Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


7 Trang«<34567>
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline ngoisaocodonhn  
#81 Đã gửi : 24/08/2007 lúc 07:25:16(UTC)
ngoisaocodonhn

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 29-07-2007(UTC)
Bài viết: 12

Ph­ương pháp Determine thi sao anh saimotly nhi.Em xét nghiệm âm tính sau 6 tuần bằng pp này ở Hàng Bài.Kết quả này sao anh nhỉ.mong anh cho vài lời.
Offline saimotly  
#82 Đã gửi : 24/08/2007 lúc 08:43:27(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

Trích dẫn bài viết của ngoisaocodonhn đã viết:
Ph­ương pháp Determine thi sao anh saimotly nhi.Em xét nghiệm âm tính sau 6 tuần bằng pp này ở Hàng Bài.Kết quả này sao anh nhỉ.mong anh cho vài lời.

Tranh thủ trả lời tí: Nghiên cứu này của một nhóm Giáo sư bác sĩ Việt Nam được xuất bản vào năm 2001, hồi đó Determine chưa được thương mại hóa (tức là vừa nghiên cứu xong thôi) nên họ không đề cập nhiều, 6 tuần âm tính với Determine của bạn là một kết quả tuyệt vời rồi (thằng này cứ gọi là siêu nhạy) nhớ XN lại sau 6 tuần nữa nhé!


Nào tiếp tục nào!


B. CÁC THỬ NGHIỆM KHẲNG ĐỊNH

Đa số các quy chế đòi hỏi việc áp dụng những thử nghiệm có độ đặc hiệu cao, như là Western blot, thử nghiệm kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) hoặc là thử nghiệm miễn dịch kết tủa phóng xạ (RICA) để xác định những kết quả thử nghiệm sàng lọc. Những thử nghiệm này là cực kỳ đặc hiệu nếu như đượcthực hiện đúng, đọc kết quả đúng, thì thường không có kết quả dương tính giả. ở những nước không có chi phí cho những thử nghiệm khẳng định, việc xét nghiệm khẳng định lại có thể tiến hành bằng cách xét nghiệm lại nhiều lần những mẫu dương tính sử dụng một loại thử nghiệm sàng lọc thứ hai. Nguyên lý của loại thử nghiệm sàng lọc lần thứ hai cần phải khác nguyên lý của lần thử nghiệm thứ nhất (ví dụ ELISA gián tiếp rồi sau đó ELISA cạnh tranh). Những chiến lược thay thế để khẳng định nhiễm HIV đã đượcáp dụng thành công và tiết kiệm đượcnhiều chi phí đáng kể. Tổ chức Y tế Thế giới đây đã đưa ra những hướng dẫn trong việc áp dụng những chiến lược khẳng định khác nhau nhằm làm giảm bớt chi phí về xét nghiệm HIV cho các nước đang phát triển.

1. Thử nghiệm miễn dịch điện di Western blot

Thử nghiệm Western blot phát hiện kháng thể HIV là một kỹ thuật trong đó virut toàn phần tinh chế đượcđiện di trong gel polyacrylamide và đượcchuyển sang giấy nitrocellulose và đượcủ với huyết thanh. Sau đó kháng thể kháng HIV đượcphát hiện bằng cách dùng kháng thể kháng IgG người cộng hợp với men, và nó sẽ tạo nên những băng màu khi cho thêm cơ chất. Các huyết thanh chứng âm và dương cũng đượcxét nghiệm đồng thời để cho phép xác định các dải băng của virut đượcphát hiện bằng mắt thường. Thử nghiệm này có cùng chung một nguyên lý với thử nghiệm ELISA nhưng nó có ưu điểm là xác định đượccác kháng thể đặc hiệu đối với các kháng nguyên khác nhau của HIV. Các kháng thể kháng protein lõi của HIV (p24) và tiền thân của p24 (precursor, p55) xuất hiện sớm sau nhiễm trùng và có xu hướng giảm đi hay không thể phát hiện đượckhi bắt đầu có biểu hiện lâm sàng. Các kháng thể kháng thành phần của gien vỏ (gp 160) và các mảnh tạo nên nó (gp120) và protein màng (gp 41) có thể phát hiện đượcở hầu hết những người nhiễm HIV không liên quan đến giai đoạn lâm sàng của họ. Các kháng thể kháng các sản phẩm của gien polymeraza (p31, p51 và p66) cũng thường đượcphát hiện. Các kháng thể khác đối với protein tat (p14): protein nef (p27) protein vif (p23) và các protein gag khác (p31, p9, p7) đượcphát hiện ít thường xuyên hơn.

Do đó thử nghiệm Western blot sẽ cung cấp dải băng đặc trưng của HIV khi phản ứng với các mẫu huyết thanh có kháng thể HIV. Ngoài ra, Western blot nhạy hơn ELISA bằng cách pha loãng 2-log huyết thanh. Tuy nhiên thử nghiệm này có nhược điểm là kỹ thuật khó, tương đối đắt, phụ thuộc vào chủ quan của người phân tích kết quả và đòi hỏi thời gian khoảng 24 giờ để tiến hành. Kháng nguyên kháng HIV tinh chế một phần hiện đang có bán trên thị trườngđể cho các phòng thí nghiệm nào muốn chuẩn bị các dải giấy nitrocellulose làm xét nghiệm. Những dải giấy nitrocellulose với các kháng nguyên HIV riêng rẽ cũng có bán trên thị trường.

Định nghĩa một kết quả dương tính với Western blot là thay đổi và không thống nhất. Một số phòng thí nghiệm của Mỹ dùng định nghĩa sau: Âm tính: không có các dải băng đặc trưng của HIV; Dương tính: Có kháng thể kháng vỏ (gp 41, gp 120 hay gp160) và ít nhất có một băng đặc trưng khác của HIV. Những dải băng đặc trưng của HIV là p15, p17, p24, p31, gp41, p51, p55, p66, gp120 và gp160. Trung tâm kiểm soát bệnh tật của Mỹ(CDC) sử dụng định nghĩa này có bổ sung rằng sự có mặt của gp41 đủ để xác định là dương tính với Western blot. Tiêu chuẩn dương tính với Western blot của TCYTTG là: dương tính: 2 dải băng protein vỏ, +/- protein lõi, +/- protein polymeaza; Âm tính: không có dải băng đặc trưng nào của HIV.

Tất cả những hình thái xuất hiện dải băng khác không đủ tiêu chuẩn nêu trên đượccoi là không xác định và những mẫu huyết phải đượcxét nghiệm lại. Nếu làm lại kết quả vẫn là không xác định, đề nghị bệnh nhân xét nghiệm lại sau 2-3 tháng bởi kháng thể kháng nguyên lõi (p17, p24, p55) chứng tỏ có nhiễm trùng sớm với HIV, vì có những phản ứng chéo với các retrovirut khác (HTLV-1 hay HTLV- 2) hoặc những phản ứng chéo mà ta chưa biết rõ thường gặp ở những người khoẻ mạnh và những bệnh nhân có kháng thể HLA bilirubin huyết, bệnh tổ chức liên võng.

Những bộ sinh phẩm Western blot mới đây đòi hỏi phải không có một dải băng nào mới đượccoi là âm tính và phải có p24, p31, và gp41 hay gp160 mới đượccoi là dương tính. Bất cứ hình thái nào không đáp ứng đủ tiêu chuẩn trên đượccoi là không xác định. Tiêu chuẩn nghiêm ngặt này sẽ là tăng đáng kể độ đặc hiệu của thử nghiệm cần thiết cho việc sàng lọc người cho máu. Tuy nhiên điều này sẽ làm giảm độ nhạy của thử nghiệm từ gần 100% ở bệnh nhân AIDS xuống còn 56% vì chỉ có 60% bệnh nhân AIDS có kháng thể đối với p24 và 83% có kháng thể đối với p31. Trong khi tiêu chuẩn này làm tăng số lượng xét nghiệm bổ sung thì nó lại làm giảm đáng kể số dương tính giả ở những người có nguy cơ thấp. Trước đây, ở nhóm nguy cơ thấp, tỷ lệ dương tính giả khoảng 1/20.000 khi sử dụng cùng với thử nghiệm ELISA như là một xét nghiệm sàng lọc.

Tỷ lệ thật không phát hiện đượcngười nhiễm HIV (tỷ lệ âm tính giả) với Western blot hiện nay chưa đượcbiết rõ, nhưng chắc chắn không phải là không có. Có nhiều báo cáo cho thấy là có những người Western blot âm tính nhưng nuôi cấy lại dương tính. Trong một nghiên cứu của trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) ở Mỹ có hai trườnghợp (8%) Western blot âm tính trong số 25 người cho máu dương tính với ELISA và nuôi cấy. Có giả thiết cho rằng những người này hoặc là không phát triển kháng thể hoặc hiệu giá kháng thể rất thấp. Western blot âm tính hay chỉ có những dải băng p24 hay p34 đã đượcbáo cáo ở bệnh nhân HIV-2. Do đó nên tiến hành cả hai thử nghiệm ELISA và Western blot với kháng nguyên HIV-1và HIV-2 ở những nơi có lưu hành HIV-2. Người ta dự tính rằng, tỷ lệ âm tính giả ở những người cho máu xấp xỉ là 1/250.000 khi sử dụng đồng thời ELISA và Western blot. Ở nhóm có nguy cơ cao tỷ lệ âm tính giả có thể cao hơn. Người ta có thể giảm tỷ lệ dương tính giả và âm tính giả với Western blot bằng cách phát triển các kháng nguyên tái tổ hợp HIV sử dụng làm thấm miễn dịch immunoblotting nhờ sự tinh khiết của các kháng nguyên này.

