiệu: Guest

Nhóm:
Gia nhập: 24-06-2009(UTC)
Bài viết: 25.549

Được cảm ơn: 35 lần trong 21 bài viết

Mưa

Tôi chẳng biết bao giờ mưa mới đến
Mà trong tôi đã rạo rực mưa rồi
Mưa quay cuồng, mưa day dứt lòng tôi
Mưa ấm lạ, mưa thấm vào tiềm thức

Có những đêm mơ màng, mưa lách tách
Hạt mưa nào nhẹ bước đến bên tôi
Tôi giật mình thấy rung động làn môi
Và xao xuyến nhìn mưa tuôn rào rạt

Mưa có biết giờ đây tôi khao khát
Biến thành mây, thành gió hay bão giông
Mưa có biết giữa trời chiều bát ngát
Tôi nhớ mưa, mưa có nhớ gì không

Có những lúc lòng tôi đầy nắng hạn
Mưa nghĩ gì sao chẳng thấy mưa rơi
Để cho tôi ấm áp một khoảng trời
Trong ánh chớp, mắt sáng ngời hai phía
 


Offline Believe  
#132 Đã gửi : 07/12/2009 lúc 03:13:17(UTC)
Believe

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 11-11-2008(UTC)
Bài viết: 990

Được cảm ơn: 26 lần trong 19 bài viết
Lời kỹ nữ

Xuân Diệu

Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
Vội vàng chi, trăng lạnh quá, khách ơi.
Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời;
Khách không ở, lòng em cô độc quá.
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,
Tay em đây mời khách ngả đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
Chớ đạp hồn em!
           Trăng về viễn xứ
Đi khoan thai trên ngự đỉnh trời tròn;
Gió theo trăng từ biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn,
Chớ để riêng em phải gặp lòng em;
Tay ái ân - du khách hãy làm rèm,
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng.

Đẩy hộ hồn em triền miên trên sóng,
Trôi phiêu lưu không vọng bến hay gành;
Vì mình em không được quấn chân anh,
Tóc không phải những dây tình vướng víu.
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo,
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.


Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt,
Cuộc yêu đương gay gắt vì làng chơi.
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi,
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.

Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi.
Du khách đi.
        - Du khách đã đi rồi.

1939

http://mp3.zing.vn/mp3/nghe-bai-hat/Loi-Ky-Nu-Hong-Van.IWZEFZ0I.html

Và sẽ có những người làm nên tất cả vì họ có ước mơ - Họ tin vào lời hứa - Họ có những lời ước hẹn -
Họ đã trưởng thành từ nỗi đau - Họ nhận ra sai lầm - Họ có một người bạn thật sự và vì bên họ còn có một tình yêu.
Tất cả là cuộc sống !


http://www.skydoor.net
http://www.mtvasia.com

...Cứ mỗi một ngày trôi qua trên đất nước Việt Nam,lại có thêm 100 người phải sống chung với căn bệnh thế kỷ - HIV/AIDS !
Bạn đã làm gì để tránh nguy cơ trở thành một trong số đó ?
- Hãy cố gắng hơn nữa để có một cuộc sống lành mạnh hơn,nền nếp hơn,nhé bạn.
- Hãy trang bị cho mình kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản và sử dụng biện pháp an toàn - bao cao su lúc cần thiết.
Cuối cùng : Hãy sống vì những người bạn yêu thương và cho chính bản thân bạn.



Ma túy ? Không thử dù chỉ một lần trong đời.
Nourish Compassion - I love You !
Offline Titanic  
#133 Đã gửi : 07/12/2009 lúc 08:32:35(UTC)
Titanic

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm:
Gia nhập: 11-08-2009(UTC)
Bài viết: 181
Man

Được cảm ơn: 1 lần trong 1 bài viết
Tôi ơi !

Viết gì gửi thế nhân ơi

Cơn mê " Thiên - Địa"

tỉnh rồi lại say

Dòng sông xanh tự vơi đầy

Ngây thơ lũ ếch hớp mây gọi bờ

Mất

Còn

đánh thức cơn mơ

Cõi trần

"Không"

"Sắc"

vẩn vơ một đời

Tôi mang

phiền lụy ra khơi

Bao nhiêu

đen trắng vãi rơi lối mòn

Lắng nghe

gió gọi đầu non

Trái tim mẫn cảm

khát ngôn ngữ đời

Xòe tay

sấp

ngửa

chơi vơi

Nỗi niềm thiên cổ

xa vời bóng mây

Câu thơ vạch xuống đất dày

Miên man hư thực tự day dứt mình

Ngậm ngùi cái kiếp phù sinh

Làm gì để được là mình

Tôi ơi !


                                         Hoàng Nam Hiên




Gone with the wind

http://vi.wikipedia.org
Offline Tình_ca  
#134 Đã gửi : 09/03/2010 lúc 08:52:18(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Deathmetal1 đã viết:
Thơ hay :

Bài Hành phương Nam - Nguyễn Bính.


Hai ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời, hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay!

Lòng đắng sá gì son hớp rượu
Mà không uống cạn, mà không say?
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may
 

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trói thân vào nợ nước mây
Ai biết thương nhau từ thủa trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây

Nợ thề, trả chưa tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Trông lại tha hồ mây trắng bay

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Ngươi ơi! Buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

Hỡi ơi nhiếp chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây

Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?

Mơ gì Ấp Tiết thiêu văn tự
Hài cỏ, gươm cùn ta đi đây
Ta đi, nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ,
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười


Ngươi ơi ! Hề ngươi ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi.





Nguyễn Bính hành phương Nam

Ta và nhà ngươi
 
 



Nguyễn Bính - Ảnh: Tư liệu

Bài thơ Hành phương Nam của thi sĩ chân quê Nguyễn Bính không chỉ có một phong cách rất lạ so với những bài thơ khác của ông, mà còn ghi dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhà thơ.  

“Nhà ngươi” là ai ?

Nói bài thơ có phong cách lạ bởi người ta vốn quen với cái chất mộc mạc, mang phong vị ca dao trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn: “Nắng mưa là bệnh của trời/Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” hoặc “Hồn anh như hoa cỏ may/Một hôm cả gió bám đầy áo em”... Cho nên khi gặp cái chất hào sảng, khí phách trong Hành phương Nam thì người đọc cảm thấy bất ngờ, thú vị: “Đôi ta lưu lạc phương Nam này/Đã mấy mùa qua én nhạn bay/Xuân đến ngập trời hoa rượu nở/Riêng ta nhà ngươi buồn vậy thay... Tôi thích nhất là những câu xưng hô “ta với nhà ngươi”: “Thế nhân mắt trắng như ngân nhủ/Ta với nhà ngươi cả tiếng cười... Ngươi ơi, ngươi ơi hề ngươi ơi/Ngươi về bên ấy sao mà lạnh/Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi... “Ta” thì đã hẳn là Nguyễn Bính, nhưng còn “nhà ngươi”?

Cách đây 15 năm, tôi có hỏi chị Hồng Cầu (con gái nhà thơ Nguyễn Bính): “Nhân vật được Nguyễn Bính gọi là “nhà ngươi” trong bài thơ Hành phương Nam là ai?”. Chị trả lời: “Là ông Hoàng Tấn đấy!”.

Vài bữa sau, nhà thơ Kiên Giang dẫn tôi đến thăm nhà văn Hoàng Tấn. Ông sống đơn chiếc cùng với cô con gái ruột trong một căn hộ nhỏ nằm trên lầu hai cư xá Thanh Đa (Bình Thạnh, TP.HCM). Nhà ông chật hẹp nhưng trông hệt như một... bảo tàng văn học. Những bài thơ của các thi hữu thân thiết, hoặc những bài báo (tranh ảnh) viết về họ, đều được ông cắt dán trang trọng kín những bức vách. Dạo đó, nhà thơ Kiên Giang đã qua ngưỡng “cổ lai hy”, Hoàng Tấn lớn tuổi hơn, độ ngoài tám mươi. Ấy vậy mà trí nhớ của cả hai lão thi nhân thật tuyệt vời. Gặp nhau họ chuyện vãn như... lân gặp pháo.

Hơn cả vợ và người tình

Nhà văn Hoàng Tấn và Nguyễn Bính thân nhau đến nỗi ông Hoàng Tấn “tự hào” rằng còn thân thiết hơn cả những người tình, những bà vợ của Nguyễn Bính. “Ồ, thế ra Nguyễn Bính đã xa tôi đúng 20 năm rồi ư? Một tia chớp thời gian. Hai thập niên vèo bay! Không, Nguyễn Bính vẫn còn đây, vẫn ở bên tôi ngày đêm tâm sự, cùng nhau xướng họa, ngâm vịnh, cùng nhau xẻ ngọt chia sầu. Trong phòng tôi, trên tường, di bút Nguyễn Bính còn đó. Những thư từ Nguyễn Bính viết cho tôi vẫn còn đây. Những bài thơ trong bản thảo của Nguyễn Bính tôi trân trọng giữ gìn cũng như gìn giữ những tấm ảnh của Bính chụp trong nhiều giai đoạn khác nhau. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mất Nguyễn Bính... Nếu tính đến nay (1986), tình bạn của chúng tôi kéo dài còn hai năm nữa là tròn nửa thế kỷ...” (trích Nguyễn Bính - một vì sao sáng - Hoàng Tấn, NXB Đồng Nai, 1999).



Hoàng Tấn - Ảnh: Tư liệu

Nhà văn Hoàng Tấn kể, khoảng năm 1939 ông vào Sài Gòn thử thời vận bằng cách dấn thân vào “trường văn, trận bút”. Khi đã có công việc ổn định, tháng 8.1943 ông gửi thư về Bắc rủ Nguyễn Bính, Trúc Đường (anh ruột Nguyễn Bính) và Thâm Tâm vào Nam để chuẩn bị cho “bộ khung” tờ Hạnh phúc (bộ mới) do Võ Tuấn Khanh làm chủ nhiệm sắp ra đời. Khoảng một tháng sau thì Nguyễn Bính xuất hiện ở Sài Gòn lần thứ hai (lần đầu Nguyễn Bính vô Nam vào những năm cuối thập niên 30, thế kỷ trước), cùng đi với ông không phải là Trúc Đường, Thâm Tâm mà là Tô Hoài và Vũ Trọng Can.

Ở Sài Gòn, Hoàng Tấn cùng với hai người bạn thuê một căn nhà lợp ngói, nằm trong một vườn cây ăn trái ở khu vực chợ Nancy (Nguyễn Văn Cừ hiện nay). Họ đón Nguyễn Bính về ở chung. Nguyễn Bính rất thích ngôi nhà này và đặt tên là “Lan Chi Viên”. Từ đó, Lan Chi Viên trở thành câu lạc bộ em đàn, thường xuyên là nơi họp mặt của một bộ phận thuộc giới trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời bấy giờ với những cái tên: Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều, Khổng Dương, Nam Châu, Thiện Minh, Xuân Miễn, Ngân Hà, Nguyễn Đức Hinh... Ngoài ra còn có một số thân hữu, sinh viên học sinh yêu mến thi tài của Nguyễn Bính vẫn thường lui tới. Hồi đó, hầu như dân Sài Gòn đều ăn cơm tiệm cho tiện, khỏi phải củi lửa nồi niêu, đỡ tốn thời gian để còn làm việc. Cho nên, mỗi chủ nhật ở Lan Chi Viên đều tổ chức nấu cơm gia đình, họp mặt bạn bè trong không khí thơ văn ấm cúng. Những buổi như thế, việc bếp núc đều do Nguyễn Bính đảm trách. Không chỉ sành sõi trong việc nấu nướng (chính xác là làm “mồi” nhậu), Nguyễn Bính còn rất am hiểu về cách pha trà, chọn rượu... Những bữa cơm gia đình như thế thường kéo dài bất kể thời gian, miễn sao tửu lượng vẫn còn, thi hứng vẫn dào dạt và... tiền trong túi chưa cạn!

