Hành trình tìm con chữ của hai ông cháu
Ở cái sân chang chang nắng trưa của Đầm Long, giữa những mái đầu xanh
của những đứa trẻ, có một mái đầu bạc trắng ngồi lặng lẽ, thỉnh thoảng
lại đảo mắt tìm đứa cháu đang mải miết chơi cùng các bạn.
Người đàn ông đó là Nguyễn Minh Tuyển, 68 tuổi, ông nội của cháu
Nguyễn Thị Thu Phương, 11 tuổi, ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Ông Tuyển kể lại, ông có người con trai tên là Nguyễn Đức Chiển, sinh
năm 1973. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, anh Chiển không đỗ đại học nên
đành lên Hà Nội học làm nghề đầu bếp và kiếm sống bằng nghề này. Sau một
thời gian, anh Chiển quen và cưới chị Mai Thị Thiết, làm nhân viên nhà
hàng. Họ sống ở Hải Phòng và sinh được một đứa con gái, đó chính là Thu
Phương.
Đến năm 2004, anh Chiển đi khám sức khỏe để xin đi làm đầu bếp tại
Hàn Quốc thì mới phát hiện ra mình bị nhiễm HIV. Chị Thiết, vợ anh và
Phương, đứa con gái bé bỏng cũng bị lây nhiễm. Ông Tuyển kể, chính vợ
chồng anh cũng không biết mình bị lây nhiễm trong trường hợp nào. Cũng
trong năm đó, anh Chiển đã mất vì bị AIDS. Chị Thiết sống và nuôi con
thêm được hai năm nữa thì cũng qua đời vào năm 2006.
Năm đó, Phương đành chuyển từ Hải Phòng về Kim Động, Hưng Yên để sống
cùng ông nội. Ở Hải Phòng không ai biết Phương có “H” nên cháu vẫn được
đi học mẫu giáo, nhưng khi về Kim Động thì mọi người xua đuổi em như
một quái vật. Hai ông cháu lặng lẽ nương tựa vào nhau để sống trong sự
kỳ thị của những người xung quanh.
Đến năm 2009, ông Tuyển đã xin cho Phương vào học lớp 1 tại trường
Tiểu học Kim Động. Nhưng Phương đi học đến buổi thứ ba thì cả lớp không
còn ai nữa, chỉ còn mỗi Phương và thầy. Các bậc phụ huynh đã cho con
nghỉ học hết khi biết trong lớp của con mình có một em bị nhiễm HIV.
Sau lần đó, ông Tuyên đành đưa cháu trở về nhà. Hằng ngày, Phương
buồn bã đứng ngoài cổng trường nhìn vào lớp học. Điều đó khiến ông Tuyển
không nỡ để đứa cháu nội phải đầu hàng số phận. Hai ông cháu đã lần tìm
xuống Hà Nội và gặp bác sĩ, luật gia Trịnh Thị Lê Trâm, Giám đốc Trung
tâm Tư vấn pháp luật và chính sách về y tế. Biết hoàn cảnh đáng thương
của hai ông cháu, bà Trâm đã cử hai luật sư về Hưng Yên giải thích về
quyền được đến trường của trẻ bị nhiễm HIV cũng như những hình phạt mà
thầy hiệu trưởng, phụ huynh và những ai ngăn cản không cho trẻ nhiễm HIV
đến trường phải chịu nếu tiếp tục đối xử kỳ thị với cháu. Và trong
trường hợp này, cái lý đã thắng. Cả phụ huynh, học sinh và nhà trường đã
hiểu ra và chấp nhận để Phương đến trường.
Năm học 2010-2011, Phương là học sinh giỏi của khối lớp 1. Hằng ngày,
người dân Kim Động đã quen thuộc với cảnh Phương đạp xe đèo cô bạn hàng
xóm thân thiết là Trang đến trường. Giờ đây, Phương đang chuẩn bị lên
lớp 2. Nụ cười, sự nhí nhảnh của tuổi 11 đã trở lại trên khuôn mặt tươi
tắn của em.
Cô “Tiên” của trẻ bất hạnh
Cũng ba năm trước, cô Nguyễn Thị Kim Tiên, Giám đốc trung tâm Bảo trợ
trẻ em Linh Xuân, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh đứng trước áp lực đưa
những đứa trẻ nhiễm H ở đây hòa nhập cộng đồng.