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline saimotly  
#83 Đã gửi : 25/08/2007 lúc 03:54:51(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

2. Thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang (Immuno- Fluorescence Assay IFA)

Thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp phát hiện kháng thể kháng HIV là một thử nghiệm bổ sung đáng tin cậy và nhanh. Thông thường những dòng tế bào T ác tính nhiễm HIV hay không nhiễm HIV (h9 hay HUT-78) ở giai đoạn tăng sinh theo cấp số log đượcgắn vào các giếng của tiêu bản huỳnh quang, làm khô, cố định trong aceton trong 10 phút và sau đó giữ ở -20oC hay lạnh hơn cho đến khi sử dụng. Để thực hiện thử nghiệm, tiêu bản để ở ngoài cho trở về nhiệt độ phòng thí nghiệm, cho 10ml huyết thanh pha loãng (1:10 hay 1:20) vào mỗi giếng và ủ ở hộp ẩm trong 30 phút, rửa 3 lần trong 5 phút ở dung dịch muối đậm và làm khô. Sau đó cho 10ml kháng IgG người cộng hợp fluorescence isothiocyanate vào mỗi giếng. Tiêu bản đượcủ trong 30 phút, rửa 3 lần trong 5 phút, nhuộm với xanh Evans 0,001%, làm khô và đọc dưới kinh hiển vi huỳnh quang với độ phóng đại cao (x400). Huyết thanh âm tính và dương tính đối chứng cũng đượctiến hành đồng thời. Những mẫu dương tính đượcxác định dựa vào mức độ phát quang, phần trăm tế bào phát quang và loại phát quang. Có một sự phù hợp hoàn toàn kết quả xét nghiệm giữa IFA và Western blot. Sandstrom và cộng tác viên (ctv) trong một nghiên cứu so sánh đã nhận thấy rằng tất cả 68 mẫu huyết thanh âm tính với Western blot cũng âm tính với IFA và chỉ có một trong số 36 mẫu dương tính với Western blot đã âm tính với IFA 3 mẫu huyết thanh khác từ bệnh nhân này đều âm tính với cả 2 thử nghiệm IFA và Western blot. Gallo và ctv cũng cho thấy có sự phù hợp hoàn toàn kết quả xét nghiệm giữa ELISA và IFA trên 88 mẫu huyết thanh của bênh nhân AIDS. Tuy nhiên chỉ có 18 (36%) trong số 50 người cho máu có ELISA dương tính đã âm tính với IFA và Western blot. Các mẫu âm tính với IFA cũng âm tính với Western blot. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng 20 (5%) trong số 407 mẫu trong nghiên cứu này đòi hỏi hấp phụ với tế bào H9 không nhiễm HIV do nhuộm không đặc hiệu và chỉ có 11(0,27%) trong tổng số 4000 đã cho phản ứng không đặc hiệu và không thể loại trừ bằng hấp phụ tế bào. Tất cả 11 mẫu là âm tính với Western blot và 6 có kháng thể kháng nhân (antinuclear).

Những kết quả trên gợi ý rằng, so sánh với Western blot, IFA có độ nhạy và độ đặc hiệu tương tự. IFA cũng có ưu điểm hơn so với Western blot là thời gian thực hiện ngắn hơn 2 giờ, ít đòi hỏi về thành thạo kỹ thuật hơn và có thể xét nghiệm đối với các mẫu huyết thanh hay huyết tương. Hơn nữa, vì gần như tất cả những người nhiễm HIV đều có kháng thể đối với các protein kết hợp với tế bào như gp160 và gp120 có nhiều trong tế bào nhiễm HIV; nhưng nhìn chung chúng thường không có mặt trong các chế phẩm virut tinh chế sử dụng cho các bộ sinh phẩm ELISA và một số sinh phẩm Western blot. Tuy nhiên, việc phân tích kết quả IFA phụ thuộc vào chủ quan hơn và đòi hỏi phải có các tế bào không nhiễm HIV để hấp thụ huyết thanh. Những nhược điểm chính là yêu cầu phải có một kính hiển vi huỳnh quang đắt tiền, không thể giữ đượckết quả lâu dài và yêu cầu phải có một đội ngũ kỹ thuật viên xét nghiệm đượcđào tạo tốt có thể đọc đượcvà đánh giá đượckết quả. Ngoài ra thử nghiệm này rất cồng kềnh nhất là khi phải xét nghiệm với nhiều bệnh phẩm cùng một lúc. Thử nghiệm IFA có thể có giá trị khi phải giải quyết những kết quả không xác định đượccủa Western blot.

3. Kỹ thuật kết tủa miễn dịch phóng xạ (Radio - Immuno - Precipiation Assay RIPA)

Kỹ thuật kết tủa miễn dịch phóng xạ (RIPA) chủ yếu là dùng để nghiên cứu, trong đó các tế bào nhiễm HIV trong giai đoạn phát triển đượctiếp xúc với đồng vị phóng xạ ( ví dụ S35 methionine) trong vài giờ với dung dịch đệm RIPA, sau đó siêu ly tâm để thu đượchuyền dịch tế bào hoà tan có chứa các protein của vi rút có gắn phóng xạ. Huyền dịch tế bào này đượclàm sạch trước hết với huyết thanh chứng âm tính gắn với các hạt A-sepharose và sau đó cho phản ứng với huyết thanh bệnh nhân đã đượchấp phụ trước với các hạt protein A-sepharose. Phức hợp kết tủa miễn dịch đượctách ra bằng cách đun sôi 100oC và sau đó tách bằng điện di trên gen polyacrylamide có muối natri dodecyl- sulfate. Hình thái của các giải băng tương tự như ở thử nghiệm Western blot nhưng các protein gp120 và gp160 thường rõ ràng hơn trong RIPA trái lại gp41 và các protein của lõi lại dễ phát hiện hơn trong Western blot. Ngoài ra RIPA, ít có kết quả dương tính giả hơn ở những người cho máu có nguy cơ thấp có các dải băng protein lõi với Western blot. Do đó RIPA có thể ít nhậy và ít đặc hiệu hơn so với Western blot và có thể đượccoi là xét nghiệm bổ sung đối với những mẫu huyết thanh đã đượcxác định bằng Western blot hay IFA. Tuy nhiên RIPA chủ yếu đượcdùng cho các phòng thí nghiệm nghiên cứu vì nó cồng kềnh tốn kém và đòi hỏi duy trì các dòng tế bào nhiễm HIV và sử dụng các đồng vị phóng xạ.

4. Thử nghiệm miễn dịch dải băng (Line immunoassay LIA)

Những thử nghiệm LIA đượcphát triển vào những năm đầu của thập kỷ 90, là những thử nghiệm thế hệ thứ hai hay thứ ba và có thể dùng làm những thử nghiệm bổ sung. Những protein tái tổ hợp và/hay những peptit tổng hợp đượctẩm vào những dải băng mẫu đặt trên những mảnh giá đỡ bằng plastic hay nitrocellulose và đượctiến hành xét nghiệm theo cách tương tự như thử nghiệm miễn dịch thấm.

Đa số những thử nghiệm LIA áp dụng nguyên lý ELISA gián tiếp để làm cho những kết quả có thể đọc đượcbằng mắt thường. Nhưng sự khác nhau chủ yếu giữa LIAvà Western blot là ở chỗ những kháng nguyên đượctẩm chứ không đượctách ra bằng điện di và nguồn gốc từ công nghệ peptit tổng hợp hay tái tổ hợp chứ không phải từ lisat virut. Trong LIA, có thể tẩm kháng nguyên với những lượng tối ưu làm cho đọc và đánh giá kết quả đễ dàng hơn. Hơn nữa các tạp chất dư bị hạn chế đến mức tối thiểu, làm cho bớt khó khăn trong việc đọc bằng mắt các kết quả và làm nổi bật những biểu hiện của kháng nguyên. Dùng những kháng nguyên đó có thể loại trừ đượcnhững kết quả không xác định đượcvà những kết quả không điển hình có thể xẩy ra do phản ứng của kháng thể với những thành phần của tế bào trong những thử nghiệm khẳng định dựa vào lysat của virut. Hơn nữa, khi không có đủ lượng của một số kháng nguyên virút, do cách xử lý virút, có thể dẫn đến việc đánh giá không đúng mức những kháng thể và thử nghiệm có thể bị hỏng do việc thấm một cách máy móc những lượng tối ưu kháng nguyên. Những thử nghiệm này cho phép tẩm những kháng nguyên riêng rẽ của nhiều chủng virút, như vậy cho phép làm những thí nghiệm kết hợp và phân biệt đượcnhiễm HIV-1 với nhiễm HIV-2. Những thí nghiệm LIA cũng có những dải băng đối chứng để báo cho biết những thử nghiệm có đượcthực hiện đúng hay không và có thể giúp cho việc ước lượng cường độ của những phản ứng. Những thử nghiệm LIA dùng bệnh phẩm là huyết thanh, huyết tương hay máu toàn phần và hoàn thành trong khoảng 2 giờ (nhanh hơn Western blot). Kết quả của việc so sánh các thử nghiệm LIA với Western blot cho biết rằng những thử nghiệm LIA là đáng tin cậy để phát hiện các kháng thể HIV-1 và HIV-2 và giảm đượcđáng kể chi phí.


Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline saimotly  
#84 Đã gửi : 27/08/2007 lúc 03:02:04(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

C. THỬ NGHIỆM HIV-2

Một số huyết thanh HIV-2 dương tính sẽ cho kết quả âm tính hoặc không xác định đượcnếu sử dụng những thử nghiệm dành cho việc phát hiện những kháng thể HIV-1. Thử nghiệm ELISA HIV-1 có thể mang lại những kết quả mật độ quang học âm tính rất cao; kết quả của Western blot HIV-1 có thể là không xác định đượcvà đôi khi lại âm tính. Vì vậy cần thiết phải phát triển những thử nghiệm đặc hiệu để phát hiện nhiễm HIV-2.

Năm 1990, cơ quan FDA đã cấp giấy phép cho một thử nghiệm ELISA HIV-2. Những thử nghiệm này sàng lọc phát hiện kháng thể HIV-2 cũng tương tự như những thử nghiệm dùng cho HIV-1, chỉ khác nhau về những kháng nguyên đượcsử dụng. Mặc dù HIV-1 và HIV-2 có cùng chung nhiều kháng nguyên, mỗi chủng lại có những kháng nguyên đặc hiệu riêng và cần phải phát hiện kháng nguyên đặc hiệu đó để xác định đượctýp virut đặc hiệu. Nhiều tổ chức kể cả cơ quan FDA mới đây đã đưa ra những thử nghiệm HIV-2 vào những thuật toán xét nghiệm. Đặc biệt những huyết thanh nào luôn dương tính với ELISA HIV-1 hoặc với những thử nghiệm kết hợp sàng lọc HIV-1/ HIV-2 mà lại không xác định đượcdương hay âm tính với những thử nghiệm khẳng định HIV-1, thì nên cần phải xét nghiệm lại với một ELISA đặc hiệu với HIV-2. Bởi vì trọng lượng phân tử của các kháng nguyên là khác nhau, những thử nghiệm khẳng định HIV-2, như là RIPA và Western blot, có thể phân biệt đượcnhiễm HIV-1 hoặc HIV-2. Thử nghiệm RIPA đượcnhiều tác giả coi là phương pháp đáng tin cậy nhất để khẳng định HIV-2, mặc dù đó là một trong những thử nghiệm công phu nhất. Nhưng thử nghiệm FIA sử dụng những peptit tổng hợp hoá học tương ứng với những vùng chỉ gây miễn dịch có trong những glycoprotein của màng HIV-1 và HIV-2 mới đây đã tỏ ra phù hợp với Western blot và RIPA để xác định và phân biệt những kháng thể HIV-1 và HIV-2. Hơn nữa những thử nghiệm đó lại có giá trị để phân biệt những mẫu huyết thanh dương tính cả với hai týp vi rút (phản ứng dương tính kép). Năm 1992, đã có một thử nghiệm IFA đượcđưa ra thị trườngđể xác định những kháng thể đặc hiệu HIV-2 (Cambridge Biotech).

Nhiều nhà sản xuất cũng đưa ra những Western blot HIV-2, mặc dù những chủng đượcdùng là khác nhau và tạo nên những vệt biểu lộ những trọng lượng phân tử khác nhau. Giống như những thử nghiệm Western blot HIV-1, Western blot HIV-2 sử dụng những thành phần của HIV-2 đã đượcbất hoạt và tinh chế phát triển đượctrong những dòng tế bào T của người, như là những tế bào HVT-78. Những thử nghiệm này đều tương tự về mặt nguyên lý và kỹ thuật với những thử nghiệm HIV-1. Mặc dù những thử nghiệm Western blot HIV-2 đã đượcđưa ra ngoài thị trườnghơn 4 năm nay nhưng chưa có một thử nghiệm nào trong số đó đã đượccơ quan FDA cấp giấy phép.

D. NHỮNG THỬ NGHIỆM KẾT HỢP HIV-1/ HIV-2

Việc dùng những thử nghiệm kết hợp để phát hiện những kháng thể HIV-1 và HIV-2 cùng một lúc và để phân biệt hai chủng vi rút đó ngày càng đượcphổ biến ở nhiều vùng trên thế giới. Vì tỷ lệ nhiễm HIV-2 gia tăng trên toàn cầu, nhu cầu đòi hỏi những thử nghiệm kết hợp đang trở nên rõ rệt hơn.

Những thử nghiệm kết hợp đã đượcdùng và thu đượcnhiều kết quả tốt, chúng đã phát hiện đượcnhững huyết thanh dương tính với HIV-2 mà bằng những thử nghiệm sàng lọc HIV-1 không phát hiện được. Độ nhạy không bị giảm khi phát hiện kháng thể của cả hai chủng vi rút và trong một số trườnghợp lại có độ nhạy tăng lên. Ít nhất đã có 20 công ty thương mại đã đưa ra thị trườngnhững thử nghiệm kết hợp HIV-1/ 2. Cũng như các thử nghiệm HIV-1 và thử nghiệm HIV-2, đã có nhiều dạng thử nghiệm kết hợp, bao gồm những hạt nhỏ, những lỗ giếng vi lượng và chấm thấm. Có những điểm giống nhau và khác nhau giữa những thử nghiệm kết hợp: Đa số dùng những kháng nguyên tái tổ hợp và/ hay là peptit tổng hợp nhằm đạt đượcđộ đặc hiệu cao; một số kết hợp hai peptit tổng hợp và một số khác lại dùng tới 4; một số dùng cả hai loại peptit tái tổ hợp và peptit tổng hợp cùng một lúc, hay là những lysat virút và những peptit tổng hợp cùng một lúc.

1. Những thử nghiệm sàng lọc kết hợp

Cuối năm 1991, cơ quan FDA đã cấp giấy phép cho một thử nghiệm đầu tiên trong số hai thử nghiệm kết hợp HIV-1/ HIV-2 để đáp ứng số lượng gia tăng những trườnghợp HIV-2 phát hiện ở nước Mỹ. Sau đó cơ quan FDA đã khuyến cáo ngân hàng máu tiến hành sàng lọc máu phát hiện nhiễm HIV-2. Vì vậy có thể xét nghiệm máu hoặc là bằng thử nghiệm sàng lọc ELISA HIV-2 đã đượccấp giấy phép trước đó và ELISA HIV-1, hoặc là một trong hai thử nghiệm kết hợp ELISA HIV-1/2 (Genetic Systems hay Abbott). Những mẫu huyết thanh nào dương tính với thử nghiệm kết hợp sẽ đượcxét nghiệm lại bằng Western blot HIV-1. Nếu kết quả âm tính hoặc không xác định đượcbằng thử nghiệm đó, người ta sẽ tiến hành làm thử nghiệm đặc hiệu với HIV-2 để khẳng định kết quả dương tính, bởi vì tới nay chưa có thử nghiệm Western blot HIV-2 hoặc một loại thử nghiệm khẳng định khác đượccấp giấy phép.

Đa số những thử nghiệm sàng lọc kết hợp thế hệ thứ hai áp dụng phương pháp ELISA gián tiếp và không xác định đượcloại kháng thể đặc hiêụ đối với chủng vi rút nào. Trong vòng hai năm gần đây những thử nghiệm kết hợp thế hệ ba đã đượcphát triển dưới hình thức vi lượng và dưới hình thức các hạt nhỏ. Những thử nghiệm này dùng các kháng nguyên tái tổ hợp và/ hay là peptit tổng hợp để tóm bắt các kháng thể HIV-1 hay HIV-2, tương tự như những kháng nguyên HIV-1 và HIV-2 đã đượcđánh dấu về sau này đượcdùng để gắn vào các kháng thể. Những thử nghiệm kháng nguyên xăngđuých do có ưu điểm là có khả năng phát hiện đượccả những kháng thể IgM và IgG cùng một lúc và vì thế làm tăng độ nhạy.Tuy nhiên một mẫu huyết thanh phản ứng với những kháng thể IgM không thể khẳng định đượcbằng Western blot, vì Western blot chỉ dùng một cộng hợp kháng IgG thôi. Những thử nghiệm chấm thấm kết hợp cũng đã có và một số thử nghiệm đó tách riêng những chấm có mang những kháng nguyên của từng chủng virút. Với những thử nghiệm đó, người ta có thể phân biệt đượcnhiễm HIV-1 với nhiễm HIV-2 bằng một thử nghiệm nhanh. Có nhiều thử nghiệm hiện nay đang đượcđánh giá, có thể phát hiện đượccùng một lúc nhiễm HIV và nhiễm viêm gan B và có hai thử nghiệm ELISA kết hợp có thể phát hiện đượcnhững kháng thể HIV-1, HIV-2, HTLV-1 và HTLV-2 cùng một lúc (Detect - Plus, Bioelisa).