Riêng với Hoàng Tấn, Nguyễn Bính “phóng bút” (chữ của Hoàng Tấn) một bài thơ tặng bạn: “Trải bao nhiêu núi sông rồi/Đến đây lại vẫn hai người chúng ta/Con đò thì nhớ sông xa/Con người hỏi nhớ quê nhà bao nhiêu?/Cùng thơ và lại cùng nghèo/Thương nhau được mãi nên chiều được nhau/Rối lên, ôi những mái đầu/Sáng lên vô hạn, ôi màu mắt xanh/Ở đây cát bụi kinh thành/Giàu sang một bước, công danh một giờ/Anh em mình, một dòng thơ/Lấy chi ngoi được lên bờ vinh quang/Giữ cho trọn tấm lòng vàng/Võng đào tán tía nghênh ngang mặc người” (bài Trải bao nhiêu núi sông rồi).

“Hai ta lưu lạc phương Nam này”, dù nổi tiếng như cồn song giữa chốn phồn hoa đô hội “giàu sang một bước, công danh một giờ”, Nguyễn Bính vẫn ân cần dặn dò bạn “giữ cho trọn tấm lòng vàng”...

Giai thoại ở Sài Gòn  


 


Bìa tập thơ Lỡ bước sang ngang - Ảnh: T.L

Phiêu bạt giữa chốn phồn hoa đô hội Sài Gòn mà cái nghèo luôn là bạn đồng hành, thế nên Nguyễn Bính lúc nào cũng cần tiền.

Tuy nhiên, không phải vì cần tiền mà đánh mất lòng tự trọng - Nguyễn Bính đã để lại trong lòng bạn bè nhiều giai thoại lý thú...

Chơi khăm trọc phú

Một lần chủ nhiệm tờ Dân Báo thông qua Tế Xuyên (Léon Sanh) nhờ Nguyễn Bính làm một bài thơ để đăng trên số báo đặc biệt Xuân Giáp Thân. Bài thơ viết về một xóm nhỏ bên kia Cầu Kinh, nơi có khu nhà nghỉ nằm ven sông Sài Gòn của một “đại gia” họ Nguyễn (khu vực Thanh Đa ngày nay). Bài thơ của Nguyễn Bính mang tên Xóm Dừa: “Lối đỏ như son tới Xóm Dừa/Ngang cầu điểm điểm giọt mưa thưa/Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá/Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?”. Còn đây là khổ thơ cuối: “Ở lại kinh thành với bút nghiên/Đêm đêm quán trọ thức thi đèn/Làm thơ bán lẻ cho thiên hạ/Thiên hạ đem thơ đọ với tiền”.

Ông chủ nhiệm tờ Dân Báo không thích hai câu cuối, nên nói với Tế Xuyên nhờ thi sĩ sửa lại. Nể bạn, Nguyễn Bính thay bằng: “Xót xa một sớm soi gương cũ/Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền!”. Hai câu này cũng chưa làm ông chủ báo hài lòng, đề nghị sửa thêm lần nữa. Nguyễn Bính khước từ. Báo sắp lên khuôn, bài thơ đã được “rao” (quảng cáo) trước, thành thử Tế Xuyên phải năm lần bảy lượt làm thuyết khách. Cuối cùng thì bài thơ cũng được đăng báo, nằm ở vị trí trang trọng với hai câu cuối như sau: “Xót xa một sớm xòe năm ngón/Thấy chết lòng tay vệt trái tim”.



 

Nguyễn Bính qua nét vẽ Tạ Tỵ - Ảnh: T.L

Hai ngày sau khi báo phát hành, Nguyễn Bính đến tòa soạn đòi nhuận bút (các báo hồi đó chưa có chế độ nhuận bút, chỉ có những cây bút nổi tiếng thì chủ báo mới bất đắc dĩ chi cho một khoản tiền khiêm tốn - NV). Ông chủ tờ Dân Báo bảo thủ quỹ trao cho Nguyễn Bính 10 đồng. Nguyễn Bính chê ít, không nhận.

Ông chủ giải thích: “Với các văn sĩ nổi tiếng, bài nào tôi trả cao nhất cũng chỉ tới 5 đồng. Riêng với ông, tôi có cảm tình đặc biệt...”. Ông chủ báo chưa dứt lời thì Nguyễn Bính đã ném xấp tiền tung tóe dưới đất rồi ung dung ra về trước sự kinh ngạc của nhiều người có mặt... Chiều hôm đó, Tế Xuyên tìm đến Lan Chi Viên, ân cần xin lỗi và trao cho Nguyễn Bính 50 đồng. Một trường hợp hy hữu trong làng báo Sài Gòn thời bấy giờ.

Sau khi báo đăng bài thơ Xóm Dừa thì Nguyễn Bính rất được “đại gia” họ Nguyễn biệt đãi và thường mời thi sĩ đến khu nhà nghỉ ở Thanh Đa chơi. Trong một lần đến chơi như thế, Nguyễn Bính được chủ nhân biếu 500 đồng (giá vàng thời điểm này khoảng 60 đồng/lượng - NV).

Sau đó ít lâu, cô em họ của “đại gia” này phát biểu sao đó làm xôn xao làng báo và thương tổn đến danh dự nhà thơ. Nguyễn Bính nổi sung, tương ngay lên mặt báo: “Trọc phú ti toe bàn sách vở/Điếm già tấp tểnh nói văn chương/Chúng coi đồng bạc to hơn núi/Lại học đòi theo thói Mạnh Thường”. Anh em “Nguyễn đại gia” cay hơn ăn ớt.

Chưa hết, Nguyễn Bính còn thuê một lúc 3 chiếc xích lô: chiếc thứ nhất chở cái vali, chiếc thứ hai chở chồng sách báo và... đôi giày, còn Nguyễn Bính thì chễm chệ “ngự” trên chiếc thứ ba - cứ vòng qua, vòng lại hàng chục lần trước tư dinh của “Nguyễn đại gia” nằm trên đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng). Dân Sài Gòn đứng coi chật đường và cho đó là “một... kỳ quan!” (chữ của nhà văn Hoàng Tấn).

Tập thơ trị giá 5 lượng vàng

Nhà văn Hoàng Tấn kể: “Một hôm Nguyễn Bính hỏi tôi: Làm thế nào có tiền mà không... bẩn. Tôi bày kế cho Bính, Bính khen hay và bắt tay vào thực hiện. Vậy là Nguyễn Bính mua mực tàu, giấy hồng đào suốt ngày “rị mọ” nắn nót (chữ Nguyễn Bính rất đẹp). Năm hôm sau, người ta đọc được mẩu quảng cáo trên báo: “LỠ BƯỚC SANG NGANG - Tập thơ viết tay của thi sĩ Nguyễn Bính, để trong tủ kính lớn của hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm ở đường Sabourain. Tập sách vô giá này, chúng tôi sẽ dành tặng cho người nào trả giá cao nhất. Bạn yêu thơ nào đoạt được cuốn sách này sẽ được tác giả viết lời đề tặng ở đầu cuốn sách với chữ ký và triện son”...

Cuối cùng, cuốn thơ viết tay thuộc về một nhà thầu khoán mê thơ tên Trần Sỹ Nghi với giá... 300 đồng (tương đương 5 lượng vàng thời bấy giờ). Trần Sỹ Nghi còn đặt tiệc chiêu đãi tại tư gia trên đường Duranton (Sương Nguyệt Anh bây giờ) với hơn 50 tân khách chỉ để thi sĩ ghi lời tặng và ký tên vào sách (triện son đã đóng sẵn). Bữa tiệc kéo dài đến quá nửa đêm, giúp vui còn có các nữ nghệ sĩ lần lượt ngâm ba bài trong tập Lỡ bước sang ngang... Sau này, gia đình Trần Sỹ Nghi sang Pháp sinh sống, tài sản khánh kiệt nhưng vẫn giữ cuốn thơ chép tay ấy như vật gia bảo”.

Trong tác phẩm Giọt mật cho đời (NXB Văn hóa thông tin, 1994), tác giả Phạm Tường Hạnh kể rằng dạo đó trừ những tờ báo thân Pháp, được Pháp chi tiền thì tồn tại khá lâu, còn những tờ báo tư nhân đứng đắn “thọ” lắm cũng chỉ được dăm ba năm là đình bản.

Nổi tiếng như tờ Phụ nữ tân văn mà cũng chỉ sống được hơn 4 năm. “Vậy mà có hôm Lê Tràng Kiều hỏi tôi (Phạm Tường Hạnh - NV): “Cậu nghĩ thế nào khi có bạn đọc yêu thơ Nguyễn Bính đến nỗi đặt mua một lúc 20 năm báo?”. Tôi cười nghĩ đất Sài Gòn này cũng không thiếu những kẻ lập dị, chơi ngông. Nhưng Lê Tràng Kiều nói tiếp: “Bọn mình nghĩ bà ta nhầm nên hỏi lại: Thưa bà, bà muốn mua 2 năm báo của chúng tôi? Người phụ nữ đó trả lời: Không, tôi đặt mua 20 năm để ủng hộ tờ báo tôi yêu thích. Mọi người trong tòa soạn đều biết rằng đây là một độc giả đặc biệt yêu thích thơ Nguyễn Bính, cho nên ông chủ chỉ cho phép thu vào quỹ một năm báo, còn số tiền 19 năm báo kia bỏ vào phong bì cho người đưa tới nhà Nguyễn Bính”.

Khi Lê Tràng Kiều tiết lộ tên người phụ nữ “chịu chơi” ấy, Phạm Tường Hạnh mới biết đó chính là Loan - cô em bà con của mình, người đẹp phố Cầu Gỗ (Hà Nội), vợ của họa sĩ Nhan Chí. Chàng họa sĩ vốn quê vùng Xóm Thuốc (nay thuộc Gò Vấp, TP.HCM) ra Hà Nội học trường Mỹ thuật và ở trọ trong nhà cô Loan, một cô gái rất mê thơ Nguyễn Bính. Cô thuộc gần như tất cả những bài thơ của Nguyễn Bính và đọc chúng gần như suốt ngày. Rồi gia đình của Nhan Chí từ Sài Gòn ra Hà Nội xin cưới vợ cho con trai. Ngày Loan từ giã Hà Nội theo chồng vào Nam, cô đã làm cả nhà bật khóc khi vừa bước ra cửa bỗng quay lại, ôm chầm lấy mẹ nức nở: “Lần này con bước chân đi/Là con không hẹn lần về nữa đâu...” (Lỡ bước sang ngang). (Còn tiếp)

Hà Đình Nguyên (TNO)


Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Offline Tình_ca  
#135 Đã gửi : 10/03/2010 lúc 05:21:17(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Nguyễn Bính hành phương Nam

Bài 3: "Từ gác Nam Phong đến thơ" Người xóm Rẫy 
 
10/03/2010 0:34 (TNO) 



Đông Hồ - Mộng Tuyết trên đường phố Sài Gòn cách đây khoảng 60 năm - Ảnh: Tư Liệu

Trên bước đường giang hồ Nguyễn Bính đã đến tận Hà Tiên, mảnh đất thi ca vùng cực Nam với Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ ngày xưa, và sau đó là “cõi riêng” của cặp Đông Hồ - Mộng Tuyết.

Đối với một tâm hồn nhạy cảm, thích dịch chuyển, phiêu bạt như Nguyễn Bính thì việc “giẫm chân tại chỗ” - cho dù chỗ đó là Hà Nội hay Sài Gòn – mãi cũng “cuồng chân”. Cho nên khi nhận được thư của nhà thơ Đông Hồ từ Thạch Động Hà Tiên gửi lên, mời thi nhân làm một chuyến xuôi Nam tham quan Hà Tiên thập cảnh (tên một tập thơ ngâm vịnh của Mạc Thiên Tứ - NV), Nguyễn Bính mừng lắm. Các bạn thơ Hoàng Tấn, Lê Tràng Kiều gom góp lộ phí để chàng tức tốc lên đường.

