Nguyễn
Thiện Tống, Nguyên chủ nhiệm bộ môn Kỹ thuật hàng không, Trường Đại học
Bách khoa TP. Hồ Chí Minh. Ông là một trong 25 sinh viên Việt Nam đi du
học Úc vào cuối năm 1965 theo học bổng Colombo Plan. Ông tốt nghiệp
Tiến sĩ Kỹ thuật Hàng không ở Viện Đại học Sydney năm 1974 và trở về
nước. Đầu năm 1975 ông đảm nhiệm vị trí Phụ tá Khoa trưởng đặc trách
nghiên cứu và phát triển của Trường đại học Kỹ thuật (thường gọi là Đại
học Phú Thọ), tiền thân của Đại học Bách khoa (ĐHBK) TP. Hồ Chí Minh
ngày nay. Ông tiếp tục giảng dạy ở đây cho đến khi nghỉ hưu đầu năm
2008.
Mặc dù đã nghỉ hưu nhưng ông vẫn hăng say làm
việc. Ngoài công việc tại Trường đại học Cửu Long, ông và TS Lê Đình
Tuân đang hoàn tất dự án thiết kế chế tạo tàu đệm khí, một sản phẩm
kết hợp kỹ thuật hàng không và hàng hải, dự kiến sẽ chạy thử nghiệm vào
tháng 7 tới. Nếu thành công, loại phương tiện này sẽ có nhiều ứng dụng
thiết thực trong dân dụng, cứu hộ cứu nạn, cũng như quốc phòng.
Khi
nhận bằng Tiến sĩ Kỹ thuật Hàng không thì ngành khoa học này ở Việt Nam
vẫn còn khá mới mẻ, đất nước lại đang chia cắt và còn chiến tranh, đâu
là lý do khiến ông quyết định trở về?
Những
người đi du học theo học bổng Colombo Plan có ràng buộc là phải về nước
sau khi học xong. Nhưng với những người có học vị tiến sĩ thì vẫn có thể
ở lại Úc hoặc đi nước khác làm việc. Khi biết tôi quyết định về Việt
Nam, nhiều người cũng tỏ ra ngạc nhiên, trong đó có cả người thầy trực
tiếp hướng dẫn luận án tiến sĩ cho tôi. Ông đưa ra cho tôi nhiều sự lựa
chọn, hoặc ở lại Úc tiếp tục phát triển mô hình khí động lực học áp dụng
cho phi thuyền con thoi, công trình khoa học mà tôi làm trợ lý nghiên
cứu cho ông suốt sáu tháng trong thời gian chờ nhận bằng, hoặc giới
thiệu tôi qua một số nước có khoa học hàng không phát triển như Mỹ,
Anh... để tiếp tục công việc nghiên cứu khoa học. Còn về Việt Nam, ông
nói tôi chỉ có thể đi dạy thôi. Đó cũng là suy nghĩ của tôi, mong muốn
nhân rộng tri thức, sự hiểu biết của mình ở cấp độ đại học. Tự cho mình
giỏi có thể bị xem là không khiêm nhường, nhưng tôi nghĩ những người
nhận được học bổng du học thì đã được thừa nhận là giỏi, mà những người
càng giỏi thì trách nhiệm bản thân với đất nước càng lớn.
Nhưng thực tế là gần hai thập niên kể từ khi ông về nước, bộ môn Kỹ thuật Hàng không mới được thành lập?
 |
TS Nguyễn Thiện Tống. Ảnh: Hoàng Tường. |
Thực
ra ý tưởng thành lập bộ môn Kỹ thuật Hàng không đã phôi thai từ đầu
thập niên 1980 khi Hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh
lúc đó là GS Trần Hồng Quân, sau này làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo
(Bộ GD-ĐT), yêu cầu tôi soạn chương trình đào tạo Kỹ thuật Hàng không.