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline saimotly  
#85 Đã gửi : 28/08/2007 lúc 03:13:17(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

2. Những thử nghiệm khẳng định kết hợp

Nhiều thử nghiệm Western blot cải biên, phát triển từ năm 1991, có thể xác định đượcvà phân biệt đượcnhiễm do HIV-1 và HIV-2. Đa số những thử nghiệm này dùng những kháng nguyên lysat virut của HIV-1, và những kháng nguyên peptit tổng hợp của HIV-2. Những kháng nguyên này đượctẩm vào cùng một giải nitrocellulose. Trong trườnghợp đó, nhiều kháng nguyên HIV-1 và một số kháng nguyên đặc hiệu của HIV-2 (gp36 hay gp41) đượctẩm vào giải nitrocellulose; phát hiện đượcnhững kháng thể HIV-2 đượccoi là chẩn đoán quyết định. Những thử nghiệm Western blot đó thường cũng có một dải băng đối chứng để cho biết thực nghiệm đó đượcthực hiện đúng hay không và là một cách để so sánh cường độ của phản ứng. Các công ty đã đưa ra thị trườngnhững thử nghiệm đó đã quy định những tiêu chuẩn chẩn đoán dương tính trong các tờ hướng dẫn sử dụng có trong các bộ sinh phẩm. Những tiêu chuẩn của công ty Diagnostic Biotechnology bao gồm những phản ứng với một gien thuộc một trong ba nhóm chính (gag, pol, và env) để chẩn đoán HIV-1 dương tính. Đượccoi là dương tính với HIV-2 khi có những phản ứng với kháng nguyên đặc hiệu HIV-2 cộng với một phản ứng với những kháng nguyên đặc hiệu HIV- 1 (nhưng những kháng nguyên này không đáp ứng những tiêu chuẩn chẩn đoán HIV-1 dương tính).

Những thử nghiệm LIA kết hợp có tẩm những kháng nguyên HIV-1 và HIV-2 trên một dải băng cũng đượcphát triển gần đây. Thử nghiệm INNO-LIA (Innogenetics) dùng ba loại protein HIV-1 tái tổ hợp (gp24, gp17 và gp31) và hai kháng nguyên peptit tổng hợp, một tương ứng với kháng nguyên vỏ của HIV-1 (gp41) và một đáp ứng với kháng nguyên vỏ của HIV-2 (gp36), vì vậy thử nghiệm INNO-LIA có thể phân biệt đượcnhiễm HIV-1 và nhiễm HIV-2.

Năm 1990, những phòng xét nghiệm Abbott lại đưa ra một thử nghiệm khẳng định kết hợp khác. Thử nghiệm "MATRIX" là một bộ sinh phẩm bán tự động áp dụng nguyên lý của thử nghiệm chấm thấm và dùng những protein tái tổ hợp có độ tinh chế cao trên một giá đỡ cứng bằng nitrocellulose để tóm bắt những kháng thể đặc hiệu HIV trong mẫu huyết thanh. Bộ sinh phẩm này dùng một buồng thử nghiệm trong đó có tẩm những kháng nguyên HIV-1 và HIV-2 thành những chấm riêng rẽ trên một màng nitrocellulose. Những kháng thể bị tóm bắt đượcphát hiện bằng một hệ thống chỉ thị có chất enzym và đượcđọc bằng những dụng cụ quang học có trong bộ sinh phẩm. Vì vậy những kháng thể đượcbộc lộ ra giống như trong thử nghiệm Western blot. Thử nghiệm này có thể tiến hành đượcvới một số lượng lớn mẫu huyết thanh trong một thời gian tương đối ngắn, với một thời gian thao tác tối thiểu. Bộ sinh phẩm này đưa ra những tiêu chuẩn của CDC/ ASTPHLD để chẩn đoán HIV-1 dương tính và những phản ứng với gp36 của HIV-2 cộng với phản ứng với một trong những protein p17, p24, p31, p66 của HIV-1 để chẩn đoán HIV-2 dương tính. Nếu trong trườnghợp có cả tiêu chuẩn của HIV-1 và HIV-2 thì nhiễm vi rút đặc hiệu đượcxác định bằng cách so sánh những tỷ lệ của phản ứng của những kháng nguyên màng của HIV-2. Công ty Abbott đang định đưa ra thử nghiệm "Prism" ra giới thiệu trong một tương lai gần. Thử nghiệm dùng một bộ sinh phẩm hoá học phát quang để làm tăng độ nhạy của việc phát hiện kháng thể, nhưng hiện nay còn ít thông tin về phương pháp này.

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline saimotly  
#86 Đã gửi : 28/08/2007 lúc 03:13:44(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

E. CÁC THỬ NGHIỆM NƯỚC BỌT VÀ NƯỚC TIỂU

Trong vòng ba năm gần đây người ta đã sản xuất ra những sinh phẩm nhằm phát hiện kháng thể HIV trong các dịch của cơ thể. Nước bọt, dịch tiết ở miệng (nước dãi) và nước tiểu là những dịch thể đượcdùng để xét nghiệm HIV vì chúng dễ thu thập mà không cần có một quy trình đặc biệt nào cả. Các thử nghiệm dịch thể khác ngoài máu có thể có giá trị ở những nước mà người ta thường sử dụng lại các kim tiêm để lấy máu. Việc sử dụng các thử nghiệm này sẽ làm giảm nguy cơ lây truyền các bệnh nhiễm trùng theo đường máu. Hơn nữa việc thu thập mẫu xét nghiệm nước bọt và nước tiểu sẽ ít tốn kém hơn thu thập máu vì không đòi hỏi các dụng cụ như khi lấy máu.

Một điều rõ ràng rằng các kháng thể kháng HIV có mặt trong các dịch thể của cơ thể mà các thử nghiệm sàng lọc và khẳng định có thể phát hiện được.

1. Thử nghiệm nước bọt

Mặc dù các thử nghiệm xét nghiệm các loại dịch thể này có thể không tốn kém, nhưng phương pháp xét nghiệm có thể rất khác nhau tuỳ thuộc vào phương pháp thu thập mẫu nước bọt để xét nghiệm. Bởi vì loại kháng thể trong nước bọt là loại IgA, cộng hợp phải gắn kháng thể kháng IgA người. Tổng hợp kháng thể trong đường tiêu hoá thường không phụ thuộc vào đáp ứng miễn dịch hệ thống, do đó có thể có các hiệu giá kháng thể khác nhau và các loại kháng thể khác nhau trong nước bọt so với trong huyết thanh. Kháng thể loại IgG đối với kháng nguyên vi rút có thể phát hiện đượctrong nước bọt toàn bộ, kháng thể loại này đượctổng hợp tại chỗ và đượctiết ra từ các vết loét hay từ các tổ chức lợi xung quanh răng. Kháng thể đối với cả kháng nguyên vỏ và lõi của HIV cũng đã đượcphát hiện trong nước bọt toàn phần và nước bọt tuyến mang tai ở người nhiễm HIV. Gần đây, người ta quan tâm đến việc phát hiện kháng thể IgA kháng HIV trong nước bọt trẻ sơ sinh. Mặc dù chưa có bằng chứng khẳng định, người ta tin rằng sự có mặt kháng thể IgA trong nước bọt có thể chứng tỏ rằng đứa trẻ đó đã thực sự bị nhiễm HIV. Điều này là rất quan trọng vì khó có thể xác định đượckháng thể kháng HIV có trong máu trẻ sơ sinh có phải là từ mẹ truyền sang hay không (kháng thể của mẹ).

Việc dùng các dịch ở miệng, như nước bọt, để phát hiện các kháng thể HIV đã đượcđề nghị thay cho việc lấy máu. Mặc dù có nhiều nghiên cứu đã cho biết việc dùng các thử nghiệm phát hiện các kháng thể kháng HIV trong các dịch ở miệng có thể thích hợp trong một số hoàn cảnh, vẫn còn một số vấn đề cần phải xem xét.

TCYTTG khuyến nghị tiến hành một cuộc đánh giá đầy đủ những phương pháp phát hiện kháng thể HIV trong các dịch ở miệng trước khi đưa ra khuyến nghị dùng các dịch ở miệng để xét nghiệm HIV. Cuộc đánh giá này có mục đích thu thập những thông tin về mức độ chính xác và quan hệ giá thành/ hiệu quả của việc phát hiện kháng thể HIV ở dịch miệng. Những đạo lý về y đức cũng phải đượctôn trọng trong việc thử nghiệm ở các dịch ở miệng cũng như là trườnghợp dùng máu: không bắt buộc, thoả thuận thông suốt, tư vấn động viên và giữ bí mật. Dịch ở miệng là một hỗn hợp nước bọt và các dịch thấm niêm mạc miệng. Nước bọt là do các hạch nước bọt tiết ra có nhiều IgA, còn các dịch thấm niêm mạc miệng là chủ yếu do các dịch tiết ở lợi nguồn gốc là huyết tương lưu chuyển đến các cổ răng và thành phần chính là IgG trong các dịch thấm niêm mạc miệng thấp hơn nhiều so với trong huyết thanh. Lấy dịch tiết của miệng có thể bằng hai cách: lấy trực tiếp bằng cách bảo bệnh nhân nhổ vào một lọ đựng và bằng cách hấp thụ vào một mảnh gạc dùng riêng cho việc này.

Những vấn đề đặc biệt cần phải nghiên cứu trong việc phát hiện các kháng thể HIV trong dịch ở miệng là như sau:

 

(1) Phương pháp nào để lấy các dịch ở miệng là đáng tin cậy và thích hợp nhất?

(2) Các thử nghiệm phát hiện kháng thể HIV nào là có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất dùng cho các dịch ở miệng, lấy bằng những cách khác nhau?