Năm đó, sau nhiều toan tính, cô Tiên đã tìm đến gặp ban giám hiệu của
hai trường Tiểu học Kim Hiệp và trường THCS Xuân Trường xin học cho lũ
trẻ và yêu cầu nhà trường bảo mật thông tin về bệnh tật của chúng, rồi
cô dẫn chúng đến gặp họ. Cô Hương, hiệu trưởng trường Tiểu học Kim Hiệp,
sau khi nhìn sáu đứa trẻ bất hạnh nhưng rất ngoan và dễ thương thì đã
hứa bằng mọi cách bảo vệ chúng.
Những đứa trẻ còn được cán bộ trung tâm hướng dẫn cách tự chăm sóc
mình khi bị chầy xước. Trong cặp chúng bao giờ cũng có sẵn băng dán để
dán ngay vào những vết thương hở trước khi chạy lên phòng y tế nhà
trường để cầu cứu sự giúp đỡ từ trung tâm. Chúng được dạy kiềm chế trước
sự đùa nghịch, trêu chọc, kỳ thị của lũ trẻ bình thường mà không nổi
nóng rồi xông vào đánh bạn. Và khi rời trường học về trung tâm, chúng có
cả những bác sĩ tâm lý để “xả” những bức xúc, buồn bực khi bị đối xử
ghẻ lạnh. Mỗi đứa trẻ đến trường còn có một cán bộ đóng vai bố hoặc mẹ
đưa đón…
Những bước chuẩn bị ấy của cô Tiên không hề thừa. Sau khi lũ trẻ nhập
học, phụ huynh nghe tin trong lớp học không bán trú có trẻ đến từ Trung
tâm Linh Xuân liền đồng loạt lên Ban giám hiệu xin chuyển con sang lớp
bán trú. Cô Hương, Hiệu trưởng đã tuyên bố thẳng thừng với họ rằng: nhà
trường đã sắp xếp lớp từ đầu năm, không còn chỗ để chuyển nữa. Nếu muốn
thì họ có thể làm đơn xin chuyển cho con sang trường khác. Dù chỉ còn
một học sinh, cô cũng sẽ không đuổi những đứa trẻ bất hạnh đó.
Nhiều phụ huynh làm đơn kiện gửi lên UBND phường Linh Xuân, Phòng
giáo dục quận Thủ Đức. Họ gay gắt đặt câu hỏi: “Con chúng tôi là con
vàng con ngọc, nếu bị lây nhiễm HIV thì ai là người đền bù thiệt hại cho
chúng tôi?”. Thầy Cường, trưởng phòng Giáo dục quận Thủ Đức đã viện dẫn
những điều luật về quyền đến trường của trẻ HIV và giải thích: nếu phụ
huynh có hành vi tuyên truyền, kích động các phụ huynh để đuổi trẻ HIV
không được đến trường thì có thể bị phạt tiền hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Các cơ quan quản lý cũng đều thống nhất không cho những trường
hợp này chuyển trường.
Sau những phản ứng không thành công ấy, phụ huynh bắt đầu chuyển sang
việc theo dõi để phát hiện những đứa trẻ nào trong lớp học của con mình
nhiễm có “quả cầu gai”. Họ bắt con mình đi theo những đứa trẻ bị nghi
ngờ xem chúng có phải đến từ Trung tâm Linh Xuân không. Để đối phó, cô
Tiên và những cán bộ trong trung tâm đành phải dạy cho lũ trẻ nói …
dối!. “Bố (mẹ) tớ làm việc trong Trung tâm Linh Xuân. Tớ vào đây để đợi
bố (mẹ) tớ hết giờ làm việc sẽ đưa tớ về nhà”.
Thời gian qua đi, những đứa trẻ trong cùng lớp học chơi với nhau thân
thiết hơn. Còn các phụ huynh thì thấy con mình học chung với trẻ nhiễm H
cũng chẳng có vấn đề gì. Sau ba năm, tung tích về những đứa trẻ nhiễm
“H” đã bị “lộ” từ lâu, nhưng không còn ai phản đối chúng nữa. Nhiều đứa
trẻ bình thường khi cô giáo phân công học nhóm đã xung phong vào làm bài
tập cùng các bạn ở trong Trung tâm Linh Xuân. Đến ngày sinh nhật, chúng
mời cả lũ trẻ có H đến nhà chơi. Cả những anh chị học lớp 8 khi biết
một em lớp 6 nhiễm H đến ngày sinh nhật cũng xin phép vào trung tâm tổ
chức sinh nhật cho em.