Trong hồi ký Để nhớ Nguyễn Bính - những ngày ghé bến Hà Tiên, nữ sĩ Mộng Tuyết kể lại (lược ghi): “Vào một buổi chiều mùa hạ năm 1944, tôi đang ngồi may trong Yiễm Yiễm thương điếm ở chợ Hà Tiên thì có một người khách lạ xách valy bước vào, ngập ngừng hỏi: “Có phải chị Tuyết không? Bính đây!”… Từ đó, anh Đông Hồ đã nhường Nam Phong tiểu các cho thi sĩ để chàng làm thơ. Anh còn bắt tôi cắt may cho chàng nghệ sĩ “khăn gói gió đưa” một bộ bà ba từ cây lụa Hà Đông mới từ Hà Nội gửi vào. Bính thích lắm! Một hôm Bính lật bên trong lá đỉnh vạt trước khoe với tôi: “Đố chị, mấy chữ này nghĩa là gì?”. Tôi cầm vạt áo thấy có bốn chữ Khả Thủy Sơn Nhân viết bằng chữ Hán, thêu chỉ son. Tôi đoán không ra, hỏi anh Đông Hồ mới hiểu là Bính chiết tự 2 chữ Hà Tiên (Khả Thủy là chữ Hà, Sơn Nhân là chữ Tiên). Bính còn khoe “Ngọc thêu cho chú Bính đấy!” (Ngọc là cô cháu gái của Mộng Tuyết - NV).

Mỗi ngày, sau khi ăn sáng tại nhà anh Đông Hồ, Bính lại theo tôi ra Yiễm Yiễm thương điếm để “trông hàng cho chị”, để “nhìn chị may áo” và để “đi gửi thư cho chị”. Mỗi khi tôi viết thư xong, Bính giành đi bỏ vào thùng thư. Chiều chiều, tôi thường đạp xe từ cửa tiệm về nhà riêng ở xóm Rẫy. Từ ngày có Bính, Bính thường đi theo.

Đưa tôi về xóm Rẫy xong, Bính lại trở về nhà anh Đông Hồ để ăn cơm tối (lúc này, Đông Hồ vẫn đang là anh rể của Mộng Tuyết. Vợ của Đông Hồ mất sớm, Mộng Tuyết phải thay chị chăm sóc hai đứa trẻ, con của Đông Hồ. Phải sau đó 10 năm, họ mới chính thức thành vợ chồng - NV). Xong, lại rủ Đông Hồ ngược vào xóm Rẫy. Hôm nào Đông Hồ bận thì Nguyễn Bính một mình vào xóm Rẫy. Nhà ở xóm này cứ chạng vạng tối là đã khép cửa. Dưới ngọn đèn dầu dừa, cô cháu gái tên Ngọc của tôi đọc Tam quốc chí  cho má tôi nghe, Bính cũng thường ngồi nghe ké. Nhiều lần Bính đến trễ, cửa đã cài then, Bính ngồi ngoài thềm cho đến tận khuya mới về mà không dám gọi cửa. Bính nói : “Ngồi trong đêm khuya, nghe trộm tiếng Ngọc đọc sách, cách một lần cửa đóng kín, cũng có cái thú vị riêng”.



 
Mộng Tuyết - Ảnh: Tư Liệu

Lúc này, Bính tiết lộ với chúng tôi là sẽ khởi thảo một truyện dài bằng thơ lục bát “dài hơn cả truyện Kiều!”. Ở tỉnh nhỏ, hầu như nhà ai cũng đốt đèn dầu dừa, dầu cá... riêng trên Nam Phong tiểu các thì Đông Hồ dành cho  Nguyễn Bính những ngọn hồng lạp để đêm đêm hồn thơ phát tiết. Mỗi đêm Bính viết được 4-5 trang lục bát. Sáng ra, đọc cho chúng tôi nghe rồi cùng nhau bình luận. Tết Đoan Ngọ, thấy tôi nấu nước cây thạch xương bồ để tắm gội, Bính rất thích 3 chữ “thạch xương bồ” bèn quyết định đặt tên đó cho tác phẩm đang viết của mình. Nhưng tác phẩm Thạch xương bồ chưa dài bằng... nửa truyện Kiều thì máu giang hồ nổi lên, Bính quyết định rời Hà Tiên dù chúng tôi hết sức níu giữ...”.

Những ngày ở Hà Tiên, Nguyễn Bính không hoàn thành Thạch xương bồ, nhưng bù lại, ông đã âm thầm viết được một tuyệt tác - đó là trường ca Người xóm Rẫy, dành tặng chị Mộng Tuyết và… em Ngọc! Bài thơ không biết được làm xong từ lúc nào (trong thời gian Nguyễn Bính ở Hà Tiên).  Nhà văn Hoàng Tấn kể, về lại Sài Gòn, giữa Lan Chi Viên, Nguyễn Bính mua 3 tờ giấy hồng điều, dán lại, dài thậm thượt và cũng lại “rị mọ” chép bài thơ Hà Tiên - Người xóm Rẫy (độc vận) bằng mực tàu, bút lông: “Một mình làm khách gác Nam Phong/Giở Tam Quốc Chí đọc mê mải/Mơ xanh uống rượu luận anh hùng/Tóc bạc, ném nghiên tỏ khí khái/Mê gái, cửa thành giết bố nuôi/Thương người, đường hẻm thả giặc chạy...”.  Đó là những câu mở đầu của chương I (khá dài), toàn những điển tích trong truyện Tàu.  Ly kỳ nhất là ở chương II, Nguyễn Bính tự thú mình đã yêu... Ngọc: “Cô cháu, Minh hương tuổi mười bảy/Mũi thẳng mi cong tóc mượt dài/Răng đều môi mọng ngực tròn mẩy/Gặp nhau chào nhau rồi quen nhau/Ngày một ngày hai thành luyến ái/Vườn xanh đốm nắng đổi dời luôn/Hai đứa trong vườn đùa ném trái/Dưới gốc ngửa mặt căng áo hoa/Trên cành trái sữa ném như vãi/Trái sữa không lăn vào áo hoa/Ngực tròn trái cứ ném trúng mãi/Vườn trăng cầm tay thương quá đi/Một ngày không gặp nhớ biết mấy/Thơ tôi nàng gối trên đầu giường/Đêm che ánh đèn đọc vụng mãi... Tôi cười bảo chị: Gả cho tôi/Mộng Tuyết cười theo: Lấy thì lấy/Trao trâm tặng quạt ỡm ờ chi/Trai tài gái sắc vừa đôi đấy... Rồi tôi khăn gói lại lên đường/Nàng ra bờ sông đứng khóc mãi/Tàu đi xa mấy dặm sông dài/Ngoảnh lại vẫn còn tay Ngọc vẫy/Người ở những mong ngày gặp nhau/Kẻ đi biết khó kỳ quay lại...”.

Đây chỉ là những đoạn trích, còn bài thơ thậm dài được tác giả treo giữa phòng khách, bên cạnh lư trầm luôn tỏa hương làm cho cả căn phòng luôn ngào ngạt khí thơ. Theo nhà văn Hoàng Tấn thì làm thơ theo thể độc vận mà lại là vận trắc (Rẫy) thì quả là công phu. Đoạn Bính và cô Ngọc chia tay, Hoàng Tấn đề nghị thêm vào hai câu: “Rặng liễu thương ai mà gầy mòn/Hàng cau nhớ ai mà vẫy vẫy”. Bính thích lắm, điền ngay vào nhưng cũng vẽ thêm một ngôi sao làm dấu và chú thích “thơ Hoàng Tấn” rất rạch ròi, sòng phẳng. 

Bài 4: Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau 


Kiên Giang thời trai trẻ... - ảnh: Tư liệu

Đã hơn 60 năm nhưng những ấn tượng về Nguyễn Bính và buổi gặp gỡ đầu tiên ấy vẫn không phai trong trí nhớ của nhà thơ lão thành Kiên Giang.

Nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà là một trong rất ít văn nghệ sĩ ở phía Nam có duyên gặp gỡ và cận kề với “nhà thơ chân quê” Nguyễn Bính trong một thời gian khá dài.

Lưu lạc về Rạch Giá

Số là vào khoảng năm 1946, cậu học trò Trương Khương Trinh đang học bậc trung học ở Rạch Giá (ông sinh năm 1929 tại Xẻo Đước, làng Đông Yên, huyện An Biên, do nạn cướp lộng hành nên phải tản cư về Rạch Giá). Một hôm có người bạn học tên Nguyễn Phi Long khoe: “Nhà thơ Nguyễn Bính đang ở xóm biển, sau đình Nguyễn Trung Trực”. Vốn mê thơ văn, mà Nguyễn Bính lại là thần tượng của mình nên Trương Khương Trinh (sau đây xin gọi là Kiên Giang dù lúc đó ông chưa lấy nghệ danh này) quyết đi tìm.

Đến xóm biển, người ta chỉ cậu đến nhà ông quản thủ địa bộ tên N.Đ.L (ông này vốn người gốc miền Bắc, thấy “đồng hương” lưu lạc đến tận cái xứ chót biển phương Nam này nên đón về, cho ở nhờ). Hỏi người nhà ông Lý thì họ bảo: “Ông Bắc Kỳ đang ngủ ngoài đình”. Kiên Giang ra đình thờ Nguyễn Trung Trực (sau này mới nâng cấp thành đền thờ), lúc ấy đã hơn 9 giờ sáng mà thấy cảnh vật vắng hoe. Ông hỏi thăm một bà hàng nước xem có người nào dáng vẻ nho nhã như mình đã mường tượng không. Bà hàng nước chép miệng bảo: “Chẳng thấy nhà thơ nhà thẩn nào cả, chỉ có một anh hàn sĩ giống hệt “Trần Minh khố chuối” ngày nào, lật nóp nằm ngủ sau cửa đình. Chắc là ổng muốn xin Ngài báo mộng chi đó?”.

Lúc này Kiên Giang mới nhìn kỹ, thấy một người vẫn còn nằm ngủ trong chiếc nóp. Đi quanh chiếc nóp một lúc, Kiên Giang đánh bạo đập dậy: “Ông ơi, tui nghe nói ông vừa tới đây, tui cũng là người làm thơ. Xin chào mừng ông!”. Dụi mắt nhìn cậu học trò thiếu niên, câu đầu tiên của nhà thơ là “Có thuốc không?”. Thời may, Kiên Giang cũng mới tập tành hút thuốc. Trong túi có bao Cotab còn sót lại hai điếu. Sau khi hút hết cả hai điếu thuốc, Nguyễn Bính xé vỏ bao thuốc lá và ghi liền vào đó 4 câu thơ tặng người bạn mới: “Có những dòng sông chảy rất mau/Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu/Lá vàng hoa đỏ trôi không kịp/Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau”.

Sau khi Nguyễn Bính cuốn chiếc nóp để vào một góc đình. Kiên Giang mới kịp ngắm trang phục của nhà thơ: quần soóc, chiếc áo sơ mi đã cũ, vạt sau dài hơn vạt trước. Nhà thơ đi xuống mé sông rửa mặt rồi kéo vạt áo sau lên lau. Kiên Giang thỏ thẻ mời nhà thơ đi thưởng thức cà phê Quảng Phát - ngay chợ Rạch Giá, gần tiệm thuốc tây Nguyễn Khoa Dai. Khi Kiên Giang hỏi sao nhà thơ không ở nhà ông Ng.Đ.L nữa? Nguyễn Bính cười buồn bảo rằng tại bà vợ ông này đẹp quá, mái tóc xõa dài cứ nằm trên võng ngâm thơ... Nguyễn Bính! Ông chồng phát ghen, có cử chỉ sao đó nên Nguyễn Bính buồn, bỏ ra ngoài đình ngủ. Kiên Giang sực nhớ cách đó không xa có căn nhà bỏ trống của một người coi giữ sân banh (sân bóng đá), nên đã cùng Nguyễn Bính đi tìm người này điều đình để nhà thơ có chỗ trú thân.