(3) Khi bệnh phẩm là những dịch ở miệng, chiến lược xét nghiệm nào là thích hợp nhất cho thử nghiệm sàng lọc và thử nghiệm khẳng định?

(4) Những mục tiêu nào đượcáp dụng để tiến hành xét nghiệm dịch ở miệng, truyền máu an toàn, giám sát dịch tễ học, chẩn đoán, nghiên cứu?

(5) Những trườnghợp bắt buộc nào ngược với y đức có thể là trở ngại cho việc thử nghiệm các dịch ở miệng?

(6) Những bệnh ở miệng và/hay việc ăn uống có ảnh hưởng gì tới độ chính xác của kết quả thử nghiệm?

2. Thử nghiệm nước tiểu

Về thử nghiệm nước tiểu, ban đầu khi mới áp dụng nó đòi hỏi xử dụng mẫu bệnh phẩm cô đặc hay sử dụng thử nghiệm tóm bắt kháng nguyên đặc hiệu để đạt đượcđộ nhạy tương đối. Năm 1991, các thử nghiệm ELISA và Western blot sử dụng một khối lượng bệnh phẩm nước tiểu lớn hơn để phát hiện kháng thể HIV với độ nhạy và độ đặc hiệu cao đã đượcbáo cáo.

Nhiều hãng sinh phẩm đang cố gắng phát triển những thử nghiệm loại này và có thể không lâu nữa nó sẽ đượcáp dụng phổ biến trong các phòng xét nghiệm HIV.

Hãng Calypte Biomedicel đã đưa ra thị trườngmột loại sinh phẩm đặc biệt để phát hiện kháng thể kháng HIV trong nước tiểu. Các thử nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV trong nước bọt và nước tiểu đang mang lại kết quả đáng khích lệ.

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline saimotly  
#87 Đã gửi : 29/08/2007 lúc 02:58:33(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

F. Ý NGHĨA LÂM SÀNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG XÉT NGHIỆM KHÁNG THỂ HIV

Xét nghiệm kháng thể HIV thường đượcsử dụng để sàng lọc người cho máu và chẩn đoán nhiễm HIV. Vì các thử nghiệm ngưng kết tại SERODIA và ELISA nhạy, đặc hiệu, nhanh và không tốn kém nên chúng đượcchọn là thử nghiệm sàng lọc. Những mẫu huyết thanh dương tính lần hai phải đượckhẳng định bằng thử nghiệm bổ sung như Western blot và IFA. Thử nghiệm bổ sung dương tính không có nghĩa là chẩn đoán AIDS hay phức hợp cận AIDS mà chỉ cho biết rằng có tiếp xúc trong quá khứ với HIV. Tuy nhiên, những người nhiễm HIV có khả năng làm lây truyền HIV. Khoảng 65% những người có thử nghiệm bổ sung dương tính sẽ phát triển thành AIDS sau 10-12 năm. Những người có huyết thanh dương tính với HIV phải đượctư vấn phòng lây truyền HIV, ví dụ tình dục an toàn, không cho máu hay cho cơ quan, tinh dịch, cân nhắc việc mang thai và tránh dùng bơm kim tiêm.

Những người cho máu dương tính lần hai với ELISA nhưng âm tính với thử nghiệm bổ sung thì chắc chắn không nhiễm HIV. Tuy nhiên để an toàn không nên sử dụng máu của người này vào việc truyền máu trừ khi sau đó xét nghiệm lại người này hai lần cách nhau ít nhất 6 tháng có kết quả âm tính với cả ELISA và Western blot. Ngoài ra mỗi huyết thanh phải âm tính ít nhất với hai loại sinh phẩm khác nhau về dòng tế bào sử dụng và về nguồn kháng nguyên vi rút. Do khả năng mà những người có Western blot âm tính/ELISA dương tính ở nhóm có nguy cơ thấp bị nhiễm HIV rất ít khi xẩy ra, nên những người này thường không đượcthông báo là "dương tính giả" vì nó có thể gây lo lắng hoang mang. Mặt khác một số ngân hàng máu lại thông báo cho những người cho máu thường xuyên vì họ thấy rằng thật là không hợp đạo lý nếu tiếp tục lấy máu của những người đó nhưng sau đó lại bỏ đi. Tuy nhiên, nếu một người có Western blot âm tính/ELISA dương tính thuộc nhóm có nguy cơ cao hay có triệu chứng thì người đó phải đượcxét nghiệm lại sau 2-3 tháng để có thể phát hiện đượckháng thể, kháng nguyên HIV qua nuôi cấy hay men phiên mã ngược.

Những người có huyết thanh dương tính lần hai với ELISA và không xác định với thử nghiệm bổ sung phải đượcxét nghiệm lại sau 2-3 tháng. Nhìn chung những người này đượcthông báo về kết quả không xác định của họ, có thể là họ ở giai đoạn đầu nhiễm HIV, đặc biệt đối với những người có nguy cơ cao.

Vấn đề là ai cần phải đượcxét nghiệm còn đang đượcbàn cãi. Ở Mỹ, xét nghiệm phát hiện kháng thể HIV bắt buộc gần đây đượcáp dụng cho người cho máu, tù nhân, lính nhập ngũ, nhân viên ở các cơ quan nước ngoài. Dưới đây là một số đề nghị của cơ quan y tế công cộng Mỹ về việc ai phải xét nghiệm và tư vấn về HIV.

1.     Những người có bệnh lây truyền theo đường sinh dục. Tất cả những người đến điều trị bệnh đường sinh dục ở các cơ sở y tế bao gồm ở cả các thầy thuốc tư phải đượctư vấn và xét nghiệm HIV thường xuyên.

2.     Người nghiện chích ma tuý tĩnh mạch: tất cả những người đến điều trị nghiện chích ma tuý hay có tiền sử nghiện chích ma tuý phải đượctư vấn và xét nghiệm HIV thường xuyên. Nhân viên y tế ở các cơ sở y tế bao gồm bệnh viện dành cho tù nhân phải cố gắng khai thác tiền sử nghiện chích ma tuý của các bệnh nhân. Những người lãnh đạo y tế địa phương và quốc gia phải nhấn mạnh những vấn đề sau:

-         Những chương trình điều trị cho những người nghiện chích ma tuý phải đượcphổ biến để đáp ứng nhu cầu của mọi người và động viên họ thay đổi hành vi, đặt họ và những người khác vào nguy cơ nhiễm HIV.

-         Chương trình giáo dục mở rộng cho người nghiện chích ma tuý phải đượcthực hiện nhằm nâng cao hiểu biết của họ về AIDS và các biện pháp phòng nhiễm HIV, động viên họ đến tư vấn, xét nghiệm HIV và thuyết phục họ đến điều trị nghiện chích ma tuý.

3.     Những người nhận thấy bản thân họ có nguy cơ nhiễm HIV phải đượctư vấn và xét nghiệm HIV.

4.     Những phụ nữ ở tuổi mang thai có nguy cơ nhiễm HIV phải đượctư vấn và xét nghiệm HIV thường xuyên. Những phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV nếu họ:

-         Tiêm chích ma tuý

-          Hành nghề mại dâm

-         Có những bạn tình nhiễm HIV hay có nguy cơ nhiễm HIV như tình dục lưỡng giới, nghiện chích ma tuý tĩnh mạch hay bệnh nhân ưa chảy máu

-         Sống ở những nơi có tỷ lệ nhiễm HIV ở phụ nữ cao.

-         Nhận máu truyền không đượcxét nghiệm HIV

-         Giáo dục và xét nghiệm những phụ nữ này trước khi họ có thai giúp họ tránh có thai và tránh lây truyền HIV từ mẹ sang con trong thời kỳ chu sinh (khoảng 30 con của những người mẹ nhiễm HIV sẽ bị lây nhiễm HIV). Việc xác định phụ nữ có thai nhiễm HIV càng sớm càng tốt là rất quan trọng để đảo bảo chăm sóc sức khoẻ cho các phụ nữ này, vạch kế hoạch chăm sóc con của họ, tư vấn về thực hiện kế hoạch hoá gia đình, về những lần có thai sau và nguy cơ lây truyền HIV theo đường tình dục cho người khác.

-         Tất cả phụ nữ đến các cơ sở kế hoạch hoá gia đình và những người có nguy cơ nhiễm HIV phải đượctư vấn và xét nghiệm HIV thường xuyên. Việc quyết định sự cần thiết phải tư vấn và xét nghiệm trong một cộng đồng phụ thuộc vào sự ước lượng tỷ lệ nhiễm HIV và phân bổ nhiễm HIV trong cộng đồng đó.

5.     Những người sắp kết hôn, những người sắp kết hôn phải đượccung cấp thông tin về AIDS, nhiễm HIV và về các cơ sở tư vấn và xét nghiệm HIV. Quyết định về việc xét nghiệm HIV bắt buộc hay không bắt buộc đối với những người trước khi kết hôn phụ thuộc vào tỷ lệ nhiễm HIV trong dân chúng ở khu vực đó và các yếu tố khác và dựa trên hiệu quả - giá thành của việc xét nghiệm phòng lan truyền nhiễm HIV. Xét nghiệm HIV trước khi kết hôn ở vùng có tỷ lệ nhiễm HIV dưới 0,1 có thể là cần thiết nếu việc phát hiện một người nhiễm HIV qua xét nghiệm có thể phòng lan truyền cho vợ/chồng hay phòng có thai ở những phụ nữ nhiễm HIV.