126 đứa trẻ sống tại Trung tâm Linh Xuân đều được uống thuốc ARV nên
sức khỏe của chúng gần như giống những trẻ bình thường. Chúng chỉ bị cảm
sốt vài hôm rồi lại đi học. Những đứa trẻ học cùng lớp được giao chép
bài giúp bạn. Kết quả là 26 em đang theo học từ lớp 4 đến 9 đều được lên
lớp, 40% là HS khá giỏi, có em đạt HS giỏi cấp quận môn văn.
Luật hay tình, hay cả luật và tình?
Hơn 4.400 trẻ em phát hiện có “H” đang sinh sống đâu đó trong các
trại trẻ mồ côi, trên đường phố, ở nhà hoặc ở trung tâm bảo trợ. Mỗi
năm, Việt Nam phát hiện thêm từ 400-700 trẻ bị nhiễm, riêng năm 2007, số
lượng trẻ HIV được phát hiện cao nhất, lên đến 772 trẻ.
Bác sĩ Nguyễn Trọng An, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em, Bộ
LĐ-TB-XH cảnh báo tình hình trẻ em nhiễm HIV bị mồ côi và bỏ rơi đang
có xu hướng gia tăng. Xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình dân số
chưa đầy 10.000 người đã có hơn 50 trẻ em mồ côi có bố, mẹ, hoặc cả hai
bố mẹ đã chết do AIDS. Trong số 7.000 dân của thị trấn Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn cũng có đến 86 người dương tính với HIV. Trong số đó có 54
người đã chết, để lại 22 đứa trẻ mồ côi…
Sự kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội cùng sự tự kỳ thị của bản thân
những đứa trẻ đã khiến chúng hầu như không có điều kiện tham gia học
tập, vui chơi như những người bạn cùng trang lứa.
Mới đây, chị Victoria Boggiano, một tình nguyện viên đã điều tra thăm
dò về sự kỳ thị và phân biệt đối xử với trẻ em đang sống chung với
HIV/AIDS tại Hà Nội. Hai địa điểm chị chọn là quận Ba Đình gồm các
trường tiểu học Hoàng Diệu, Việt Nam – Cuba, Đại Yên và huyện Ba Vì gồm
các trường tiểu học Vân Hòa, Yên Bài A, Yên Bài B. 20 phụ huynh của
huyện Ba Vì và 40 phụ huynh quận Ba Đình đã được lựa chọn ngẫu nhiên để
tham gia cuộc khảo sát. Một nửa trong số họ có trình độ tốt nghiệp cấp 3
trở lên. Kết quả là 15 người trong số họ không đồng ý cho trẻ có HIV
hòa nhập. 34 người cho rằng đồng ý hòa nhập nếu mọi người được biết từ
trước. 23 người trong số họ đồng ý rằng trẻ em có HIV có thể ở xung
quanh những đứa trẻ khác mà không gây hại cho những đứa trẻ đó. 43 người
nghĩ rằng HIV lây qua vết cắt, chảy máu. Chỉ có sáu người cho bọn trẻ
hòa nhập vô điều kiện.
Vì thế, theo chị Victoria Boggiano, phụ huynh cần được tuyên truyền
rằng nếu một người không sử dụng ma túy hay quan hệ tình dục không an
toàn thì sẽ không có nguy cơ lây nhiễm. Họ cũng cần được hiểu về nguy cơ
lây lan HIV trong trường học, điều đó chỉ xảy ra khi số lượng dịch, máu
xâm nhập đủ lớn và lượng VR trong máu trẻ nhiễm “H” đủ lớn (trong khi
trẻ được điều trị bằng thuốc ARV thì virus gần như không có trong máu
của chúng)…
“Đây là hậu quả của việc tuyên truyền quá liều”, bác sĩ Nguyễn Trọng
An chua xót thừa nhận. Để tuyên truyền người dân tránh những nguy cơ lây
nhiễm, đã có lúc chúng ta gắn HIV với ma, quỷ, thần chết mà phải tránh
xa. Sự kỳ thị của xã hội là do chính truyền thông gây ra, mà hệ lụy của
nó mãi rồi chính giới truyền thông vẫn không gỡ nổi.