Mộc Kiều Trang và 2 tâm hồn thơ



...và bây giờ

Vậy là căn nhà bỏ hoang đã lâu ngày nay được hai thầy trò ra sức sửa sang lại cho có vẻ tươm tất. Trước nhà có con mương nhỏ với chiếc cầu gỗ bắc vào khoảng sân đóng đầy rêu, Nguyễn Bính đặt tên “giang sơn” của mình là “Mộc Kiều Trang”. Ở trong nhà có một bộ ngựa - sau này vừa là chỗ ngủ, vừa là bàn viết và cũng là bàn nhậu của hai hồn thơ. Sau nhà có một chái bếp, cỏ ô rô, cóc kèn mọc chen vào kẽ vách, Kiên Giang tính dọn sạch cỏ nhưng Nguyễn Bính cản: “Để vậy cho... hoang dã!”.

Dạo đó, bà mẹ của Kiên Giang làm nghề bán mắm cá đồng trong nhà lồng chợ Rạch Giá. Bà không thể ngờ rằng cậu quý tử vẫn rình mỗi lần bà rời khỏi quầy là thọc tay vào “thó” mấy đồng để mua thức ăn, gạo thì xúc ở nhà để “tiếp tế” cho ông thầy. Nguyễn Bính không biết ăn mắm như dân Nam Bộ, nhưng rượu đế thì uống tì tì ! Khi chỗ ở đã tạm ổn định, Nguyễn Bính viết mấy câu thơ dán trước cửa: “Từ dạo về đây sống rất nghèo/Bạn bè chỉ có gió trăng theo/Những phường phú quý xin đừng đến/Hãy để thầm ta xanh sắc rêu”. Chữ Nguyễn Bính rất đẹp, ông thường chép lại những bài thơ cũ của mình dán đầy lên vách: “Ở đây ngày lại qua ngày/Nhà không mở cửa mưa đầy tuần trăng”, hoặc bài Những người của ngày mai: “Quê các anh ở miền Bắc xa xôi/Bước chân đi đã biết mấy năm rồi/Xa chiếc cầu ao, xa mái rạ/Cô gái làng gội tóc nước hương nhu... Quê anh ở miền Trung bát ngát/Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co...”. Dưới mái Mộc Kiều Trang chỉ có hai thầy trò nhưng mỗi bữa ăn thường kéo dài hai, ba tiếng. Vừa ăn vừa đàm đạo chuyện văn chương, chuyện kháng chiến...

Bài thơ Tiền và lá của Kiên Giang cũng được sáng tác trong dịp này (cho nên văn phong cũng bị ảnh hưởng Nguyễn Bính ít nhiều - NV). Trò đọc cho thầy nghe, thầy khen nhưng sửa lại vài chỗ, như ở câu “Tiền không là lá em ơi/Tiền là giấy bạc của đời phồn hoa”, Nguyễn Bính sửa lại “Tiền là giấy bạc của đời in ra”, rồi ở câu cuối: “Chợ đời họp một mình tôi. Phiên chiều” được sửa là “Chợ đời họp một mình tôi vui gì!”...

Tình nghĩa thầy trò ở Mộc Kiều Trang chỉ kéo dài mấy tháng, khi Kiên Giang trở về xóm Xẻo Đước (làng Đông Yên) chở lúa gạo cho gia đình cũng là lúc phong trào “Nam kỳ tự trị” của Nguyễn Văn Thinh đang lúc cao trào, họ tuyên truyền “Đả đảo Bắc kỳ” một cách quá khích. Mấy ngày sau, khi Kiên Giang trở lại Rạch Giá thì hay tin Nguyễn Bính bị bắt giam ở bót Giếng Nước gần Trường con trai (Nam học đường), ông có mua xôi và thuốc lá hiệu Mélia tiếp tế cho thầy. Khoảng nửa tháng sau Nguyễn Bính được thả, ông buồn rầu nói với Kiên Giang: “Chắc là anh phải xa em thôi”. Rồi Nguyễn Bính âm thầm vào chiến khu. Ít lâu sau, Kiên Giang nghe nói Nguyễn Bính đang là Chủ tịch Hội Văn nghệ Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Lần gặp cuối cùng giữa hai thầy trò là ở xóm Nước Trong (Khu 9), Kiên Giang đãi thầy một bữa thịt gà, do mình “cải thiện” được!

Năm 1956, Kiên Giang lên Sài Gòn làm “thầy cò” (sửa mo-rát) cho báo Tiếng Chuông, hàng xóm có một “ông cò” thứ thiệt (cảnh sát) hay hoạnh họe. Tức mình, Kiên Giang cũng dán bài thơ của Nguyễn Bính trước cổng: “Từ dạo về đây sống rất nghèo/Bạn bè chỉ có gió trăng theo” và chữa lại: Những thằng bất nghĩa xin đừng đến/Hãy để thềm ta xanh sắc rêu”...

Hà Đình Nguyên


Sửa bởi quản trị viên 11/03/2010 lúc 04:54:19(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Offline Tình_ca  
#136 Đã gửi : 13/03/2010 lúc 11:48:08(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Nguyễn Bính hành phương Nam

Bài 5: Người “nghệ sĩ chiến binh” Đồng Tháp Mười
 
 
11/03/2010 23:26 (TNO) 



Nguyễn Bính (thứ 2 từ phải sang) và bạn bè văn nghệ ở Đồng Tháp Mười - Ảnh: Tư liệu

Năm 1943, Nguyễn Bính và một số bạn bè văn nghệ từ miền Bắc đã “thâm nhập” vào làng báo Sài Gòn. Hai năm sau, Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Nguyễn Bính có mặt trong đoàn người khởi nghĩa.

Nguyễn Oanh chinh phục Nguyễn Bính

Từ một nhà thơ diễm tình lãng mạn, điều gì đã khiến Nguyễn Bính chuyển hướng: dùng ngòi bút của mình để đấu tranh, phục vụ cuộc kháng chiến của dân tộc?

Thời điểm Nguyễn Bính có mặt ở Sài Gòn, với tên tuổi đã vang danh khắp nước, tác giả của Lỡ bước sang ngang luôn là tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi người. Quanh Nguyễn Bính ngoài những bạn thơ, những độc giả yêu mến thơ ông còn có những tay trọc phú, những chính khách săn đón thi nhân ra cái điều ta đây cũng biết “chiêu hiền, đãi sĩ”. Đặc biệt trong số những người thường lui tới với Nguyễn Bính có Nguyễn Oanh (Tư Oanh) đang hoạt động bí mật (phụ trách tuyên truyền của Thành ủy Sài Gòn-Gia Định). Dần dần, Nguyễn Oanh chiếm được cảm tình của Nguyễn Bính. Khi đã có thể nhỏ to tâm sự với nhau, Nguyễn Oanh thường phân tích thời cuộc cho Nguyễn Bính nghe: chiến tranh thế giới đang đến hồi căng thẳng, ở Việt Nam, phát xít Nhật nhảy vào hất cẳng thực dân Pháp. Nhân dân ta một cổ mấy tròng: Pháp, Nhật, địa chủ, phong kiến. “Thanh niên bây giờ nên làm một cái gì đó giúp ích cho phong trào, Lưu Hữu Phước đã có những bài hát hừng hực khí thế Lên đàng, Tiếng gọi thanh niên... Không lẽ tài thơ như Nguyễn Bính mà cứ quanh quẩn mãi với những bài thơ yêu đương và những ly sầu...”.

Nguyễn Bính cũng nhận thức được điều này, nhưng để có sự chuyển hướng  sáng tác không dễ chút nào. Để có cảm hứng sáng tác với đề tài hòa nhập cùng thời cuộc, Nguyễn Bính đã có một cuộc “hành hương” về những địa danh đã gắn liền với tên tuổi của các lãnh tụ khởi nghĩa, những sĩ phu yêu nước: Bùi Hữu Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị... Ở đây, Nguyễn Bính được các thân hào, nhân sĩ Nam Kỳ tiếp đón ân cần, nhờ đó ông nhập cuộc được ngay vào khí thế sôi nổi của miền Nam trong những ngày chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa...

Đi theo tiếng gọi của Tổ quốc

Trong tác phẩm Giọt mật cho đời, nhà văn Phạm Tường Hạnh viết: “Đêm 24.8.1945 Nguyễn Bính đã cùng theo với phong trào của thị xã Mỹ Tho, bằng các loại xe buýt, xe con, xuồng, ghe, ca-nô, trực chỉ Sài Gòn cùng các địa phương khác. Đúng 5 giờ sáng ngày 25.8.1945, cách mạng chiếm lĩnh tất cả các mặt đường, các công sở, đã giành được thắng lợi cuối cùng cho địa bàn cực kỳ quan trọng ở Nam Bộ này... Tôi đã trông thấy cái miệng cười rộng mở của anh cùng với hai tay giương cao ngọn cờ phất phới như chưa bao giờ sung sướng như vậy... Ngày 23.9.1945, cuộc kháng chiến Nam Bộ bùng nổ. Chúng tôi bặt tin về Nguyễn Bính. Nhiều anh em viết thư, nhắn gửi nhau cần tìm bằng được Nguyễn Bính, đưa anh ra chiến khu. Đó không phải chỉ riêng vì tình cảm bạn bè mà thấy anh là tài năng của đất nước...”.

Nguyễn Bính đi đâu?

Thì ra sau khi giành thắng lợi ở Sài Gòn, Nguyễn Bính được các cán bộ nòng cốt ở Mỹ Tho (bác sĩ Dương Tấn Tươi, nhà thơ Bảo Định Giang...) đưa về để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở quê hương Thủ Khoa Huân. Nhưng rồi Pháp tái chiếm Sài Gòn và đánh lan qua các vùng khác. Chiến sự diễn ra ác liệt khắp nơi... Nguyễn Bính đứt liên lạc với tổ chức liền đi về Hà Tiên ở nhà của nhà thơ Đông Hồ. Được ít lâu thì gia đình Đông Hồ chạy tản cư ngược lên Sài Gòn, Nguyễn Bính không đi theo mà tìm về Rạch Giá, rồi tình cờ gặp gỡ tạo nên mối duyên thơ với Kiên Giang - Hà Huy Hà (giai đoạn Nguyễn Bính ở với nhà thơ Đông Hồ cũng như gặp gỡ Kiên Giang chúng tôi đã đề cập ở những bài trước).

Như đã nói ở trên, Nguyễn Bính đi đến đâu cũng tạo được sự chú ý của dân sở tại. Ở Rạch Giá, ông được Mặt trận Việt Minh tỉnh mời nói chuyện trước công chúng về thơ văn chống ngoại xâm của tiền nhân. Ông đã ngâm sang sảng những áng văn của Thủ Khoa Huân, Thủ Khoa Nghĩa, Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu... rồi người ta yêu cầu tác giả Lỡ bước sang ngang đọc thơ của chính mình và ông đã ngâm: “Thà rằng chết giữa chiến trường/Còn hơn chết ở trên giường thê nhi”. Hai câu thơ này nhanh chóng lan truyền, trở thành câu hò mênh mang trên sông nước Nam Bộ.

Sau buổi đọc thơ, Mặt trận Việt Minh tỉnh Rạch Giá mời ông về làm công việc thường trực cơ quan chuyên lo văn thư. Những công văn, chỉ thị của cấp trên, nếu có kèm theo những nhận xét, ý kiến chỉ đạo thì Nguyễn Bính lại “chuyển” sang văn vần (thơ), chẳng hạn một tờ giấy báo tử được gửi đến bà mẹ có con là chiến sĩ vừa hy sinh: “Đêm đêm mẹ đốt cây hương ngát/Mẹ khấn đôi lời con có nghe/Vì nước bỏ mình là bất tử/Xưa nay chinh chiến mấy ai về”. Bà con lối xóm, các cụ phụ lão đến chia buồn cùng gia đình ai cũng nhẩm đọc bài thơ và xuýt xoa khen ngợi. Câu cuối tuy là dịch từ một câu thơ Đường (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi), nhưng vẫn là một bài thơ hay, hợp thời hợp cảnh. Bà mẹ có con hy sinh cũng cảm thấy tự hào. Tờ giấy báo tử bằng thơ được lồng khung treo trang trọng trên bàn thờ cùng với di ảnh liệt sĩ.