6.     Những người đến khám và chữa bệnh. Xét nghiệm kháng thể kháng HIV là một việc làm có ích để chẩn đoán những bệnh nhân có các dấu hiệu và triệu chứng như viêm hạch toàn thể, mất trí mà không lý giải được, sốt kéo dài, ỉa chảy kéo dài hay sút cân không rõ nguyên nhân, lao và các bệnh lây truyền theo đường sinh dục, herpes lan toả và nấm candida mãn tính.

-         Vì những người nhiễm đồng thời HIV và vi khuẩn lao có nguy cơ bị bệnh lao nặng nên tất cả những bệnh nhân lao phải đượctư vấn và xét nghiệm HIV thường xuyên.

-         Nguy cơ nhiễm HIV qua truyền máu hay sản phẩm của máu trong giai đoạn từ 1978 - 1985 là lớn nhất đối với những người nhận nhiều máu truyền từ các vùng có tỷ lệ AIDS cao. Những người này phải đượctư vấn về nguy cơ nhiễm HIV và phải đượcxét nghiệm.

7.     7. Những bệnh nhân nằm viện: các bệnh viện phối hợp với cơ quan y tế địa phương và quốc gia phải xác định đượctỷ lệ nhiễm HIV ở từng thời kỳ trên các nhóm người có nguy cơ cao. Những vùng có tỷ lệ nhiễm HIV cao phải tiến hành xét nghiệm thường xuyên.

8.     Những người trong các nhà tù trại giam. Những nhà tù và trại giam phải nghiên cứu cách tốt nhất để thực hiện chương trình tư vấn tù nhân về nhiễm HIV và xét nghiệm tất cả tù nhân lúc vào và lúc ra. Đặc biệt là họ phải xác định đượclợi ích của chương trình trong việc phòng lan truyền HIV và ảnh hưởng của chương trình xét nghiệm đối với tù nhân trại giam.

9.     Những người hành nghề mại dâm. Những người hành nghề mại dâm nam và nữ phải được tư vấn xét nghiệm và phải nhận thức được nguy cơ nhiễm HIV cho bản thân họ và cho những người khác. Đặc biệt những người hành nghề mại dâm có huyết thanh dương tính phải không được tiếp tục hành nghề.

Một điều cần nhấn mạnh là báo cáo kết quả xét nghiệm HIV phải đượcthực hiện theo pháp luật của địa phương và phải giữ bí mật hoàn toàn kết quả xét nghiệm. Những người có huyết thanh dương tính phải đượctư vấn và chăm sóc về y tế.

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline jimmy87  
#88 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 02:46:04(UTC)
jimmy87

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 25-08-2007(UTC)
Bài viết: 8

Trích dẫn bài viết của toidangratsobihiv đã viết:
Anh sai một ly ơi !
Hay là anh cược với em đi . Nếu có H thì em lại có Lamzidivir dùng . Còn không có H thì đó là chút quà mọn tặng anh vì anh đã giúp em rất nhiểu trong thời gian vừa qua.
hì ok chứ
Offline ke_vo_vong  
#89 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 08:35:22(UTC)
ke_vo_vong

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 29-07-2007(UTC)
Bài viết: 27

SayMotLy này, tôi không muốn chen ngang vào chủ đề trên, nhưng BHTS khóa Topic của tôi mất rồi. Tôi vẫn tin tưởng vào kết quả XN sau 6 tuần. Tôi chỉ chưa thỏa mãn khi có sự mâu thuẫn trong bài viết của anh nên muốn được trao đổi để biết thêm chứ không có ý gì khác.

Mà BHTS khóa bài mà không có lý do gì là sao nhỉ? Tôi muốn giữ nguyên chủ đề này cho tới khi tôi đi XN sau 3 tháng có được không?
Tôi đi không nhanh nhưng không thụt lùi
Chào các bạn, câu này nghe quen quen...
Offline HuHuEmChetMat  
#90 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 08:43:47(UTC)
HuHuEmChetMat

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 26-02-2007(UTC)
Bài viết: 314

Được cảm ơn: 3 lần trong 2 bài viết

Tôi cũng xin nhảy vào 1 chút. Bác sai1ly có đưa ra những thông tin rất hay về các phương pháp, nhưng bác có thể cho biết các trung tâm xn ở HN này sử dụng phương pháp nào trong những phương pháp ở trên không?

Offline saimotly  
#91 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 08:53:25(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

Trích dẫn bài viết của ke_vo_vong đã viết:
SayMotLy này, tôi không muốn chen ngang vào chủ đề trên, nhưng BHTS khóa Topic của tôi mất rồi. Tôi vẫn tin tưởng vào kết quả XN sau 6 tuần. Tôi chỉ chưa thỏa mãn khi có sự mâu thuẫn trong bài viết của anh nên muốn được trao đổi để biết thêm chứ không có ý gì khác.

Mà BHTS khóa bài mà không có lý do gì là sao nhỉ? Tôi muốn giữ nguyên chủ đề này cho tới khi tôi đi XN sau 3 tháng có được không?

 Hi! Kẻ vô vọng! Chen ngang trong mục này là điều mà tôi không mong muốn! nhưng đã lỡ rồi thì cho lỡ luôn vậy!

Hành dộng khóa chủ đề của BHTS là câu trả lời tốt nhất cho bạn rồi còn gì? Ngoài ra có lẽ BHTS không muốn có những cuộc tranh cãi không cần thiết khác!

Trong Topic của bạn tôi đã nói rất rõ và rất thỏa đáng rồi, chỉ tại bạn không đọc kỹ (hoặc không hiểu được – xin lỗi) các tài liệu rất uy tin của các tổ chức Y tế Hoa kỳ mà tôi đã dề cập mà thôi!

Trong ngày hôm nay có một topic mới của chú em Vết Đen Cuộc Đời tại http://forum.hiv.com.vn/ShowPost.aspx?PostID=47225 có lẽ sẽ giúp ích nhiều cho bạn và củng cố lại những gì tôi đã nói!

Về xét nghiệm tiếp tục sau 3 tháng? Bạn cứ tiếp tục đổ thời gian,tiền bạc và cả sự lo lắng vào đó, nhưng kết quả sẽ không có gì thay đổi nữa cả!

Vấn đề của bạn tạm thời kết thúc tại đây nhé! Hãy kiểm nghiệm những điều mà tôi đã tâm sự với bạn sau 6 tuần nữa; vả tôi sẽ rất vui nếu lúc đó bạn có ý định mời tôi một cốc cà phê.

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline ke_vo_vong  
#92 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 09:45:52(UTC)
ke_vo_vong

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 29-07-2007(UTC)
Bài viết: 27

Cảm ơn SayMotLy vì đã trả lời tôi. Tôi đã đọc những đường link của SayMotLy gửi cho tôi, nhưng không phải là đọc tất cả. Cũng không phải là vì tôi lắm lời nhưng không phải tự nhiên mà bọn Châu Âu hay Mỹ nó nói là kết luận chắc chắn khi đủ 13 tuần.
Tuy nhiên tôi vẫn tin tưởng vào ý kiến của các chuyên gia đã viết và nhận định về độ tin cậy khi H- ở giai đoạn 6 tuần.
Nếu SayMotLy ở Hà Nội thì ngồi uống cà fe quá đơn giản. Chỉ sợ lại là người quen thì chít
Nick IM của SayMotLy là gì nhỉ?
Tôi đi không nhanh nhưng không thụt lùi
Chào các bạn, câu này nghe quen quen...
Offline vetdentrongcuocdoi  
#93 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 09:50:05(UTC)
vetdentrongcuocdoi

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 07-08-2007(UTC)
Bài viết: 274

Trích dẫn bài viết của ke_vo_vong đã viết:
Cảm ơn SayMotLy vì đã trả lời tôi. Tôi đã đọc những đường link của SayMotLy gửi cho tôi, nhưng không phải là đọc tất cả. Cũng không phải là vì tôi lắm lời nhưng không phải tự nhiên mà bọn Châu Âu hay Mỹ nó nói là kết luận chắc chắn khi đủ 13 tuần.
Tuy nhiên tôi vẫn tin tưởng vào ý kiến của các chuyên gia đã viết và nhận định về độ tin cậy khi H- ở giai đoạn 6 tuần.
Nếu SayMotLy ở Hà Nội thì ngồi uống cà fe quá đơn giản. Chỉ sợ lại là người quen thì chít
Nick IM của SayMotLy là gì nhỉ?

Anh giai ơi, anh có mời anh saymộtly đi uống cafr thì em đi với
Em cũng mang ơn anh say1ly lắm
Offline ke_vo_vong  
#94 Đã gửi : 30/08/2007 lúc 10:01:39(UTC)
ke_vo_vong

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 29-07-2007(UTC)
Bài viết: 27

Rượu tam chè tứ, thế thì chúng ta cùng đi nhỉ. Để xem SayMotLy thế nào, vì sợ dân xây dựng hay phải đi xây nhà trẻ phương xa lắm
Tôi đi không nhanh nhưng không thụt lùi
Chào các bạn, câu này nghe quen quen...
Offline vetdentrongcuocdoi  
#95 Đã gửi : 31/08/2007 lúc 12:21:36(UTC)
vetdentrongcuocdoi

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 07-08-2007(UTC)
Bài viết: 274

Bác ấy làm văn phòng, có lẽ làm thiết kế.
Mà bác kẻ vô vọng này, em cũng là dân xây dựng đấy
Offline saimotly  
#96 Đã gửi : 31/08/2007 lúc 12:52:56(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

Trích dẫn bài viết của HuHuEmChetMat đã viết:

Tôi cũng xin nhảy vào 1 chút. Bác sai1ly có đưa ra những thông tin rất hay về các phương pháp, nhưng bác có thể cho biết các trung tâm xn ở HN này sử dụng phương pháp nào trong những phương pháp ở trên không?