Mặc dù Việt Nam có đầy đủ những quy định pháp luật để bảo vệ quyền
lợi cho trẻ nhiễm HIV, từ Luật phòng chống HIV/AIDS đến Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, cùng các nghị định, chỉ thị, công văn liên
quan đến vấn đề này, nhưng dường như rất ít khi được vận dụng.
Bác sĩ An cho rằng, đã đến lúc chúng ta dùng đến luật để xử mạnh tay
với những phụ huynh cản trở con đường đến trường, với cả những hiệu
trưởng các trường học không tiếp nhận trẻ nhiễm “H”. Còn luật gia Trâm,
khi đưa ra những điều luật, bà vẫn hy vọng cái tình sẽ đến từ những bậc
phụ huynh đối những đứa trẻ vô tội.
Cám cảnh trước những đứa trẻ nhiễm “H” ở Ba Vì, “cô Tiên” của những
đứa trẻ may mắn hơn ở Linh Xuân nói: “Theo tôi, người dân trên địa bàn
đối xử không nhân văn với các em ở Trung tâm Ba Vì. Vì trẻ em vô tội, nó
là hậu quả của một số tai nạn hoặc hành vi người lớn để lại. Khi sinh
ra chúng đã kém may mắn, đáng lẽ phải được bù đắp nhiều hơn, đằng này
lại có những hành vi thiếu hiểu biết, vận động người khác cản bước chân
của trẻ đến trường”.
Các cấp, các ngành ở Ba Vì vẫn hứa, bao giờ có đủ điều kiện thì sẽ
cho trẻ nhiễm HIV hòa nhập. Nhưng nhiều người đã đặt câu hỏi ngược lại
rằng: Bao giờ thì mới đủ điều kiện? Nếu xem các em là người bình thường
như những đứa trẻ khác, thì điều kiện nhập học của chúng cũng chỉ giản
đơn như những đứa trẻ bình thường mà thôi.
Cuối buổi gặp gỡ đầy cảm động hôm đó, cô bé Lê Thúy Uyên, 17 tuổi của
Trung tâm Ba Vì đã đến gặp cô Tiên và cậy nhờ cô xin cho chúng được đi
học. Nhưng những điều cô Tiên có thể làm với trẻ nhiễm H ở Linh Xuân lại
không thể làm với những đứa trẻ ở Ba Vì. Cô hướng dẫn Uyên đến gặp bà
Lê Thị Kim Dung, chuyên viên chính Vụ Công tác học sinh, sinh viên, Bộ
GD-ĐT cũng về dự hôm đó. Bà Dung đã vuốt tóc an ủi Uyên và hứa với cô bé
sẽ tìm cách.
Trong khi đó, tiếng trống trường đã sắp điểm ở khắp mọi miền của đất
nước. Hàng triệu học sinh vẫn đang được thực hiện quyền đến trường của
mình…
*Bác sĩ, luật gia Trịnh Thị Lê Trâm:
“Theo Nghị định số 69/2011/NĐ-CP ngày 8-8 vừa qua của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và
phòng, chống HIV/AIDS, hành vi cản trở hoặc từ chối tiếp nhận trẻ em vào
học trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân vì người
đó nhiễm HIV sẽ bị phạt tiền từ 5 đến 10 triệu đồng”.
*Bác sĩ Nguyễn Trọng An, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em:
“Chỉ khi hiệu trưởng ký đồng ý chuyển trường hay chuyển lớp cho
học sinh nào đó thì phụ huynh mới chuyển được cho con họ từ trường nay
đến trường kia để tránh trẻ nhiễm HIV. Vì thế, vai trò của hiệu trưởng,
trách nhiệm của thầy cô giáo là ở đâu khi nói đến việc thất bại của họ
trong việc không đưa trẻ đến trường được là do phụ huynh gây sức ép?
Đứng về phía vai trò quản lý nhà nước, phải có những chế tài nghiêm
khắc, những hình thức kỷ luật với những giáo viên, hiệu trưởng nào từ
chối việc nhận trẻ HIV và tước quyền học tập của các em”.