Vận dụng kinh nghiệm làm việc ở Đại học Kỹ thuật từ trước 1975, tôi đề
nghị mở những môn nhiệm ý, tức là môn tự chọn, vận động sinh viên từ các
ngành khác qua học, nhằm chuẩn bị đội ngũ giảng viên, tiến tới xây dựng
bộ môn Kỹ thuật Hàng không. Tuy nhiên phương thức đào tạo của chúng ta
hồi ấy theo kiểu niên chế, nên khó thực hiện. Cơ hội thành lập bộ môn Kỹ
thuật Hàng không lại bắt đầu giữa thập niên 1990, sau khi tôi đi hoàn
tất chương trình Thạc sĩ Quản trị Hành chính công tại Trường Kennedy
thuộc Viện đại học Harvard.
Vậy trong suốt hai thập niên làm giảng viên ở Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, ông làm những gì?
Do
tôi hiểu biết khá nhiều về nhiệt và lưu chất, nên tôi chuyển sang
nghiên cứu về năng lượng mặt trời và năng lượng gió... Khi tôi nghiên
cứu về năng lượng mặt trời thì người ta cũng làm. Tôi chuyển qua năng
lượng gió thì lại có người khác cũng làm về gió. Rồi tôi được điều
chuyển qua khoa Thủy lợi do nhà trường muốn tập trung giảng viên dạy các
môn cơ học chất lỏng và chất khí... Nhìn lại, trong suốt hai thập niên
kể từ khi đất nước thống nhất, tôi không có cơ hội đóng góp về chuyên
môn.
Phải chăng đó là lý do khiến ông chuyển
hướng sang nghiên cứu về chính sách công, cụ thể là du học chương trình
Thạc sĩ Hành chính công tại Viện đại học Harvard?
Cũng
không hẳn vậy. Sau 1975, chúng ta khá dè dặt trong quan hệ quốc tế nên
tôi không có điều kiện ra nước ngoài. Mãi đến năm 1989, Nhà nước thay
đổi chính sách, tôi mới có cơ hội qua Thái Lan. Chuyến công tác này giúp
nhận thức xã hội của tôi rõ nét và mạnh mẽ hơn, thông qua tìm hiểu về
hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, về vấn đề bảo vệ môi trường,
phát triển không đồng đều, bất công xã hội... tựu chung là những vấn đề
thường gặp ở những nước chậm và đang phát triển. Theo quan sát của tôi,
đứng trước những vấn đề lớn, nhà nước thường hỏi ý kiến trí thức. Tôi
muốn đóng góp ý kiến nhưng ngoài chuyên môn khoa học kỹ thuật, có nhiều
vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế thì tôi không rành. Thế nên, khi
xem thông tin mô tả danh sách các môn học tại Trường Kennedy, tôi rất
thích thú vì tin rằng với vốn tri thức được trang bị, tôi có thể đóng
góp ý kiến vào những lĩnh vực mà mình quan tâm là chính sách giáo dục và
chính sách công nghiệp. Vợ tôi cũng khuyến khích tôi đi học. Cô ấy nói
tôi ở trong nước đã lâu, bị "sét rỉ" quá rồi, có cơ hội thì nên đi. Sau
khi hoàn tất chương trình học và về nước, tôi làm việc bán thời gian cho
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại Việt Nam năm 1995 với mức
lương 1.500 USD/tháng. So với đồng lương giảng viên mà tôi vẫn nhận từ
trường hằng tháng, thì khoản thu nhập này khá hậu hĩnh. Đúng lúc đó thì
GS Trương Minh Vệ, Hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh,
đề nghị tôi xây dựng và triển khai chương trình đào tạo Kỹ thuật Hàng
không.
Có vẻ như tình thế đặt ông đứng trước một quyết định không hề dễ dàng?
Thành
thực là tâm trạng tôi lúc đó khá phân vân. Nếu tiếp tục tham gia Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, tôi có cơ hội truyền tải kiến thức
về kinh tế thị trường, nghiên cứu và đóng góp ý kiến về mặt chính sách.