@HuHuEmChetMat!

Bác đã có lời "nhờ vả" là không post vào mục này rồi mà! không giúp được bác vấn đề này sao? em hơi bị "khó tính" đấy nhé! Ở HN và TPHCM phương pháp nào liệt kê ở trên cũng có hết nhưng hiện nay chủ yếu sử dụng sử dụng loại Kỹ thuật miễn dịch gắn men ELISA; Các loại xét nghiệm nhanh như Murex, Detemine .... (là các loại xét nghiệm sàng lọc – Vô cùng nhạy nhé – Âm tính với loại này là coi như không dính 11 loại bệnh được đề cập tại False positive nhé! - ) vì nó rẻ tiền, thực hiện đơn giản mà độ chính xác lại cao! Em hãy nghiên cứu và ngẫm nghĩ thêm lời của Huy_skidow

Trích dẫn bài viết của huy_skidrow đã viết:

Tôi đang định nói ra điều này từ bấy lâu nay.
Do đó chẳng ngạc nhiên gì khi cô tư vấn viên nói : Ai test mà HIV - thì niềm vui có the nhân gấp bội, vì ngoài HIV ho còn có thế không mang các bệnh khác. ......

 @ ke_vo_vong và vetdentrongcuocdoi

Ái chà! Từ trưa đến giờ không vào mạng  bắt được 2 anh em “sờ pam” “tô píc” của bác nhé; Bác chính thức đề nghị ngừng để bác post xong bài xét nghiệm này đã nhé! Hehee! Nếu 2 anh em muốn tiếp tục thì chúng ta sẽ mở một “tô píc” ở Box CÙNG CHIA SẺ TÂM SỰ nhé!

Nào! Tiếp tục vấn đề chính nào!

Trích dẫn bài viết của ke_vo_vong đã viết:
Nếu SayMotLy ở Hà Nội thì ngồi uống cà fe quá đơn giản. Chỉ sợ lại là người quen thì chít

Nick IM của SayMotLy là gì nhỉ?

Chít là chít thế nào được? quen càng vui “vì anh em ta cả” nhé! Ních YM của bác vẫn là Saymotli thôi! (bác nói nhiều trên diễn đàn rồi đấy nhé) và đương nhiên là bác ở Hà Nội rồi!

Trích dẫn bài viết của vetdentrongcuocdoi đã viết:

Anh giai ơi, anh có mời anh saymộtly đi uống cafr thì em đi với
Em cũng mang ơn anh say1ly lắm

Ơn huệ gì ở đây em, nếu có cứ quy ra cà phê cho bác là được, hehee! Quan điểm của bác là có tài liệu thì trao đổi để mọi người cùng hiểu biết (bác được đào tạo là tìm hiểu vấn đề bằng cách đọc tài liệu mà, em cũng vậy đấy)!

Trích dẫn bài viết của ke_vo_vong đã viết:
Rượu tam chè tứ, thế thì chúng ta cùng đi nhỉ. Để xem SayMotLy thế nào, vì sợ dân xây dựng hay phải đi xây nhà trẻ phương xa lắm

Riệu tam chè tứ! vậy là phải uống riệu rồi hả  ke_vo_vong? Cũng được đấy nhỉ! Xây nhà trẻ không phải là nghề của bác! hehee

Trích dẫn bài viết của vetdentrongcuocdoi đã viết:
Bác ấy làm văn phòng, có lẽ làm thiết kế.
Mà bác kẻ vô vọng này, em cũng là dân xây dựng đấy

Trật lất rồi em ạ! Đúng là bác làm văn phòng nhưng không phải làm thiết kế nhé! Nghề này quả thật là bác cũng đã từng làm nhưng bác thôi 5 năm nay rồi! Chia sẻ về nghề nghiệp sau nhé!

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline saimotly  
#97 Đã gửi : 31/08/2007 lúc 12:55:37(UTC)
SaiMotLy

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 15-03-2007(UTC)
Bài viết: 619
Đến từ: Ha Noi

Được cảm ơn: 30 lần trong 13 bài viết

TIẾP TỤC NÀO


III. PHÁT HIỆN KHÁNG NGUYÊN HIV

Từ năm 1986 trên thị trườngthế giới đã có bán các sinh phẩm phát hiện kháng nguyên HIV trong huyết thanh huyết tương, dịch não tuỷ bằng kỹ thuật ELISA. Nguyên lý của các thử nghiệm xét nghiệm kháng nguyên là ủ bệnh phẩm qua đêm với các hạt polystyren hay trên phiến nhựa có gắn kháng thể kháng HIV đơn dòng. Sau đó rửa và ủ với kháng thể thỏ hay dê kháng HIV và hình thành "bánh mỳ kẹp thịt" (sandwich). Sau đó rửa và thêm kháng thể thỏ hay dê cộng hợp men để làm tăng độ nhậy và độ đặc hiệu của thử nghiệm. Sau khi rửa lần cuối cùng, người ta cho thêm cơ chất vào. Nếu phức hợp kháng nguyên - kháng thể - men đượchình thành, phản ứng đổi màu sẽ đượcphát hiện qua tăng độ hấp thụ ở bước sóng đặc hiệu. Người ta tiến hành pha loãng kháng nguyên ở các nồng độ khác nhau để lập đường cong chuẩn định lượng kháng nguyên HIV tự do có trong bệnh phẩm. Giới hạn phát hiện đượccủa thử nghiệm này là từ 50-100 pg/àl.

Nếu bệnh phẩm có phản ứng dương tính lần thứ hai, thử nghiệm trung hoà kháng thể đặc hiệu sẽ đượctiến hành để khẳng định sự có mặt của kháng nguyên HIV. Nguyên lý của thử nghiệm này là ủ bệnh phẩm hay huyết thanh chứng với kháng thể kháng HIV trước khi tiến hành thử nghiệm phát hiện kháng nguyên ELISA. Nếu có kháng nguyên HIV trong bệnh phẩm, kháng thể trung hoà sẽ hình thành một phức hợp miễn dịch ngăn sự gắn kháng nguyên HIV với các hạt hay phiến nhựa có gắn kháng thể HIV. Kết quả là dẫn đến làm giảm sự hấp thu khi so sánh với mẫu thử âm tính. Một mẫu thử đượckhẳng định là dương tính có kháng nguyên HIV nếu có giảm hấp thụ ánh sáng ở mẫu bị trung hoà so với mẫu chứng không bị trung hoà lớn hơn hay bằng 50% và nếu độ hấp thụ ánh sáng của mẫu chứng không bị trung hòa lớn hơn hay bằng giá trị ngưỡng thu đượcqua tính toán.

Huyết thanh, huyết tương, dịch não tuỷ và nước nổi nuôi cấy tế bào là những mẫu thử thích hợp cho việc phát hiện kháng nguyên bằng kỹ thuật ELISA. Tuy nhiên, không nên xét nghiệm các mẫu có mỡ và bị tan huyết. Có thể bảo quản mẫu xét nghiệm ở nhiệt độ 2-8oC hay đông băng. Không nên làm đông tan bằng mẫu xét nghiệm nhiều lần.

Thử nghiệm này đòi hỏi ủ qua đêm và cần 24-30 giờ để tiến hành xét nghiệm. Nếu thử nghiệm này đượclàm nhắc lại, thì mẫu thử nghiệm đượclàm trung hoà để khẳng định chẩn đoán và khi đó thử nghiệm đòi hỏi thời gian là 3-4 giờ ngày. Giá thành sinh phẩm cho một xét nghiệm khẳng định kháng nguyên ít nhất là 20 đô la.

Trong khi kháng thể lúc đầu đượcdùng để tóm bắt kháng nguyên HIV là kháng thể đa dòng, thì kháng thể đặc hiệu đối với protein lõi p24/55 có áp lực lớn hơn gấp 10 lần so với kháng thể đối với protein vỏ gp120/41. Những sinh phẩm phát hiện kháng nguyên ELISA hiện nay chủ yếu là phát hiện kháng nguyên p24. Một điều quan trọng cần phải nhấn mạnh là những thử nghiệm này dùng để phát hiện kháng nguyên p24 tự do. ở những bệnh nhân có hiệu giá kháng thể p24 cao kháng nguyên p24 sẽ kết hợp với kháng thể và rất khó phát hiện ra nó: Một nghiên cứu chứng minh vấn đề này là 35(70%) trong số 50 bệnh nhân có bệnh Western blot dương tính không có kháng thể p24 đã phát hiện đượckháng nguyên HIV, ngược lại chỉ có 3(8%) trong số 38 bệnh nhân có kháng thể p24 phát hiện đượckháng nguyên HIV. Ngoài ra, những bệnh nhân lúc đầu có kháng nguyên dương sau đó thường trở thành âm tính khi họ có đáp ứng và phát triển kháng thể p24. Ngược lại ở giai đoạn cuối của nhiễm HIV khi tiến triển từ nhiễm trùng không triệu chứng thành AIDS thì kháng thể p24 giảm đi và lúc này kháng nguyên HIV lại dễ đượcphát hiện ở hầu hết bệnh nhân. Một điều chưa đượcbiết rõ là phản ứng kháng nguyên dương tính tăng lên là do sản xuất kháng nguyên HIV tăng lên khi bệnh tiến triển hay chỉ do giảm hiệu giá kháng thể hay do cả hai. Những nghiên cứu mới đây gợi ý cho thấy rằng sự tăng kháng nguyên HIV phản ánh sự tăng các gien virut và giảm kháng thể p24 là thứ phát.