Khi Pháp chiếm được Cần Thơ rồi đánh xuống Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên... Nguyễn Bính theo cơ quan vào chiến khu Đồng Tháp Mười và trở thành người “nghệ sĩ chiến binh” thuộc Tiểu ban Tuyên Văn - Phòng Chính trị, Bộ tư lệnh Khu 8. Tiểu ban này do nhà thơ Bảo Định Giang phụ trách chuyên lo bài vở cho tờ báo Tổ Quốc, Nguyễn Bính là cây bút chủ lực về mảng thơ của tờ báo này. Như cá gặp nước, thơ của Nguyễn Bính thỏa sức vùng vẫy trên tờ Tổ Quốc, không phải là những bài thơ ngắn mà là những trường ca: “Bảy trăm ngàn mẫu đất/Sớt chia bốn tỉnh miền Nam/Khăng khít biên thùy Chùa Tháp/Nằm trong tay trái Cửu Long Giang… Kể từ khi/Đặt chân lên đất nước này/Giặc Pháp giở trò xâm lược/Ngậm hờn vong quốc/Tháp Mười chung oán hận với non sông…” (Đồng Tháp Mười).

Giặc Pháp và bọn bồi bút tay sai luôn tìm cách lôi kéo Nguyễn Bính từ bỏ kháng chiến về Sài Gòn với những hứa hẹn hấp dẫn, nhưng Nguyễn Bính vẫn son sắt đi theo cách mạng. Để trả lời chúng, ông viết trường ca Những dòng tâm huyết, kể ra những tội ác của giặc Pháp, cuối mỗi đoạn kể tội là một câu hỏi: “...Đất nước nhục như thế/ Anh ngồi yên sao đành?”. Ông còn viết trường ca Hương kể tội giặc Pháp bắt bớ, hãm hiếp phụ nữ. Hai tập trường ca sau được in trên giấy tốt, bìa đẹp gửi thẳng về Sài Gòn thay cho câu trả lời của Nguyễn Bính...

Nguyễn Bính hành phương Nam

Bài 6: Từ Tiểu đoàn 307 đến Áo đêm trăng
 

 
13/03/2010 1:00


Ca sĩ Quốc Hương - Ảnh: tư liệu
Giữa chiến khu Đồng Tháp Mười, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều tác phẩm tâm huyết phục vụ kháng chiến, trong đó có bài thơ Tiểu đoàn 307 và vở kịch Áo đêm trăng.

Những ngày đầu kháng Pháp, đoàn quân “nóp với giáo mang trên vai” tuy còn sơ khai nhưng đã làm nên những trận đánh vang dội: Tháp Mười, Mộc Hóa, La Bang... Đó là niềm cảm hứng để Nguyễn Bính sáng tác bài thơ Tiểu đoàn 307: “Ai đã từng qua Cửu Long Giang/Cửu Long Giang sông trào nước xoáy/Ai đã từng nghe tiếng Tiểu đoàn/Tiếng Tiểu đoàn Ba trăm lẻ bảy/Buổi xuất quân Tiểu đoàn năm ấy/Cả Tiểu đoàn thề dưới sao vàng/Người chiến sĩ tiếc gì máu rơi… Đoàn quân lẻ bảy/Kể từ hôm ấy/Đánh đâu được đấy/Oai hùng biết mấy…”.

Bài thơ được đăng trên báo Tổ Quốc của Bộ tư lệnh Khu 8 và mau chóng được nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc. Rồi tiếng hát Quốc Hương đã đem Tiểu đoàn 307 đi khắp sông nước Nam Bộ tạo thành một khí thế tiến công dũng mãnh cho toàn lực lượng kháng chiến ở miền Nam (đến bây giờ, bài hát đã tròm trèm 60 tuổi nhưng vẫn được nhiều thế hệ hát vang với tất cả niềm tự hào). Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí đã rất thành công ở bài hát này, tên tuổi của anh cũng theo bài hát mau chóng được nhiều người biết đến. Riêng về đơn ca, ai cũng phải thừa nhận chỉ có ca sĩ Quốc Hương là trình bày bài Tiểu đoàn 307 đạt nhất, có “lửa” nhất. Quốc Hương vừa là ca sĩ vừa là nhạc sĩ sáng tác (các ca khúc tiêu biểu: Tầm Vu, Du kích Long Phú, Đoàn người đi tòng quân...) nên rất nhạy bén khi bắt được cái thần của bài hát. Suốt mấy thập niên, Tiểu đoàn 307 luôn là bài hát “tủ” của Quốc Hương. Nó theo anh từ đồng bằng đến miệt biển, từ rừng núi đến các đô thị và ra cả nước ngoài...



 
Nguyễn Bính và Đoàn Giỏi (giả gái)  - Ảnh chụp từ tư liệu của ông Hoàng Tấn

Ở chiến khu Đồng Tháp Mười, Nguyễn Bính không chỉ làm thơ mà còn viết kịch. Vở kịch thơ Áo đêm trăng đã đưa tên tuổi ông lan khắp chiến khu. Trong tác phẩm Nguyễn Bính - Một vì sao, nhà văn Hoàng Tấn kể: “Ít hôm sau, chúng tôi được may mắn tham gia buổi lễ phong quân hàm cho trung tướng Nguyễn Bình, được cử hành trọng thể giữa chiến khu Đồng Tháp Mười do các đồng chí cao cấp lãnh đạo Khu và Trung ương Cục chủ trì. Một điều đáng chú ý là tham dự buổi lễ đáng ghi nhớ này còn có một số học sinh, sinh viên trí thức và nhà văn, nhà báo ở ngoài Sài Gòn, vượt qua đồn bót địch để vào bưng... Điều đặc biệt thứ hai là ta cho quan ba Claude Bastien - Trưởng đồn Mộc Hóa bị quân ta bắt sống khi tiêu diệt đồn này, cùng tham dự. Xét thấy trong khi bị giam giữ, tên này đã biết nhìn nhận ra chân lý và biết hối cải nên y sẽ được ta phóng thích. Sau phần lễ chính thức là phần văn nghệ do Bảo Định Giang điều khiển. Mở đầu, đoàn quân nhạc cử bài Tiểu đoàn 307, sau đó là đồng ca. Bài thơ Tiểu đoàn 307 của Nguyễn Bính được nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí trích đoạn phổ nhạc lần đầu tiên ra mắt khán giả. Điều khiến mọi người xem chăm chú và thích thú là tham gia đồng diễn có một số lính Pháp và lê dương bỏ hàng ngũ địch chiến đấu bên ta... Sau những bài hát, bản nhạc có xen kẽ tiết mục ngâm thơ và độc tấu là vở kịch thơ Áo đêm trăng - “cái đinh” của đêm văn nghệ.

Đây là một sáng tác mới, còn chưa ráo mực của Nguyễn Bính. Ngoài các nhân vật phụ, hai nhân vật chính là cô nữ cứu thương và người yêu của mình là anh bộ đội. Chiếc áo cô may tặng anh cho bớt lạnh khi xông pha trận mạc, là nội dung chính của vở kịch. Nguyễn Bính - tác giả thủ vai chính, còn nhà văn Đoàn Giỏi thì giả gái, đóng vai người nữ cứu thương. Dạo ấy tác giả của Đất rừng phương Nam đang ở tuổi đôi mươi, đẹp trai nên khi giả gái trên sân khấu ai cũng nhầm là phụ nữ thiệt, chỉ đến lúc Đoàn Giỏi cất tiếng ngâm bài Tống biệt thì thiên hạ mới vỡ ra... Đêm liên hoan lễ phong cấp hàm cho trung tướng Nguyễn Bình ấy kéo dài mãi tới gần sáng. Xuồng ghe tới tấp ra về, đèn đuốc sáng rực một góc trời ken dày kênh Dương Văn Dương và các nẻo kênh rạch khác quanh co. Người ta không ngớt xôn xao, bàn tán về Tiểu đoàn 307 và kịch thơ Áo đêm trăng trên đường về...”.

Cố Tổng bí thư Lê Duẩn cũng là một người yêu mến thơ Nguyễn Bính. Trong hồi ký của nhà cách mạng Trần Bạch Đằng có đoạn viết: “... Một lần Tây càn quét Đồng Tháp Mười, cơ quan di chuyển. Tôi (Trần Bạch Đằng) được phân công đi cùng với anh Ba (đồng chí Lê Duẩn) trên chiếc xuồng ba lá. Tôi bơi lái, anh Ba bơi mũi. Xuất phát từ xã Nhơn Hòa Lập xuôi theo kênh Dương Văn Dương ra sông Vàm Cỏ Tây. Đường xa bơi đêm để quên mệt, tôi đọc bài thơ Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính. Anh Ba bảo tôi đọc to một chút. Anh vừa bơi vừa nghe, thỉnh thoảng lại bình: “Hay!”... Rồi đến nơi an toàn, mặc dù gần sáng, anh bảo tôi đọc lại lần nữa. Anh gật gù: “Tay Nguyễn Bính này giỏi thật!”.

Đoàn Giỏi và Nguyễn Bính có rất nhiều kỷ niệm trong kháng chiến cũng như lúc cùng tập kết ra Bắc. Đáng kể nhất là bài thơ Nguyễn Bính mừng tác giả Đất rừng phương Nam lấy vợ trên đất Bắc (khoảng 10 năm sau dạo cùng sống, cùng viết và cùng chiến đấu ở Khu 8). Bài thơ có tên là Tuyệt tác ghi ngày 19.1.1958: “Cánh chim rời phương Nam/Xây tổ cành phía Bắc/Sông núi còn đôi miền/Nhân duyên đà thống nhất!... Đây đó dù muôn dặm/Trong ngoài đều một lòng/Son sắt ngày thêm thắm/Mừng riêng mà vui chung/Gái đầu lòng xin đặt/Tên cháu là Hiền Lương/Trai đầu lòng xin đặt/Tên cháu là Trường Sơn!... Kề vai nhau đấu tranh/Cho đến ngày thắng lợi/Chị về thăm quê anh/Cháu về thăm quê nội!... Tình nghĩa càng vuông tròn/Bắc Nam càng khắng khít/Cung đàn càng véo von/Lời văn càng thắm thiết!… Hạnh phúc vang lời thơ/Ái ân lừng điệu nhạc/Biển chung thủy tràn bờ/ Tình yêu thành tuyệt tác!”…

Tình bạn thủy chung như vậy, thật đáng trân trọng! (Còn tiếp)

Hà Đình Nguyên


Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Offline Tình_ca  
#137 Đã gửi : 20/03/2010 lúc 08:52:51(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Nguyễn Bính hành phương Nam

Bài 7: Bến đậu cho cánh chim giang hồ
 
 
13/03/2010 16:58 - TNO



Bà Hồng Châu lúc trẻ - Ảnh: tư liệu

Năm 1947, sau khi chia tay Kiên Giang - Hà Huy Hà, Nguyễn Bính vào chiến khu Đồng Tháp Mười tham gia kháng chiến. Ở đây ông được nhà thơ Bảo Định Giang, lúc đó là Trưởng Tiểu ban Văn nghệ Khu 8 biệt đãi.