Còn nhận lời xây dựng và phát triển bộ môn Kỹ thuật Hàng không thì sẽ
rất mệt, bởi quá nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất, giáo trình, giảng
viên... đều thiếu trong khi thời gian chuẩn bị khá gấp gáp. Tôi quyết
định nhận lời vì tôi là người duy nhất ở Trường đại học Bách Khoa có
trình độ hiểu biết đáng kể về kỹ thuật hàng không, và đây là cơ hội để
tôi đóng góp về chuyên môn khoa học kỹ thuật. Tháng 4/1996, bộ môn Kỹ
thuật Hàng không được thành lập, trực thuộc Ban Giám hiệu. Tôi được cử
làm Chủ nhiệm Bộ môn và cũng là thành viên duy nhất. Trong vòng bốn
tháng, tôi vừa biên soạn chương trình, vừa kêu gọi những anh em Việt
kiều ở nước ngoài hỗ trợ tài liệu. Tháng 8/1996 nội dung đào tạo được
phê duyệt, thì tháng 9/1996, chúng tôi tuyển sinh khóa I. Đối tượng là
sinh viên vừa học năm thứ hai ở các khoa trong trường, có điểm trung
bình từ 7 trở lên. Chỉ tiêu là 30 sinh viên nhưng chỉ tuyển được hơn 20
người. Trong quá trình học, một số xin rút, nên còn chừng 17, 18 người.
Đầu
vào khá tốt, nhưng việc cơ sở vật chất thiếu thốn, chẳng hạn như phòng
thí nghiệm nghèo nàn, có tác động như thế nào đến chất lượng "đầu ra",
thưa ông?
Lúc ấy có một nguồn hy vọng là xin
được nguồn viện trợ từ Chính phủ Pháp, khoảng 700 ngàn USD để trang bị
phòng thí nghiệm. Nhà trường có cấp cho 500 triệu đồng để xây dựng phòng
thí nghiệm. Tuy nhiên để tranh thủ nguồn viện trợ, chúng tôi đã dành
phần lớn số tiền đó để mua một thiết bị cho đồng bộ với hệ thống thiết
bị trong dự án xin viện trợ. Nhưng vì nhiều lý do mà dự án xin viện trợ
700 ngàn USD bất thành, nên chúng tôi kẹt một khoản tiền khá lớn vào
thiết bị đã mua, và thiếu các thiết bị đồng bộ. Thành ra, chúng tôi làm
thí nghiệm ảo, bằng cách cho sinh viên xem những thí nghiệm nước ngoài
được ghi lại trên băng video do một số anh em Việt kiều gửi về. Mặc dù
học tập trong điều kiện thiếu thốn như vậy nhưng những sinh viên tốt
nghiệp ngành Kỹ thuật Hàng không của chúng tôi khi được học bổng đi du
học nước ngoài đều hòa nhập khá tốt và phần lớn ở trong nhóm giỏi. Như
vậy chứng tỏ chất lượng đào tạo ngành Kỹ thuật Hàng không của chúng tôi
rất tốt. Chỉ tiếc là sau khi học xong phần lớn đều ở lại nước ngoài làm
việc.
Theo ông thì tại sao lại có tình trạng này?
Trong
thâm tâm, tôi luôn mong mỏi các em sẽ quay trở về đóng góp cho đất
nước. Trong số học trò của tôi, có một số sau khi đậu tiến sĩ, về nước
làm việc nhưng nhu cầu trong nước lại chưa sử dụng hết năng lực của các
em. So với những người ở lại nước ngoài làm việc thì các em thiệt thòi
hơn. Hy vọng khi đất nước mình phát triển đến một mức độ nào đó thì chất
xám sẽ quay trở về, cũng giống như trường hợp của Hàn Quốc, Đài Loan...
Nhìn lại những thăng trầm trong cuộc đời, có khi nào ông cảm thấy hối tiếc về quyết định trở về của mình?
Buồn
thì có, nhưng hối tiếc thì không. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có câu hát
"Thương cho người và lạnh lùng riêng", tôi cảm nhận thành "Thương cho
mình và tiếc cho đời". Thương cho mình với bao hoài bão mà không được
đóng góp như mong ước và tiếc cho đời không cho mình cơ hội đóng góp
nhiều. Tôi không đòi hỏi có được điều kiện thuận lợi, chỉ cần đừng bị
gây khó. Dù sao tôi cũng cảm thấy được an ủi phần nào trong thời gian 11
năm làm việc ở bộ môn Kỹ thuật Hàng không.