Khả năng phát hiện trực tiếp sự có mặt của HIV trong huyết thanh hay dịch não tuỷ là một bước tiến bộ có ý nghĩa so với các xét nghiệm kháng thể về nhiều phương diện. Thứ nhất, phát hiện trực tiếp kháng nguyên HIV chỉ ra tình trạng nhiễm HIV chủ động. Thứ hai, phát hiện kháng nguyên HIV cho phép chẩn đoán nhiễm HIV trước khi có đáp ứng kháng thể. Thứ ba, phát hiện kháng nguyên HIV trong huyết thanh có ý nghĩa tiên lượng. Trong số những người đàn ông tình dục đồng giới kháng thể dương tính, nhiễm trùng không triệu chứng, kháng nguyên HIV dương tính, 23,9% tiến triển thành AIDS sau 2,1 tháng so với 1,3% những người đàn ông luyến ái đồng tính có kháng thể dương tính, nhiễm trùng không triệu chứng và kháng nguyên HIV âm tính.

Tuy nhiên, độ nhạy của thử nghiệm phát hiện kháng nguyên HIV thấp, nếu giả sử rằng hầu hết những người có kháng thể dương tính là nhiễm HIV. Độ nhạy của thử nghiệm tăng lên theo tiến triển về lâm sàng của bệnh, 4% dương tính ở người mang HIV không triệu chứng, 56% ở bệnh nhân có phức hợp liên quan với AIDS, và 70% bệnh nhân AIDS. Người ta cũng đã phát hiện đượckháng nguyên HIV trong dịch não tuỷ của 5 trong số 6 bệnh nhân viêm não và 5 trong số 5 trẻ em bị AIDS. Tuy nhiên không thể phát hiện đượckháng nguyên HIV trong dịch não tuỷ của 13 người có kháng thể HIV dương tính mà chưa có triệu chứng. Tính đặc hiệu của thử nghiệm này cao hơn so với độ nhạy. Khi xét nghiệm huyết thanh của người cho máu, 9 trong số 2,96( 0,43%) đã có phản ứng dương tính lần thứ hai nhưng không có mẫu nào có phản ứng trung hoà chứng tỏ đó là những mẫu dương tính giả.

Trong khi thử nghiệm ELISA phát hiện kháng nguyên không thích hợp cho việc xét nghiệm sàng lọc vì độ nhạy của nó thấp, nhưng nó có ích trong những tình huống lâm sàng sau:

1.      Những người có nguy cơ cao trước khi có đáp ứng kháng thể. Hiện người ta chưa biết có bao nhiêu phần trăm những người sẽ có kháng nguyên HIV trong huyết thanh trong khoảng thời gian từ khi tiếp xúc với HIV đến khi có đáp ứng kháng thể. Tuy nhiên, Người ta đã báo cáo có ít nhất 8 người có kháng nguyên dương tính 4-16 tuần trước khi xuất hiện kháng thể. Sự lưu hành kháng nguyên HIV trong máu là tạm thời trong giai đoạn nhiễm trùng cấp trước khi có kháng thể. Thử nghiệm này sẽ rất có ích nếu nó phát hiện kháng nguyên HIV ở những phụ nữ có, thai kháng thể âm tính ở nhóm nguy cơ cao nhiễm HIV.

2.      Xét nghiệm những người nhiễm HIV không triệu chứng với mục đích tiên lượng. Như đã trình bày ở trên, những người nhiễm HIV không triệu chứng có kháng nguyên dương tính trong huyết thanh có tỷ lệ tiến triển thành AIDS cao hơn gấp 18 lần sau 24 tháng. Những bệnh nhân này cũng đượclựa chọn tham gia các thử nghiệm lâm sàng, sử dụng những thuốc chống lại HIV như AZT.

3.      Những người nhiễm HIV đượcđiều trị thuốc kháng virút

4.      Nồng độ kháng nguyên HIV trung bình giảm có ý nghĩa theo thời gian ở những bệnh nhân đượcđiều trị bằng ATZ so sánh với nhóm chứng nhận placebo. Theo dõi nồng độ kháng nguyên HIV có thể có ích lợi trong việc xác định hiệu quả kháng vi rut của một loại thuốc điều trị.

Những trẻ em có kháng thể HIV dương tính. Kháng thể HIV có thể đượctruyền thụ động từ mẹ sang con trong tử cung mà không có truyền HIV. Thử nghiệm kháng nguyên HIV dương tính đối với huyết thanh của trẻ sơ sinh là rất có ích để khẳng định nhiễm HIV.

5.      Phân biệt với hội chứng suy giảm miễn dịch bẩm sinh ở trẻ có kháng thể HIV âm tính. Vì đáp ứng kháng thể có thể giảm hay mất đi ở trẻ em bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh, việc chẩn đoán có thể bỏ sót nếu chỉ làm xét nghiệm kháng thể HIV. Những trẻ em có kháng thể HIV âm tính mắc suy giảm miễn dịch phải đượckiểm tra phát hiện kháng nguyên HIV, đặc biệt nếu chúng nhận máu truyền mà không đượcxét nghiệm trước hoặc người mẹ có kháng thể HIV dương tính.

6.      Những người có kết quả không xác định với các thử nghiệm bổ sung. Hầu hết những người khoẻ mạnh ở nhóm nguy cơ thấp có kết quả không xác định với Western blot có thể là không bị nhiễm HIV. Những thử nghiệm kháng nguyên HIV âm tính có thể cung cấp sự khẳng định chắc chắn, đặc biệt nếu kết quả Western blot hay RIPA không có kháng thể p24/ 55.

Bạn đang lo lắng về HIV, Bạn đang hoang mang, đang mất tinh thần. Bạn cứ ĐT Tôi: .. Vui lòng không nhắn tin,chỉ chia sẻ điện thoại trực tiếp.
Offline HuHuEmChetMat  
#98 Đã gửi : 31/08/2007 lúc 06:44:05(UTC)
HuHuEmChetMat

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 26-02-2007(UTC)
Bài viết: 314

Được cảm ơn: 3 lần trong 2 bài viết
... Hay hay, vấn đề đã sáng tỏ. Thanks bác nhiều! À, lại nhảy thêm 1 câu mang tính chất cá nhân nữa. Thường thì ở 50C Hàng Bài người ta test có 15' là có kết quả. Tôi có để ý sau khi người ta lấy mẫu máu thì đưa nó vào 1 cái máy giống như lò viba khoảng 10' rồi đưa vào phòng trong 5' sau ra kết luận luôn. Vậy sau khi đưa vào phòng trong (chả biết họ làm gì trong đó), chỉ thử 1 cái là H+ ra H+ và H- ra H- luôn à? Có khi nào phải mất nhiều thời gian hơn nó mới phản ứng cho H+ ko? Câu hỏi hơi lủng củng nhưng hy vọng bác hiểu ý hỏi.
Offline huy_skidrow  
#99 Đã gửi : 31/08/2007 lúc 05:25:46(UTC)
huy_skidrow

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 10-01-2005(UTC)
Bài viết: 2.217

Cảm ơn: 21 lần
Được cảm ơn: 241 lần trong 124 bài viết
Câu hỏi khá ..ngớ ngẩn:

- Test HIV là test huyết thanh, không fải test máu toàn phần, cái lò "vi ba " ấy là máy quay ly tâm để tách thành fần đó ra, nó sẽ trong suốt....Sau đó nếu test nhanh thì họ nhỏ vài giọt đó vào thanh DET, nó sẽ chảy lên trên, thường nếu ai H+ thì nó sẽ hiện ngay vạch đầu tiên, rồi hiện thêm vạch nữa, H- thì 1 vạch trên thôi!

-HUY đã quan sát vô số lần, chỉ cần 5 phút là biết ngay!

- Một số truong hợp cần confirm lại nếu nó hiện 1 vạch rõ và 1 vạch mờ mờ, khi đó họ sẽ nói là NGHI NGỜ DƯƠNG TÍNH. Kô dám phang là chú dính H đâu nhé!

Cùng nhau tham gia ký tên đấu tranh quyền lợi của NCH:http://forum.hiv.com.vn/default.aspx?g=posts&t=172763
Offline HuHuEmChetMat  
#100 Đã gửi : 31/08/2007 lúc 09:42:24(UTC)
HuHuEmChetMat

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 26-02-2007(UTC)
Bài viết: 314

Được cảm ơn: 3 lần trong 2 bài viết
... Thanks anh Huy. Có hỏi ngớ ngẩn mới ra vấn đề. Vậy là kết quả xn ở 50C Hàng Bài là đáng tin cậy rồi. Yên tâm cho thằng bạn em rồi. Phải bắt nó khao mới được...
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
7 Trang«<34567>
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.