Nguyễn Bính cũng có xuồng cà-rèm theo tiêu chuẩn “sĩ quan”, có cần vụ chèo chống. Nguyễn Bính còn được cấp một chiếc mùng to đùng để có thể ngồi trong đó “an tâm sáng tác” (muỗi Đồng Tháp Mười vo ve như... sáo thổi !). Bạn bè văn nghệ cũng có thêm nhiều người mới: Đoàn Giỏi, Truy Phong, Nguyễn Hải Trừng, Đào Anh Kha, Việt Ánh, Rum Bảo Việt, Phan Trác Hiệu... Không khí sáng tác cũng như tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật trong chiến khu thật sôi nổi...

Năm 1951, Trung ương Cục miền Nam có tổ chức một lớp tập huấn văn nghệ lấy tên là Lớp văn nghệ khóa Lê Trần tại Đồng Cùng, rừng U Minh (Khu 9). Lê Trần là nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tiến binh (đã hy sinh trước đó). Lớp học quy tụ hầu hết văn nghệ sĩ yêu nước miền Nam. Nguyễn Bính cũng được mời tham gia khóa học này, và ông vui mừng gặp lại nhiều bạn bè thân thiết từng chia ngọt, sẻ bùi dạo còn làm báo ở Sài Gòn: Hoàng Tấn, Thanh Bình, Hoàng Phố và cả cậu học trò Kiên Giang - Hà Huy Hà... rồi thêm cả những Diệp Minh Tuyền, Thái Đức, Sơn Nam, Khương Mễ, Mai Lộc... Lớp văn nghệ Lê Trần được phiên chế thành các tiểu đội theo các loại hình nghệ thuật: Văn, Thơ, Nhạc, Họa, Điện ảnh... Ban Điều hành gồm: Hà Mậu Nhai, Đoàn Giỏi, Trần Văn Lắm... Trưởng ban điều hành là Lưu Quý Kỳ. Nguyễn Bính thuộc phiên chế tiểu đội Thơ cùng với Hoàng Tấn, Thanh Bình, Truy Phong, Hoàng Phố... Điều oái oăm là cậu học trò cũ của Nguyễn Bính là Kiên Giang được đề bạt làm tiểu đội trưởng nên “cu cậu” nhiều lúc lâm vào thế lúng túng, không biết phải phê bình, “xử lý” ông thầy vốn “lắm tài, nhiều tật” của mình ra sao. Tuy nhiên theo Hoàng Tấn thì “Sau gần bốn tháng đăng đẵng, lớp học đã kết thúc bằng một cuộc liên hoan sôi nổi. Không ai quên được Chi Lăng, Dương Tử Giang và nhất là Hoàng Phố đã đóng góp những tiết mục cười tưởng bay được cả mái lá trong buổi chia tay này. Phải ghi nhận với tính buông thả, phóng khoáng vốn có từ lâu, Nguyễn Bính đã tự khuôn mình vào kỷ luật theo đuổi đến cùng khóa học này là một cố gắng” (Nguyễn Bính - một vì sao sáng).

Thế nhưng có một giai thoại vui là trước đó ít hôm, Nguyễn Bính rủ rỉ, rù rì với Hoàng Tấn: “Mình đã ngoài 30 tuổi rồi, sống lẻ loi mãi cũng buồn. Mình tính khoảng 2 tháng nữa sẽ... cưới vợ!”. Hoàng Tấn ớ ra, chuyện... động trời chứ chẳng chơi! Cánh chim giang hồ đã tới lúc mỏi cánh rồi, nhưng “bến đậu” là đâu? Cô dâu là ai? Anh em trong tiểu đội Thơ nghe Hoàng Tấn rỉ tai, ai nấy đều xôn xao, thắc mắc. Cuối cùng, nhân một đêm trước lúc tiểu đội Thơ chia tay, một cuộc chất vấn, trêu chọc nhau bằng thơ giữa Nguyễn Bính và các thi hữu đã diễn ra, để bây giờ trở thành giai thoại:

Thanh Bình (bắn “phát pháo mở đầu”, hỏi Nguyễn Bính): “Phải chăng ông sắp tuyên hôn ?

Truy Phong (bồi tiếp): Bạc tiền không có vợ con nỗi gì?

Nguyễn Bính (thản nhiên): Bạc tiền không có cần chi/Miễn yêu chung thủy việc gì cũng xong.

Hoàng Phố: Rằng xong thì Bính dối lòng/Thuốc không có hút thì hòng cưới ai?

Nguyễn Bính (phản ứng): Các anh nghĩ thế là sai/Theo “Đời sống mới”, tiền tài kể chi!

Nguyễn Hải Trừng (ở tiểu đội Họa sang chơi, góp ý): Đứng trong thực tế mà suy/Bạc tiền không có lấy gì tiếp tân?

Nguyễn Bính (bực bội): Đã mang tiếng bạn bè thân/Đến chơi đâu phải cầu ăn cho nhiều?

Hoàng Phố (nói khích): Bạn bè là chỗ thân yêu/Ít ra cũng phải... một heo, mới vừa.

Nguyễn Bính (trả đũa): Tưởng rằng tình bạn thiết tha/Ai ngờ lại hóa “bạn gà, bạn heo”!  

Hoàng Tấn (phê phán): Bính ơi, xin chớ đặt điều/Bạn người, ai lại: bạn heo bao giờ?

Nguyễn Bính (chưa nguôi giận): Bạn người uống rượu ngâm thơ/Bạn...heo nên mới ngồi chờ thịt heo!

Thanh Bình (lại chọc): Ông đừng vin cớ ông nghèo/Đơm chuyện, đặt điều nói xấu bạn thơ!

Nguyễn Bính (đắc chí): Nào ai xuyên tạc bao giờ/Biết mình đuối lý thì thua cho rồi!

Hoàng Tấn (giả lả): Chuyện ăn là chuyện lôi thôi

Hoàng Phố (lái sang chuyện khác): Nay xin gác lại, hỏi chơi chuyện này/Vợ ông con cái nhà ai/Có phải lạc loài nên mới đụng ông?

Nguyễn Bính (trừng mắt): Con ai cũng giống cũng dòng/Lạc loài đâu phải là không ra gì? Biết bao nhiêu phận nữ nhi/Cấm cung mà cũng thị phi tiếng đồn.

Truy Phong (đế vô): Cây có cội, nước có nguồn

Hoàng Phố (châm chọc): Lạc loài ắt gái chẳng còn tiết trinh

Nguyễn Bính (chỉ vào mọi người): Tại sao câu nệ chữ trinh/ Các ông phong kiến cùng mình chẳng sai...

Chẳng biết câu chuyện “đấu khẩu bằng thơ” này kết thúc như thế nào nhưng chuyện Nguyễn Bính cưới vợ là có thật. Trong tác phẩm Nguyễn Bính - một vì sao sáng, Hoàng Tấn kể lại: “Ít lâu sau Nguyễn Bính cưới vợ. Năm đó Bính đã 34 tuổi rồi. Sau hơn một thập niên vung vãi ân tình khắp nơi, cánh chim trời ấy đã xây tổ ấm. Bạn bè đồng chí ai cũng mừng cho Nguyễn Bính. Hôn lễ được cử hành khá đông vui. Lưu Quý Kỳ làm chủ hôn. Đối tượng trăm năm của Bính là chị Hồng Châu, một phụ nữ cứu quốc nổi tiếng đảm đang và thuộc thơ, thuộc rất nhiều thơ của tác giả Lỡ bước sang ngang. Sau khi cưới vợ, Bính xin phép tổ chức cho ra ngoài mở hiệu sách lấy tên là hiệu sách Nhân Dân ở ngay Huyện Sử. Mến yêu và ủng hộ nhà thơ, các NXB và các cơ quan báo chí kháng chiến: Nhân Dân, Cứu Quốc, Lá Lúa, Vì Chúa-Vì Tổ Quốc... vui lòng rót sách báo cho Bính, bán xong mới thanh toán tiền sau.

Năm 1954, sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng rồi hiệp định Genève được ký kết, Nguyễn Bính được lệnh tập kết ra Bắc trên một trong những chuyến tàu đầu tiên. Buổi tiễn đưa, Nguyễn Bính đã viết: “Xã Vĩnh Bình cờ bay đỏ chói/Sông Chắc Băng vang dội tiếng tàu/ Câu hò, giọng hát chen nhau/ Đoàn quân tập kết Cà Mau lên đường... Con đi cho má dặn dò/ Gởi lời kính chúc Cụ Hồ muôn năm/Con đi luôn nhớ miền Nam/Ráng xây lực lượng vài năm trở về... Má ơi con dám quên đâu/Con xin thề đúng như câu má thề/Nghìn năm gian khổ chẳng nề/Má chờ con nhé, con về má ơi...”.

Nhưng rồi Nguyễn Bính đã chẳng có dịp trở về miền Nam như ông đã khao khát. Hơn mười năm sau đó, ông đã vĩnh biệt chúng ta đúng vào giao thừa xuân Bính Ngọ (nhằm ngày 20.1.1966).

Nguyễn Bính hành phương Nam

Bài 8: Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
 

15/03/2010 2:12 - TNO


Nguyễn Bính ở Báo Trăm Hoa năm 1957 - ảnh: tư liệu

Năm 1954, từ vùng kháng chiến U Minh Thượng (Cà Mau) Nguyễn Bính được lệnh tập kết ra Bắc. Từ đó, thơ Nguyễn Bính “bặt âm vô tín” trên thi đàn miền Nam, thế nhưng nhiều người yêu thơ ông vẫn tìm mọi cách để đọc!

Hiệp định Geneve, chia đôi đất nước. Nguyễn Bính theo tàu tập kết ra Bắc (thực chất là trở về cố hương, sau 11 năm “hành phương Nam”), để lại người vợ trẻ và đứa con mới chào đời. Ánh mắt của người vợ trẻ bồng con nhìn theo chồng trên bến tàu buổi tiễn đưa luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong cuộc đời nhà thơ Nguyễn Bính. Nỗi ám ảnh này đã hiện diện trong nhiều bài thơ của ông (Gởi người vợ miền Nam, Đêm sao sáng...). Tuy nhiên trong hoàn cảnh đất nước chia cắt, giới văn nghệ miền Nam dù rất muốn cũng không thể thưởng thức những sáng tác của văn nghệ sĩ miền Bắc. Riêng với trường hợp Nguyễn Bính thì cách vài năm sau khi nhà thơ từ trần (Tết Bính Ngọ, 1966 - NV) một nhóm ký giả Sài Gòn có ý định thực hiện một chuyên đề về Nguyễn Bính nhưng rất hiếm tư liệu, nhất là những sáng tác của ông sau 1954. Trong cuốn Sài Gòn vang bóng (NXB TP.HCM, 2001) tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang kể rằng: “Chúng tôi phải nhờ đến bác sĩ Nguyễn Trần Huân - một nhà nghiên cứu văn học và khoa học sống tại Pháp, mua hộ những cuốn sách viết về văn học kháng chiến bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris. Dùng tài liệu ngoại ngữ có cái thuận lợi là tránh bị cảnh sát và thông tin của chế độ Sài Gòn làm khó, nhưng cũng có cái bất lợi là những bài thơ được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp thế nào cũng có sự sai biệt ít nhiều vì “tam sao thất bản”.

Bài thơ Đêm sao sáng của Nguyễn Bính được nhóm của Lý Nhân Phan Thứ Lang sử dụng nằm trong trường hợp này. Bài thơ được dịch giả P.V chuyển qua Pháp ngữ với tựa đề Nuit Étoilé (in trong cuốn Anthologie de la Poésie Vietnamienne do NXB W.E.F.R ấn hành ở Paris năm 1969. Bản dịch như sau: “Les étoiles, dans leur progressive montée/Donnent plus de profondeur au firmament/ Le Fleuve d’Argent dévoile ses rives froides/ Où se trouve le Pont bâti par les corbeaux... Cherchant en vain le chapeau du Génie des Moissons/Je vois un Canard nageant dans l’espace/L’Étoiles du Soir me rappelled tes doux yeux/Au moment du départ, tout hucmectés de larmes... La Constellation Polaire, de son plus vif éclat/Brille magnifiquement dans un coin du ciel/ Toi, au Sud du dix-septième parallèle/ Combien d’années tu passai à la contempler!... Les étoiles innombrables et scintillantes/Eclairent notre patrie sans la diviser/Le ciel oublie parfois de se parer d’ étoiles: It n’y a pas de nuit où je ne pense à toi.” (12 Janvier, 1959). Có được bài thơ này, nhóm của ông Lý Nhân Phan Thứ Lang bèn nhờ nhà thơ Lê Vĩnh Thọ dịch ngược trở lại tiếng Việt, và đây là Đêm sao sáng của Nguyễn Bính được ông Lê Vĩnh Thọ dịch từ tiếng Pháp qua tiếng Việt: “Những vì sao càng tiến lên cao/Bầu trời càng rõ vẻ thâm sâu/ Ngân Hà để lộ đôi bờ lạnh/Ô Thước còn kia một nhịp cầu... Nữ Thần Nông tìm hoài không thấy/ Anh nhìn con Vịt lội sông Ngân/ Sao Hôm như mắt em hiền dịu/ Đẫm lệ hôm nao lúc biệt hành... Long lanh rực rỡ một phương trời/Bắc Đẩu, chòm sao sáng tuyệt vời/Bao năm em ngắm! Em bên đó/Phương Nam bờ vĩ tuyến ngăn đôi... Vô số vì sao đang lấp lánh/Soi chung quê mẹ cả hai miền/Trời còn có đêm không sao sáng/Anh chẳng đêm nào không nhớ em”. Khi đăng lên báo, nhóm chủ trương chỉ chú thích là do ông Lê Vĩnh Thọ nhớ đại khái theo nguyên tác, không dám ghi rõ xuất xứ là dịch từ bản tiếng Pháp vì sợ Bộ Thông tin của chế độ Sài Gòn đục bỏ.

Sau khi đất nước thống nhất (1975), ông Lý Nhân Phan Thứ Lang đã tìm mua được cuốn Đêm sao sáng của Nguyễn Bính (NXB Hà Nội, 1962), trong đó có bài thơ Đêm sao sáng với nguyên tác như sau: “Đêm hiện dần lên những chấm sao/Lòng trời đang thấp bỗng nhiên cao/Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh/Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?... Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu/Thấy con Vịt lội giữa dòng sâu/Sao Hôm như mắt em ngày ấy/Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu... Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi/Lộng lẫy uy nghi một góc trời/Em ở bên kia bờ vĩ  tuyến/Nhìn sao thao thức mấy năm rồi... Sao đặc trời sao sáng suốt đêm/Sao đêm chung sáng chẳng chia miền/Trời còn có bữa sao quên mọc/Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em”.

Quả là... chuyện hy hữu, một bài thơ của tác giả trong nước mà người trong nước muốn đọc lại phải trải qua một “quá trình nhiêu khê” dịch qua, dịch lại từ tài liệu do người ở nước ngoài cung cấp... Thật may là “trình độ dịch” của nhà thơ Lê Vĩnh Thọ đã tỏ ra “có nghề” khi chuyển tải xuất sắc từ nội dung đến ý và tứ của tác giả với người đọc. Đây cũng là chuyện “xưa nay hiếm” trong làng văn VN.

Hà Đình Nguyên


Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Offline Tình_ca  
#138 Đã gửi : 20/03/2010 lúc 09:03:59(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Ngày Nguyễn Bính ra đi

19/03/2010 0:20 - TNO



Tranh vẽ chân dung Nguyễn Bính - Ảnh: T.L


Hầu như ai cũng biết Nguyễn Bính ra đi vào một ngày giáp Tết Bính Ngọ (1966), chính xác là ngày 29 Tết (tháng chạp này không có ngày 30). Tuy nhiên, kể về cái chết của ông thì mỗi người nói một kiểu, không thống nhất.

Vội vã ra đi

Dưới đây, chúng tôi xin dẫn theo nhà văn Vũ Bão, người bạn thân thiết với Nguyễn Bính ở Ty Văn hóa Hà Nam.

Sau khi tờ Trăm hoa do Nguyễn Bính thực hiện ở Hà Nội đình bản, Nguyễn Bính bị “thất sủng”, trôi dạt về quê Hà Nam. Ở đây ông chơi thân với nhà văn Vũ Bão. Vũ Bão kể:

“Khi làm báo Hà Nam, tôi và Nguyễn Bính có một người bạn chung tên là Đỗ Văn Hứa, người thôn Mạc Hạ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Anh này làm nghề bốc thuốc Đông y nhưng cũng viết báo, làm thơ, lấy bút hiệu là Tân Thanh. Đặc biệt, anh rất yêu thích thơ Nguyễn Bính nên mỗi lần về Ty Văn hóa Hà Nam họp, Tân Thanh lại khẩn khoản mời Nguyễn Bính về nhà mình chơi. Được cái cô Sang - vợ Tân Thanh - là người rất mến khách, mỗi lần chúng tôi về nhà là cô tiếp đón niềm nở, cố lo cho được bữa cơm để chồng tiếp đãi mấy ông anh văn nghệ chứ không hề có một thái độ, cử chỉ tỏ ra phiền hà.

Khi Nguyễn Bính được Ty Văn hóa Hà Nam phân phối một chiếc xe đạp, ông bòn mót mãi cũng chưa đủ nửa số tiền, vợ chồng Tân Thanh đã sốt sắng góp giúp khoản tiền còn lại. Có xe đạp, chỉ cần khoảng nửa tiếng là Nguyễn Bính đã có thể về thăm vợ con (bà Lai - NV) đang sơ tán ở Đại Hoàng. Nhưng bản tính của Nguyễn Bính là thích có bạn tâm sự, cho nên dạo làm ở Ty Văn hóa, cứ hết giờ hành chánh là Nguyễn Bính đạp xe về thôn Mạc Hạ chơi với vợ chồng Tân Thanh. Đối với tôi, vợ chồng Tân Thanh cũng sẵn sàng cho vay tiền mua nhà. Nguyễn Bính thường hay nói với vợ chồng Tân Thanh: “Tôi đến với hai cô chú là vì cái tình. Tôi coi Hứa (Tân Thanh) như thằng em ruột tôi, coi cô như là em dâu nên tôi mới về đây”. Người ta đồn thổi Nguyễn Bính ưa về Mạc Hạ là vì... có Tân Thanh cung phụng rượu chè! Thực ra, Tân Thanh không biết uống rượu. Mỗi lần về Mạc Hạ, hai anh em chuyện trò cho đến tận khuya mới đi ngủ...

Tết Bính Ngọ 1966 - Tết thời chiến nên tòa soạn báo dành cho tôi một chế độ riêng: Ba ngày Tết, tôi xuống các đại đội pháo cao xạ ăn Tết với lính, tòa soạn coi đó là 3 ngày đi công tác. Mùng 4 Tết tôi mới được nghỉ, đạp xe đi thăm đây đó... 10 giờ ngày mùng 4 Tết, tôi tới nhà Tân Thanh ở Mạc Hạ. Vừa nhìn thấy tôi dắt xe đạp vào trong sân, cô Sang đã nói ngay: “Bác Vũ ơi, bác Bính mất rồi!”. Tôi đứng sững lại: “Ai nói với cô?”. Cô Sang nói tiếp: “Tuần trước, bác ấy đạp xe về nhà em. Trời trở gió, vừa vào tới nhà, bác ấy đã bảo nhà em đưa bác đi bệnh viện. Thời may, bệnh viện huyện lại sơ tán ngay xã em. Bác ấy bị thổ ra máu. Nằm ở bệnh viện huyện 3 ngày, sức khỏe hơi đỡ, lại về nhà em lấy xe đạp tính về Đại Hoàng ăn tết với vợ con. Hôm ấy đã là 29 Tết rồi.



 
Nhà văn Vũ Bão thắp hương tưởng niệm Nguyễn Bính - Ảnh: Tư liệu

Thấy bác còn mệt, chúng em sợ bác không đủ sức về tận Đại Hoàng nên cố giữ bác lại ăn Tết cùng chúng em... Sáng sớm 30 star, nhà em tính sang chỗ hàng xóm chia thịt lợn mang về cái đùi và một ít lòng, tiết canh để hai anh em ăn cơm. Bác Bính bảo nhà em cứ ở nhà ăn với bác bát cơm cái đã. Nể bác, nhà em ngồi nán lại ăn cơm. Bác Bính có thói quen ăn xong là đi rửa tay. Bác vắt khăn lên vai, lò dò bước xuống cầu ao. Bỗng chúng em nghe tiếng bác gọi “Tân Thanh!”. Nhà em chạy vội ra sân, thấy bác Bính đang gục xuống bên gốc mít, cạnh hố vôi. Nhà em xốc bác lên, tựa người bác vào ngực mình. Miệng bác đầy máu, bác thổ ra huyết. Nhà em chạy đi gọi anh Huê và anh Đáp, nhờ họ cáng bác lên bệnh viện gấp. Y sĩ khám cho bác ấy xong mới cho nhà em biết bác ấy mất rồi. Nhà em ra bưu điện huyện gọi điện báo tin cho bác Trúc Đường và Ty Văn hóa... Em phải qua chỗ chia thịt lợn với hàng xóm. Cầm suất thịt về em càng thương bác Bính, bác đã đi rồi, ba mươi Tết, bác đã nhìn thấy miếng thịt nào đâu, đã ăn được miếng dồi, miếng tiết nào đâu mà bác đã vội vã ra đi...”.

Điềm báo

Trong cuốn Giai thoại Nguyễn Bính, nhà văn Vũ Nam kể: “Cuối năm 1965, nhằm chuẩn bị cho kỷ niệm 200 ngày sinh Nguyễn Du - người mà Nguyễn Bính vốn coi như “tổ sư” của mình trong lĩnh vực làm thơ (Nguyễn Bính chẳng phục nhà thơ nào, chỉ trừ... Nguyễn Du!), báo Xuân năm Bính Ngọ ra số đặc biệt với nhiều bài vở về Nguyễn Du (1966). Hôm duyệt bài báo Tết, Nguyễn Bính cười thật tươi, tay cầm một xấp giấy mỏng, khoe: “Chỉ trong một đêm, tôi đã viết được một bài tập Kiều, vịnh cụ Tiên Điền”. Nguyễn Bính không cho ai xem mà chờ cho đến lúc đông đủ anh em mới trịnh trọng giở những trang giấy được viết thật công phu, chữ đẹp như xếp, rồi hắng giọng ngân nga: “KÍNH TẶNG CỤ NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU: Cảo thơm lần giở trước đèn/Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa/Trăm năm trong cõi người ta/Một thiên tuyệt bút gọi là để sau/Khen tài nhả ngọc phun châu/Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình/Mấy lời ký chú đinh ninh/Rằng tài nên trọng, mà tình nên thương/Khen rằng đáng giá Thịnh Đường/Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai/Gẫm câu người ấy, báu này/Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào/Nặng vì chút nghĩa xưa sau/Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay/Thương vui cũng tại lòng này/Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời/Lòng thơ lai láng bồi hồi/Tưởng người nên lại thấy người về đây”.

Cả hội đồng duyệt bài số báo Tết hôm ấy, ai cũng lặng người. Bài tập Kiều tuy là để tặng cụ Tiên Điền nhưng nghe sao như tâm sự của Nguyễn Bính đang muốn... tổng kết đời thơ của mình, để lại chút gì cho ngày sau. Ai cũng bảo tập Kiều này nghe như “có điềm báo trước”. Nguyễn Bính cười trừ: “Các ông mê tín! Cứ hay là được rồi. Tôi xin nộp bài này. Một câu một chữ không sửa!”.