Được
biết ông là một trong những người được mời tham gia hội thảo lấy ý kiến
đóng góp cho Dự thảo Luật Giáo dục diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh cuối
tháng 4 vừa qua. Ông mang những gì đến hội thảo này?
Tôi
tập trung vào hai vấn đề: tổ chức quản lý và mô hình viện đại học đa
lĩnh vực. Đây là hai vấn đề tôi đã đề cập đến từ năm 1992, khi Việt Nam
có phong trào cải tổ giáo dục. Đại học phải là nơi trí tuệ phát triển,
biên giới hiểu biết được nới rộng. Đại học phải bao gồm đủ mọi mặt tri
thức của xã hội, chứ không chỉ một hai ngành đơn lẻ, chuyên biệt.
Nhược
điểm lớn nhất của hệ thống giáo dục đại học là sự phân tán trách nhiệm
quản lý qua nhiều bộ và nhiều tỉnh thành chủ quản. Việc chia cắt các
nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ GD-ĐT với các bộ ngành
khác đã làm cho việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục chồng
chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Việc tách rời quản lý nhà nước về
chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất
trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân và
làm cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của
các cơ quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong
tình hình mới.
Nhược điểm lớn thứ hai là sự tách
rời giữa các trường đại học và các viện nghiên cứu khoa học. Sự tách rời
này làm cho các nhà khoa học ít được tham gia giảng dạy và giảng viên
đại học bị hạn chế tham gia việc nghiên cứu khoa học, sinh viên cũng ít
được tiếp cận những nhà khoa học giỏi. Điều đó làm cho trường đại chưa
trở thành trung tâm chất lượng về đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Nhược
điểm lớn thứ ba là sự phân tán của quá nhiều học viện và trường đại học
chuyên ngành riêng rẽ với chương trình đào tạo quá nhiều tiểu chuyên
ngành rất hẹp. Chính việc tổ chức quản lý các trường đại học có mục tiêu
đào tạo nặng về kiến thức theo chuyên ngành hẹp khiến sinh viên không
được trang bị nền tảng vững chắc về giáo dục tổng quát cần thiết để hình
thành khả năng tự học suốt đời.
Hiện nay chúng ta
hầu như không có các viện đại học đa lĩnh vực, trong đó gồm các viện
nghiên cứu và phần lớn sinh viên là trên đại học. Mặt khác, Việt Nam
thiếu các trường cao đẳng cộng đồng và cao đẳng chuyên nghiệp ở các tỉnh
thành để đáp ứng nhu cầu gia tăng sinh viên đại chúng mà không làm giảm
chất lượng của các viện đại học tinh hoa.
Chúng ta
thiếu các viện đại học đa lĩnh vực loại giảng dạy đại chúng mà chỉ có
phần lớn là các trường đại học chuyên ngành riêng lẻ như sư phạm, y
dược, khoa học, nông lâm, kỹ thuật, kinh tế, kiến trúc... Đây là các
trường đại học mà giảng dạy là chủ yếu nhưng có mục tiêu đào tạo những
nhà chuyên môn theo những chương trình đào tạo tương đối hẹp và có ít
phần giáo dục tổng quát hơn khi so với các viện đại học đa lĩnh vực.
"Bệnh lý" như vậy, theo ông, nên "kê toa" thế nào?
Việc
trường thuộc bộ chủ quản là một hệ quả của nền kinh tế kế hoạch tập
trung, nhằm đào tạo ra những người "ngồi ở đâu, làm gì". Nói ngắn gọn là
học để thừa hành. Với mục đích như vậy nên mới sinh ra cách học nhồi
nhét, mới có những bài văn mẫu... Học trò bị triệt tiêu sáng tạo, chỉ
đón ý thầy để được điểm cao. Khi đi làm thì đón ý lãnh đạo để được đánh
giá tốt. Thành ra không trung thực, đến độ không còn là mình nữa. Nói
theo triết học là sự vong thân.