Còn nhà văn Chu Lai thuật lại: “Mùng sáu tháng giêng ta, tôi lên Hội Nhà văn thông báo về việc anh Bính mất. Gặp Tô Hoài, cùng ngậm ngùi nói chuyện về người bạn mới mất. Sau đó, tôi tìm đến nhà Trần Lê Văn. Nghe tin Bính mất, Trần Lê Văn tròn xoe mắt kinh ngạc: “Bính chết thật ư? Bao giờ?”. “Ba mươi Tết, trước giao thừa”(**). Trần Lê Văn bỗng xịu mặt, đấm vào đùi bình bịch: “Biết mà! Biết mà! Chết trước mồng một, đã lường thấy từ bao giờ”. Tôi gặng hỏi: “Sao anh lại nói vậy?”. Trần Lê Văn nói như gắt: “Ô kìa! Năm mới tháng giêng mồng một Tết. Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân”, rồi “... Giờ đây chín vạn bông hoa nở/Riêng có tình ta khép lại thôi” (***). Nó để mùa xuân nguyên vẹn cho người. Nó đi mà”. Tôi sực nhớ bài tập Kiều Lời lời lệ sa máu rỏ đăng trân trọng trong số báo Tết. Ôi, thương quá! Chẳng lẽ trong thơ có quỷ, có ma thật chăng?!”...

Nguyễn Bính và văn nghệ sĩ miền Nam 

 
20/03/2010 0:20 - TNO



Nhà lưu niệm Nguyễn Bính tại Gò Vấp, TP.HCM

Năm 1966, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, đất nước tạm thời bị chia cắt, cái tin Nguyễn Bính từ trần ở miền Bắc vẫn làm rúng động giới cầm bút miền Nam.

Nguyễn Bính ra đi vào ngày cuối cùng của năm Ất Tỵ, nhằm ngày 20.1.1966. Vài tháng sau, tập san Văn số 60 (ra ngày 15.6.1966) đã dành một số trang nhằm truy niệm Nguyễn Bính. Ở trang đầu, nhóm chủ trương (Nguyễn Đình Vượng, Trần Phong Giao) viết: “Trong số này, về Nguyễn Bính, chúng tôi giới thiệu một thiên hồi ký và một bài tùy bút. Chúng tôi rất tiếc đã không thể làm trọn một số để truy niệm nhà thơ vừa khuất. Rất mong bạn đọc thông cảm... Trong mấy bài thơ trích dẫn dưới đây, bạn đọc sẽ bắt gặp những nét điển hình của Nguyễn Bính, như một chàng quê mùa (thơ rất gần với ca dao), như một gã si tình lãng mạn, như một tay giang hồ phóng đãng và như một chiến sĩ...”.

Thiên hồi ký kể trên là của nữ sĩ Mộng Tuyết với tựa đề Để nhớ Nguyễn Bính - Những ngày ghé bến Hà Tiên (chúng tôi đã có trích đăng một số chi tiết của hồi ký này ở số báo trước, đoạn nói về Nguyễn Bính gặp gỡ Đông Hồ -Mộng Tuyết). Ở đây chúng tôi xin trích tiếp đoạn cuối: “Rồi thì phong yên nổi dậy. Cuộc kháng chiến bắt đầu. Chúng tôi cũng trôi nổi mỗi người một phương. “Yiễm Yiễm thương điếm” đã tan tành hết còn “Yễm Yễm thư trang” mở lại ở phố Nguyễn Thái Học Sài Gòn. Tôi lại bận bịu chuyện buôn bán, bận bịu chuyện phát hành, để anh Đông Hồ thung dung làm nhà đại ẩn... Một buổi chiều có người con gái quê đến, giao cho tôi một mảnh giấy nhàu nát. Trong giấy, xin cây bút máy tốt và chiếc đồng hồ đeo tay, lội nước. Dưới ký “Người yêu Ngọc”, đó là Bính ký ẩn danh... Sau ngày tập kết 1954, cũng người thiếu phụ quê áo cánh, chiếc áo mà tôi đã chia cho nàng dạo trước, tay bồng đứa con, về ghé nhắn tôi: “Anh Bính bảo là ngày trước chị Tuyết đã thương Bính như em, thì nay Bính mong là vợ con Bính cũng còn giữ được tấm lòng thương đó của chị”. Tôi còn gặp vợ Bính đôi lần nữa, rồi ít lâu sau thì biệt tin. Mới đây, lại nghe tin Bính mất ở đất Bắc. Than ôi, nhớ người bạn ghé bến Hà Tiên năm xưa mà ngậm ngùi. Mùa này, trời miền Nam mưa đang rơi nặng hạt. Cố nhân còn đâu! (Và bây giờ vợ Bính, con Bính ở đâu? Có đọc thấy những dòng thăm hỏi này không nhỉ?)...”.

Cũng trong tập san Văn này, nhà văn Sơn Nam có viết bài Vài kỷ niệm về nhà thơ Nguyễn Bính trong thời kỳ kháng chiến ở miền Nam: “...Một điều rõ rệt mà ai cũng phải nhìn nhận: Nguyễn Bính là nhà thơ yêu nước. Thời kháng Pháp tôi đã gặp Nguyễn Bính, uống rượu, uống trà, trao đổi với nhau nhiều lần... Giờ đây, anh đã mất. Tôi cố gắng ghi chép lại những điều đáng ghi chép về đời anh, những điều tai nghe mắt thấy, có thể đem đến ích lợi cho bạn đọc: Từ chợ Rạch Giá, anh vào chiến khu để tham gia kháng Pháp. Bấy giờ là vào khoảng 1946-1947 gì đó. Thời tiền chiến người miền Hậu Giang hiểu phong trào thi ca qua sự tuyển chọn và giới thiệu của Hoài Thanh và Hoài Chân. Nguyễn Bính là thi nhân duy nhứt có tên trong Thi nhân Việt Nam đã tham gia kháng chiến tại miền duyên hải vịnh Xiêm La. Anh khởi xướng việc thành lập Đoàn văn hóa Cứu quốc tỉnh Rạch Giá, cho ra mắt Tập thơ yêu nước sau khi vào chiến khu chừng một đôi tháng... Vài tháng sau, Nguyễn Bính lãnh trách nhiệm Phó chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá rồi về Ban văn nghệ Khu 8 - có máy in, in rất đẹp để phổ biến tác phẩm. Mỗi bài thơ của anh đều được anh cắt từ bản vỗ (morasse), gởi cho tôi. Như vậy có điều tiện lợi là tôi được đọc sớm, trước khi báo in ra. Xin trích vài đoạn tiêu biểu, gọi là để làm tài liệu thôi (trích thơ Đây Nam bộ, Trường ca Đồng Tháp). Nhưng đẹp đẽ và êm ái nhứt vẫn là bài Những người của ngày mai. Các bài thơ sáng tác trong thời gian ở Ban văn nghệ Khu 8 được gom vào một tập nhan đề là Sóng biển cỏ. Biển cỏ tức là vùng cỏ bao la Đồng Tháp Mười... Làm thơ yêu nước là chuyện khó, phải kết hợp hình thức với nội dung, ngôn ngữ kỹ thuật, tâm tình cá nhân với hoàn cảnh chiến đấu của dân tộc... Nguyễn Bính đã thành công lớn trong giai đoạn mà ít ai thành công. Bây giờ, nếu cho rằng Nguyễn Bính là một thiên tài thì có lẽ hơi sớm, nhưng hậu thế sẽ cho chúng ta thấy thơ Nguyễn Bính có nhiều câu trở thành ca dao, vài bài thơ yêu nước của anh rất xứng đáng được trích giảng trong sách giáo khoa Việt văn... Nguyễn Bính đã phiêu lưu từ Bắc vào Nam rồi từ Nam ra Bắc, xa cố hương để rồi nằm trong lòng đất cố hương. Trong thời buổi chiến tranh, con người có thân hình ốm yếu mà sống được non năm mươi tuổi, nghĩ cũng thọ...”. Trong tập san Văn số này còn có bài viết về Nguyễn Bính của Mai Thảo và một số bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Bính (Bài thơ vần rẫy, Tương tư, Xuân về, Cô hái mơ, Một nghìn cửa sổ, Tỉnh giấc chiêm bao).

Có lẽ tự thấy vẫn chưa thỏa mãn, chưa xứng tầm với nhà thơ nên hơn 5 năm sau, tập san Văn lại ra một số đặc biệt về Nguyễn Bính (số 189, ra ngày 1.11.1971). Số này tập hợp các bài viết của Vũ Hoàng Chương (nhắc lại những kỷ niệm cùng với Nguyễn Bính, Tô Hoài đi “giang hồ vặt” ở Phủ Lạng Thương, ghé nhà Bàng Bá Lân chơi hoặc xuống Hải Phòng hát cô đầu với Nguyễn Bính, Chu Ngọc...), Vũ Bằng - tác giả của Thương nhớ mười hai thì viết Nguyễn Bính - một thi sĩ suốt đời mắc bệnh tương tư, nữ sĩ Mộng Tuyết cũng tham gia với bài viết Bóng giai nhân và Nguyễn Bính, Đào Trường Phúc với Nguyễn Bính: những mùa xuân tha hương.



Đặc biệt có ông Phạm Văn Song - một thầy giáo dạy trường Trung học Sa Đéc và Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) đã giới thiệu và bình bài thơ Đám cưới bướm - trích trong tập Một nghìn cửa sổ mà theo ông là “một tập thơ ít người biết vì được xuất bản trong thời Nam Bộ kháng chiến chống Pháp”. Ông Phạm Văn Song cũng đã giới thiệu bài thơ Ngô sơn vọng nguyệt mà ông sưu tầm được. Bài thơ này gồm 12 cặp lục bát do Nguyễn Bính, Trúc Khê và Thâm Tâm thay phiên nhau làm, mỗi người làm một cặp lục bát, xoay vòng...

Hà Đình Nguyên

Nguyễn Bính với cố nhân

Hơi lan man xíu,mà để làm tư liệu.




Sửa bởi người viết 21/03/2010 lúc 05:14:49(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Offline Tình_ca  
#139 Đã gửi : 21/03/2010 lúc 04:40:11(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Lời khuyên - Đặng Huy Giang

Đừng sợ bị đốt thiêu
Hãy tưởng tượng một lần mình là lửa!

Đừng sợ bị nhấn chìm
Hãy tưởng tượng một lần mình là nước! 

Đừng sợ bị cuốn vào hun hút
Hãy tưởng tượng mình là gió, một lần thôi! 

Lửa ơi! Nước ơi! Gió ơi!
Mình tôi đi
những chân trời
thênh thang
Không địa ngục, chẳng thiên đàng
Trăm năm không đổi
tôi mang phận người

Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Offline Tình_ca  
#140 Đã gửi : 21/03/2010 lúc 04:44:02(UTC)
Tình_ca

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 09-03-2010(UTC)
Bài viết: 1.216
Đến từ: Quảng Trị

Cảm ơn: 34 lần
Được cảm ơn: 116 lần trong 86 bài viết
Bớt - Thái Thu Nguyên

Mặt trời bớt chút nắng
Trưa hè không chói chang

Bớt đi chút lòng tham
Cuộc đời càng tươi đẹp

Trăng bớt sáng một chút
Đêm dài buồn biết bao

Bầu trời bớt chút cao
Trái đất thêm chật chội

Mùa xuân bớt chút vội
Chồi non chưa thành cây

Mùa đông bớt lây rây
Hoa còn thơm nhiều nữa

Bớt đi một chút lửa
Tình yêu thành dửng dưng

Biển có còn xanh không
Nếu bớt đi chút muối
Biết một chút đòi hỏi
Hạnh phúc càng dài lâu

Em, Hướng Dương bị ánh sáng bỏ bùa
Người chăm chút vào em tìm sự thật
Những ánh nhìn dịu dàng và trong vắt
Xoay tròn theo từng sợi sắc mặt trời


Giữ vững quyết tâm phòng, chống Ma túy!
Giữ vững quyết tâm ngăn chặn AIDS!
Vì sự bình yên của gia đình và cộng đồng, toàn dân hãy tích cực tố giác tội phạm!
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
12 Trang«<56789>»
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.