Theo tôi, nên mạnh
dạn từ bỏ nguyên tắc bộ chủ quản, cho phép đại học tự trị. Mô hình Đại
học Quốc gia thực tế là đã được trao quyền tự trị. Giám đốc và các Phó
Giám đốc do Thủ tướng bổ nhiệm. Các trường đại học khác thì tùy theo mức
độ mà cho phép tự trị đến đâu. Cách nay khá lâu, tôi ca ngợi việc các
trường trên ở Huế được gộp lại thành Viện Đại học Huế thì mấy tháng gần
đây tôi được biết Trường đại học Y bị tách ra, đưa về cho Bộ Y tế.
Khi rời hội thảo góp ý dự thảo Luật Giáo dục, trong ông đọng lại điều gì?
Điều
đọng lại là nhiều người chưa thẳng thắn góp ý giải quyết vấn đề. Tâm lý
né tránh là rào cản đối với chấn hưng giáo dục. Ông Đào Trọng Thi, Chủ
nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên - Thiếu niên và Nhi đồng
Quốc hội, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đặt câu hỏi rằng
có ai nêu lý do gì mà không dùng chữ "viện đại học" không, tại sao Luật
Giáo dục đưa ra khái niệm trường đại học và đại học quốc gia, hai cách
gọi này có gì khác nhau.
Cũng tại hội thảo này, có người còn đặt vấn đề tại sao không ai bàn đến việc bỏ hẳn chương trình đào tạo tại chức.
Cách nay không lâu dư luận rùm beng về việc Đà Nẵng tuyên bố không tuyển công chức tốt nghiệp đại học tại chức. Ông nghĩ sao?
Tôi
cho rằng Đà Nẵng can đảm, nhìn thẳng và nói thẳng sự thật. Nếu như Đà
Nẵng là một doanh nghiệp tuyển dụng lao động bình thường, có lẽ mọi
chuyện sẽ chẳng có gì mà ầm ĩ. Tuyển hay không là quyền của họ. Tuyên bố
của Đà Nẵng, theo phán đoán của tôi, là hệ quả của một quá trình. Vấn
đề không phải ở Đà Nẵng, mà là trách nhiệm của ngành giáo dục không đảm
bảo chất lượng. Tôi nghĩ nên bỏ chương trình đào tạo tại chức. Tôi ủng
hộ nhiều hình thức đào tạo, chẳng hạn như từ xa, bán thời gian... nhưng
chất lượng đầu ra phải làm thật chặt, bài thi phải làm như nhau. Nhìn
lại lịch sử, ngày xưa, ai cũng có quyền thi tú tài và học bao nhiêu môn
thì thi bấy nhiêu. Như vậy, tú tài chỉ có một chất lượng. Còn hiện nay
chúng ta có quá nhiều chất lượng. Rồi đào tạo liên thông cũng sai. Trung
cấp học liên thông lên cao đẳng, cao đẳng liên thông lên đại học...
Nhưng có ý kiến cho rằng đào tạo liên thông là tạo cơ hội để mọi người đều được hưởng giáo dục đại học?
Tôi
không tán thành. Đào tạo liên thông là cơ hội để mọi người được cấp
bằng đại học, một cách hợp thức hóa, cào bằng chất lượng. Chất lượng đào
tạo cao đẳng liên thông lên đại học, thẳng thắn mà nói, không thể bằng
đào tạo đại học từ đầu được.
Thử nhìn lại, ông thấy những ý kiến đóng góp của mình được lắng nghe đến đâu?
Tôi
không nghĩ đến chuyện đó. Tôi nói những điều mình tin là đúng. Thêm
nữa, bên cạnh tôi còn có những người khác, chia sẻ và cùng đóng góp
tiếng nói trên tinh thần xây dựng. Dẫu số này không nhiều
nhưng cũng đủ để mình giữ được sự lạc quan. Tôi thấy đã có những mầm
mống của sự thay đổi, có điều kiện chưa đủ chín muồi để thay đổi. Tôi
tin vào quy luật lượng biến sẽ kéo theo chất biến.
Xin cảm ơn về cuộc trò chuyện.
Thượng Tùng - Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần